-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường - Kinh tế chính trị | Trường Đại Học Duy Tân
Thể chế kinh tế là một bộ phận cấu thành của hệ thống thể chế xã hội, tồn tại bên cạnh các bộ phận khác như thể chế chính trị, thể chế giáo dục Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Kinh tế chính trị (POS 151) 110 tài liệu
Đại học Duy Tân 1.8 K tài liệu
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường - Kinh tế chính trị | Trường Đại Học Duy Tân
Thể chế kinh tế là một bộ phận cấu thành của hệ thống thể chế xã hội, tồn tại bên cạnh các bộ phận khác như thể chế chính trị, thể chế giáo dục Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Kinh tế chính trị (POS 151) 110 tài liệu
Trường: Đại học Duy Tân 1.8 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Duy Tân
Preview text:
ĐỀ TÀI: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam I.
Thể chế kinh tế là gì? 1. Định nghĩa
- Thể chế kinh tế là một bộ phận cấu thành của hệ thống thể chế xã hội, tồn tại bên cạnh các bộ
phận khác như thể chế chính trị, thể chế giáo dục…
- Thể chế kinh tế nói chung là một hệ thống các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các chủ
thể kinh tế, các hành vi sản xuất kinh doanh và các quan hệ kinh tế. Nó bao gồm các yếu tố chủ
yếu là các đạo luật, quy chế, quy tắc, chuẩn mực về kinh tế gắn với các chế tài về xử lý vi
phạm, các tổ chức kinh tế, các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế, truyền thống văn hóa và
văn minh kinh doanh, cơ chế vận hành nền kinh tế.
Ví dụ: Việt Nam đi theo thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là loại hình thể chế kinh tế trong
đó có sự thống nhất biện chứng giữa cái chung là kinh tế thị trường với các đặc thù là định
hướng xã hội chủ nghĩa. Thuộc về cái chung có các yếu tố như: đa dạng chủ thể kinh tế và các
chủ thể tự do sản xuất kinh doanh, cạnh tranh theo pháp luật; thừa nhận các phạm trù hàng hoá,
tiền tệ, thị trường, cạnh tranh, cung cầu, giá cả thị trường, lợi nhuận; sự hoạt động của quy luật
kinh tế thị trường; nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Thuộc về cái đặc thù có các yếu
tố: tư tưởng kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên nền tảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng cộng sản; các mục tiêu, nguyên tắc và nhiệm vụ cơ
bản trong phát triển nền kinh tế gắn với mục tiêu và đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Trong sự
kết hợp giữa các chung và cái đặc thù này chúng tạo thành sự giao thoa, cái chung không nằm
ngoài ngoài mà nằm trong cái đặc thù, nhưng không bao quát hết cái đặc thù, trong đó kinh tế
thị trường là động lực và phương tiện để phát triển kinh tế, định hướng xã hội chủ nghĩa giữ vai
trò dẫn dắt quá trình phát triển nền kinh tế.
Các yếu tố cấu thành thể chế kinh tế thị trường Các yếu tố Nội dung
¨ Các quy tắc tạo thành “luật o Khung luật pháp về kinh tế;
chơi” kinh tế thị trường
o Các quy tắc, chuẩn mực xã hội về/ hoặc liên quan
đến kinh tế, kể các các quy tắc hay chuẩn mực phi chính thức;
¨ Các chủ thể tham gia “trò
o Các cơ quan quản lí nhà nước về kinh tế;
chơi” kinh tế thị trường o Doanh nghiệp;
o Các tổ chức thuộc “xã hội dân sự”, cộng đồng dân cư và người dân;
¨ Các cơ chế thực thi các “luật o Cơ chế bổ sung giữa Thị trường và Nhà nước;
chơi kinh tế” trên thị trường
o Cơ chế phân cấp quản lí kinh tế; o Cơ chế phối hợp; o Cơ chế tham gia; v.v.
¨ Các “sân chơi kinh tế” hay hệ o Thị trường hàng hóa;
thống các “thị trường cứng” o thị trường vốn, o thị trường lao động,
o thị trường bất động sản, o v.v.
Các nhân tố tác động đến thể chế kinh tế
Có rất nhiều nhân tố tác động tới việc hình thành và phát triển thể chế kinh tế, nhưng trong đó
các nhân tố dưới đây được coi là quan trọng nhất.
- Phương thức sản xuất là một trong những yếu tố rất quan trọng làm thay đổi phần lớn thể chế
kinh tế. Việc chuyển từ phương thức sản xuất này sang phương thức sản xuất khác sẽ làm thay
đổi căn bản thể chế nói chung của một thuốc gia, do sự khác biệt cơ bản về tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất, sự thay đổi các quan hệ về sở hữu, phân phối, trao đổi và tiêu dùng, sự
khác biệt về cơ cấu bộ máy nhà nước, sự thay đổi trong địa vị của những người ban hành và cả
những người thực thi thể chế...
- Chế độ sở hữu và cơ cấu quyền tài sản là những yếu tố rất quan trọng tác động tới thể chế kinh tế.
- Hệ tư tưởng là nền tảng tinh thần làm thay đổi nhận thức của con người về thế giới quan, nhân
sinh quan. Hệ tư tưởng có tác động lớn tới việc giải thích thế giới xung quanh và các hoạt động
kinh tế. Chính vì vậy, hệ tư tưởng có tác động rất lớn tới thể chế quản lý kinh tế.
- Mô hình kinh tế cũng có tác động mạnh tới thể chế kinh tế. Sự khác biệt giữa các mô hình
kinh tế, chẳng hạn như giữa mô hình kinh tế thị trường với mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập
trung cũng tạo ra sự khác biệt lớn trong thể chế kinh tế. Ngoài ra, sự khác nhau giữa các mô
hình kinh tế thị trường (kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị trường xã hội, kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa...) cũng tạo ra sự khác biệt lớn trong thể chế kinh tế.
- Cơ cấu quyền lực chính trị, sự tập trung quyền lực hay phân quyền sẽ tạo ra sự khác nhau cơ
bản dẫn tới khác nhau đáng kể trong cả tổ chức nhà nước lẫn thể chế kinh tế.
- Trình độ của chủ thể quản lý vĩ mô thể hiện trình độ nhận thức các quy luật khách quan, nhận
thức về kinh tế - xã hội, con người, nhận thức về đối tượng điều chỉnh... Điều này có tác động
lớn đến chất lượng của thể chế kinh tế, vì các thể chế do con người tạo lập ra.
- Các tập tục thông lệ cũng có tác động mạnh tới các thể chế chính thức của quốc gia, trong đó có thể chế kinh tế.
2. Cải cách thể chế kinh tế là gì?
- “Cải cách thể chế kinh tế” tức là thay đổi cách quản lý, thay đổi cơ chế quản trị , cơ chế sử
dụng, sở hữu để tạo ra động lực đột phá, phù hợp hơn với thực tiễn cuộc sống.Cải cách thể chế
kinh tế là chuyển đổi về đường lối, phương hướng để phù hợp với nền kinh tế thị trường. Ví dụ: Ở Việt Nam
- Đã 3 năm nay, đổi mới thể chế được xác định là một trong 3 khâu đột phá chiến lược. Chúng
ta cứ nói cải cách – cải cách, đột phá – đột phá và cách nói cho thấy đồng thuận lắm, nhưng 3
năm nhìn lại - chưa chuyển! Quan trọng là nội dung, nội hàm của cải cách thể chế là gì thì chưa
thống nhất, từ đó không làm được. Có thể nhận ra một số vấn đề của tình trạng này:
+ Thứ nhất, chúng ta đã chuyển đổi từ quản lý kinh tế bằng biện pháp kế hoạch hóa tập trung
sang sử dụng cơ chế thị trường, lấy kinh tế thị trường hiện đại làm mục tiêu – đó là mục tiêu cải
cách kinh tế. Cải cách thể chế là cơ sở, là bệ đỡ, là động lực của cải cách kinh tế. Cần xác định
rõ là chúng ta bàn về thể chế kinh tế, thể chế này tạo nên những luật lệ cho quá trình cải cách
kinh tế “chạy”, để quá trình chuyển đổi nói trên được thực hiện.
+ Thứ hai, quá trình chuyển đổi từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường là việc Nhà
nước chủ động thay đổi vai trò, vị trí và chức năng của mình, từ việc nhấn mạnh đến chức năng
quản lý, điều hành trực tiếp sang chức năng kiến tạo môi trường để mọi nguồn lực trong xã hội
được sử dụng bằng cơ chế tối ưu, phát huy được mọi nguồn lực một cách có hiệu quả. Theo đó,
Nhà nước thay đổi theo hướng thiết lập và hoàn thiện khung khổ pháp lý, làm cho các loại thị
trường hoạt động đầy đủ theo nguyên tắc và quy luật của chúng, đồng thời bổ sung, sửa chữa
khiếm khuyết của thị trường. Như vậy, cải cách thể chế nhanh hay chậm, ở quy mô lớn hay quy
mô nhỏ phụ thuộc vào việc liệu Nhà nước thực sự muốn thay đổi vai trò, vị trí và chức năng của mình hay không!
+ Thứ ba, không chỉ 3 năm nay mà vấn đề cải cách thể chế đã được thực hiện từ hơn 10 năm
nay, trong đó nhiều luật lệ được ban hành, sửa đổi, nhưng vẫn còn tình trạng luật này chồng
chéo luật kia, luật này “đá” luật kia… khiến môi trường kinh doanh, môi trường luật pháp vẫn
phức tạp, không thông thoáng, lắm phiền hà… Như vậy thì đúng là có nhiều thay đổi, có cải
cách nhưng hóa ra chả thay đổi được gì, chả cải cách được gì vì nó không đủ đồng bộ tạo ra
một môi trường mới về chất. - Ở Trung Quốc
+ Cải cách Kinh tế Trung Quốc ( Cải cách giải phóng) là một chương trình thực hiện các thay
đổi về kinh tế gọi là "Chủ nghĩa Xã hội mang màu sắc Trung Quốc" ở Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa được những người theo chủ nghĩa thực dụng bên trong Đảng Cộng sản Trung Quốc
do Đặng Tiểu Bình lãnh đạo và vẫn đang tiếp diễn cho đên đầu thế kỷ 21. Mục tiêu của cải tổ
kinh tế Trung Quốc là tạo ra giá trị thặng dư đủ để cung cấp tài chính cho quá trình hiện đại hóa
nền kinh tế của Trung Hoa Đại lục.
+ Cả nền kinh tế chỉ huy xã hội chủ nghĩa được những người bảo thủ trong Đảng Cộng sản
Trung Quốc và nỗ lực của Chủ nghĩa Mao trong một cuộc Đại nhảy vọt từ xã hội chủ nghĩa
sang cộng sản chủ nghĩa trong nông nghiệp (với chế độ công xã) đều không tạo đủ giá trị thặng
dư để phục vụ cho những mục đích này. Thách thức ban đầu của cải cách kinh tế là giải quyết
vấn đề thúc đẩy công nhân và nông dân sản xuất một giá trị thặng dư lớn và xóa bỏ những vấn
đề thiếu cân bằng kinh tế thường có ở các nền kinh tế chỉ huy. Công cuộc cải tổ kinh tế đã bắt
đầu kể từ năm 1978 đã giúp hàng triệu người thoát khỏi đói nghèo, đưa tỷ lệ nghèo từ 53% dân
số năm 1981 xuống còn 8% vào năm 2001.
+ Cải cách kinh tế Trung Quốc đã được tiến hành thông qua một lọat các cải cách theo giai
đọan. Nói chung, các cuộc cải cách không phải là hệ quả của một chiến lược lớn mà là các phản
ứng tức thì đối với các vấn đề cấp bách. Trong một số trường hợp, như đóng cửa các doanh
nghiệp quốc doanh, chính phủ đã đã bị miễn cưỡng bởi những sự kiện và hoàn cảnh kinh tế để
thực hiện những hành động mà mình không mong muốn. Đến năm 2005, 70% GDP của Trung
Quốc thuộc lĩnh vực tư nhân. Lĩnh vực quốc doanh khá nhỏ do khoảng 200 doanh nghiệp nhà
nước lớn chi phối tập trung chủ yếu vào dịch vụ tiện ích, công nghiệp nặng và các nguồn năng lượng.
+ Mặc dù cải cách kinh tế Trung Quốc đã được nhiều người phương Tây mô tả là sự quay trở
lại tư bản chủ nghĩa, các quan chức Trung Quốc đã khẳng định rằng cuộc cải cách này là một
dạng của chủ nghĩa xã hội, tương tự như Lenin đã từng thực hiện Chính sách kinh tế mới tại
Liên Xô thập niên 1920. Tuy nhiên, họ đã không lập luận tiền đề mà nhiều cuộc cải tổ liên quan
đến việc áp dụng các chính sách kinh tế đang được áp dụng ở các quốc gia tư bản chủ nghĩa, và
một trong những tiền đề của công cuộc cải cách kinh tế Trung Quốc là Trung Quốc không nên
né tránh áp dụng "bất kể tác phẩm nào" vì lý do hệ tư tưởng. Ngoài ra, nhiều cơ cấu kinh tế
được tạo ra trong quá trình cải tổ kinh tế Trung Quốc có vẻ bên ngoài giống với các cải cách ở
các quốc gia khác nhưng trên thực tế là hoàn toàn duy nhất. II.
Vai trò của thể chế kinh tế -
Một là, định hướng, hướng dẫn, tạo khung khổ cho việc tổ chức, hoạt động của nền kinh
tế.Thể chế kinh tế là những luật lệ, qui tắc nên vai trò hàng đầu của nó là định hướng, hướng
dẫn hành vi và tạo khung khổ pháp lý cho việc tổ chức hoạt động của nền kinh tế, tác động lớn
đến sự lựa chọn và việc quyết định sản xuất cái gì, đầu tư như thế nào vào lĩnh vực nào, ở đâu...
của các chủ thể kinh tế. Ngoài ra thể chế có tác dụng hướng dẫn trong mối quan hệ qua lại của
con người để khi làm bất cứ việc gì, mỗi người sẽ biết được cách thức thực hiện những việc đó như thế nào. -
Hai là, thể chế kinh tế tạo ra nền tảng kinh tế xã hội của một nền kinh tế như: chế độ sỡ
hữu, các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. -
Ba là, thể chế kinh tế đóng vai trò chủ thể quản lý kinh tế, và các công cụ quản lý nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Nhà nước với tư cách là một thể chế kinh tế, trong quá trình tổ chức quản lý vĩ mô nền kinh tế,
đóng vai trò chủ thể quản lý kinh tế trong nền KTTT định hướng XHCN.
Hệ thống pháp luật, các công cụ kế hoạch hoá, tài chính, tiền tệ trong nền KTTT luôn có vai trò
hết sức quan trọng việc tạo ra khung khổ pháp lý, tác động đến điều tiết, định hướng nền kinh tế. -
Bốn là, thể chế kinh tế hình thành góp phần đồng bộ hoá hệ thống thị trường, từng bước
hoàn thiện và phát triển hệ thống thị trường của nền KTTT nước ta. Theo quan niệm hiện nay
hệ thống thị trường đồng bộ bao gồm hai vấn đề:
Thứ nhất, phải có đẩy đủ các loại thị trường sản phẩm và thị trường yếu tố hay thị trường
đầu vào hay thị trường đầu ra.
Thứ hai, bảo đảm cho các loại thị trường này phát triển cân đối cả về qui mô, trình độ.
Tính đồng hộ của hệ thống thị trường có vai trò hết sức to lớn đối với quá trình phát triển hệ
thống thị trường và nền kinh tế. Nếu thiếu một trong các loại thị trường thì một mặt, các chủ thể
sản xuất kinh doanh khó có được những cơ hội và điều kiện thuận lợi, bình đẳng trong việc tiếp
cận và sử dụng các nguồn lực cho sự phát triển; mặt khác, tính đồng hộ, tính ràng buộc và tính
cân đối giữa chúng bị vi phạm sẽ cản trở, thậm chí làm phá vỡ các chiến lược kinh doanh đã định.
Trong nền KTTT, giữa các thị trường có mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau, dựa vào nhau và tác
động lẫn nhau. Thị trường đầu ra của ngành này, doanh nghiệp này có khi lại là thị trường đầu
vào của ngành khác, doanh nghiệp khác. Do đó, nếu một thị trường nào đó không phát triển đầy
đủ hoặc trì trệ sẽ có ảnh hưởng tới sự phát triển và phát huy vai trò, chức năng của các thị
trường khác, ảnh hưởng đến hiệu quả tổng thể của hệ thống thị trường.
Năm là, thể chế kinh tế góp phần tạo ra những tiền đề điều kiện hạn chế những khuyết tật
của kinh tế thị trường, kinh tế thị trường bên cạnh mặt tích cực là tạo ra cơ chế năng động, sáng
tạo và hiệu quả thì cũng thường xuyên xảy ra tiêu cực cần hạn như cạnh tranh và chính phủ,
chạy theo lợi nhuận mà quên đi mục tiêu xã hội, phân hoá giàu nghèo... thông qua hệ thống
pháp luật, hệ thống các chính sách mà tác động điều chỉnh, hạn chế các mặt tiêu cực trên đây. III.
Phân loại thể chế 1.
Thể chế kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp
a, Khái niệm: là hệ thống các quy phạm pháp luật trong đó Nhà nước quản lí nền kinh tế chủ
yêu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống áp đặt chỉ tiêu mệnh lệnh từ trên xuống dưới. b, Đặc điểm: -
Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Các doanh nghiệp không có quyền tự chủ sản xuất,
kinh doanh, cũng không bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh. -
Thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ công nghệ - khoa học triệt tiêu động lực kinh tế với
người lao động, không kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh, -
Quan hệ hàng hóa tiền tệ bị coi nhẹ, quan hệ hiện vật là chủ yếu, Nhà nước quản lí nền
kinh tế thông qua chế độ “cấp phát-giao nộp” nên nhiều hàng hóa như sức lao động, phát minh
sáng chế, tư liệu sản xuất quan trọng không được coi là hàng hóa về mặt pháp lí. 2.
Thể chế kinh tế thị trường
a, Khái niệm: Thể chế kinh tế là một bộ phận cấu thành của hệ thống thể chế xã hội, tồn tại bên
cạnh các bộ phận khác như thể chế chính trị, thể chế giáo dục…
Thể chế kinh tế nói chung là một hệ thống các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các chủ thể
kinh tế, các hành vi sản xuất kinh doanh và các quan hệ kinh tế. Nó bao gồm các yếu tố chủ yếu
là các đạo luật, quy chế, quy tắc, chuẩn mực về kinh tế gắn với các chế tài về xử lý vi phạm, các
tổ chức kinh tế, các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế, truyền thống văn hóa và văn minh
kinh doanh, cơ chế vận hành nền kinh tế.
Thể chế kinh tế thị trường là một tổng thể bao gồm các bộ quy tắc, luật lệ và hệ thống các thực
thể, tổ chức kinh tế được tạo lập nhằm điều chỉnh hoạt động giao dịch, trao đổi trên thị trường.
Thể chế kinh tế thị trường bao gồm:
Các quy tắc về hành vi kinh tế diễn ra trên thị trường – các bên tham gia thị trường với tư cách
là các chủ thể thị trường.
Cách thức thực hiện các quy tắc nhằm đạt được mục tiêu hay kết quả mà các bên tham gia thị trường mong muốn.
Các thị trường – nơi hàng hóa được giao dịch, trao đổi trên cơ sở các yêu cầu, quy định của luật
lệ (các thị trường quan trọng như hàng hóa và dịch vụ, vốn, lao động, công nghệ, bất động sản…) b, Đặc điểm: -
Các chủ thể kinh tế có tính tự chủ cao. Mỗi chủ thể kinh tế là một thành phần của nền
kinh tế có quan hệ độc lập với nhau, mỗi chủ thể tự quyết định lấy hoạt động của mình. -
Tính phong phú của hàng hóa. Do các chủ thể kinh tế tự quyết định lấy hoạt động của
mình. Bất cứ hàng hóa nào có nhu cầu thì sẽ có người sản xuất. Mà nhu cầu của con người thì
vô cùng phong phú, điều này tạo nên sự phong phú của hàng hóa trong nền kinh tế thị trường. -
Cạnh tranh là tất yếu trong kinh tế thị trường. Nhu cầu về hàng hóa lớn tì sẽ có nhiều
người sản xuất. Khi có quá nhiều người cùng một mặt hàng thì cạnh tranh là điều tất yếu. -
Giá cả được hình thành ngay trong thị trường. Không có một chủ thể kinh tế nào quyết
đinh được giá cả. Giá cả của một mặt hàng được quyết định bởi cung và cầu trong thị trường.
*So sánh thể chế kinh tế thị trường TBCN và thể chế kinh tế định hướng XHCN - Giống nhau
+ Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển tạo ra sự cạnh trạnh gắt gao giữa các nhà sản xuất.
Người tiêu dùng được thỏa mãn nhu cầu cũng như được đáp ứng đầy đủ cái chủng loại dịch vụ.
+ Phân công lao động ngày càng xã hội hóa cao. Mở rộng quan hệ nhiều loại thị trường từ thị
trường địa phương, thị trường khu vực và dân tộc, thị trường quốc tế.
+ Tạo xu thế liên doanh, liên kết đẩy mạnh giao lưu kinh tế, các nước đang phát triển có cơ
hội được tiếp xúc chuyển giao công nghệ sản xuất, chuyển giao công nghệ quản lí từ các nước
phát triển để thúc đẩy công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế nước nhà.
+ Kinh tế thị trường góp phần thúc đẩy giao lưu giữa các nước dưới sự thể hiện qua các sản
phẩm, dịch vụ mang bản sắc của từng dân tộc, từng địa phương, từng quốc gia. - Khác nhau
Thể chế kinh tế tư bản chủ nghĩa
Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Trong hệ thống quy phạm pháp luật vai
Trong hệ thống quy phạm pháp luật
trò kinh tế của nhà nước bị giảm sút
trong đó NN quản lí nền kinh tế để định
chịu sức ép mạnh mẽ từ các thành phần
hướng, dẫn dắt các thành phần kinh tế, kinh tế khác
tạo điều kiện và môi trường thuận lợi
cho sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị
trường, xử lí và kiểm soát các vi phạm
trong hoạt động kinh tế, bảo đảm hài
hòa giữa phát triển kinh tế và xã hội IV.
Nội dung cải cách thể chế kinh tế 1.
Nội dung cốt lõi và thực chất của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là:
- Phát triển nền kinh tế hàng hoá dựa trên sự đa dạng các hình thức sở hữu và các thành phần
kinh tế, trong đó sở hữu công hữu xã hội chủ nghĩa giữ vai trò nền tảng, kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế. Các
thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển, cạnh tranh và hợp tác với nhau.
- Hình thành đồng bộ và vận hành thông suốt, có hiệu quả hệ thống các thị trường trong quá
trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phân phối theo lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh là chính, đồng thời áp dụng các hình
thức phân phối khác; coi trọng hiệu quả kinh tế, đồng thời đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội
trong phân phối và phân phối lại.
- Có một hệ thống bảo hiểm và an sinh xã hội theo hướng từng bước thực hiện chế độ bảo hiểm
cho mọi người lao động, mọi tầng lớp nhân dân, quan tâm hỗ trợ những người nghèo và yếu
thế, những đối tượng được hưởng chính sách xã hội.
- Chính phủ điều hành kinh tế vĩ mô trên cơ sở tôn trọng sự tác động khách quan của thị trường
và cơ chế thị trường, tạo các điều kiện thuận lợi cho các chủ thể kinh tế hoạt động.
- Có hệ thống pháp luật thích ứng và thúc đẩy sự vận hành có hiệu quả thể chế kinh tế thị
trường, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong bài phát biểu của Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh tại phiên khai mạc hội thảo “Cải cách
kinh tế vì tăng trưởng bao trùm và bền vững” diễn ra ngày 24/3/2014 tại Hà Nội cũng nói rõ hai
nội dung cải cách cốt lõi của Việt Nam hiện nay là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung,
bao cấp sang nền kinh tế thị trường và chuyển từ nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế mở và
chủ động hội nhập quốc tế. Trong đó, nhiệm vụ trọng tâm là đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế gắn
với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh là ưu tiên hàng
đầu. Đồng thời phát huy tối đa nhân tố con người, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Quá trình chuyển đổi từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường là việc Nhà nước chủ
động thay đổi vai trò, vị trí và chức năng của mình, từ việc nhấn mạnh đến chức năng quản lý,
điều hành trực tiếp sang chức năng kiến tạo môi trường để mọi nguồn lực trong xã hội được sử
dụng bằng cơ chế tối ưu, phát huy được mọi nguồn lực một cách có hiệu quả. Theo đó, Nhà
nước thay đổi theo hướng thiết lập và hoàn thiện khung khổ pháp lý, làm cho các loại thị trường
hoạt động đầy đủ theo nguyên tắc và quy luật của chúng, đồng thời bổ sung, sửa chữa khiếm
khuyết của thị trường. 2.
Các nhân tố tác động đến thể chế kinh tế
Có rất nhiều nhân tố tác động tới việc hình thành và phát triển thể chế kinh tế, nhưng trong đó
các nhân tố dưới đây được coi là quan trọng nhất.
- Phương thức sản xuất là một trong những yếu tố rất quan trọng làm thay đổi phần lớn các thể
chế chính thức, trong đó có thể chế kinh tế. Việc chuyển từ phương thức sản xuất này sang
phương thức sản xuất khác sẽ làm thay đổi căn bản thể chế nói chung của một thuốc gia, do sự
khác biệt cơ bản về tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, sự thay đổi các quan hệ về sở
hữu, phân phối, trao đổi và tiêu dùng, sự khác biệt về cơ cấu bộ máy nhà nước, sự thay đổi
trong địa vị của những người ban hành và cả những người thực thi thể chế...
- Chế độ sở hữu và cơ cấu quyền tài sản là những yếu tố rất quan trọng tác động tới thể chế mà
trước hết là thể chế kinh tế.
- Hệ tư tưởng là nền tảng tinh thần làm thay đổi nhận thức của con người về thế giới quan, nhân
sinh quan. Hệ tư tưởng có tác động lớn tới việc giải thích thế giới xung quanh và các hoạt động
kinh tế. Chính vì vậy, hệ tư tưởng có tác động rất lớn tới hệ thống thể chế nói chung, thể chế
quản lý kinh tế nói riêng.
- Mô hình kinh tế cũng có tác động mạnh tới thể chế. Sự khác biệt giữa các mô hình kinh tế,
chẳng hạn như giữa mô hình kinh tế thị trường với mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung cũng
tạo ra sự khác biệt lớn trong thể chế kinh tế. Ngoài ra, sự khác nhau giữa các mô hình kinh tế
thị trường (kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị trường xã hội, kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa...) cũng tạo ra sự khác biệt lớn trong thể chế kinh tế.
- Cơ cấu quyền lực chính trị, sự tập trung quyền lực hay phân quyền sẽ tạo ra sự khác nhau cơ
bản dẫn tới khác nhau đáng kể trong cả tổ chức nhà nước lẫn thể chế kinh tế.
- Trình độ của chủ thể quản lý vĩ mô thể hiện trình độ nhận thức các quy luật khách quan, nhận
thức về kinh tế - xã hội, con người, nhận thức về đối tượng điều chỉnh... Điều này có tác động
lớn đến chất lượng của thể chế kinh tế, vì các thể chế do con người tạo lập ra.
Các tập tục thông lệ cũng có tác động mạnh tới các thể chế chính thức của quốc gia, trong đó có thể chế kinh tế. V.
Những định hướng để hoàn thiện cải cách thể chế kinh tế ở Việt Nam:
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa . 1. Khái quát
Trước khi đi vào việc đề ra các giải pháp để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam , nhóm muốn đưa tới các bạn cái nhìn khái quát nhất về mô hình
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế Việt Nam do Đảng ta khởi xướng và chính thức khẳng
định từ đại hội VI cuả Đảng cộng sản Việt Nam năm 1986 , đánh dấu sự chuyển đổi từ nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung sang mô hình nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hay hiểu đơn giản, kinh tế thị trường trước tiên là phải tôn trọng đầy đủ các quy luật của kinh
tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là có công cụ điều tiết và chính sách phân phối để
bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội Đây hoàn toàn là một thể chế tích cực có tác dụng tạo
ra môi trường cạnh tranh bình đẳng, trong đó không những các pháp nhân kinh tế được tôn
trọng mà các cá nhân kinh tế được tạo điều kiện để phát triển hết năng lực của mình, không một
ai bị bỏ lại đằng sau trên con đường phát triển.
Điều này đảm bảo đạt hiệu quả kinh tế cao, vừa đảm bảo thực hiện công bằng xã hội ngày
càng tốt hơn.( So sánh sự đảm bảo công bằng này tốt hơn so vs hình thức kinh tế thị trường
định hướng tư bản )
Thực chất Cho đến nay, chính Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thừa nhận rằng chưa có nhận
thức rõ, cụ thể và đầy đủ về thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà
chỉ có giải thích nguyên lý chung rằng, đó là một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hướng tới mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đến hội nghị lần thứ 6 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X, Đảng mới ra nghị quyết số 21-
NQ/TW ngày 30 tháng 1 năm 2008 về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa[1]. Tới ngày 23 tháng 9 năm 2008, Chính phủ Việt Nam mới có nghị quyết số
22/2008/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ để thực hiện nghị quyết 21- NQ/TW.
Việc Việt Nam lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN xuất phát từ thực tế là
mô hình kinh tế CNXH cổ điển, đặc trưng bởi hệ thống kinh tế kế hoạch hoá tập trung, sau
nhiều thập kỷ tồn tại, đã tỏ ra không còn sức sống và khả năng tự phát triển nội sinh về mặt
kinh tế. Trong khi đó, kinh tế thị trường với tư cách là một phương thức sản xuất, đã được
chứng minh là có thể được sử dụng nhằm phục vụ cho sự phát triển và thịnh vượng chung của
các quốc gia, dân tộc, chứ không phải chỉ là tài sản riêng của CNTB. Tuy nhiên, thực tế phát
triển của các nền kinh tế thị trường (nhất là các nước theo mô hình kinh tế thị trường “thuần
chủng”) ngày càng cho thấy rõ chính trong quá trình phát triển của mình, kinh tế thị trường
luôn luôn tiềm ẩn những nguy cơ thất bại, bởi nó tỏ ra mâu thuẫn sâu sắc với các giá trị truyền
thống, 1àm tăng tính bất ổn của xã hội và khoét sâu hố ngăn cách giầu – nghèo. Vì vậy, vai trò
Nhà nước như một chủ thể xã hội sáng tạo và hùng mạnh để quản lý các quá trình kinh tế vĩ
mô, nhằm hạn chế những khuyết tật của thị trường, đáp ứng yêu cầu phát triển, cần phải được
khai thác có hiệu quả. Vì vậy, các thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
được xây dựng và thực thi chính là nhằm mục đích làm cho “thị trường” và “Nhà nước” trở
thành hai yếu tố bổ sung cho nhau, chứ không phải thay thế, loại trừ nhau. 2.
Thực tiễn quá trình cải cách,đổi mới thể chế kinh tế ở nước ta . 2.1 Thành tựu
a. Về phát triển kinh tế
Hoàn thiện hệ thống pháp luật pháp luật kinh tế
Ngay từ khi công cuộc cải cách kinh tế mới bắt đầu, Việt Nam đã xây dựng và ban hành nhiều
văn bản pháp luật dưới dạng Bộ luật, Luật và Pháp lệnh liên quan trực tiếp đến phát triển kinh
tế thị trường và khuyến khích kinh doanh . khung luật pháp của nền kinh tế thị trường đã dần
được định hình và ngày càng hoàn thiện hơn :
+ Tạo dựng khung pháp lý cho việc thực hiện quyền tự do kinh doanh, phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, khai thác hiệu quả nguồn lực xã hội
+ Khung pháp lý về thị trường hàng hoá, dịch vụ đã và đang tạo điều kiện cho cơ chế thị trường vận hành có hiệu quả
+Hình thành khung luật pháp cho việc xây dựng và vận hành thị trường các yếu tố sản xuất quan trọng nhất
+ Tạo dựng và làm hài hòa hệ thống luật pháp nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh :
Cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội sâu rộng tiềm ẩn từ cuối những năm 1970, bùng phát trong
những năm 1980, kéo dài đến đầu những năm 1990 của thế kỷ trước đã khiến tăng trưởng kinh
tế chậm, có năm bị suy thoái. GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái,
nếu năm 1985 còn đạt 233,3 USD, thì năm 1988 chỉ còn 86 USD/người, thuộc loại thấp nhất
thế giới. Lạm phát và nhập siêu rất cao; tỷ lệ thất nghiệp năm 1989 lên đến trên 13%...
Nhờ đổi mới, mở cửa hội nhập (bắt đầu từ năm 1986), cơ cấu thành phần kinh tế đã có sự chuyển dịch khá rõ.
Việt Nam đã đưa GDP tăng trưởng liên tục từ năm 1986 đến 1996 với mức tăng trưởng bình
quân 6,6%/năm. Lạm phát từ 3 con số được đưa về 12,7% năm 1995 và 4,5% năm 1996.
Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn sản
xuất với thị trường
Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ
trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo
hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm
có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục với thiết bị, công
nghệ ngày càng hiện đại.
Nông nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất thấp và thiếu hụt
lớn, sang không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo với khối lượng lớn, đứng thứ hai
thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc tế; xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu,
thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ hạng cao trên thế giới.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất
và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ nhanh; các ngành dịch vụ
tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý;... có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy ngày
càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế
Kinh tế và doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập
trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế. Cơ chế quản
lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo hướng xóa bao cấp, thực
hiện mô hình công ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong kinh
doanh. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm
năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế..
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở thành một bộ phận
cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển
giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho nhiều người dân.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình thành, kinh tế
vĩ mô cơ bản ổn định
Trải qua hơn 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng bộ. Hoạt động của
các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần và bộ máy quản lý của Nhà nước
được đổi mới một bước quan trọng. Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng.
Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện các cam kết về
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia nhập
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),... Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn
200 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra
một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện;
chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hóa thành luật pháp, cơ chế,
chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các
yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành
phần có bước phát triển mạnh. . Doanh nghiệp cổ phần trở thành hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến.
b. Về phát triển các mặt xã hội
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đời sống của đại bộ phận dân cư được cải thiện rõ rệt
Thành công nổi bật, đầy ấn tượng qua hơn 25 năm thực hiện đổi mới, đầu tiên phải kể đến việc
chúng ta đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa;
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần
kinh tế, mọi tầng lớp dân cư, khuyến khích, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
nhân dân. GDP bình quân đầu người chỉ đạt 86 USD/người/năm - là một trong những nước thấp
nhất thế giới, nhưng đã tăng gần như liên tục ở những năm sau đó, giai đoạn 2005 - 2010 đạt
1.168 USD/người/năm ,nước ta đã ra khỏi nhóm nước thu thập thấp để trở thành nước có thu nhập trung bình .
Trong lĩnh vực lao động và việc làm: Từ năm 1991 đến năm 2000, trung bình mỗi năm cả nước
đã giải quyết cho khoảng 1 - 1,2 triệu người lao động có công ăn việc làm; những năm 2001 -
2005, mức giải quyết việc làm trung bình hằng năm đạt khoảng 1,4 - 1,5 triệu người; những
năm 2006 - 2010, con số đó lại tăng lên đến 1,6 triệu người. Công tác dạy nghề từng bước phát
triển, góp phần đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo từ dưới 10% năm 1990 lên khoảng 40% năm 2010 (13).
Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả đầy ấn tượng. Theo chuẩn quốc gia, tỷ lệ hộ đói
nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống khoảng 9,5% năm 2010. Còn theo chuẩn do Ngân hàng
thế giới (WB) phối hợp với Tổng cục Thống kê tính toán, thì tỷ lệ nghèo chung (bao gồm cả
nghèo lương thực, thực phẩm và nghèo phi lương thực, thực phẩm) đã giảm từ 58% năm 1993
xuống 29% năm 2002 và còn khoảng 17% năm 2008. Như vậy, Việt Nam đã “hoàn thành sớm
hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015”, mà Mục tiêu Thiên
niên kỷ (MDGs) của Liên hợp quốc đã đề ra (14). Tại cuộc Hội thảo quốc tế với tiêu đề Xóa
đói, giảm nghèo: Kinh nghiệm Việt Nam và một số nước châu Á do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ
chức tại Hà Nội vào giữa tháng 6-2004, Việt Nam được đánh giá là nước có tốc độ giảm nghèo
nhanh nhất khu vực Đông Nam Á (15).
Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình trường lớp từ
mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù
chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; dự tính đến cuối năm 2010, hầu hết các tỉnh, thành sẽ đạt
chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ đã tăng từ
84% cuối những năm 1980 lên 90,3% năm 2007. Từ năm 2006 đến nay, trung bình hằng năm
quy mô đào tạo trung học chuyên nghiệp tăng 10%; cao đẳng và đại học tăng 7,4%. Năm 2009,
trên 1,3 triệu sinh viên nghèo được Ngân hàng chính sách xã hội cho vay với lãi suất ưu đãi để theo học.
Hoạt động khoa học và công nghệ có bước tiến đáng ghi nhận. Đội ngũ cán bộ khoa học và
công nghệ (bao gồm khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật) đã góp phần cung
cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng
và Nhà nước; tiếp thu, làm chủ và ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài,
nhất là trong các lĩnh vực thông tin - truyền thông, lai tạo một số giống cây trồng, vật nuôi có
năng suất cao, thăm dò và khai thác dầu khí, xây dựng cầu, đóng tàu biển có trọng tải lớn, sản
xuất vắc-xin phòng dịch,... và bước đầu có một số sáng tạo về công nghệ tin học.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Bảo hiểm y tế được mở rộng đến khoảng gần
60% dân số. Các chỉ số sức khỏe cộng đồng được nâng lên. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi
đã giảm từ 81% năm 1990 xuống còn khoảng 28% năm 2010; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh
dưỡng đã giảm tương ứng từ 50% xuống còn khoảng 20%. Công tác tiêm chủng mở rộng được
thực hiện, nhiều dịch bệnh hiểm nghèo trước đây đã được thanh toán hoặc khống chế. Tuổi thọ
trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 72 tuổi hiện nay.
Chỉ số phát triển con người (HDI) tăng đều đặn và liên tục suốt mấy thập kỷ qua: từ 0,561 năm
1985 lần lượt tăng lên 0,599 năm 1990; 0,647 năm 1995; 0,690 năm 2000; 0,715 năm 2005 và
0,725 năm 2007 (16). Nếu so với thứ bậc xếp hạng GDP bình quân đầu người thì xếp hạng HDI
của Việt Nam năm 2007 vượt lên 13 bậc: GDP bình quân đầu người xếp thứ 129 trên tổng số
182 nước được thống kê, còn HDI thì xếp thứ 116/182. Điều đó chứng tỏ sự phát triển kinh tế -
xã hội của nước ta có xu hướng phục vụ sự phát triển con người, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội khá hơn một số nước đang phát triển có GDP bình quân đầu người cao hơn Việt Nam.
Như vậy, tổng quát nhất là chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta đã đạt được ba sự
vượt trội: chỉ số đã tăng lên qua các năm; thứ bậc về HDI tăng lên qua các năm; chỉ số và thứ
bậc về tuổi thọ và học vấn cao hơn chỉ số về kinh tế.
Tóm lại, sau gần 30 năm thực hiện đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn,
toàn diện. Cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, các mặt: chính
trị, xã hội, quốc phòng và an ninh được bảo đảm và ổn định. Thành tựu đó ngày càng khẳng
định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của đổi mới, khích lệ,
động viên nhân dân tiếp tục hưởng ứng, góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính
trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước với những bước tiến cao hơn.
2.2 Chủ trương và giải pháp tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Bộ Chính trị ngày 12.9 tổ chức cuộc họp cho ý kiến về việc sơ kết năm năm thực hiện Nghị
quyết số 21 của Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về tiếp tục hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đánh giá Kết quả triển khai, thực thi thể chế kinh tế thị
trường còn chưa có đột phá lớn trong huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực phát
triển. Doanh nghiệp nhà nước chưa thể hiện đầy đủ vai trò nòng cốt trên thực tế. Sự phát triển
về quy mô, cơ cấu, trình độ các loại thị trường như thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường
lao động, thị trường bất động sản, thị trường tài chính, thị trường khoa học - công nghệ vẫn còn
nhiều bất cập. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước chưa cao; vẫn còn tình trạng bao cấp, xin -
cho trong xây dựng và thực hiện một số cơ chế, chính sách. quá trình xây dựng thể chế kinh tế
thị trường định hướng XHCN còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội
nhập quốc tế. Hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách chưa đầy đủ, vẫn tồn tại những điểm chưa
đồng bộ và thống nhất. Việc xử lý các vấn đề liên quan đến đất đai còn nhiều vướng mắc, vấn
đề sở hữu, quản lý, phân phối ở các doanh nghiệp nhà nước chưa được giải quyết tốt, gây khó
khăn cho phát triển, làm thất thoát vốn...
Chính từ những điểm khó khăn và hạn chế đó trong công cuộc cải cách , hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mà từ đó có một vài giải pháp để
khắc phục nhằm đẩy mạnh quá trình hoàn thiện .
1- Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại được phát triển tới trình độ cao dưới
chủ nghĩa tư bản nhưng tự bản thân kinh tế thị trường không đồng nghĩa với chủ nghĩa tư bản.
Thực tiễn đổi mới ở nước ta đã chứng minh đầy sức thuyết phục về việc sử dụng kinh tế thị
trường làm phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là nền kinh tế trong đó các thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận hành kinh tế thị
trường được tự giác tạo lập và sử dụng để giải phóng triệt để sức sản xuất, từng bước cải thiện
đời sống của nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm
nghèo; từng bước làm cho mọi thành viên xã hội đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng
trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường..., giải quyết tốt
các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo
kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác
và thông qua phúc lợi xã hội. Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò
quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Ðảng.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một nền kinh tế vừa tuân
theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ
nghĩa xã hội và các yếu tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
2- Hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh
nghiệp và các tổ chức sản xuất kinh doanh
- Hoàn thiện thể chế về sở hữu
+ Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa theo hướng khẳng định sự tồn tại khách quan, lâu dài và khuyến khích sự phát triển đa
dạng các hình thức sở hữu, các loại hình doanh nghiệp, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ sở hữu khác nhau trong nền kinh tế; xây dựng, hoàn thiện luật pháp về sở hữu đối
với các loại tài sản mới, như trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu, tài nguyên nước, khoáng sản...
+ Khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà đại diện là Nhà nước; các quyền của người sử
dụng đất theo các quy định hiện nay của pháp luật được tôn trọng và bảo đảm.
+ Hoàn thiện thể chế về sở hữu nhà nước theo hướng tách bạch vai trò của Nhà nước với tư
cách là bộ máy công quyền quản lý toàn bộ nền kinh tế - xã hội với vai trò chủ sở hữu tài sản,
vốn của Nhà nước; tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản
trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước; thu hẹp và tiến tới xóa bỏ chức năng đại diện chủ
sở hữu nhà nước của các bộ, ủy ban nhân dân đối với tài sản, vốn nhà nước tại các doanh
nghiệp có tài sản, vốn nhà nước. Tiếp tục đổi mới, củng cố và phát huy vai trò của mô hình
công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước.
+ Hoàn thiện thể chế, quy định rõ, cụ thể về quyền của chủ sở hữu và những người liên quan
đối với các loại tài sản (trí tuệ, tài sản vật chất, tài sản cổ phiếu, tài sản nợ); bảo hộ các quyền
lợi hợp pháp. Ðồng thời, quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu và những người
liên quan đối với xã hội.
+ Bổ sung luật pháp, cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển sở hữu tập thể, các tổ
hợp tác, hợp tác xã; bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích của các xã viên đối với tài sản thuộc
sở hữu của hợp tác xã.
+ Khuyến khích liên kết hỗn hợp giữa sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, làm
cho chế độ cổ phần, sở hữu hỗn hợp trở thành hình thức sở hữu chủ yếu của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
+ Sớm ban hành các quy định pháp lý về quyền sở hữu của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân
nước ngoài tại Việt Nam; quy định đối tượng, điều kiện để người nước ngoài có quyền được
mua, được sở hữu nhà ở gắn với quyền sử dụng đất và các tài sản khác tại Việt Nam.
- Hoàn thiện thể chế về phân phối
+ Hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách về phân bổ nguồn lực, phân phối và phân phối lại
theo hướng bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước, từng chính sách phát triển. Các nguồn lực xã hội được phân bổ theo cơ chế thị trường và
theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của Nhà nước bảo đảm đạt hiệu quả kinh tế -
xã hội cao. Tập trung vốn đầu tư nhà nước phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, dịch vụ
công quan trọng, một số ngành sản xuất thiết yếu, then chốt, đóng vai trò chủ đạo và lĩnh vực
mà tư nhân không thể hoặc chưa thể đảm đương được; quan tâm đến các vùng, đối tượng còn
nhiều khó khăn, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, các địa phương.
+ Chính sách phân phối và phân phối lại phải bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, người lao
động và doanh nghiệp, tạo động lực cho người lao động, doanh nghiệp và bảo đảm lợi ích
quốc gia. Chú trọng phân phối lại qua phúc lợi xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, y tế;
bảo đảm đời sống, ít nhất là ở mức trung bình của xã hội, cho các đối tượng chính sách. Ðổi
mới cơ chế phân bổ chi ngân sách cho phát triển xã hội, củng cố và mở rộng hơn nữa hệ thống
an sinh xã hội. Tiếp tục hoàn thiện luật pháp về thuế theo hướng vừa bảo đảm nguồn thu cho
ngân sách nhà nước, vừa khuyến khích đầu tư, đổi mới công nghệ, phát triển sản xuất, nuôi
dưỡng nguồn thu và thực hiện công bằng xã hội.
- Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế
+ Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới, sắp xếp lại, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp nhà nước để góp phần giữ vững và phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính
sách để ngăn ngừa thất thoát tài sản nhà nước trong quá trình cổ phần hóa; nghiên cứu, hoàn
thiện chính sách bán cổ phần ưu đãi cho người lao động để tạo sự gắn bó lâu dài, phát huy
quyền làm chủ của người lao động tại doanh nghiệp. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý doanh
nghiệp có vốn nhà nước sau cổ phần hóa. Kiện toàn Tổng công ty Ðầu tư kinh doanh vốn nhà
nước để làm tốt chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với vốn nhà nước tại doanh
nghiệp. Hình thành và quản lý chặt chẽ các tổng công ty và một số tập đoàn kinh tế đa sở hữu
có cổ phần chi phối của Nhà nước ở những lĩnh vực quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với
nền kinh tế. Thu hẹp những lĩnh vực độc quyền nhà nước, không biến độc quyền nhà nước
thành độc quyền doanh nghiệp và xóa bỏ bao cấp của nhà nước cho doanh nghiệp. Tiếp tục thu
hút các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là các nhà đầu tư chiến lược mua cổ
phần, góp vốn vào các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn kinh tế nhà nước. Ðẩy mạnh việc sắp
xếp, chuyển đổi các nông - lâm trường quốc doanh theo mô hình doanh nghiệp và các mô hình
thích hợp để hoạt động có hiệu quả.
+ Tiếp tục đổi mới, phát triển hợp tác xã và tổ hợp tác theo cơ chế thị trường, phù hợp với các
nguyên tắc : tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, cùng có lợi và phát triển cộng đồng. Khuyến
khích tăng vốn góp, tăng vốn đầu tư phát triển, tăng tài sản và quỹ không chia trong hợp tác
xã; phát triển các tổ hợp tác, hợp tác xã đa dạng, sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Nhà nước
có chính sách hỗ trợ cho các tổ chức kinh tế tập thể tiếp cận các nguồn vốn; đào tạo cán bộ
quản lý, lao động; trợ giúp kỹ thuật và chuyển giao công nghệ; hỗ trợ phát triển thị trường,
tham gia các chương trình xúc tiến thương mại, các dự án đầu tư của Nhà nước.
+ Thực hiện nghiêm túc, nhất quán một mặt bằng pháp lý và điều kiện kinh doanh cho các
doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế; khuyến khích phát triển
các doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước vào các lĩnh vực mà pháp luật không cấm; tạo
điều kiện để các doanh nghiệp của tư nhân tiếp cận các nguồn lực của Nhà nước trên nguyên
tắc cạnh tranh bình đẳng. Khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân liên doanh, liên kết với các
doanh nghiệp nhà nước, bán cổ phần cho người lao động tại doanh nghiệp. Ðồng thời, tăng
cường và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân để các doanh nghiệp tư
nhân tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật, cơ chế, chính sách của Nhà nước.
Nhà nước có chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển các trang trại, hộ sản xuất kinh doanh,
đặc biệt trong nông nghiệp và ở khu vực nông thôn, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị
trường, hội nhập kinh tế quốc tế. Tạo điều kiện thuận lợi để các trang trại và hộ sản xuất kinh
doanh góp vốn phát triển theo hình thức hợp tác xã, công ty cổ phần hoặc trở thành doanh
nghiệp tư nhân và các loại hình kinh doanh khác thích hợp.
+ Tăng cường đầu tư và đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước để các đơn vị sự nghiệp công
lập phát triển mạnh mẽ, có hiệu quả. Nhà nước bằng hình thức tổ chức đấu thầu, đơn đặt hàng
và có chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế, kể cả kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài, đầu tư phát triển các đơn vị sự nghiệp cung ứng dịch vụ công; tạo môi trường
thuận lợi, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh cho các đơn vị sự nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế hình thành và phát triển. Căn cứ vào điều kiện cụ thể, Nhà nước quy định các loại hình
dịch vụ, các đối tượng xã hội được Nhà nước đài thọ toàn phần hoặc một phần, còn lại phải
thanh toán chi phí theo nguyên tắc thị trường. Trên cơ sở đó, các đơn vị cung ứng dịch vụ công
lập hoặc ngoài công lập thực hiện cung ứng dịch vụ diện nhà nước đài thọ theo hình thức hợp
đồng. Thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp về tổ chức bộ
máy, biên chế, nhân sự và về tài chính trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.
3- Hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ các loại thị trường
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế về giá, về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh.
Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Tăng cường vai
trò của Nhà nước trong việc bình ổn giá bằng các biện pháp kinh tế vĩ mô và sử dụng nguồn
lực kinh tế của Nhà nước, giảm tối đa các can thiệp hành chính trong quản lý giá. Hoàn thiện
khung pháp lý cho ký kết, thực hiện hợp đồng; không hình sự hóa các tranh chấp dân sự trong
hoạt động kinh tế. Hoàn thiện thể chế giám sát, điều tiết thị trường và xúc tiến thương mại, đầu
tư, giải quyết tranh chấp phù hợp với kinh tế thị trường và các cam kết quốc tế; tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao lòng tin của xã hội đối với pháp luật và các cơ quan tư pháp.
- Ða dạng hóa các loại thị trường hàng hóa, dịch vụ theo hướng văn minh, hiện đại, chú trọng
phát triển thị trường dịch vụ. Phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho các thị trường này. Thực
hiện tự do hóa thương mại và đầu tư phù hợp với các cam kết quốc tế. Phát triển các phương
thức giao dịch thị trường hiện đại, nhất là với hàng hóa nông sản và vật tư nông nghiệp để ổn
định giá, giảm bớt rủi ro cho người sản xuất và người tiêu dùng. Tăng cường công tác quản lý
nhà nước về giá đối với một số ít hàng hóa, dịch vụ độc quyền, bảo đảm tuân thủ yêu cầu của
cơ chế thị trường và các cam kết quốc tế. Xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, vệ
sinh an toàn thực phẩm, môi trường. Tăng cường kiểm tra chất lượng hàng hóa và dịch vụ,
nhất là những hàng hóa, dịch vụ liên quan trực tiếp đến sức khỏe của người dân. Xử lý nghiêm minh các sai phạm.
- Phát huy tốt hơn vai trò điều hành thị trường tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước như một ngân
hàng trung ương hiện đại, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát. Từng bước mở
cửa thị trường tín dụng, các dịch vụ ngân hàng phù hợp với cam kết quốc tế. Tái cấu trúc hệ
thống ngân hàng thương mại, thực hiện tốt việc cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà
nước, thu hút được các đối tác chiến lược, song Nhà nước giữ cổ phần chi phối, áp dụng các
thông lệ và chuẩn mực quốc tế để nâng cao năng lực cạnh tranh và vai trò chủ đạo của các
ngân hàng này. Ðổi mới hoạt động thanh tra, giám sát; phát triển các công cụ dự báo, phòng
ngừa rủi ro, bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng.
Hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách cho hoạt động và phát triển lành mạnh của
thị trường chứng khoán, làm cho thị trường chứng khoán ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong huy động vốn cho đầu tư phát triển. Ðưa các giao dịch chứng khoán phi tập trung vào
phạm vi quản lý, kiểm soát của Nhà nước. Tăng tính minh bạch của thị trường. Chống các giao
dịch phi pháp, các hành vi rửa tiền, nhiễu loạn thị trường. Nâng cao năng lực dự báo, có biện
pháp phòng ngừa tình trạng rút vốn hàng loạt, ảnh hưởng xấu đến kinh tế vĩ mô. Mở rộng từng
bước quyền mua cổ phiếu của nhà đầu tư nước ngoài và tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp
Việt Nam giao dịch trên thị trường chứng khoán quốc tế.
Phát triển đa dạng và nâng cao chất lượng các sản phẩm bảo hiểm. Tạo điều kiện phát triển các
doanh nghiệp bảo hiểm thuộc các thành phần kinh tế trong nước, khuyến khích hợp tác và liên
kết giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Thực hiện lộ trình mở cửa thị trường bảo
hiểm theo cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Quan tâm hơn nữa đến các dịch vụ bảo hiểm đối
với con người và hàng nông sản. Nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với thị trường bảo hiểm.
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để các quyền về đất đai và bất
động sản được vận động theo cơ chế thị trường, trở thành một nguồn vốn trong sản xuất kinh
doanh. Xác định rõ quyền sử dụng đất là một loại hàng hóa đặc biệt, được định giá theo cơ chế
thị trường có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước. Ban hành chính sách định giá bảo đảm hài
hòa quyền lợi của người sử dụng đất, của nhà đầu tư và của Nhà nước trong quá trình giải tỏa,
thu hồi đất. Khuyến khích những tổ chức, cá nhân bị thu hồi đất tham gia góp vốn bằng quyền
sử dụng đất vào các dự án đầu tư, kinh doanh. Có chính sách giải quyết tốt vấn đề đất ở, nhà ở,
việc làm cho người bị thu hồi đất. Ðưa giá trị quyền sử dụng đất vào danh mục tài sản của mọi
tổ chức, cá nhân được giao quyền sử dụng đất, kể cả các cơ quan nhà nước. Tạo quỹ đất của
Nhà nước phục vụ các mục tiêu công ích, thực hiện chính sách xã hội và hỗ trợ việc điều tiết
thị trường đất đai, hỗ trợ tái định cư trong quá trình giải phóng mặt bằng. Nhà nước chủ động
tham gia thị trường bất động sản với tư cách là chủ sở hữu đất đai và nhiều bất động sản trên đất.
Hoàn thiện chính sách thuế đối với hoạt động kinh doanh bất động sản, đất được giao nhưng
không đưa vào sử dụng theo cam kết và các trường hợp sở hữu, sử dụng nhà, đất vượt quá hạn
mức quy định, ngăn chặn những cơn sốt giá do đầu cơ bất động sản, đặc biệt là đất đai. Nhà
nước khuyến khích đầu tư xây dựng quỹ đất phục vụ di dân tái định cư, quỹ nhà ở xã hội để
cho thuê hoặc bán theo quy định của pháp luật. Có chính sách giải quyết vấn đề nhà ở ổn định
lâu dài cho lao động ở các khu, cụm công nghiệp, khu kinh tế. Kiểm soát chặt chẽ và áp dụng
cơ chế thị trường đối với việc chuyển đổi đất công và tài sản công trên đất thành hàng hóa bất
động sản. Hiện đại hóa hệ thống quản lý hồ sơ địa chính, bất động sản. Phát triển đồng bộ các
dịch vụ tư vấn pháp luật, công chứng, thẩm định, đấu giá, đăng ký giao dịch... tạo môi trường
thuận lợi, an toàn cho các giao dịch trên thị trường đất đai, bất động sản. Xây dựng cơ chế tài
phán để giải quyết những khiếu nại liên quan đến đất đai.
Xây dựng, công khai hóa và tổ chức thực hiện nghiêm túc quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch
xây dựng đã được phê duyệt. Quản lý chặt chẽ quỹ đất sản xuất nông nghiệp, bảo đảm an ninh
lương thực quốc gia về lâu dài. Bảo đảm lợi ích thỏa đáng và công bằng giữa các nhà đầu tư
phát triển bất động sản, các tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng đất và của Nhà nước.
- Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về tiền lương, tiền công. Tiền lương phải được coi
là giá cả sức lao động, được hình thành theo quy luật thị trường, dựa trên cung - cầu về sức lao
động, chất lượng, cường độ lao động và mức độ cạnh tranh việc làm. Thực hiện tốt, phấn đấu
rút ngắn lộ trình điều chỉnh tiền lương và trợ cấp xã hội giai đoạn 2008 - 2012 đi đôi với kiểm
soát lạm phát để bảo đảm thu nhập thực tế ngày càng tăng cho người hưởng lương. Tăng
cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, tay nghề của người lao động; khuyến khích khu
vực tư nhân, doanh nghiệp tham gia dạy nghề thông qua các ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng,
đào tạo giáo viên, đầu tư hỗ trợ cơ sở hạ tầng, v.v... Hoàn thiện luật pháp, chính sách cho hoạt
động và phát triển thị trường lao động, đổi mới tổ chức và hoạt động của các trung tâm dịch vụ
việc làm của Nhà nước; khuyến khích tổ chức các hội chợ việc làm; phát triển các tổ chức dịch
vụ tư vấn, sàn giao dịch, giới thiệu việc làm tư nhân đi đôi với tăng cường quản lý, kiểm soát
của Nhà nước, ngăn chặn các hành vi lừa đảo và các hiện tượng tiêu cực khác. Nâng cao chất
lượng và hiệu quả xuất khẩu lao động, hướng tới xuất khẩu lao động có trình độ cao. Tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, các đơn vị sự nghiệp trong nước thu hút và sử dụng lao
động nước ngoài có trình độ chuyên môn cao.
Áp dụng phổ biến chế độ hợp đồng lao động, kể cả trong các đơn vị sự nghiệp công lập và khu
vực kinh tế nhà nước. Ðưa thương lượng và ký kết thỏa ước lao động tập thể thành quy định
bắt buộc; tăng cường sự tham gia của đại diện người lao động và người sử dụng lao động vào
hoạch định chính sách, kế hoạch phát triển thị trường lao động. Tăng cường sự quản lý và
giám sát của Nhà nước đối với thị trường lao động. Nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động
của các tòa lao động, xử lý tốt các trường hợp tranh chấp, bảo đảm lợi ích chính đáng của
người lao động và người sử dụng lao động.
- Xây dựng đồng bộ luật pháp, cơ chế, chính sách quản lý và hỗ trợ phát triển các tổ chức
nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học - công nghệ và nâng cao năng lực công nghệ của
doanh nghiệp; khuyến khích doanh nghiệp đổi mới, nhập khẩu và ứng dụng công nghệ mới,
công nghệ tiên tiến vào sản xuất kinh doanh. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm Luật Sở hữu trí tuệ.
Phát triển các dịch vụ thiết kế, đo lường, đánh giá, thẩm định, giám định chất lượng, thông tin,
môi giới, chuyển giao công nghệ, tư vấn pháp lý về sở hữu trí tuệ theo hướng xã hội hóa. Ðổi
mới đồng bộ cơ chế quản lý khoa học và công nghệ phù hợp với cơ chế thị trường. Hoàn thiện
tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý thị trường công nghệ.
- Tuân thủ nguyên tắc bù đắp đủ chi phí để tái tạo và mở rộng quy mô cung ứng dịch vụ công
với chất lượng ngày càng cao. Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư cho giáo dục, y tế, văn hóa, thể
dục, thể thao, đặc biệt là cho những vùng nghèo, người nghèo, bảo đảm những dịch vụ cơ bản
cho nhân dân. Ðồng thời, đẩy mạnh xã hội hóa, vận dụng hợp lý những mặt tích cực của cơ
chế thị trường. Nhà nước có chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng khuyến khích và huy
động các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, các nguồn lực khác phát triển mạnh các dịch
vụ công về số lượng và nâng cao chất lượng, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu đa dạng ngày càng tăng của nhân dân.
Cùng với việc tăng đầu tư, Nhà nước xác định rõ các tiêu chuẩn, tiêu chí mà các đơn vị cung
ứng dịch vụ phải tuân theo, các mức dịch vụ cơ bản Nhà nước phải bảo đảm cho nhân dân,
nhất là cho người nghèo, vùng nghèo, các đối tượng chính sách để bảo đảm quyền của nhân
dân được học tập, chăm sóc sức khỏe phù hợp với trình độ phát triển của đất nước. Thực hiện
cơ chế Nhà nước đặt mua từ các nhà cung cấp dịch vụ theo chất lượng và chi phí chuẩn, tạo
cạnh tranh giữa các đơn vị cung ứng thuộc mọi thành phần kinh tế. Tiếp tục hoàn thiện luật
pháp, cơ chế, chính sách và tăng cường quản lý của Nhà nước, giám sát của các tổ chức xã hội
để hạn chế các mặt trái của cơ chế thị trường, xử lý nghiêm các vi phạm. Từng bước mở rộng
và cải thiện hệ thống an sinh xã hội để đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu đa dạng của mọi
tầng lớp trong xã hội, nhất là của nhóm đối tượng chính sách, đối tượng nghèo.
4- Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng
bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường
- Tiếp tục thực hiện chủ trương, chính sách khuyến khích làm giàu đi đôi với tích cực thực
hiện giảm nghèo, vươn lên no ấm, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng dân tộc và
căn cứ cách mạng trước đây. Chính sách giảm nghèo không chỉ nhằm mục tiêu ổn định mà còn
tạo động lực cho sự phát triển. Tạo điều kiện để mọi công dân nắm bắt được cơ hội làm ăn,
nâng cao thu nhập và đời sống, được hưởng thành quả chung của phát triển. Tập trung đầu tư
phát triển kinh tế, xã hội ở một số vùng trọng điểm có tỷ lệ hộ nghèo cao; phấn đấu từng bước
thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các đối tượng, các vùng, không để chênh lệch này trở
thành vấn đề xã hội bức xúc. Ðưa mục tiêu giảm nghèo vào nội dung chiến lược, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước, của từng địa phương. Tăng cường sự hỗ trợ của
Nhà nước, của cộng đồng xã hội cho người nghèo, giúp người nghèo giảm bớt khó khăn, vươn
lên thoát nghèo, đồng thời khắc phục tư tưởng ỷ lại, bao cấp, trông chờ vào Nhà nước.
- Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa dạng và linh hoạt phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mở rộng các hình thức bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự
nguyện; bổ sung, sửa đổi các chế độ bảo hiểm xã hội còn bất hợp lý, bảo đảm quyền lợi của
người tham gia bảo hiểm xã hội; tách bảo hiểm xã hội đối với khu vực hành chính nhà nước ra
khỏi khu vực doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp và các lĩnh vực khác. Ðiều chỉnh lương hưu và
trợ cấp bảo hiểm xã hội theo cơ chế tạo nguồn, độc lập tương đối với chính sách tiền lương,