









Preview text:
HỌC PHẦN ẨM THỰC VÀ VĂN HÓA ẨM THỰC VIÊT NAṂ  SVTH : NGÔ HẢI YẾN  MSV: 2520225037  LỚP: DL25.10 
1. Phân tích đạo lý ăn của người Viêṭ 
Từ phân tích và phân loại về ý nghĩa, thói tục ăn uống cũng như những đặc 
tính trong phần trên, ta có thể nhận ra một cách dễ dàng cái đạo và cái lý của 
ăn uống. Nền đạo lý này gần như đồng nhất với nền đạo lý sống của họ. Khi 
dùng hai từ đạo và lý, chúng tôi muốn nhấn mạnh tới bản chất và lý do của 
sinh hoạt ăn uống. Nếu ăn uống biểu tượng cho cuộc sống toàn diện. Phần 
này, chúng tôi xin trình bày một cách khái quát, ngắn gọn nền đạo lý này. 
+ Nguyên Lý Mẹ: Sống, Sống Lâu, Sống Ðẹp 
Là một bản chất, ăn uống gắn chặt với cuộc sống. Cuộc sống không thể có, 
cũng không thể tồn tại, và càng không thể đem lại vui thú nếu không có ăn 
uống. Nói một cách rõ hơn, ăn uống theo ba nguyên lý căn bản, tạo ra cái mà 
chúng tôi gọi là đạo ăn. Những lối nói, những câu ca dao tục ngữ, đồng dao 
và những nhân thoại về sự tích bánh giầy bánh chưng, dưa hấu (tây qua)... 
đều chỉ ra những 3 nguyên lý, được diễn tả trong những đặc tính như sau đây: 
- Thứ nhất, ăn uống đem lại sự sống. 
- Thứ hai, ăn uống giúp ta bảo vệ cuộc sống, nối dài cuộc sống. 
- Thứ ba, ăn uống đem lại niềm vui. 
- Thứ tư, nền đạo lý ăn uống gắn liền với nền đạo đức xã hội. 
- Thứ năm, ăn uống biểu lộ và phát huy tình cảm 
Chúng tôi sắp xếp những nguyên lý này theo tầm quan trọng của con người: 
con người sống như một sinh vật (homo brutus và homo erectus), con người 
sống lao động (homo laborans) và ý thức (lý trí, homo sapiens), con người 
sống cảm tính (hay nghệ thuật, homo ludens), con người sống xã hội (homo 
socialis). Thực ra, chúng tôi ý thức việc người Việt không phân biệt và không 
muốn tách biệt những nguyên lý trên một cách riêng rẽ như thấy nơi chủ 
thuyết duy lý. Tuy nhiên, để tiện việc thảo luận, tôi nghĩ, một thứ tự như vậy 
giúp ta dễ dàng nhận ra những nguyên lý đàng sau đạo ăn uống. Nguyên lý 
"có thực mới vực được đạo" cũng như "dĩ thực vi tiên", và nhất là "hết gạo 
chạy rông, nhất nông nhì sĩ" vẫn là cái đạo lý căn bản nhất. Nó nói lên bản 
chất thiết yếu của tồn tại, cũng như tính chất thiết yếu của sinh hoạt con     
người. Nguyên lý thứ tới, đó chính là duy trì và phát triển cuộc sống. Nguyên 
lý này nằm sau những tác động ăn ở, ăn nằm, ăn học, vân vân. Qua ăn ở, con 
người mới có thể sống lâu hơn. Qua ăn nằm, ta mới có thể sinh con đẻ cái, 
con dòng cháu giống nối dõi tam đường. Qua ăn học ta mới phát triển tri 
thức, nhận biết và làm cuộc đời tươi sáng hơn: "nhất nghệ tinh, nhất thân 
vinh," "võng anh đi trước võng nàng theo sau," hay "một người làm quan, cả 
họ được nhờ." Rồi qua ăn làm, con người có thể tự sinh tồn. Nguyên lý sau 
nữa, đó chính là nguyên lý ăn chơi. Nguyên lý này dựa trên cảm tính, tạo ra 
những sinh hoạt vui chơi (homo ludens), tình bạn bè qua bữa ăn (tiệc tùng, 
đám, khao, đãi, giỗ...), tình yêu trai gái qua món ăn, nước uống (thực phẩm 
nói chung): "Nhớ ai như nhớ thuốc lào" và vân vân. Và có lẽ, cả tình yêu đất 
nước cũng được biểu tả qua tình yêu dành cho các món ăn. Phở, quốc hồn 
quốc túy là một ví dụ. Những câu ca tụng mùi vị "thơm tho" của người phụ 
nữ Việt "thơm như mít" là một ví dụ khác. Biết bao câu ca dao tục ngữ ví von 
tình yêu con người, tình yêu đất nước với tình cảm ta dành cho món ăn. Ta 
đừng quên là, nguyên lý vui chơi bao gồm cả nghệ thuật ăn uống, nghệ thuật 
hưởng thụ ăn chơi (nhậu nhoẹt): "sống trên đời ăn miếng giồi chó, xuống âm 
phủ biết có hay không." Nói cách chung, nguyên lý này có thể tạm được xếp 
trong nguyên lý thẩm mỹ (aesthetic essence). 
Tất cả những nguyên lý trên đều mang tính chất cá nhân và xã hội. Chúng không 
lẫn lộn, nhưng quyện bó với nhau. Thắm thiết đến độ ta khó có thể tách biệt 
chúng ra khỏi nhau. Những bản chất này cũng chính là những bản chất của con 
người nói chung, tức cái đạo làm người. Ðây là lý do tại sao Tản Ðà hay Trần 
Quốc Vượng đều theo nguyên lý trên khi áp dụng vào nghệ thuật ăn uống. Trong 
những đoạn sau, chúng tôi tiếp tục phân tích văn hóa ăn uống, với nghệ thuật 
nấu nướng, với những thói ăn, món ăn, cách nấu ăn. Tất cả đểu chỉ ra những  nguyên lý sống trên. 
+ Nguyên Lý Con: Hòa Hợp 
Từ những nguyên lý sống trên, ta thấy nghệ thuật nấu ăn Việt nhắm tới nhiều 
mục đích: đem lại sự sống, tăng triển sự sống, làm cuộc sống vui tươi. Ðể đạt tới 
những mục đích trên, cách ăn, món ăn, cách nấu nướng... đều phải "ở sao được 
lòng người," "ăn sao cho đẹp lòng người" và "uống sao cho vui lòng người." Do 
đó, cách nấu nướng, món ăn, cách thế ăn đều mang tính chất hòa hợp, tổng hợp, 
linh hoạt, biến đổi nhưng luôn quân bình. 
Hoà hợp là đạo lý quan trọng nhất trong nền văn hóa ăn. Hòa hợp giữa âm và 
dương, giữa Trời và đất, giữa nội (cái từ trong chính cuộc sống) và ngoại (từ 
cuộc sống khác bên ngoài). Từ đây, ta thấy, cách chọn vật liệu, gia vị, cách nấu     
nướng và lối ăn đều theo đạo lý hòa hợp này. Khi chọn vật liệu, ta theo đạo lý 
hòa hợp của âm dương: dương, âm không được qúa thịnh hay suy. Một bên qúa 
thịnh, một bên khác qúa suy sẽ làm sức khoẻ thiếu quân bình, giảm sút, sinh 
bệnh tật. Tiến sỹ Vũ Ðình Trác đã viết hẳn một quyển sách, kê khai một bảng 
các chất liệu, gia vị mang yếu tính âm dương. Chất liệu nào hợp với nhau, 
nghịch với nhau. Trong cách dùng gia vị, chế biến gia vị ta cũng thấy tính chất 
hòa hợp như vậy: có nạc có mỡ (không phải nửa nạc nửa mỡ), có cay có chua, 
có đắng có bùi, có thơm có "thối"... nhưng tất cả hợp lại tạo ra một vị đặm đà, ăn 
mãi không chán, và làm ta nhớ mãi. Nước mắm là một ví dụ, mắm tôm lại là 
một ví dụ khác. Một bát phở không có chất ngọt, chất chua, chất cay, chất đắng 
(rau đắng) thì chẳng khác gí bát bún "dương xuân" của người Tầu. Thế nên, việc 
chọn gia vị làm chúng hòa hợp là một kỹ thuật của bếp núc Việt. 
Rồi vật liệu cũng phải hoà hợp. Nồi loại nào chỉ để nấu loại thịt hay cá nào: "Nồi 
đồng nấu ếch, nồi đất nấu ốc." 
Cách chế biến, cộng thêm sự việc chọn lựa gia vị, cũng như dùng vật liệu và 
công cụ, Ta lại càng chú ý đến những món ăn mà người Việt ưa thích như cháo, 
lẩu, canh, chế tạo nước mắm, gỏi cá, kho, hay ngay cả lòng (chó, lợn), tiết canh, 
vân vân. Những món này thường là một "tổng hợp" một cách hòa hợp của nhiều 
chất liệu, tạo ra một vị mới thật "ngon" và thật khoái khẩu: vừa ngọt vừa cay, 
vừa chua vừa bùi, vừa mặn vừa đắng... 
- Cháo : Nồi cháo Việt thường không đơn thuần. Trừ cháo hoa cho người ốm, 
nồi cháo người Việt rất phong phú, gồm đủ mọi món, với đủ gia vị. Gừng tỏi, 
mắm, muối, lá thơm, vân vân là những món gần như bắt buộc trong bất cứ nồi 
cháo nào. Rồi chúng ta có cháo gà, cháo cá, cháo thịt, cháo tôm, cháo cua, cháo 
lươn, thôi thì đủ mọi thứ mà ta có thể tưởng tượng. Nói cách chung, cháo là một 
mã số chung cho các món khác như canh, lẩu. 
- Canh : Tương tự, canh cũng là một loại gần như cháo. Chỉ khác, nếu gạo là 
món chính trong cháo, thì rau là món chính trong canh. Cách nấu tuy hơi khác: 
"cháo hầm, canh nấu," nhưng cách thế nấu, cách thế thêm bớt gia vị theo cùng 
nguyên tắc: tất cả những vật liệu gì làm bát canh ngon đều được tận dụng. Nồi 
canh Việt thường rất tỉ mỉ, công phu. Nồi canh rau đay cua là một ví dụ. Từ giã 
cua, lấy rươu cua, tới cắt rau, hay xén rau... đều theo một quy tắc, trật tự. Vào 
thời điểm nào phải thêm (chêm) hay bớt gia vị nào. Ðổ rượu vào trước khi thịt 
(đồ ăn) chín nhừ, sẽ dễ mất vị. Ngược lại, thêm gia vị qúa muộn, mùi vị cũng  thay đổi. 
- Gỏi : Gỏi cũng là một loại món ăn được chế biến theo nguyên lý hòa hợp 
"địa lợi nhân hòa." Loại cá nào có thể làm gỏi, và dịp nào phải ăn gỏi. Loại cá     
nào phải gỏi với loại rau nào, chấm loại nước mắm (tương) nào. Ðây là những 
câu hỏi mà đã là người Việt bắt buộc phải biết. Người Nhật ăn cá biển tươi, 
trong khi người Việt thích ăn gỏi cá tự nuôi trong ao nhà mình. Gỏi cá cần rất 
nhiều gia vị, cũng như các loại tương, nước mắm, cũng như các loại rau thơm. 
Ngoài gỏi cá, ta còn có nhiều loại gỏi khác như gỏi gà, gỏi tôm, gỏi cua, vân  vân. 
- Nem : Tương tự, nem thường chế biến từ thịt, đặc biệt thịt heo và thịt bò. Ta 
có nhiều loại nem, nem sống, nem chín, nem tái. Nhưng cho dù loại nào đi nữa, 
chính gia vị, các chất liệu, và cách dung hợp giữa chất liệu, thời gian, cách gói, 
dùng loại lá nào để gói (lá chuối, lá khoai...) tạo lên mùi vị ngon, ngọt, chua,  cay, bùi... của nem. 
- Nước Mắm : Ai cũng biết, nước mắm là một đặc sản Việt. Nhưng cái đặc 
biệt của nước mắm không phải vì nó có nhiều chất đạm, hay vì nó có thể thay 
muối. Mắm là một "món" chính yếu, mang tính chất cộng đồng, hòa hợp và liên 
kết. Bát nước mắm giữa mâm. Bát nước mắm được chế biến từ nhiều chất liệu. 
Bát nước mắm tượng trưng cho đất, nước. Bát nước mắm nói lên đặc trưng "thổ 
sinh, thổ sản," và vân vân, đủ mọi đức tính. Chính vì vậy trong nghệ thuật chế 
biến nước mắm, kỹ thuât làm và "thắng" nước mắm đều rất quan trọng. Nước 
mắm Nghệ An khác với nước mắm Phan Thiết, rồi nước mắm Phan Thiết khác 
với nước mắm Phú Quốc chính ở nơi kỹ thuật làm và thắng mắm này. 
- Phở : Phở là một món ăn biến chế từ bún Tầu, và có một lịch sử rất ngắn, 
không qúa một trăm năm. Nhưng dù ngắn ngủi, phở vẫn được ưa chuộng nhất.. 
Nhưng khác với "hủ tiếu" (cũng từ bún Tầu, nhưng phát triển trong miền Nam), 
món phở đòi hỏi nhiều công phu hơn, đặc biệt bánh phở và thùng nước dùng 
(nước lèo). Riêng thùng nước lèo cả là một tổng hợp: nước và cái (khôn ăn nước 
dại ăn cái), gia vị và các loaị gừng, tỏi, ớt, tiêu; thời gian ninh cũng như độ lửa 
lớn bé, nấu bằng than hay bằng gas, vân vân. Rồi mầu sắc, cũng như mùi vị của 
nó là những cái chi tiêu biểu cho cá tính của nười Việt. Chính vì phở được coi 
như là biểu tượng của món ăn Việt, và có lẽ phản ánh chính con người Việt mà 
năm 2002 UNESCO đã tổ chức một cuộc hội thảo về phở tại Hà Nội, và đã vẽ ra 
một bản đồ, gọi là bản đồ phở. 
- Lối Ăn : Ngay cả các lối ăn cũng nói lên tính chất tổng hợp và hòa hợp này. 
Người Việt thích ăn gỏi, ăn xôi, ăn xào, ăn lẩu và ăn luôc. Cho dù là gỏi (gỏi cá, 
gỏi tôm, gỏi thịt...) hay luộc, thì các chất gia vị, các loại lá rau, đều được tận lực 
sử dụng. Nước luộc thường được tận dụng làm canh. Nói chung, mỗi cách nấu 
nướng là một qúa trình tổng hợp tạo ra một sự hòa hợp. Mỗi món ăn tượng trưng     
cho cả một cuộc sống, một thế giới sống, như ta thấy trong phở, nuớc mắm, hay 
bánh giầy bánh chưng, vân vân. 
+ Nguyên Lý Con: Thực Dụng và Thích Ứng 
Ngoài ra, cần phải nói đến nguyên lý thực dụng và nguyên lý thích ứng, tức 
biến đổi trong nghệ thuật ăn uống. Người Việt, tự bản tính, và do địa lý cũng 
như hoàn cảnh, để có thể sinh tồn, bắt buộc phải có óc thực dụng, và nhậy cảm 
thích ứng với hoàn cảnh. Thực dụng và ứng dụng do đó là những đặc tính 
chung thấy nơi người Việt, đặc biệt người Kinh. Những đặc tính này đều phản 
ánh trong các món ăn, cách nấu nướng Việt. Những chất liệu, hay những thức 
ăn mà người ngoại quốc vất bỏ, đều được tận dụng chế biến thành những món 
ăn bất hủ: mề gà, chân gà, tim gan gà, lòng lợn, lòng chó... Ðặc biệt xương sẩu 
được ta chế biến thành những bát canh, nước lèo, hay đồ nhắm rất ngon ngọt. 
Ðặc tính thực dụng này cũng thấy nơi việc người Viêt tận dụng mọi thức ăn, 
mọi loại rau cỏ mà Trời cho. Rau muống (người Tầu gần đây mới ăn), rau dền, 
rau lang, mướp đắng, rau dại... không có loại gì mà người Việt bỏ qua. Làm thịt 
một con heo, trừ lông và chất dơ, tất cả mọi bộ phận, cả máu (tiết) đều được tận 
dụng. Nhờ vào tính chất linh động mà họ có thể chế biến mọi thức, mọi loại 
hợp với khẩu vị, và tạo lên một món ăn, món nhắm thuần túy. Phở là một ví dụ, 
Sầu riêng lại là một ví dụ khác. Biến một loại trái cây có mùi khó ngửi như sầu 
riêng trở thành một món nhắm hay món tráng miệng thơm tho, khiến ta mê mệt 
chỉ có thể thấy nớI người Việt. Theo nhà văn Nguyễn Tuân, sầu riêng nhắm với 
whisky hay cognac (theo Nguyễn Tuân) thì "hết sẩy." Nói tóm lại, hai nguyên lý 
thực dụng và thích ứng biến động có thể thấy trong bất cứ món ăn gọi là đặc 
sản của cả 3 miền Bắc Trung Nam. 
2. Thế nào là nghê thuậ t ̣ ẩm thực. Nghê thuậ t ̣ ẩm thực phụ thuôc ṿ ào các yếu  tố nào ? 
- Nghệ thuật ẩm thực là việc sử dụng các nguyên liệu tự nhiên chế biến thành 
thức ăn phù hợp với sự tồn tại của con người trong khí hậu nơi đó 
- Ẩm thực phụ thuôc ṿ  ào các yếu tố   
+ Vị trí địa lý, khí hâu, ḷ ịch sử, tôn giáo, kinh tế   
3. Hãy nêu môt ṣ ố món ăn đăc ṣ ản mang tính nghê thuật của ṿùng quê bạn 
- Bánh cuốn Hà Giang.  - Phở gà Tráng Kìm.  - Cháo ấu tẩu. -  Xôi ngũ sắc.  - Thắng cố  - Mèn mén - Tẩu chóa.      - Gỏi cá bỗng.  - Bánh tam giác mạch. 
4. Hãy tìm hiểu văn hóa ẩm thực của : -  Theo dân tôc :̣  + Châu Âu 
Sự khác biệt về địa lý, khí hậu đã vô tình tạo ra những khác biệt trong văn hóa giữa 
các lục địa lớn trên thế giới, trong đó rõ rệt nhất chính là giữa châu Âu và châu Á. 
Ẩm thực - một yếu tố quan trọng thể hiện sự biến chuyển của văn hóa cũng được  phân hóa rõ rệt 
Các món ăn của các nước châu Âu đều được trình bày rất trang trọng. So với các 
nước Đông Á, thịt được người châu Âu sử dụng rất nhiều về cả số lượng và kích  cỡ. 
Các loại thực phẩm từ sữa cũng rất đa dạng, người châu Âu chế biến ra hàng trăm 
loại phô mai và các sản phẩm sữa lên men để phục vụ trong bữa ăn. 
Khoai tây là nguồn cung cấp tinh bột chính của người dân châu Âu, bên cạnh đó là 
thực phẩm chế biến từ lúa mì. Người châu Âu rất hiếm khi sử dụng Ngô, tuy nhiên 
ở Ý và Balkan, bột ngô lại là một trong những thành phần chính. Các món salad 
với rau củ quả tươi ăn kèm nước sốt là một món ăn không thể thiếu khi nói đến ẩm 
thực châu Âu, và góp phần làm đa dạng nền ẩm thực thế giới.  + Châu Á 
Châu Á chủ yếu là khu vực nhiệt đới, nên các món ăn cũng được chế biến chủ yếu 
từ các nguyên liệu nhiệt đới. So với cách trình bày trang trọng, người dân châu Á 
thích sự bắt mắt khi trình bày món ăn hơn, riêng với ẩm thực Nhật Bản lại chú 
trọng vẻ đẹp trang nhã khi trang trí món ăn. 
Người châu Á sử dụng các loại rau quả để ăn nhiều hơn so với thịt. Nguồn cung 
cấp tinh bột chính là gạo và nếp. Các món ăn rất chú trọng đến sự thay đổi hương 
vị theo mùa, nhằm phục vụ cho con người trong điều kiện thời tiết thay đổi, tươi 
mát vào mùa nóng và ấm nồng vào mùa lạnh.     
Tuy nhiên, vì tính chất khí hậu nhiệt đới khác nhau, mỗi vùng của khu vực châu Á 
lại có một hương vị đặc trưng riêng. Sự phân chia của ẩm thực châu Á là ở các 
khu vực lớn như vùng Đông Á, Đông Nam Á, Tây Á. Trong đó có thể kế đến một 
số nền ẩm thực lớn đó là Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, 
Philippines, Pakistan,... Những đặc trưng riêng nhất đến từ từng vùng miền, lãnh 
thổ, tất cả đã góp phần tạo nên một nền ẩm thực thế giới phong phú và đa dạng.  - Theo đạo : 
Ẩm thực của mỗi vùng miền, mỗi quốc gia đều có nét đặc trưng phong 
phú riêng. Tôn giáo cũng vậy .   Kitô giáo và Mùa Chay 
- Mùa Chay đánh dấu 40 ngày dẫn đến cái chết và sự phục sinh của Chúa 
Giêsu. Trong thời gian này, nhiều Kitô hữu từ bỏ các thực phẩm hoặc hành 
động cụ thể để suy ngẫm về cuộc sống, đau khổ và hy sinh của Chúa Kitô. 
Người Công giáo thường không ăn thịt vào Thứ Tư Lễ Tro, Thứ Sáu Tuần 
Thánh hoặc bất kỳ Thứ Sáu nào trong Mùa Chay, nhưng họ ăn cá. Một số 
Kitô hữu từ bỏ thứ gì đó họ thích, như sô cô la, khoai tây chiên hoặc cà phê 
trong 40 ngày - Kỷ niệm lễ Phục sinh 
Sau nhiều tuần Mùa Chay, Lễ Phục Sinh, đánh dấu sự phục sinh của Chúa 
Kitô. Việc này thường được cử hành bằng một bữa ăn gia đình lớn. Nó thường 
bao gồm trứng, bánh chéo nóng, và thịt cừu hoặc giăm bông. Trứng tượng 
trưng cho sự tái sinh và trẻ hóa. Người ta nhuộm chúng màu sắc tươi sáng và 
che giấu chúng như một phần của cuộc săn trứng Phục sinh, hoặc họ đưa 
trứng bị lệch hoặc salad trứng vào thực đơn. Kẹo như đậu thạch và thỏ sô cô 
la cũng là một phần của truyền thống Phục sinh  Giữ Kosher 
Một số người Do Thái tuân theo các quy tắc ăn kiêng cấm một số loại thực 
phẩm, chẳng hạn như thịt lợn hoặc động vật có vỏ. Thịt phải đến từ động vật 
được giết mổ theo luật Kosher. Và những người giữ Kosher không ăn sữa và 
thịt trong cùng một bữa ăn. Để tránh việc trộn chúng lại với nhau, các gia 
đình có các nồi, chén và dụng cụ riêng biệt cho thịt và sữa.     
Các quy tắc giữ kosher dựa trên Torah, Kinh thánh tiếng Do Thái và đã 
được sử dụng trong hơn 3.000 năm  - Yom Kippur và Purim 
Trong Do Thái giáo, Yom Kippur, “Ngày Chuộc Tội”, là ngày linh thiêng 
nhất trong năm. Nó diễn ra với 26 giờ nhịn ăn. Một ngày lễ khác của người 
Do Thái, Purim, liên quan đến việc gửi quà tặng thực phẩm cho bạn bè có thể 
bao gồm hamantashen – bánh quy hình tam giác chứa đầy mứt hoặc phết làm 
từ mận hoặc hạt anh túc  Halal và Haram 
Giáo lý Hồi giáo nói rằng người Hồi giáo chỉ có thể ăn các loại thực phẩm là 
halal , một từ tiếng Ả Rập có nghĩa là “hợp pháp hoặc được phép”. Kinh 
Qur’an dạy rằng động vật nên được chăm sóc và đối xử tôn trọng, vì vậy 
trong khi bạn có thể ăn thịt, con vật phải được giết mổ đúng cách, với máu 
rút hết. Thực phẩm không được phép được gọi là haram , và bao gồm thịt 
lợn, bất cứ thứ gì có máu động vật và bất kỳ động vật nào không được giết 
mổ để làm thức ăn. Rượu cũng được coi là haram  - Ramadan 
- Ăn chay trong tháng Ramadan là một trong năm trụ cột của đạo Hồi. Kỳ 
nghỉ kéo dài hàng tháng là thời gian để tôn thờ và tăng cường mối quan hệ 
gia đình và cộng đồng. Mỗi ngày, mọi người không ăn từ sáng đến hoàng 
hôn. Người Hồi giáo thường có một bữa ăn nhanh ( suhoor ) và ăn nhẹ vào 
một vài ngày vào lúc hoàng hôn, sau đó là một bữa ăn nhanh ( iftar ), 
thường được chia sẻ với gia đình và bạn bè  - Eid al-Fitr 
Người Hồi giáo kỷ niệm kết thúc tháng Ramadan bằng một lễ hội có tên Eid 
al-Fitr. Trong những ngày cuối tháng, người Hồi giáo quyên góp tiền cho 
người nghèo để đảm bảo họ cũng có thể có bữa ăn ngày lễ. Thực phẩm cụ thể 
khác nhau tùy theo khu vực hoặc quốc gia. Kẹo và bánh ngọt là một phần lớn  của truyền thống  - Ấn Độ giáo 
Trong Ấn Độ giáo, việc ăn thịt thường không được chấp thuận và được coi là 
điều mà tín hữu có thể tránh được. Nhưng ngày nay, một số người Ấn giáo ăn     
thịt, cá, gia cầm và trứng, phụ thuộc chủ yếu vào địa lý, lễ hội xã hội và tôn 
giáo, và truyền thống cộng đồng.Con bò vẫn còn là điều thiêng liêng, vì đó là 
nguồn sữa và việc ăn thịt bò bị từ chối mạnh mẽ.  - Theo vùng miền: 
Ẩm thực miền Bắc - Nhẹ nhàng và tinh tế 
Văn hóa ẩm thực miền Bắc là nguồn gốc xuất xứ của món ăn Việt cho đến 
ngày nay. Nói đến con người miền Bắc thì hầu hết đều sẽ nghĩ ngay đến 
những quy cũ, sự ôn hòa và truyền thống. Điều này đã ảnh hưởng sâu sắc 
đến ẩm thực miền Bắc cho đến ngày nay. 
Mặc dù vẫn có sự tiếp nhận từ nền ẩm thực của các nước khác nhưng hương 
vị rất riêng của người miền Bắc dường như không hề mất đi. Nói đến ẩm 
thực Bắc Bộ dường như ai cũng biết đến món bún thang, phở Hà Nội, bún 
chả cá Hà Nội, nem, chả giò,... Nghe thôi đã thấy cái riêng của người Thủ 
Đô, nhẹ nhàng nhưng lại làm xao xuyến cõi lòng. 
Từ xưa, người dân Việt đã có câu: “Ăn Bắc mặc Nam”. Chính từ những nét 
truyền thống của người Bắc Bộ, ông cha ta đã mang ẩm thực đi dọc theo 
các vùng miền, không ngừng sáng tạo để thích nghi với từng vùng đất khác 
nhau trên lãnh thổ Việt Nam. Do đó mà dễ hiểu vì sao miền Bắc lại có rất 
nhiều những món ăn truyền thống và luôn được người dân gìn giữ cẩn thận. 
Trong tất cả những ngày lễ, Tết hay cúng kiến tổ tiên, mâm cỗ miền Bắc 
gần như hoàn toàn là các món mang đậm hương sắc dân tộc Việt. Nếu 
người miền Trung ăn cay, người Nam Bộ ăn ngọt thì gia vị không thể thiếu 
của Bắc Bộ là bột ngọt. Hơn nữa, trong các món ăn của người miền Bắc sẽ 
xuất hiện nhiều hơn các món kho mặn, đậm đà hương vị, thích hợp để ăn 
với cơm nắm thay vì những món ăn chơi như miền Trung hay Nam Bộ. 
Ẩm thực miền Trung - Cay nồng hương vị quê hương 
Nói đến các món ăn miền Trung, hầu như ai cũng sẽ nhớ ngay cái vị cay xé 
nồng nàn đến tận cổ họng. Người miền Trung có thói quen ăn cay và hầu 
hết các món đều sử dụng gia vị này. 
Do đó mà có thể hiểu được vì sao, trong bữa ăn của người miền Trung luôn 
có một chén mắm ớt tỏi hay một dĩa ớt trái tươi đi kèm. Cái khắc nghiệt về 
khí hậu của cái eo tổ quốc đã tạo nên những con người miền Trung chất 
phát, mặn mà. Chính điều này cũng tác động đến phong cách ăn uống giản 
dị của người dân miền Trung. 
Nền ẩm thực Trung Bộ là sự giao thoa của cái mặn nồng từ miền Bắc và 
ngọt ngào của Nam Bộ. Với cái gốc từ món ăn miền Bắc, con người đã biến     
tấu thành những món ăn phù hợp với khẩu vị và nguyên liệu theo từng tỉnh  thành Trung Bộ. 
+Các món ăn của người miền Trung thường có vị mặn và cay. 
Nói về ẩm thực miền Trung thì không thể bỏ qua sự nhã nhẹn, tỉ mỉ trong 
từng món ăn của xứ Huế. Huế được xem là nơi bắt nguồn cho nền ẩm thực 
Trung Bộ. Vượt qua Hải Vân đến với Đà Nẵng, Quảng Nam, mọi người đều 
phải say đắm với những món ăn đơn giản nhưng không kém phần đậm đà 
nơi đây. Mì Quảng, bánh tráng cuốn thịt heo, cá nục hấp rau muống, cao lầu 
Hội An,... luôn là những món ăn hấp dẫn níu chân du khách khi đến đây. 
+Ẩm thực miền Nam - Sự ngọt ngào, đậm chất mộc mạc 
Người miền Nam chân chất, ngọt ngào bao nhiêu thì món ăn của họ cũng 
chịu ảnh hưởng không kém. Nói đến ẩm thực miền Nam, nhiều người sẽ 
nghĩ ngay câu nói: “Dưới sông có cá, trên bờ có rau”. Câu nói gần như đã 
gói gọn hết những đặc trưng vốn có của nền