lOMoARcPSD| 58457166
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI
KHOA TIẾNG VIỆT
-
- - - - -
- - - - - -
MÔN: VĂN HOÁ VIỆT NAM
CHỦ ĐỀ
:
GIÁO VIÊN : LÊ THỊ HỒNG DUNG
SINH VIÊN: THỊ PHƯỢNG
MÃ SV: 2520210585
LỚP: TR26.20(học ghép)
Hà Nội,
tháng 11 năm 202
lOMoARcPSD| 58457166
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI
KHOA TIẾNG VIỆT
_____________________
(Logo HUBT)
TIỂU LUẬN
MÔN: VĂN HOÁ VIỆT NAM
Chủ đề:
VÙNG VĂN HOÁ TÂY BẮC
Giảng viên: Lê Thị Hồng Dung
Sinh viên: Vũ Thị Phượng
Mã SV: 2520210585
Lớp: TR26.20 (học ghép)
Hà Nội, tháng 11 năm 2021
lOMoARcPSD| 58457166
LỜI CẢM ƠN
ầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến trường Đại học Kinh doanh và
Công nghệ Hà Nội đã đưa môn Văn hoá Việt Nam vào trương trình giảng dạy.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến giảng viên bộ môn - Thị
Hồng Dung đã dạy dỗ, truyền đạt những kiến thức quý báu cho em trong sut
thời gian học tập vừa qua. Trong thời gian tham gia lớp học Văn hoá Việt Nam
của cô, em đã có thêm cho mình nhiều kiến thức bổ ích, tinh thần học tập hiu
quả, nghiêm túc. Đây chắc chắn sẽ là những kiến thức quý báu, hành trang
để em có thể vững bước sau này.
Bộ môn Văn hoá Việt Nam là môn học thú vị, vô cùng bổ ích và có tính thực tế
cao. Đảm bảo cung cấp đủ kiến thức, gắn liền với nhu cầu thực tiễn của sinh
viên. Tuy nhiên, do vốn kiến thức còn nhiu hạn chế và khả năng tiếp thu thực
tế còn nhiều bỡ ngỡ. Mặc dù em đã cố gắng hết sức nhưng chắc chắn bài tiểu
luận khó thể tránh khỏi những thiếu sót nhiều chỗ còn chưa chính xác,
kính mong cô xem xét và góp ý để bài tiểu lun của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!”
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... 2
MỤC LỤC ........................................................................................................... 2
MỞ ĐU ............................................................................................................ 3
A.NỘI DUNG ...................................................................................................... 3
I. Khái quát chung về Tây Bắc ................................................................................................. 3
II. Tổng quan về Tây Bắc ............................................................................................................ 4
1.Vị trí đại lý ................................................................................................................................... 4
2.Đặc điểm tự nhiên .................................................................................................................. 6
3.Đặc điểm kinh tế - xã hội ...................................................................................................... 7
4.Lịch sử và dân cư ..................................................................................................................... 9
5.Văn hoá các dân tộc vùng Tây Bắc .................................................................................. 11
B. KẾT LUẬN..........................................................................20
C. TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................21
lOMoARcPSD| 58457166
MỞ ĐẦU
Văn hóa một hệ thống hữu các giá trị vật chất tinh thần do con người
sáng tạo tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con
người với môi trường tự nhiên hội, văn hóa là bao gồm tất cả những sản
phẩm của con người, như n hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật
chất của xã hội như ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà
cửa, quần áo, các phương tiện. Cả hai khía cạnh cần thiết để làm ra sản phẩm và
đó một phần của văn hóa.. Nền văn hóa Việt Nam đã hình thành không
ngừng phát triển qua hàng ngàn năm, trải qua nhiều biến cố nhưng ấy vẫn luôn
được giữ vững và trau dồi bởi năm mươi dân tộc anh em với lòng yêu nước
tinh thần đoàn kết nhất trí .
Nếu như sự thống nhất do cùng cội nguồn đã tạo ra bản sắc chung của văn hóa
Việt Nam thì tính đa dạng của các tộc người lại làm nên những đặc trưng bản sắc
riêng của từng vùng văn hóa. một trong các vùng văn hóa lịch sử hình thành
phát triển lâu đời nhất của Việt Nam với nhiều bản sắc riêng, đầy độc đáo:
Vùng n hóa Tây Bắc . Nhắc đến Tây Bắc chúng ta sẽ liên tưởng ngay tới những
ngọn núi kỹ vĩ, những ruộng bậc thang, hay những món ăn bản địa vừa quen thuộc
cũng vừa xa lạ. Thời tiết mát mẻ, những lễ hội nổi tiếng. Tây Bắc vào xuân
với hoa đào, hoa mận nở khắp rừng, tiếng chim, tiếng khèn sáo cùng những ly
rượu nồng làm cho mùa xuân Tây Bắc rộn ràng, rực rỡ. Cùng trong không khí
tươi vui của mùa xuân, Tây Bắc lại rộn ràng đón xuân với hoa lá, cỏ cây bừng
bừng nhựa sống, với váy áo rực rỡ, với nụ cười ánh mắt lúng liếng của các
thiếu nữ vùng cao. Không những vậy nhắc đến Tây Bắc không ai không nghĩ
đến văn hóa ẩm thực, văn hóa trang phục văn hóa lễ hội nơi đây Và đó là lý do
em lựa chọn đtài “ Vùng văn hóa Tây Bắc ” để cho các bạn được những
nét đặc sắc của nơi đây. Nơi hơn 20 dân tộc cùng sinh sống, tạo nên nét
văn hoá riêng độc đáo
A.NỘI DUNG
I. Khái quát chung về Tây Bắc
ới thời Pháp, Tây Bắc có tên gọi là xứ Thái tự trị. Đến năm 1955 lại đổi thành
Khu tự trThái Mèo gồm ba tỉnh Lai Châu , n La, Nghĩa Lộ. Tnăm 1962
1975 gọi Khu tự trTây Bắc . Hiện nay, cụm từ Tây Bắc chỉ giá trxác định
phương hướng , vị trí địa lý của khu vực chứ không mang ý nghĩa nào khác . Tây
Bắc là vùng có 20 dân tộc sinh sống, tập trung chủ yếu ở Lào Cai , Lai Châu , Sơn
l La , Yên Bái ... gồm: Cống, Giáy, Hà Nhì, Kháng, Khơ Mú, Lào, La Ha, La Hủ , Lự ,
Mảng , Mường , Phù , Si La , Xinh Mun dân tộc Thái với tổng dân số
lOMoARcPSD| 58457166
2.661.065 người ( theo thống kê dân số ngày 01/4/1999 ) . Trong đó , đông nhất
là dân tộc Thái (1.328.725 người ) và Mường
( 1.137.515 người ) , ít nhất là dân tộc Cống (1.676 người ) và Si La ( 840 người ).
So với tổng dân số vùng Tây Bắc , các dân tộc ít người chiếm 56 % Vùng văn hóa
Tây Bắc khu vực bao gồm hệ thống núi non trùng điệp bên hữu ngạn song
Hồng (lưu vực sông Đà) kéo dài tới bắc Thanh Nghệ . Ở đây có trên 20 tộc người
trú , văn hóa Tây Bắc đa dạng độc đáo chính sản phẩm của sự kết hợp và
đan xen các bản sắc riêng của hơn hai mươi dân tộc y, trong đó các dân tộc
Thái, Hmông Dao có thể xem là những đại diện êu biểu, góp phần quan trọng
hơn cả trong việc hình thành văn hóa của khu vực. Biểu tượng cho vùng văn hóa
y hệ thống mương phai dẫn nước vào đồng; nghệ thuật trang trí nh tế
trên chiếc khăn piêu Thái , chiếc cạp váy Mường, bộ trang phục nữ H’Mông ;
âm với các loại nhạc cbộ hơi ( khèn , sáo ... ) và những điệu múa xòe ...
II. Tổng quan về Tây Bắc
1. Vị trí đại lý
Vùng Tây Bắc là vùng núi phía tây của miền bắc Việt Nam, có chung đường biên
giới với Lào và Trung Quốc. Đây là một trong ba ểu vùng cảu Bắc Bộ Việt Nam,
bao gồm các tỉnh: Mường Lay, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Yên Bái
lOMoARcPSD| 58457166
Địa hình Tây bắc hiểm trở, có nhiều khối núi và dãy núi cao chạy theo hướng Tây
Bắc Đông Nam trong đó dãy Hoàng Liên Sơn dài đến 180 km , rộng 30 km ,
cao từ 1500m trở n , các đỉnh cao nhất như Phanxipăng 3142m , Yam Phình
3096m ,
Pu Luông 2.983m . Dãy Hoàng Liên Sơn , được người Thái gọi " sừng trời " (
Khau phạ ) , chính là bức tường thành phía đông và vùng Tây Bắc .
Địa hình Tây Bắc núi cao chia cắt sâu , nhiều khối núi dãy núi cao chạy
theo hướng Tây Bắc - Đông Nam . Dãy núi ng Mã dài 500 km , có những đỉnh
cao trên 1800 m . Giữa hai y núi y vùng đồi núi thấp lưu vực sông Đà ( còn
gọi là địa máng sông Đà ) .
Vùng Tây Bắc hai con sông lớn, đó sông Đà ( tên Thái Năm Tè ) sông
Thao ( tức sông Hồng ), thượng nguồn của sông Mã cũng nằm trên vùng đất Tây
Bắc, phía Tây tỉnh Sơn La. Ngoài sông Đà sông lớn, vùng Tây Bắc chỉ sông
nhsuối gồm cả thượng lưu sông Mã. Trong địa máng sông Đà còn mt
y cao nguyên đá vôi chạy suốt từ Phong Thđến Thanh Hóa, thchia
nhỏ thành các cao nguyên Tà Phình ,
Mộc Châu, Sản. Cũng các lòng chảo như Điện Biên, Nghĩa Lộ, Mường
Thanh. Các con sông này không chỉ sở cho sđịnh cư của của các dân tộc
nơi đây cũng như nền nông nghiệp trong vùng còn nguồn cảm hứng cho
những câu hát và truyền thuyết của các tộc người Thái, Mường ...
Sông Đà.
Sông Mã
lOMoARcPSD| 58457166
2. Đặc điểm tự nhiên
Tuy cùng nằm trong vòng đai nhiệt đới gió mùa, nhưng do một độ cao từ 800
3000m nên khí hậu Tây Bắc ngả sang á nhiệt đới và nhiều nơi cao như Sìn Hồ có
cả khí hậu ôn đới. Mặt khác, do địa hình lại chia cắt bởi các y núi, các dòng
sông, khe suối, tạo nên những thung lũng , nơi lớn thành lòng chảo như vùng
Nghĩa Lộ , Điện Biên nên Tây Bắc còn là nơi có nhiều ểu vùng khí hậu. Trong lúc
đó ở thung lũng Mường La , người ta mặc áo ngắn tay giữa mùa đông thì ở Mộc
Châu phải mặc áo bông y không khỏi rét. Nhưng chính vậy thiên
nhiên Tây Bắc rất đa dạng, thổ nhưỡng nhiều loại hình. Chính điều y cũng góp
phần làm nên những nét đa dạng trong văn hóa của các dân tộc vùng Tây Bắc.
Mặc nền khí hậu chung không skhác biệt lớn giữa các khu vực , nhưng
sự biểu hiện của không giống nhau theo chiều nằm ngang theo chiều thẳng
đứng . Dãy núi cao Hoàng Liên n chạy dài liền một khối theo hướng Tây Bc
Đông Nam đóng vai trò của một bức trường thành ngăn không cho gió mùa đông
ớng đông bắc - y nam ) ợt qua để vào lãnh thổ Tây Bắc không bsuy
yếu nhiều , trái với vùng Đông bắc hệ thống các vòng cung mở rộng theo hình
quạt làm cho các đợt sóng lạnh thể theo đó xuống đến tận đồng bằng
sông Hồng xa hơn nữa về phía nam . Vì vậy , trừ khi do ảnh hưởng của độ cao
, nên khí hậu Tây Bắc nói chung ấm hơn Đông Bắc , chênh lệch thể đến 2-3 °
C . Ở miền núi , hướng phơi của sườn đóng một vai trò quan trọng trong chế độ
nhit ẩm , sườn đón gió ( sườn đông ) ếp nhận những lượng mưa lớn trong
khi sườn y tạo điều kiện cho gió "phơn " ( hay quen được gọi " gió lào ")
được hình thành khi thổi xuống các thung lũng, rõ nhất ở Tây Bắc. Nhìn chung,
trong điều kiện của trung du miền núi , việc nghiên cứu khậu rất quan
trọng sự biến của khí hậu xảy ra trên từng khu vực nhỏ . Những biến cổ khí
hậu miền núi mang nh chất cực đoan ,
nhất trong điều kiện lớp phủ rừng bị suy giảm , lớp phủ thnhưỡng bị thoái
hoá . Mưa lớn và tập trung gây ra lũ nhưng kết hợp với một số điều kiện thì xuất
hiện quét ; hạn vào mùa khô thường xy ra nhưng khi hạn hán kéo dài ngoài
sức chịu đựng của cây ci.
Băng tuyết là 1 trong những hiện tượng cực đoan của thời ết làm ảnh hưởng
đến đời sống, sản xuất của người dân vùng Tây Bắc(chụp tại SaPa-Lào Cai)
lOMoARcPSD| 58457166
3. Đặc điểm kinh tế - xã hội
3.1. Đặc điểm kinh tế
Sản xuất nông nghiệp hoạt động kinh tế chyếu của hầu hết
đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Bắc. Ngoài ra, họ còn chăn
nuôi theo hộ gia đình, làm một snghề thcông , thực hiện
nhiều hình thức chiếm đoạt các nguồn lợi tự nhiên sẵn
trong rừng quanh khu vực trú. Nhìn chung, mặc nền kinh
tế thtrường đã phố biến đồng bằng và một số khu vực miền
núi nhưng về cơ bản, các dân tộc vùng Tây Bắc vẫn duy trì các
phương thức sản xuất truyền thống. Tuy vy, một số vùng đã
có sự xuất hiện của việc phát triển y công nghiệp, trồng y
ngô lúa giống mới năng suất cao , mở rộng chăn nuôi đại
gia súc và chú ý phát triển nghề dệt thổ cẩm truyền thống.
Tuy nhiên, tập quán trồng trọt mỗi tộc người tại các vùng
thung lũng, vùng rẻo giữa và vùng cao vẫn có những nét riêng
biệt, bởi những cách làm ăn này đã tồn tại qua hàng nghìn năm
canh tác của họ .
Cho đến nay các tộc người sống Tây Bắc vẫn duy trì một số
nghề thủ công gia đình như dệt vải , đan lát, làm mộc, làm rèn
, chế tác kim loại làm trang sức, làm giấy dó. Tuy nhiên, mỗi tộc
người lại những nghề nối trội dụ người Thái , người Lào,
người Mường rt nổi ếng với nghề trồng bông , dệt vải thổ
cấm; người Hmông nổi ếng vói nghrèn chế tác công cụ sản
xuất trồng lanh đệt vải lanh. Các công việc thủ công y
thường do người phụ nđảm nhiệm, riêng nghề đan lát đồ gia
dụng nổi ếng của nhóm Môn Khơme như: Khơ mu, Xinh Mun,
Kháng lại chủ yếu do người đàn ông đảm nhiệm .
lOMoARcPSD| 58457166
Nghề rèn. Nghề đan lát
Trao đổi hàng hoá nhu cầu thiết yếu đã có từ lâu đời của các
dân tộc thiểu số Tây Bắc, họ thường cùng nhau họp chợ tại
trung tâm xã, huyện hoặc ngay ven đường cái . Do các tộc
người đều trú vùng sâu vùng xa nên hchhọp chợ 5 ngày
hoặc 1 tuần 1 lần .
3.2. Đặc điểm xã hôi
Thiết chế xã hội truyền thống của các tộc người cư trú ở Tây Bắc rất phong phú ,
điều này phụ thuộc vào hoàn cảnh lch sử của họ .
Về đặc điểm tộc người ở đây , mỗi dân tộc đều có những nét riêng biệt .
Với người Thái : Khu vực chúa đất cai quản gọi mường bộ máy cai trị
cũng như luật lệ riêng. Mỗi mường một mường trung tâm các mường
ngoại vi. Chúa đất cai quản toàn mường , con trai cả của chúa đất sẽ cai quan
rmường trung tâm , các con trai thứ các cháu scai quản các mường phụ
thuộc. Bộ máy thống trị toàn mường lớn gọi là Xiêng hay Chiềng…
Trong quan hệ họ hàng của người Thái 3 mối quan hệ đặc trưng , đó : i
Noọng bao gồm những thành viên trai của từng dòng họ ng tổ ên ; Lúng
Ta ; Nhím Sao .
Người Thái nhiều kinh nghiệm đắp phai , đào mương , dựng con , bắc máng
lấy nước làm ruộng . Lúa nước nguồn lương thực chính , đặc biệt là lúa nếp .
Người Thái cũng làm nương để trồng lúa , hoa màu nhiều thứ y khác . Từng
gia đình chăn nuôi gia súc gia cầm đan lát vải một snơi làm đồ gốm …Sản phẩm
nổi ếng của người Thái vài thổ cẩm, với những hoa văn độc đáo, màu sắc rực
rỡ, bền đẹp
lOMoARcPSD| 58457166
Đặc điểm cư trú nổi bật của đồng bào Thái là dọc các thung lũng vùng thấp , nơi
có nhiều sông suối ao hồ , chính vì thế mà các nhà dân tộc học xếp dân tộc Thái
những dân đại diện cho nền văn minh thung lũng ( Valley culture ) . Trên
thực tế , đồng bào Thái vùng nào ng tỏ ra vừa giỏi chài lưới ngoài sông ngoài
suối, lại rất thạo việc đánh bắt trong ruộng trong đồng. Nhờ vậy, bữa ăn hàng
ngày của con được tăng cường nguồn dinh dưỡng một cách đáng kể, do chính
các hoạt động sông nước đem lại .
Nguồn sống chính của đồng bào H’Mông là làm nương rẫy du canh , trồng ngô
, trồng lúa ở một vài nơi có nương ruộng bậc thang . Cây lương thực chính là
ngô và lúa nương , lúa mạch .
Ngoài ra còn trồng lanh để lấy sợi dệt vải và trồng cây dược liệu . Chăn nuôi ca
gia đình người Mông trâu , , ngựa , chó , . a kia người Mông quan
niệm : Chăn nuôi là việc của phụ nữ , kiếm thịt trong rừng là việc của đàn ông .
Với người Hmông bộ máy Seophải cai quản một bản , thống cai quản một ng
, ngoài ra còn các phó thống , dịch . Những người trong bộ máy cai trị
thường người đứng đầu các dòng họ . Trong hội truyền thống của người
Hmông , quan hệ cố kết dòng họ nét đặc trưng nhất , được biểu hiện 2
hình thức : cố kết rộng và cổ kết hẹp .
Người Khơmú : Người Khơ nhiều dòng h, các dòng họ của họ thường
mang tên cây , cỏ hay chim , thú . c quan hcủa họ chyếu dựa theo nhóm
hôn nhân . Với các dân tộc khác như Kháng , XinhMun , tổ chức hội truyền
thống của họ cũng tương tự như người Khơmú , họ đều quá trình dài lâu
trong lịch sử những người bị phthuộc trở thành người làm công như lệ
nông cho các chúa đất ( phía tạo ) người Thái.Qua những nét chính về bức tranh
hội của phần lớn các dân tộc thiểu số điển hình ở Tây Bắc , trong đó nổi bật
các chúa đất Thái ( phía tạo ) và thống lý ở người Hmôn
4. Lịch sử và dân cư
Tây Bắc nơi sinh tụ lâu đời, ngàn năm của dân văn minh đồng thau với hơn
20 tộc người cư trú xen kẽ, bao gồm các dân tộc: Thái, Dao, H’Mông, Bố Y, Giáy,
Nhì, Kháng, Máng, Khơmu, Sila, Tày, Xinh-mun, La-ha… với một lịch sử phát
triển khá lâu đời.Mật đdân đây khá sthấp, năm 1978 mới có 59ng/km
2
. Vi
tỉ lệ tăng 3,5%/năm cộng với việc di dân, đến năm 1990 cũng chỉ 120
người/km
2
. Các dân tộc êu biểu của vùng như: Thái, H’Mông, Dao.
4.1. Dân tộc Thái
Tại Việt Nam, theo Tổng điều tra dân snăm 1999, người Thái sdân
1.328.725 người, chiếm 1,74 % dân số cả ớc, cư trú tập trung tại các tỉnh Lai
lOMoARcPSD| 58457166
Châu, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An. Trong
đó, tại Tây
Bắc số dân cụ thể là: Sơn La có 482.485 người (54,8 % dân số), Lai Châu cũ (nay
là Lai Châu và Điện Biên) có 206.001 người (35,1 % dân số).
Nhóm Thái Trắng (Táy Đón hay Táy Khao) cư trú chủ yếu ở tỉnh
Lai Châu, Điện Biên một số huyện tỉnh Sơn La (Quỳnh Nhai, Bắc Yên, Phù Yên).
Đà Bắc thuộc tỉnh Hòa Bình, có nhóm tự nhận Táy Đón, được gọi Thổ.
Dương Quỳ, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai, một số Thái Trắng chịu ảnh hưởng
đậm của văn hóa Tày. Ở Sapa, Bắc Hà, nhiều nhóm Thái Trắng đã Tày hóa. Người
Thái Trắng đã có mặt dọc hữu ngạn sông Hồng và tỉnh Lai Châu, Điện Biên từ thế
kỷ 13 và làm chủ ờng Lay (địa bàn chính là huyện Mường Chà ngày nay) thế
kỷ 14, một bộ phận di xuống Đà Bắc Thanh a thế kỷ 15. thuyết cho
rằng họ là con cháu người Bạch Y ở Trung Quốc.
Nhóm Thái Đen (Táy Đăm) cư trú ở khu vực tỉnh Sơn La và Điện Biên. Các nhóm
Tày Thanh (Man Thanh), Tày Mười, Tày Khăng ở miền Tây Thanh Hóa(tân thanh-
thường xuân-thanh hóa), Nghệ An cũng mới từ mạn Tây Bắc chuyển xuống cách
đây vài ba trăm năm và bị ảnh hưởng bởi văn hóa và nhân chủng của cư dân địa
phương Lào. Nm Tày Thanh tng Thanh (Điện Biên) đi từ Lào vào
Thanh Hóa và tới Nghệ An định cư cách đây hai, ba trăm năm, nhóm y gần gũi
với nhóm Thái Yên Châu (Sơn La) và chịu ảnh hưởng văn hóa Lào.
Nhóm Thái Đỏ, gồm nhiều nhóm khác nhau cư trú chủ yếu ở một shuyện như
Mộc Châu (Sơn La), Mai Châu (Hòa Bình)
4.2. Dân tộc H’mông
Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc Mông được coi một thành viên
quan trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam. Với số dân
1.068.169 người (ngày 1/4/2009), dân tộc Mông thuộc dân tộc thiểu số số
ợng dân đứng hàng thứ 8 trong bảng danh sách các dân tộc Việt Nam.
Dân tộc Mông cư trú thường ở độ cao từ 800 đến 1500 m so với mực nước biển
gồm hầu hết các tỉnh miền i phía Bắc trong một địa bàn khá rộng lớn, dọc theo
biên giới Việt - Trung và Việt -
Lào từ Lạng Sơn đến Nghệ An, trong đó tập trung chủ yếu các tỉnh thuộc Đông
Tây bắc Việt Nam như: Hà Giang, Lào
Cai, Lai Châu, Sơn La...
Các tài liệu khoa học cũng như các truyền thuyết đều cho biết rằng người Mông
là tộc người di cư vào Việt Nam sớm nhất khoảng 300 nămmuộn nhất là 100
năm về trước. Mông tên tự gọi nghĩa người (Môngz). Còn các dân tộc
khác còn gọi dân tộc này với các tên Miêu, Mèo, Mẹo. Căn cứ vào đặc điểm về
dân tộc học ngôn ngữ học, người ta chia tộc Mông ra làm các ngành: Mông
Trắng (Môngz Đơư), Mông Hoa (Môngz Lênhx), Mông Đỏ (Môngz Si), Mông Đen
(Môngz Đuz), Mông Xanh (Môngz Njuôz), Na Miểu (Mèo nước).
lOMoARcPSD| 58457166
Đồng bào Mông cho rằng những người cùng dòng họ là anh em cùng tổ ên, có
thđẻ chết trong nhà nhau, phải luôn luôn giúp đỡ nhau trong cuộc sống,
cưu mang nhau trong nguy nan. Mỗi dòng họ cư trú quây quần thành một cụm,
có một trưởng họ đảm nhiệm công việc chung.
Quan hệ xã hội: Bản thường có nhiều họ, trong đó một hoặc hai họ giữ vị trí chủ
đạo, có ảnh hưởng chính tới các quan hệ trong bản. Người đứng đầu bản điều
chỉnh các quan hệ trong bản, trước kia, cả bằng hình thức phạt vlẫn luận xã
hội. Dân mỗi bản tự nguyện cam kết và tuân thủ quy ước chung của bản về sản
xuất, chăn nuôi, bảo vệ rừng và việc giúp đỡ lẫn nhau. Quan hệ trong bản càng
gắn bó chặt chẽ hơn thông qua việc thờ cúng chung thổ thần của bản.
4.3. Dân tộc Dao
Tại Việt Nam, dân số người Dao theo điều tra dân số năm 1999 620.538 người.
Người Dao còn các tên gọi khác là: Mán, Đông, Trại, Dìu Miền, Kim Miền,
Gang, Làn Tẻn, Đại Bản, Tiểu Bản, Cốc Ngáng, Cốc Mùn, Sơn Đầu v.v). Địa bàn
trú chủ yếu của người Dao biên giới Việt-Trung, Việt-Lào một số tỉnh trung
du ven biển Bắc bViệt Nam. Cụ thể, đa phần tại các tỉnh như Giang, Tuyên
Quang, Lào Cai, Yên Bái, Quảng Ninh, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lai Châu, Hòa Bình,vv…
Theo kết quả nghiên cứu của Đề án "Sưu tầm kiểm kê kho sách cổ người Dao"
do Tiến sĩ Trần Hữu Sơn (Giám đốc Sở Văn hóa Thông n - Thể thao Lào Cai) chủ
trì có đăng tại thì: Người Dao có nguồn gốc xa xưa ở đảo Hải Nam (Trung Quốc)
gồm 7 nhóm. Người Dao Việt Nam Lào Cai 3 nhóm: Dao Tuyển, Dao
Nga Hoàng và Dao Làn Tẻn (còn gọi là Dao Chàm) họ bắt đầu di sang Việt Nam
vào thời Lê (vào khoảng cuối thế kỷ 17). Để đến được đất Việt, sống ở vùng núi
như ngày nay, người Dao đã phải trải qua cuộc hành trình muôn phần gian khổ
ợt biển, vượt núi, vượt ng. Điều này phản ánh trong nhiều phong tục,
nghi lễ của người Dao được ghi lại rất tỉ mỉ trong sách cổ. Người Dao di
sang Việt Nam theo nhiều đợt từ đảo Hải Nam, qua Phòng Thành, tới Bắc Giang.
Tới đây, họ di chuyển theo các hướng khác nhau là:
Theo sông tới Hà Giang hình thành nên người Dao áo dài. Theo sông Chảy tới
Lào Cai, hậu duệ ngày nay gọi là Dao Tuyển.
Nhóm lại vùng Nga Hoàng thuộc Yên Lập, Yên Phúc một thời gian, sau đó di
chuyển tới Văn Chấn (Yên Bái), rồi Văn Bàn (Lào Cai) tổ ên người Dao quần
chẹt ngày nay.
5. Văn hoá các dân tộc vùng Tây Bắc
5.1. Văn hoá nông nghiệp
Tuy nông nghiệp không phải một khía cạnh văn hóa phổ biến trong mỗi ểu
vùng nhưng riêng với vùng văn hóa Tây Bắc, đây thể coi một yếu tố làm nên
nét văn hóa độc đáo của vùng.
lOMoARcPSD| 58457166
Văn hóa nông nghiệp thung lũng Thái nổi ếng hệ thống tưới êu, được gói
gọn trong 4 từ văn vần: " ờng - Phai - Lái –Lịn", lợi dụng đdốc của dòng chảy
dốc của, người ta lấy đá ngăn suối làm nước dâng cao, đó cái "phai". Phía trên
"phai" xẻ một đường chảy lên dẫn vào cánh đồng, đó "mương" T "mương"
xnhững rãnh chảy vào ruộng, đó "lái". Còn "lịn" cách lấy nước từ nguồn
trên núi cao, dẫn về ruộng, về nhà, bằng các y tre đục rừng đục mấu, nối ếp
nhau, khi dài hàng y số. Người Kinh vùng núi Phú Thọ (cũ) học theo cách
làm y gọi chệch đi "lần nước". Do chủ động ới êu nên người Thái nuôi
ngay trong mực nước của ruộng lúa. Gặt lúa xong là tháo nước bắt cá. Cá nuôi
trong ruộng vừa ăn sâu bọ cỏ dại, vừa sục bùn cho tốt lúa. Cho nên, món dâng
cúng trong lễ cơm mới bao giờ cũng có xôi và cá nướng. Và mónlà biểu hiện
lòng hiếu khách :
“Đi ăn cá, về nhà uống rượu
ở thì ngủ đệm, đắp chăn ấm”
Nương rẫy là một bộ phận bổ sung không thể thiếu với nơng, đồng bào lúa,
rau quả như bầu bí, rau cải, đậu, đu đủ, vừng, kê, ớt,.v..v... Bông chàm cũng
trồng trên nương. Và rừng, rừng bạt ngàn là nơi con người hái rau rừng, lấy thuốc
chữa bệnh, thuốc nhuộm, săn bắt thú rừng và khi thất bát mùa màng thì chính
rừng, với củ mài, bột báng đã cứu họ khỏi chết đói. Bản làng có một thái độ rất
kính trọng với rừng. Chẳng phải rừng ma thiêng, rừng nơi con người
nương tựa đtồn tại. Luật Thái hàng chục điều quy định về việc khai thác
rừng, săn bắn thú, đặc biệt là những quyết định vbảo vệ rừng đầu nguồn
Ruộng bậc thang cũng là một yếu tố làm nên vẻ đẹp của vùng Tây Bắc. Điều này
đã được hàng triệu lượt du khách tới thăm Tây Bắc những năm qua công nhận
và đã được giới thiệu, quảng khá đậm nét trên hệ thống Internet và báo chí
toàn cầu. Tạp chí Mỹ Travel & Leisure đã so sánh những thửa ruộng tại Sa Pa n
là “Những bậc thang dẫn lên trời” ( Ladder to the sky).
lOMoARcPSD| 58457166
5.2. Ẩm thực
Tây Bắc là cái nôi của các dân tộc thiểu số như Thái, Tày, Mường, Dao, Mông, Lô
Lô, Nhì... Một trong những sắc thái văn hoá dân tộc độc đáo của họ là những
món ăn truyền thống nổi ếng chỉ vùng này. Người dân Tây Bắc thường
thưởng thức những món ăn truyền thống của mình trong không gian và không
khí cộng đồng như tại các lễ hội, tại các chợ và đặc biệt là vào ngày Tết nhân dp
năm mới xuân v.
Phn lớn khẩu vị của người tây bắc là thích những gì đậm đà vì vy phần lớn các
món ăn nổi bật của người vùng Tây Bắc đểu mang lại cho người thưởng thức
những ấn tượng rất khó quên.
Món ăn đầu ên phải nhắc đến là đặc sản chế biến từ trâu là món canh da trâu:
Da trâu sau khi giết được lột và thui sạch lông rồi gác trên gác bếp cho khô. Đ
chế biến món canh nấu với bon, người Thái lấy số da khô vừa đủ đốt cho cháy
sùi ra, cạo sạch đến khi trông miếng da có màu vàng ươm, mùi thơm phức. Sau
khi nướng giòn tan, miếng da được bẻ thành từng miếng nhỏ bỏ vào nồi bon
đun nhlửa cho đến nhừ. Trước khi bắc xuống người ta thêm gia vị vào nồi canh
bon này. Nồi canh bon đúng nghĩa là phải có đủ 30 loại gia vị mang hương vị núi
rừng Tây Bắc trong đó gồm những gia vị dễ nhn biết như sả, cà đắng, hạt êu,
mắc khèn. Món ăn bổ ỡng nhưng đậm đà hương vị núi rừng y để lại cảm
giác khó quên cho nhiều thực khách.
Những tấm da trâu – phần không thể thiếu với món ăn
Cơm lam-Có lẽ những ai đã từng đến Tây Bắc thì không thế quên được hương vị
của cơm lam, một chút nhẹ nhàng thanh thoát nh tế khác hẳn cơm lam
nội hay đâu đó. Nguời dân tộc phía bắc từ Tày, Nùng, Mường, Dao, Thái đều làm
cơm lam.
Ngoài cơm lam, họ còn có cả cá lam, chim lam, rau quả lam...
Phải thừa nhận làm đồ ăn lam là một nghệ thuật nh tế đặc bit.
lOMoARcPSD| 58457166
Và còn nhiều món ăn khác lạ như: rượu u chít, chéo, cá nướng, gà luộc chấm
chéo tắp,
5.3. Trang phục
Mỗi dân tc ở Tây Bắc đều có trang phục riêng, qua đó có thể nhn biết tộc
người, nơi cư trú, tập quán, đời sống văn hóa của họ
Trang phục truyền thống dân tộc Thái, tỉnh Yên Bái góp phần tạo nên vẻ đẹp
văn hóa của những màn Xòe - Biểu tượng của nh đoàn kết các dân tộc vùng
Tây Bắc
Trải qua nhiều thế hệ sinh sống nơi núi rừng Lai Châu, người Lự vẫn giữ gìn
đưc những nét văn hóa riêng, trong đó có trang phục truyền thống của người
phụ nữ.
Gin dị trong trang phục dân tộc Tày. Trang phục truyền thống người Giáy
lOMoARcPSD| 58457166
Trang phục dân tc của Người H’ Mông(Điện Biên) sử dụng 4 màu
Người Sán Chay(Thái Nguyên) chủ đạo: xanh, đỏ, m, vàng để tạo nên các
Hoa văn, hoạ ết độc đáo trên trang phục.
Kỹ thuật thêu hoa văn trên trang phục thể hin sự khéo léo, nh tế của người
phụ nữ, nh yêu thiên nhiên, cuộc sống của người H’Mông Tây Bắc.
Trang phục góp phần tạo nên vẻ đẹp văn hóa, thể hiện những giá trị truyền
thống, góp phần tạo nên bức tranh văn hóa đa sắc màu của cộng đồng 54 dân
tộc Việt Nam.
lOMoARcPSD| 58457166
5.4. Tôn giáo và n ngưỡng
Ngoài chi hội Tin Lành người Dao Bắc Sơn (Lạng Sơn) trước năm 1954, từ
giữa những năm 1980, đạo Tin Lành truyền bá vào đồng bào Mông dưới tên gi
Vàng Chứ, vào đồng bào Dao dưới tên gọi Thìn Hùng. Chỉ trong một thời gian
ngắn, số người Mông, người Dao theo đạo Tin Lành ngày một đông. Theo số liu
của Ban Tôn giáo Chính phủ năm 2005 số người Mông người Dao theo đạo Tin
Lành hơn 100 ngàn người với 700 điểm nhóm (Điện Biên: 23.205, Cao Bằng:
14.342, Giang: 12.556, Bắc Cạn: 12.019, Lai Châu: 11.307, Lào Cai: 9.370,
Tuyên Quang: 6.020, Thái Nguyên: 4.528, Thanh Hóa: 4.011, n La: 2.688, Yên
Bái: 384).
Thời gian gần đây, cùng với đạo Tin Lành, đạo Công giáo cũng tăng cường các
hoạt động truyền giáo trong các vùng dân tộc thiểu số, đạt được những kết quả
nhất định. Theo thống kê năm 2004 của Giáo hội Công giáo Việt Nam, ở khu vực
Tây Bắc có 38.000 đồng bào dân tộc thiểu số là n đồ đạo Công giáo nằm rải rác
ở các giáo phận Hưng Hoá, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Phát
Diệm, Thanh Hoá,…
Tín ngưỡng hầu Đồng ở vùng Tây Bắc
5.5. Lễ tết, lễ hội
Đến với vùng cao Tây Bắc , du khách thập phương không khỏi người ngàng trước
vẻ đẹp bất tận đất trời ưu ái cho dân nơi đây , những núi đồi trùng
điệp , lớp lớp , trải dài tạo cho vùng sơn cước những bức tranh muôn màu
sắc rc rỡ , những thửa ruộng bậc thang trù phú uốn lượn trên những sườn núi
, những thác nước treo mình lửng tung bọt trắng xóa ... không chỉ vậy , khi
đến với vùng đất này , du khách thập phương còn được hòa mình trong không
gian văn hóa phong phú , đa dạng của cộng đồng các dân tộc thiểu số cùng nhau
định sinh sống hàng ngàn năm , cùng với đó không gian văn hóa , những
phong tục tập quán , những ny hội truyền thống gắn liền với cuộc sống của
dân nơi đây ...
lOMoARcPSD| 58457166
Lễ hội hoa ban. L
hội Lồng Tng
Lễ hội cầu an bản Mường. Lễ cầu mưa của người Thái
B. KẾT LUẬN
Tây Bắc, một vùng văn hoá, xứ sở hoa ban, quê hương xoè hoa, miền đất dịu
ngọt của những thiên nh sử Tiễn dặn người yêu nhưng cũng đầy ếng than thở
của những thân phận người Tiếng hát m dâu, một một vùng đất mang nhiều
vẻ đẹp văn hóa độc đáo hấp dẫn. Bằng những nét văn hóa rất riêng ấy, Tây
Bắc đã góp phần làm nên sự đa dạng và phong phú của văn hóa Việt Nam.
C. TÀI LIỆU THAM KHẢO
lOMoARcPSD| 58457166
Sách, báo điện tử, tranh ảnh trên mạng

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58457166
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI KHOA TIẾNG VIỆT - - - - - - - - - - - - TIỂU LUẬN
MÔN: VĂN HOÁ VIỆT NAM CHỦ ĐỀ :
GIÁO VIÊN : LÊ THỊ HỒNG DUNG
SINH VIÊN: VŨ THỊ PHƯỢNG MÃ SV: 2520210585
LỚP: TR26.20(học ghép)
Hà Nội, tháng 11 năm 202 lOMoAR cPSD| 58457166
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI KHOA TIẾNG VIỆT _____________________ (Logo HUBT) TIỂU LUẬN
MÔN: VĂN HOÁ VIỆT NAM Chủ đề:
VÙNG VĂN HOÁ TÂY BẮC
Giảng viên: Lê Thị Hồng Dung
Sinh viên: Vũ Thị Phượng Mã SV: 2520210585 Lớp: TR26.20 (học ghép)
Hà Nội, tháng 11 năm 2021 lOMoAR cPSD| 58457166 LỜI CẢM ƠN
"Đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến trường Đại học Kinh doanh và
Công nghệ Hà Nội đã đưa môn Văn hoá Việt Nam vào trương trình giảng dạy.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến giảng viên bộ môn - Cô Lê Thị
Hồng Dung đã dạy dỗ, truyền đạt những kiến thức quý báu cho em trong suốt
thời gian học tập vừa qua. Trong thời gian tham gia lớp học Văn hoá Việt Nam
của cô, em đã có thêm cho mình nhiều kiến thức bổ ích, tinh thần học tập hiệu
quả, nghiêm túc. Đây chắc chắn sẽ là những kiến thức quý báu, là hành trang
để em có thể vững bước sau này.

Bộ môn Văn hoá Việt Nam là môn học thú vị, vô cùng bổ ích và có tính thực tế
cao. Đảm bảo cung cấp đủ kiến thức, gắn liền với nhu cầu thực tiễn của sinh
viên. Tuy nhiên, do vốn kiến thức còn nhiều hạn chế và khả năng tiếp thu thực
tế còn nhiều bỡ ngỡ. Mặc dù em đã cố gắng hết sức nhưng chắc chắn bài tiểu
luận khó có thể tránh khỏi những thiếu sót và nhiều chỗ còn chưa chính xác,
kính mong cô xem xét và góp ý để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!” MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... 2
MỤC LỤC ........................................................................................................... 2
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 3
A.NỘI DUNG ...................................................................................................... 3
I. Khái quát chung về Tây Bắc ................................................................................................. 3
II. Tổng quan về Tây Bắc ............................................................................................................ 4
1.Vị trí đại lý ................................................................................................................................... 4
2.Đặc điểm tự nhiên .................................................................................................................. 6
3.Đặc điểm kinh tế - xã hội ...................................................................................................... 7
4.Lịch sử và dân cư ..................................................................................................................... 9
5.Văn hoá các dân tộc vùng Tây Bắc .................................................................................. 11
B. KẾT LUẬN..........................................................................20
C. TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................21 lOMoAR cPSD| 58457166 MỞ ĐẦU
Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con
người với môi trường tự nhiên và xã hội, văn hóa là bao gồm tất cả những sản
phẩm của con người, và như văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật
chất của xã hội như ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà
cửa, quần áo, các phương tiện. Cả hai khía cạnh cần thiết để làm ra sản phẩm và
đó là một phần của văn hóa.. Nền văn hóa Việt Nam đã hình thành và không
ngừng phát triển qua hàng ngàn năm, trải qua nhiều biến cố nhưng nó ấy vẫn luôn
được giữ vững và trau dồi bởi năm mươi tư dân tộc anh em với lòng yêu nước và
tinh thần đoàn kết nhất trí .
Nếu như sự thống nhất do cùng cội nguồn đã tạo ra bản sắc chung của văn hóa
Việt Nam thì tính đa dạng của các tộc người lại làm nên những đặc trưng bản sắc
riêng của từng vùng văn hóa. Và một trong các vùng văn hóa có lịch sử hình thành
và phát triển lâu đời nhất của Việt Nam với nhiều bản sắc riêng, đầy độc đáo:
Vùng văn hóa Tây Bắc . Nhắc đến Tây Bắc chúng ta sẽ liên tưởng ngay tới những
ngọn núi kỹ vĩ, những ruộng bậc thang, hay những món ăn bản địa vừa quen thuộc
mà cũng vừa xa lạ. Thời tiết mát mẻ, những lễ hội nổi tiếng. Tây Bắc vào xuân
với hoa đào, hoa mận nở khắp rừng, tiếng chim, tiếng khèn sáo cùng những ly
rượu nồng làm cho mùa xuân Tây Bắc rộn ràng, rực rỡ. Cùng trong không khí
tươi vui của mùa xuân, Tây Bắc lại rộn ràng đón xuân với hoa lá, cỏ cây bừng
bừng nhựa sống, với váy áo rực rỡ, với nụ cười và ánh mắt lúng liếng của các
thiếu nữ vùng cao. Không những vậy nhắc đến Tây Bắc không ai là không nghĩ
đến văn hóa ẩm thực, văn hóa trang phục và văn hóa lễ hội nơi đây Và đó là lý do
em lựa chọn đề tài “ Vùng văn hóa Tây Bắc ” để cho cô và các bạn được những
nét đặc sắc của nơi đây. Nơi mà có hơn 20 dân tộc cùng sinh sống, tạo nên nét văn hoá riêng độc đáo A.NỘI DUNG I.
Khái quát chung về Tây Bắc
Dưới thời Pháp, Tây Bắc có tên gọi là xứ Thái tự trị. Đến năm 1955 lại đổi thành
Khu tự trị Thái Mèo gồm ba tỉnh là Lai Châu , Sơn La, Nghĩa Lộ. Từ năm 1962
1975 gọi là Khu tự trị Tây Bắc . Hiện nay, cụm từ Tây Bắc chỉ có giá trị xác định
phương hướng , vị trí địa lý của khu vực chứ không mang ý nghĩa nào khác . Tây
Bắc là vùng có 20 dân tộc sinh sống, tập trung chủ yếu ở Lào Cai , Lai Châu , Sơn
l La , Yên Bái ... gồm: Cống, Giáy, Hà Nhì, Kháng, Khơ Mú, Lào, La Ha, La Hủ , Lự ,
Mảng , Mường , Phù Lá , Si La , Xinh Mun và dân tộc Thái với tổng dân số lOMoAR cPSD| 58457166
2.661.065 người ( theo thống kê dân số ngày 01/4/1999 ) . Trong đó , đông nhất
là dân tộc Thái (1.328.725 người ) và Mường
( 1.137.515 người ) , ít nhất là dân tộc Cống (1.676 người ) và Si La ( 840 người ).
So với tổng dân số vùng Tây Bắc , các dân tộc ít người chiếm 56 % Vùng văn hóa
Tây Bắc là khu vực bao gồm hệ thống núi non trùng điệp bên hữu ngạn song
Hồng (lưu vực sông Đà) kéo dài tới bắc Thanh Nghệ . Ở đây có trên 20 tộc người
cư trú , văn hóa Tây Bắc đa dạng và độc đáo chính là sản phẩm của sự kết hợp và
đan xen các bản sắc riêng của hơn hai mươi dân tộc ấy, trong đó các dân tộc
Thái, Hmông Dao có thể xem là những đại diện tiêu biểu, góp phần quan trọng
hơn cả trong việc hình thành văn hóa của khu vực. Biểu tượng cho vùng văn hóa
này là hệ thống mương phai dẫn nước vào đồng; là nghệ thuật trang trí tinh tế
trên chiếc khăn piêu Thái , chiếc cạp váy Mường, bộ trang phục nữ H’Mông ; là
âm với các loại nhạc cụ bộ hơi ( khèn , sáo ... ) và những điệu múa xòe ... II.
Tổng quan về Tây Bắc 1. Vị trí đại lý
Vùng Tây Bắc là vùng núi phía tây của miền bắc Việt Nam, có chung đường biên
giới với Lào và Trung Quốc. Đây là một trong ba tiểu vùng cảu Bắc Bộ Việt Nam,
bao gồm các tỉnh: Mường Lay, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Yên Bái lOMoAR cPSD| 58457166
Địa hình Tây bắc hiểm trở, có nhiều khối núi và dãy núi cao chạy theo hướng Tây
Bắc Đông Nam trong đó có dãy Hoàng Liên Sơn dài đến 180 km , rộng 30 km ,
cao từ 1500m trở lên , các đỉnh cao nhất như Phanxipăng 3142m , Yam Phình 3096m ,
Pu Luông 2.983m . Dãy Hoàng Liên Sơn , được người Thái gọi là " sừng trời " (
Khau phạ ) , chính là bức tường thành phía đông và vùng Tây Bắc .
Địa hình Tây Bắc núi cao và chia cắt sâu , có nhiều khối núi và dãy núi cao chạy
theo hướng Tây Bắc - Đông Nam . Dãy núi Sông Mã dài 500 km , có những đỉnh
cao trên 1800 m . Giữa hai dãy núi này là vùng đồi núi thấp lưu vực sông Đà ( còn
gọi là địa máng sông Đà ) .
Vùng Tây Bắc có hai con sông lớn, đó là sông Đà ( tên Thái là Năm Tè ) và sông
Thao ( tức sông Hồng ), thượng nguồn của sông Mã cũng nằm trên vùng đất Tây
Bắc, phía Tây tỉnh Sơn La. Ngoài sông Đà là sông lớn, vùng Tây Bắc chỉ có sông
nhỏ và suối gồm cả thượng lưu sông Mã. Trong địa máng sông Đà còn có một
dãy cao nguyên đá vôi chạy suốt từ Phong Thổ đến Thanh Hóa, và có thể chia
nhỏ thành các cao nguyên Tà Phình ,
Mộc Châu, Nà Sản. Cũng có các lòng chảo như Điện Biên, Nghĩa Lộ, Mường
Thanh. Các con sông này không chỉ là cơ sở cho sự định cư của của các dân tộc
nơi đây cũng như nền nông nghiệp trong vùng mà còn là nguồn cảm hứng cho
những câu hát và truyền thuyết của các tộc người Thái, Mường ... Sông Đà. Sông Mã lOMoAR cPSD| 58457166 2.
Đặc điểm tự nhiên
Tuy cùng nằm trong vòng đai nhiệt đới gió mùa, nhưng do ở một độ cao từ 800
3000m nên khí hậu Tây Bắc ngả sang á nhiệt đới và nhiều nơi cao như Sìn Hồ có
cả khí hậu ôn đới. Mặt khác, do địa hình lại chia cắt bởi các dãy núi, các dòng
sông, khe suối, tạo nên những thung lũng , có nơi lớn thành lòng chảo như vùng
Nghĩa Lộ , Điện Biên nên Tây Bắc còn là nơi có nhiều tiểu vùng khí hậu. Trong lúc
đó ở thung lũng Mường La , người ta mặc áo ngắn tay giữa mùa đông thì ở Mộc
Châu phải mặc áo bông dày mà không khỏi rét. Nhưng chính vì vậy mà thiên
nhiên Tây Bắc rất đa dạng, thổ nhưỡng nhiều loại hình. Chính điều này cũng góp
phần làm nên những nét đa dạng trong văn hóa của các dân tộc vùng Tây Bắc.
Mặc dù nền khí hậu chung không có sự khác biệt lớn giữa các khu vực , nhưng
sự biểu hiện của nó không giống nhau theo chiều nằm ngang và theo chiều thẳng
đứng . Dãy núi cao Hoàng Liên Sơn chạy dài liền một khối theo hướng Tây Bắc
Đông Nam đóng vai trò của một bức trường thành ngăn không cho gió mùa đông
hướng đông bắc - tây nam ) vượt qua để vào lãnh thổ Tây Bắc mà không bị suy
yếu nhiều , trái với vùng Đông bắc có hệ thống các vòng cung mở rộng theo hình
quạt làm cho các đợt sóng lạnh có thể theo đó mà xuống đến tận đồng bằng
sông Hồng và xa hơn nữa về phía nam . Vì vậy , trừ khi do ảnh hưởng của độ cao
, nên khí hậu Tây Bắc nói chung ấm hơn Đông Bắc , chênh lệch có thể đến 2-3 °
C . Ở miền núi , hướng phơi của sườn đóng một vai trò quan trọng trong chế độ
nhiệt – ẩm , sườn đón gió ( sườn đông ) tiếp nhận những lượng mưa lớn trong
khi sườn tây tạo điều kiện cho gió "phơn " ( hay quen được gọi là " gió lào ")
được hình thành khi thổi xuống các thung lũng, rõ nhất là ở Tây Bắc. Nhìn chung,
trong điều kiện của trung du và miền núi , việc nghiên cứu khí hậu là rất quan
trọng vì sự biến của khí hậu xảy ra trên từng khu vực nhỏ . Những biến cổ khí
hậu ở miền núi mang tính chất cực đoan ,
nhất là trong điều kiện lớp phủ rừng bị suy giảm , và lớp phủ thổ nhưỡng bị thoái
hoá . Mưa lớn và tập trung gây ra lũ nhưng kết hợp với một số điều kiện thì xuất
hiện lũ quét ; hạn vào mùa khô thường xảy ra nhưng có khi hạn hán kéo dài ngoài
sức chịu đựng của cây cối.
Băng tuyết là 1 trong những hiện tượng cực đoan của thời tiết làm ảnh hưởng
đến đời sống, sản xuất của người dân vùng Tây Bắc(chụp tại SaPa-Lào Cai) lOMoAR cPSD| 58457166 3.
Đặc điểm kinh tế - xã hội 3.1.
Đặc điểm kinh tế
Sản xuất nông nghiệp là hoạt động kinh tế chủ yếu của hầu hết
đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Bắc. Ngoài ra, họ còn chăn
nuôi theo hộ gia đình, làm một số nghề thủ công , thực hiện
nhiều hình thức chiếm đoạt các nguồn lợi tự nhiên sẵn có
trong rừng quanh khu vực cư trú. Nhìn chung, mặc dù nền kinh
tế thị trường đã phố biến ở đồng bằng và một số khu vực miền
núi nhưng về cơ bản, các dân tộc vùng Tây Bắc vẫn duy trì các
phương thức sản xuất truyền thống. Tuy vậy, ở một số vùng đã
có sự xuất hiện của việc phát triển cây công nghiệp, trồng cây
ngô và lúa giống mới có năng suất cao , mở rộng chăn nuôi đại
gia súc và chú ý phát triển nghề dệt thổ cẩm truyền thống.
Tuy nhiên, tập quán trồng trọt ở mỗi tộc người tại các vùng
thung lũng, vùng rẻo giữa và vùng cao vẫn có những nét riêng
biệt, bởi những cách làm ăn này đã tồn tại qua hàng nghìn năm canh tác của họ .
Cho đến nay các tộc người sống ở Tây Bắc vẫn duy trì một số
nghề thủ công gia đình như dệt vải , đan lát, làm mộc, làm rèn
, chế tác kim loại làm trang sức, làm giấy dó. Tuy nhiên, mỗi tộc
người lại có những nghề nối trội ví dụ người Thái , người Lào,
người Mường rất nổi tiếng với nghề trồng bông , dệt vải thổ
cấm; người Hmông nổi tiếng vói nghề rèn chế tác công cụ sản
xuất và trồng lanh đệt vải lanh. Các công việc thủ công này
thường do người phụ nữ đảm nhiệm, riêng nghề đan lát đồ gia
dụng nổi tiếng của nhóm Môn Khơme như: Khơ mu, Xinh Mun,
Kháng lại chủ yếu do người đàn ông đảm nhiệm . lOMoAR cPSD| 58457166
Nghề rèn. Nghề đan lát
Trao đổi hàng hoá là nhu cầu thiết yếu đã có từ lâu đời của các
dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, họ thường cùng nhau họp chợ tại
trung tâm xã, huyện hoặc ngay ven đường cái . Do các tộc
người đều cư trú ở vùng sâu vùng xa nên họ chỉ họp chợ 5 ngày hoặc 1 tuần 1 lần .
3.2. Đặc điểm xã hôi
Thiết chế xã hội truyền thống của các tộc người cư trú ở Tây Bắc rất phong phú ,
điều này phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của họ .
Về đặc điểm tộc người ở đây , mỗi dân tộc đều có những nét riêng biệt .
Với người Thái : Khu vực chúa đất cai quản gọi là mường và có bộ máy cai trị
cũng như có luật lệ riêng. Mỗi mường có một mường trung tâm và các mường
ngoại vi. Chúa đất cai quản toàn mường , con trai cả của chúa đất sẽ cai quan
rmường trung tâm , các con trai thứ và các cháu sẽ cai quản các mường phụ
thuộc. Bộ máy thống trị toàn mường lớn gọi là Xiêng hay Chiềng…
Trong quan hệ họ hàng của người Thái có 3 mối quan hệ đặc trưng , đó là : Ải
Noọng bao gồm những thành viên trai của từng dòng họ và có cùng tổ tiên ; Lúng Ta ; Nhím Sao .
Người Thái có nhiều kinh nghiệm đắp phai , đào mương , dựng con , bắc máng
lấy nước làm ruộng . Lúa nước là nguồn lương thực chính , đặc biệt là lúa nếp .
Người Thái cũng làm nương để trồng lúa , hoa màu và nhiều thứ cây khác . Từng
gia đình chăn nuôi gia súc gia cầm đan lát vải một số nơi làm đồ gốm …Sản phẩm
nổi tiếng của người Thái là vài thổ cẩm, với những hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ, bền đẹp lOMoAR cPSD| 58457166
Đặc điểm cư trú nổi bật của đồng bào Thái là dọc các thung lũng vùng thấp , nơi
có nhiều sông suối ao hồ , chính vì thế mà các nhà dân tộc học xếp dân tộc Thái
là những cư dân đại diện cho nền văn minh thung lũng ( Valley culture ) . Trên
thực tế , đồng bào Thái ở vùng nào cũng tỏ ra vừa giỏi chài lưới ngoài sông ngoài
suối, lại rất thạo việc đánh bắt trong ruộng trong đồng. Nhờ vậy, bữa ăn hàng
ngày của bà con được tăng cường nguồn dinh dưỡng một cách đáng kể, do chính
các hoạt động sông nước đem lại .
Nguồn sống chính của đồng bào H’Mông là làm nương rẫy du canh , trồng ngô
, trồng lúa ở một vài nơi có nương ruộng bậc thang . Cây lương thực chính là
ngô và lúa nương , lúa mạch .
Ngoài ra còn trồng lanh để lấy sợi dệt vải và trồng cây dược liệu . Chăn nuôi của
gia đình người Mông có trâu , bò , ngựa , chó , gà . Xưa kia người Mông quan
niệm : Chăn nuôi là việc của phụ nữ , kiếm thịt trong rừng là việc của đàn ông .
Với người Hmông bộ máy Seophải cai quản một bản , thống lý cai quản một vùng
, ngoài ra còn có các phó thống lý , lý dịch . Những người trong bộ máy cai trị
thường là người đứng đầu các dòng họ . Trong xã hội truyền thống của người
Hmông , quan hệ cố kết dòng họ là nét đặc trưng nhất , nó được biểu hiện ở 2
hình thức : cố kết rộng và cổ kết hẹp .
Người Khơmú : Người Khơ mú có nhiều dòng họ , các dòng họ của họ thường
mang tên cây , cỏ hay chim , thú . Các quan hệ của họ chủ yếu dựa theo nhóm
hôn nhân . Với các dân tộc khác như Kháng , XinhMun , tổ chức xã hội truyền
thống của họ cũng tương tự như ở người Khơmú , họ đều có quá trình dài lâu
trong lịch sử là những người bị phụ thuộc và trở thành người làm công như lệ
nông cho các chúa đất ( phía tạo ) người Thái.Qua những nét chính về bức tranh
xã hội của phần lớn các dân tộc thiểu số điển hình ở Tây Bắc , trong đó nổi bật là
các chúa đất Thái ( phía tạo ) và thống lý ở người Hmôn 4.
Lịch sử và dân cư
Tây Bắc là nơi sinh tụ lâu đời, ngàn năm của cư dân văn minh đồng thau với hơn
20 tộc người cư trú xen kẽ, bao gồm các dân tộc: Thái, Dao, H’Mông, Bố Y, Giáy,
Há Nhì, Kháng, Máng, Khơmu, Sila, Tày, Xinh-mun, La-ha… với một lịch sử phát
triển khá lâu đời.Mật độ dân ở đây khá số thấp, năm 1978 mới có 59ng/km2. Với
tỉ lệ tăng 3,5%/năm cộng với việc di dân, đến năm 1990 cũng chỉ có 120
người/km2. Các dân tộc tiêu biểu của vùng như: Thái, H’Mông, Dao. 4.1. Dân tộc Thái
Tại Việt Nam, theo Tổng điều tra dân số năm 1999, người Thái có số dân là
1.328.725 người, chiếm 1,74 % dân số cả nước, cư trú tập trung tại các tỉnh Lai lOMoAR cPSD| 58457166
Châu, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An. Trong đó, tại Tây
Bắc số dân cụ thể là: Sơn La có 482.485 người (54,8 % dân số), Lai Châu cũ (nay
là Lai Châu và Điện Biên) có 206.001 người (35,1 % dân số).
Nhóm Thái Trắng (Táy Đón hay Táy Khao) cư trú chủ yếu ở tỉnh
Lai Châu, Điện Biên và một số huyện tỉnh Sơn La (Quỳnh Nhai, Bắc Yên, Phù Yên).
Ở Đà Bắc thuộc tỉnh Hòa Bình, có nhóm tự nhận là Táy Đón, được gọi là Thổ. Ở
xã Dương Quỳ, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai, có một số Thái Trắng chịu ảnh hưởng
đậm của văn hóa Tày. Ở Sapa, Bắc Hà, nhiều nhóm Thái Trắng đã Tày hóa. Người
Thái Trắng đã có mặt dọc hữu ngạn sông Hồng và tỉnh Lai Châu, Điện Biên từ thế
kỷ 13 và làm chủ Mường Lay (địa bàn chính là huyện Mường Chà ngày nay) thế
kỷ 14, một bộ phận di cư xuống Đà Bắc và Thanh Hóa thế kỷ 15. Có thuyết cho
rằng họ là con cháu người Bạch Y ở Trung Quốc.
Nhóm Thái Đen (Táy Đăm) cư trú ở khu vực tỉnh Sơn La và Điện Biên. Các nhóm
Tày Thanh (Man Thanh), Tày Mười, Tày Khăng ở miền Tây Thanh Hóa(tân thanh-
thường xuân-thanh hóa), Nghệ An cũng mới từ mạn Tây Bắc chuyển xuống cách
đây vài ba trăm năm và bị ảnh hưởng bởi văn hóa và nhân chủng của cư dân địa
phương và Lào. Nhóm Tày Thanh từ Mường Thanh (Điện Biên) đi từ Lào vào
Thanh Hóa và tới Nghệ An định cư cách đây hai, ba trăm năm, nhóm này gần gũi
với nhóm Thái Yên Châu (Sơn La) và chịu ảnh hưởng văn hóa Lào.
Nhóm Thái Đỏ, gồm nhiều nhóm khác nhau cư trú chủ yếu ở một số huyện như
Mộc Châu (Sơn La), Mai Châu (Hòa Bình) 4.2. Dân tộc H’mông
Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc Mông được coi là một thành viên
quan trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Với số dân
1.068.169 người (ngày 1/4/2009), dân tộc Mông thuộc dân tộc thiểu số có số
lượng cư dân đứng hàng thứ 8 trong bảng danh sách các dân tộc ở Việt Nam.
Dân tộc Mông cư trú thường ở độ cao từ 800 đến 1500 m so với mực nước biển
gồm hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc trong một địa bàn khá rộng lớn, dọc theo
biên giới Việt - Trung và Việt -
Lào từ Lạng Sơn đến Nghệ An, trong đó tập trung chủ yếu ở các tỉnh thuộc Đông
và Tây bắc Việt Nam như: Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La...
Các tài liệu khoa học cũng như các truyền thuyết đều cho biết rằng người Mông
là tộc người di cư vào Việt Nam sớm nhất khoảng 300 năm và muộn nhất là 100
năm về trước. Mông là tên tự gọi có nghĩa là người (Môngz). Còn các dân tộc
khác còn gọi dân tộc này với các tên Miêu, Mèo, Mẹo. Căn cứ vào đặc điểm về
dân tộc học và ngôn ngữ học, người ta chia tộc Mông ra làm các ngành: Mông
Trắng (Môngz Đơư), Mông Hoa (Môngz Lênhx), Mông Đỏ (Môngz Si), Mông Đen
(Môngz Đuz), Mông Xanh (Môngz Njuôz), Na Miểu (Mèo nước). lOMoAR cPSD| 58457166
Đồng bào Mông cho rằng những người cùng dòng họ là anh em cùng tổ tiên, có
thể đẻ và chết trong nhà nhau, phải luôn luôn giúp đỡ nhau trong cuộc sống,
cưu mang nhau trong nguy nan. Mỗi dòng họ cư trú quây quần thành một cụm,
có một trưởng họ đảm nhiệm công việc chung.
Quan hệ xã hội: Bản thường có nhiều họ, trong đó một hoặc hai họ giữ vị trí chủ
đạo, có ảnh hưởng chính tới các quan hệ trong bản. Người đứng đầu bản điều
chỉnh các quan hệ trong bản, trước kia, cả bằng hình thức phạt vạ lẫn dư luận xã
hội. Dân mỗi bản tự nguyện cam kết và tuân thủ quy ước chung của bản về sản
xuất, chăn nuôi, bảo vệ rừng và việc giúp đỡ lẫn nhau. Quan hệ trong bản càng
gắn bó chặt chẽ hơn thông qua việc thờ cúng chung thổ thần của bản. 4.3. Dân tộc Dao
Tại Việt Nam, dân số người Dao theo điều tra dân số năm 1999 là 620.538 người.
Người Dao còn có các tên gọi khác là: Mán, Đông, Trại, Dìu Miền, Kim Miền, Lù
Gang, Làn Tẻn, Đại Bản, Tiểu Bản, Cốc Ngáng, Cốc Mùn, Sơn Đầu v.v). Địa bàn cư
trú chủ yếu của người Dao là biên giới Việt-Trung, Việt-Lào và ở một số tỉnh trung
du và ven biển Bắc bộ Việt Nam. Cụ thể, đa phần tại các tỉnh như Hà Giang, Tuyên
Quang, Lào Cai, Yên Bái, Quảng Ninh, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lai Châu, Hòa Bình,vv…
Theo kết quả nghiên cứu của Đề án "Sưu tầm kiểm kê kho sách cổ người Dao"
do Tiến sĩ Trần Hữu Sơn (Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin - Thể thao Lào Cai) chủ
trì có đăng tại thì: Người Dao có nguồn gốc xa xưa ở đảo Hải Nam (Trung Quốc)
gồm 7 nhóm. Người Dao ở Việt Nam và ở Lào Cai có 3 nhóm: Dao Tuyển, Dao
Nga Hoàng và Dao Làn Tẻn (còn gọi là Dao Chàm) họ bắt đầu di cư sang Việt Nam
vào thời Lê (vào khoảng cuối thế kỷ 17). Để đến được đất Việt, sống ở vùng núi
như ngày nay, người Dao đã phải trải qua cuộc hành trình muôn phần gian khổ
vượt biển, vượt núi, vượt sông. Điều này phản ánh rõ trong nhiều phong tục,
nghi lễ của người Dao và được ghi lại rất tỉ mỉ trong sách cổ. Người Dao di cư
sang Việt Nam theo nhiều đợt từ đảo Hải Nam, qua Phòng Thành, tới Bắc Giang.
Tới đây, họ di chuyển theo các hướng khác nhau là:
Theo sông Lô tới Hà Giang hình thành nên người Dao áo dài. Theo sông Chảy tới
Lào Cai, hậu duệ ngày nay gọi là Dao Tuyển.
Nhóm ở lại vùng Nga Hoàng thuộc Yên Lập, Yên Phúc một thời gian, sau đó di
chuyển tới Văn Chấn (Yên Bái), rồi Văn Bàn (Lào Cai) là tổ tiên người Dao quần chẹt ngày nay. 5.
Văn hoá các dân tộc vùng Tây Bắc 5.1.
Văn hoá nông nghiệp
Tuy nông nghiệp không phải là một khía cạnh văn hóa phổ biến trong mỗi tiểu
vùng nhưng riêng với vùng văn hóa Tây Bắc, đây có thể coi là một yếu tố làm nên
nét văn hóa độc đáo của vùng. lOMoAR cPSD| 58457166
Văn hóa nông nghiệp thung lũng Thái nổi tiếng vì hệ thống tưới tiêu, được gói
gọn trong 4 từ văn vần: " Mường - Phai - Lái –Lịn", lợi dụng độ dốc của dòng chảy
dốc của, người ta lấy đá ngăn suối làm nước dâng cao, đó là cái "phai". Phía trên
"phai" xẻ một đường chảy lên dẫn vào cánh đồng, đó là "mương" Từ "mương"
xẻ những rãnh chảy vào ruộng, đó là "lái". Còn "lịn" là cách lấy nước từ nguồn
trên núi cao, dẫn về ruộng, về nhà, bằng các cây tre đục rừng đục mấu, nối tiếp
nhau, có khi dài hàng cây số. Người Kinh vùng núi Phú Thọ (cũ) học theo cách
làm này và gọi chệch đi là "lần nước". Do chủ động tưới tiêu nên người Thái nuôi
cá ngay trong mực nước của ruộng lúa. Gặt lúa xong là tháo nước bắt cá. Cá nuôi
trong ruộng vừa ăn sâu bọ cỏ dại, vừa sục bùn cho tốt lúa. Cho nên, món dâng
cúng trong lễ cơm mới bao giờ cũng có xôi và cá nướng. Và món cá là biểu hiện lòng hiếu khách :
“Đi ăn cá, về nhà uống rượu
ở thì ngủ đệm, đắp chăn ấm”
Nương rẫy là một bộ phận bổ sung không thể thiếu với nơng, đồng bào có lúa,
rau quả như bầu bí, rau cải, đậu, đu đủ, vừng, kê, ớt,.v..v... Bông và chàm cũng
trồng trên nương. Và rừng, rừng bạt ngàn là nơi con người hái rau rừng, lấy thuốc
chữa bệnh, thuốc nhuộm, săn bắt thú rừng và khi thất bát mùa màng thì chính
rừng, với củ mài, bột báng đã cứu họ khỏi chết đói. Bản làng có một thái độ rất
kính trọng với rừng. Chẳng phải vì rừng có ma thiêng, mà vì rừng là nơi con người
nương tựa để tồn tại. Luật Thái có hàng chục điều quy định về việc khai thác
rừng, săn bắn thú, đặc biệt là những quyết định về bảo vệ rừng đầu nguồn
Ruộng bậc thang cũng là một yếu tố làm nên vẻ đẹp của vùng Tây Bắc. Điều này
đã được hàng triệu lượt du khách tới thăm Tây Bắc những năm qua công nhận
và đã được giới thiệu, quảng bá khá đậm nét trên hệ thống Internet và báo chí
toàn cầu. Tạp chí Mỹ Travel & Leisure đã so sánh những thửa ruộng tại Sa Pa như
là “Những bậc thang dẫn lên trời” ( Ladder to the sky). lOMoAR cPSD| 58457166 5.2. Ẩm thực
Tây Bắc là cái nôi của các dân tộc thiểu số như Thái, Tày, Mường, Dao, Mông, Lô
Lô, Hà Nhì... Một trong những sắc thái văn hoá dân tộc độc đáo của họ là những
món ăn truyền thống nổi tiếng chỉ có ở vùng này. Người dân Tây Bắc thường
thưởng thức những món ăn truyền thống của mình trong không gian và không
khí cộng đồng như tại các lễ hội, tại các chợ và đặc biệt là vào ngày Tết nhân dịp năm mới xuân về.
Phần lớn khẩu vị của người tây bắc là thích những gì đậm đà vì vậy phần lớn các
món ăn nổi bật của người vùng Tây Bắc đểu mang lại cho người thưởng thức
những ấn tượng rất khó quên.
Món ăn đầu tiên phải nhắc đến là đặc sản chế biến từ trâu là món canh da trâu:
Da trâu sau khi giết được lột và thui sạch lông rồi gác trên gác bếp cho khô. Để
chế biến món canh nấu với bon, người Thái lấy số da khô vừa đủ đốt cho cháy
sùi ra, cạo sạch đến khi trông miếng da có màu vàng ươm, mùi thơm phức. Sau
khi nướng giòn tan, miếng da được bẻ thành từng miếng nhỏ bỏ vào nồi bon
đun nhỏ lửa cho đến nhừ. Trước khi bắc xuống người ta thêm gia vị vào nồi canh
bon này. Nồi canh bon đúng nghĩa là phải có đủ 30 loại gia vị mang hương vị núi
rừng Tây Bắc trong đó gồm những gia vị dễ nhận biết như sả, cà đắng, hạt tiêu,
mắc khèn. Món ăn bổ dưỡng nhưng đậm đà hương vị núi rừng này để lại cảm
giác khó quên cho nhiều thực khách.
Những tấm da trâu – phần không thể thiếu với món ăn
Cơm lam-Có lẽ những ai đã từng đến Tây Bắc thì không thế quên được hương vị
của cơm lam, một chút nhẹ nhàng thanh thoát tinh tế khác hẳn cơm lam ở hà
nội hay đâu đó. Nguời dân tộc phía bắc từ Tày, Nùng, Mường, Dao, Thái đều làm cơm lam.
Ngoài cơm lam, họ còn có cả cá lam, chim lam, rau quả lam...
Phải thừa nhận làm đồ ăn lam là một nghệ thuật tinh tế đặc biệt. lOMoAR cPSD| 58457166
Và còn nhiều món ăn khác lạ như: rượu sâu chít, chéo, cá nướng, gà luộc chấm chéo tắp, 5.3. Trang phục
Mỗi dân tộc ở Tây Bắc đều có trang phục riêng, qua đó có thể nhận biết tộc
người, nơi cư trú, tập quán, đời sống văn hóa của họ
Trang phục truyền thống dân tộc Thái, tỉnh Yên Bái góp phần tạo nên vẻ đẹp
văn hóa của những màn Xòe - Biểu tượng của tình đoàn kết các dân tộc vùng Tây Bắc
Trải qua nhiều thế hệ sinh sống nơi núi rừng Lai Châu, người Lự vẫn giữ gìn
được những nét văn hóa riêng, trong đó có trang phục truyền thống của người phụ nữ.
Giản dị trong trang phục dân tộc Tày. Trang phục truyền thống người Giáy lOMoAR cPSD| 58457166
Trang phục dân tộc của Người H’ Mông(Điện Biên) sử dụng 4 màu
Người Sán Chay(Thái Nguyên) chủ đạo: xanh, đỏ, tím, vàng để tạo nên các
Hoa văn, hoạ tiết độc đáo trên trang phục.
Kỹ thuật thêu hoa văn trên trang phục thể hiện sự khéo léo, tinh tế của người
phụ nữ, tình yêu thiên nhiên, cuộc sống của người H’Mông Tây Bắc.
Trang phục góp phần tạo nên vẻ đẹp văn hóa, thể hiện những giá trị truyền
thống, góp phần tạo nên bức tranh văn hóa đa sắc màu của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam. lOMoAR cPSD| 58457166 5.4.
Tôn giáo và tín ngưỡng
Ngoài chi hội Tin Lành người Dao ở Bắc Sơn (Lạng Sơn) có trước năm 1954, từ
giữa những năm 1980, đạo Tin Lành truyền bá vào đồng bào Mông dưới tên gọi
Vàng Chứ, vào đồng bào Dao dưới tên gọi Thìn Hùng. Chỉ trong một thời gian
ngắn, số người Mông, người Dao theo đạo Tin Lành ngày một đông. Theo số liệu
của Ban Tôn giáo Chính phủ năm 2005 số người Mông người Dao theo đạo Tin
Lành là hơn 100 ngàn người với 700 điểm nhóm (Điện Biên: 23.205, Cao Bằng:
14.342, Hà Giang: 12.556, Bắc Cạn: 12.019, Lai Châu: 11.307, Lào Cai: 9.370,
Tuyên Quang: 6.020, Thái Nguyên: 4.528, Thanh Hóa: 4.011, Sơn La: 2.688, Yên Bái: 384).
Thời gian gần đây, cùng với đạo Tin Lành, đạo Công giáo cũng tăng cường các
hoạt động truyền giáo trong các vùng dân tộc thiểu số, đạt được những kết quả
nhất định. Theo thống kê năm 2004 của Giáo hội Công giáo Việt Nam, ở khu vực
Tây Bắc có 38.000 đồng bào dân tộc thiểu số là tín đồ đạo Công giáo nằm rải rác
ở các giáo phận Hưng Hoá, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Phát Diệm, Thanh Hoá,…
Tín ngưỡng hầu Đồng ở vùng Tây Bắc 5.5. Lễ tết, lễ hội
Đến với vùng cao Tây Bắc , du khách thập phương không khỏi người ngàng trước
vẻ đẹp bất tận mà đất trời “ ưu ái ” cho cư dân nơi đây , những núi đồi trùng
điệp , lớp lớp , trải dài tạo cho “ vùng sơn cước ” những bức tranh muôn màu
sắc rực rỡ , những thửa ruộng bậc thang trù phú uốn lượn trên những sườn núi
, những thác nước treo mình lơ lửng tung bọt trắng xóa ... không chỉ vậy , khi
đến với vùng đất này , du khách thập phương còn được hòa mình trong không
gian văn hóa phong phú , đa dạng của cộng đồng các dân tộc thiểu số cùng nhau
định cư sinh sống hàng ngàn năm , cùng với đó là không gian văn hóa , những
phong tục tập quán , những ngày hội truyền thống gắn liền với cuộc sống của cư dân nơi đây ... lOMoAR cPSD| 58457166 Lễ hội hoa ban. Lễ hội Lồng Tồng
Lễ hội cầu an bản Mường. Lễ cầu mưa của người Thái B. KẾT LUẬN
Tây Bắc, một vùng văn hoá, xứ sở hoa ban, quê hương xoè hoa, miền đất dịu
ngọt của những thiên tình sử Tiễn dặn người yêu nhưng cũng đầy tiếng than thở
của những thân phận người Tiếng hát làm dâu, một một vùng đất mang nhiều
vẻ đẹp văn hóa độc đáo và hấp dẫn. Bằng những nét văn hóa rất riêng ấy, Tây
Bắc đã góp phần làm nên sự đa dạng và phong phú của văn hóa Việt Nam.
C. TÀI LIỆU THAM KHẢO lOMoAR cPSD| 58457166
Sách, báo điện tử, tranh ảnh trên mạng