Hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam - Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin (KTCT01) | Đại học kinh tế quốc dân NEU
Hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam - Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin (KTCT01) | Đại học kinh tế quốc dân NEU được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Kinh tế chính trị Mác-Lênin (KTCT2D02)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 44879730
Sau 30 năm đổi mới (1986-2016) về kinh tế, Việt nam đã và đang phát triển ổn định, từ một nước
đói nghèo vươn lên trở thành nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về nông thủy sản, bước vào
ngưỡng thu nhập trung bình và hội nhập ngày càng sâu rộng với kinh tế thế giới.
1. Bối cảnh kinh tế xã hội trước đổi mới (Đại hội VI năm 1986)
Giai đoạn này, toàn cầu hoá kinh tế trở thành xu thế nổi bật và tất yếu chi phối thời đại; là yếu tố quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế của các nước. Cùng với đó, cuộc cách mạng khoa học công nghệ
mới lần thứ 3 diễn ra với nhịp độ ngày càng mạnh mẽ, mà cốt lõi là dựa trên việc ứng dụng các phát
minh khoa học công nghệ, phát triển các ngành công nghệ cao, như công nghệ truyền thông và tin học,
công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học… đã làm thay đổi mọi mặt đời sống kinh tế - chính trị và xã hội nhân loại.
Bối cảnh kinh tế thế giới thay đổi đã tác động và làm thay đổi các quan hệ kinh tế, quản lý kinh tế. Làn
sóng cải cách kinh tế rộng khắp theo hướng: (i) các nước tư bản phát triển điều chỉnh chỉnh cơ cấu
kinh tế theo hướng tập trung vào các ngành có hàm lượng KHCN cao, thực hiện điều tiết kinh tế chủ
yếu thông qua các công cụ vĩ mô, thực hiện tư nhân hóa khu vực kinh tế nhà nước, tăng cường vai trò
kinh tế tư nhân; (ii) các nước đang phát triển (Đông Á và Đông Nam Á) cải cách cơ cấu theo hướng
nâng cao sức cạnh tranh và phát triển mở cửa hội nhập, phát triển liên kết kinh tế, khuyến khích xuất
khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, coi đây là động lực cho phát triển kinh tế; (i i) các nước xã hội
chủ nghĩa cũ trước các khó khăn chồng chất cũng tiến hành cải cách kinh tế nhằm khắc phục cơ chế
kế hoạch hóa tập trung, chuyển sang cơ chế thị trường (Trung Quốc năm 1978). Ở trong nước, sau
khi thống nhất đất nước đến trước năm 1986, cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp
và mô hình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa kiểu Xô viết đã được áp dụng rộng rãi trên cả nước. Việc
áp dụng quá lâu và cứng nhắc, máy móc cơ chế này trong khi bối cảnh kinh tế trong và ngoài nước đã
có nhiều thay đổi làm cho tình hình kinh tế trong nước trở nên khó khăn. Nguồn viện trợ của bên ngoài,
các nguồn vốn và hàng hoá vật tư, nguyên liệu và hàng hoá tiêu dùng đã bị cắt giảm đáng kể, lại thêm
bao vây cấm vận của Hoa Kỳ ngăn cản Việt Nam bình thường hoá quan hệ với thế giới.
Trước bối cảnh đó, nhiều địa phương đã tiến hành tìm lối thoát và đổi mới kinh tế, những cải tiến quản
lý thử nghiệm được tiến hành từ những năm 1981 với khoán trong nông nghiệp, điều chỉnh kế hoạch
và mở rộng quyền tự chủ cho xí nghiệp công nghiệp quốc dân… song vẫn chưa thể thay đổi thực trạng
của nền kinh tế khủng hoảng vẫn rất trầm trọng, lạm phát có thời điểm lên đến 700%. Trước thực trạng
kinh tế như vậy, yêu cầu đổi mới toàn diện nền kinh tế trở thành yêu cầu cấp bách ở nước ta và công
cuộc đổi mới đất nước được chính thức tiến hành từ Đại hội VI (năm 1986), ghi lại dấu ấn về vai trò
đặc biệt của Cố Tổng Bí thư Trường Chinh. Với nhận định về thực trạng nền kinh tế lúc bấy giờ “đòi
hỏi phải có một cơ chế quản lý năng động có khả năng bãi bỏ tập trung quan liêu, bảo thủ, trì trệ và
bao cấp tràn lan” và Đảng phải “kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng để từng bước cùng với tập
thể Bộ Chính trị và Ban Chấp hành T.Ư khóa V xác lập nên mô hình mới, cơ chế mới, đặt nền tảng lý
luận cho đường lối đổi mới toàn diện tại Đại hội Đảng VI”, cố Tổng Bí thư Trường Chinh đã đặt nền
móng cho các quan điểm, chủ trương cũng như đường lối chính sách để cải cách toàn diện đất nước
trong đó có lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế. Nội dung văn kiện Đại hội Đảng VI dựa trên quan điểm
đổi mới của Đ/c Trường Chinh1 “chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư (trong đó ưu tiên tập trung
làm hàng xuất khẩu, hàng tiêu dùng thay vì hàng công nghiệp; bỏ, hoãn các dự án lớn nhưng không
hiệu quả…” đã mở ra một trang mới cho hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước ta.
2. Quan điểm của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế
Cùng với sự chuyển biến của bối cảnh trong và ngoài nước, quan điểm và nhận thức của Đảng về hội
nhập kinh tế quốc tế cũng có những thay đổi, làm kim chỉ nam cho các chính sách đối nội và đối ngoại
của đất nước trong từng thời kỳ. Nếu như tại Đại hội V (1982), Đảng chỉ xác định “Ưu tiên mở rộng sự
hợp tác toàn diện giữa nước ta với Liên Xô và các nước trong Hội đồng tương trợ kinh tế2” thì đến Đại
hội Đảng VI (1986) Đảng đã xác định quan hệ kinh tế quốc tế giai đoạn này không chỉ tập trung vào
Liên xô và các nước trong cùng hệ thống xã hội chủ nghĩa mà phải mở rộng quan hệ với các nước thứ
ba, các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình
đẳng, cùng có lợi3. Đây là quan điểm mở đường cho việc “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với
các quốc gia, các tổ chức kinh tế” của Việt nam giai đoạn sau này (Đại hội VII năm 1991). Tuy nhiên,
thuật ngữ “hội nhập” chỉ được chính thức được đề cập tại Đại hội VIII (năm 1996) khi Đảng xác định
nhiệm vụ, giải pháp cho giai đoạn mới phải “đổi mới cơ chế kinh tế đối ngoại, hội nhập với khu vực và
thế giới”4. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (năm 1996), lần đầu tiên Nghị quyết của
Đảng đã xác định việc đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (hội nhập KTQT) nhằm phục vụ
sự nghiệp phát triển của đất nước. Nghị quyết nhấn mạnh “xây dựng một nền kinh tế mới hội nhập với
khu vực và thế giới hướng mạnh về xuất khẩu”, "Trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu
dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài", "tích cực và chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế". lOMoAR cPSD| 44879730
Giai đoạn sau này (Đại hội IX, X, XI, XII), Đảng đã nhấn mạnh tới việc chủ động, tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế song
vẫn phải đảm bảo độc lập tự chủ. Khác với giai đoạn trước, đẩy mạnh hợp tác với các nước trên thế
giới và khu vực của giai đoạn này không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn ở các lĩnh vực khác, thể hiện
tinh thần hội nhập toàn diện với khu vực và thế giới5.
Nhằm thực hiện các quan điểm đó, nhiều văn bản đã được ban hành. Cụ thể: Ngày 27-11-2001,
Bô Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW “Về hộ
i nhậ p kinh tế quốc tế”; ngày
05-̣ 02-2007, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về môṭ
số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Viêt Nam là thànḥ viên
của Tổ chức Thương mại thế giới”; Ngày 10-4-2013, Bô Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-̣ NQ/TW
về hôi nhậ p quốc tế; Ngày 7 tháng 1 năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành ̣ Quyết định
số 40/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030
của Việt Nam; Nghị quyết số 06-NQ/TW Hội nghị Trung ương 4 khóa XII ngày 5/11/2016… Đây là các
văn kiên quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, làm rõ và thống nhất nhậ n thức trong toàṇ
Đảng, toàn dân về hôi nhậ p quốc tế trong tình hình mới. Xem xét quan điểm về hội nhập quốc tế củạ
Đảng suốt 30 năm qua, có một số điểm đáng chú ý như sau: (i) Hội nhập kinh tế quốc tế do yêu cầu
xuất phát từ nội tại nền kinh tế nhằm xây dựng và phát triển đất nước. Do vậy hội nhập kinh tế quốc tế
là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị; (i ) Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm tranh thủ nguồn lực bên ngoài
cho phát triển đất nước nhưng phải gắn liền với việc giữ vững độc lập dân tộc và chủ quyền đất nước;
khẳng định mở cửa, hội nhập để khai thác các mặt có lợi cho sự phát triển kinh tế của ta từ nền kinh tế thế giới.
3. Thành tựu 30 năm đổi mới trong lĩnh vực hội nhập kinh tế Quốc tế
Các đường lối, chủ trương hội nhập kinh tế của Đảng đã được đề ra nhất quán, không ngừng được
hoàn thiện và triển khai tích cực, phù hợp với tình hình cụ thể của từng giai đoạn, phục vụ đắc lực cho
sự nghiệp Đổi mới, phát triển đất nước. Với phương châm “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối
ngoại. Việt Nam sẵn sàng là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình,
độc lập và phát triển”. Việt Nam luôn thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình,
hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc
tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên nhiều lĩnh vực. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực. Trong đó:
Về quan hệ hợp tác song phương. Với đường lối đổi mới, nước ta đã mở rộng và củng cố quan hệ đối
ngoại, vượt qua những khó khăn về thị trường do những biến động Liên xô cũ và Đông Âu gây ra, tạo
dựng môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nâng cao vị thế đất
nước trên trường quốc tế. Tính đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với khoảng 180 quốc
gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hóa tới trên 230 thị trường của các
nước và vùng lãnh thổ, ký kết gần 100 Hiệp định thương mại song phương, trên 60 Hiệp định khuyến
khích và bảo hộ đầu tư, khoảng 70 Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về
văn hóa song phương với các nước và các tổ chức quốc tế.
Về hợp tác đa phương và khu vực. Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với nhiều tổ chức định chế tài
chính quốc tế, cụ thể: ngày 15/9/1976, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của của Quỹ tiền tệ
quốc tế (IMF), ngày 21/9/1976 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Ngân hàng thế giới (WB),
ngày 23/9/1976 Việt Nam gia nhập vào Ngân hàng phát triển châu Á (ADB). Tháng 7/1995 Việt
Nam đã gia nhập vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và chính thức tham gia khu vực
Thương mại tự do ASEAN (AFTA) từ 1/1/1996. Đây là sự kiện đánh dấu bước đột phá của Việt Nam
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp đó, năm 1996 Việt Nam tham gia sáng lập Diễn đàn hợp
tác Á – Âu (ASEM) và đến năm 1998, Việt Nam được công nhận là thành viên của Diễn đàn hợp tác
kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC). Đặc biệt, ngày 11/1/2007 Việt Nam trở thành thành viên
của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được nâng
lên một tầm cao hơn thông qua việc tham gia ký kết các hiệp định kinh tế đa phương và song phương.
Thực hiện chủ trương, chính sách lớn của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã trở thành
thành viên của nhiều Hiệp định thương mại và cũng đang tham gia đàm phán một số hiệp định thương
mại quan trọng khác. Cụ thể: Tính hết năm 2016, Việt Nam đã ký kết và thực thi 10 FTA, kết thúc đàm
phán 2 FTA, và đang đang đàm phán 4 FTA khác. Trong 10 FTA đã ký kết và thực thi có 6 FTA ký kết
với tư cách là thành viên ASEAN (gồm AFTA, 5 FTA giữa ASEAN với các đối tác Trung Quốc, Hàn
Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Úc và New Zealand), 4 FTA ký kết với tư cách là một bên độc lập (Chile, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Liên minh kinh tế Á-Âu). Hai FTA đã kết thúc đàm phán là FTA với Liên minh châu Âu,
và Hiệp định Đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP). Bốn FTA còn lại đang được đàm phán
bao gồm: Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), FTA ASEAN- Hồng Kông, FTA với Israel
và FTA với Khối thương mại tự do châu Âu (EFTA). lOMoAR cPSD| 44879730
Từ quan điểm, chủ trương của Đảng, quá trình mở cửa, tích cực và chủ động hôi nhậ p kinh tế quốc ̣
tế đã mở ra không gian phát triển mới cho nền kinh tế Việt Nam. Thể hiên trên những mặ t chính sau: ̣
Thứ nhất, tác động tới phát triển kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế về cơ bản đã tác động tích cực và
dài hạn , góp phần thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước trong thời gian
qua: HNKTQT đã thúc đẩy tăng trưởng giá trị thương mại hai chiều giữa Việt Nam với các đối tác, tạo
điều kiện thuận lợi để thu hút vốn FDI, ODA cho phát triển kinh tế đất nước. Trong đó:
Đối với hoạt động xuất, nhập khẩu: Kim ngạch xuất khẩu không ngừng được tăng lên, đóng góp một
phần quan trọng vào sự tăng trưởng GDP. Nếu năm 1986, tổng kim ngạch xuất khẩu mới đạt 789 triệu
USD, thì năm 2006 xuất khẩu đã đạt trên 39 tỷ USD và kể từ sau khi gia nhập WTO, kim ngạch xuất
khẩu không ngừng tăng lên, đạt trên 170 triệu USD năm 2016. Không chỉ xuất khẩu, kim ngạch nhập
khẩu cũng tăng lên tương ứng cho thấy mức độ mở cửa của nền kinh tế là tương đối lớn với tỷ lệ tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu đã lên đến trên 150% GDP.
Về cơ cấu, mặt hàng xuất khẩu ngày càng phong phú, đa dạng, có nhiều nhóm hàng “chủ lực” đạt kim
ngạch lớn. Nhiều mặt hàng xuất khẩu có khối lượng lớn, kim ngạch đứng thứ hạng cao trên thế giới.
Nếu như năm 1986 chúng ta chưa có mặt hàng nào xuất khẩu trên 200 triệu USD thì hiện này đã có
nhiều mặt hàng vượt kim ngạch 1 tỷ USD, 5 tỷ USD. Cơ cấu mặt hàng đã có sự chuyển dịch theo
hướng tích cực: tỷ trọng hàng thô hoặc mới sơ chế giảm.
Đối với hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Vốn FDI đã trở thành một trong những
động lực chính cho phát triển kinh tế của Việt Nam, đặc biệt kể từ sau khi Việt nam gia nhập WTO. Nếu
như những năm đầu của thời kỳ mở cửa, vốn FDI vào Việt Nam không đáng kể thì kể từ sau năm 2007,
lượng vốn FDI không ngừng tăng lên. Số vốn đăng ký và cấp mới có năm (2007) còn lên đến trên 70
tỷ USD. Nếu xét về vốn thực hiện, xu hướng tăng lên cũng xuất hiện rõ rệt kể từ năm 2007. Vốn FDI
thực hiện đạt 15,8 tỷ USD, tương đương 23,4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và tăng 9,4% so với cùng kỳ năm 2015.
Thứ hai, tác động tới năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Thông qua những cam
kết minh bạch, rõ ràng, HNKTQT đã góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm huy động nguồn vốn và
các nguồn lực khoa học – công nghệ cho phát triển nền kinh tế. Bên cạnh đó, cũng thông qua tính minh
bạch và hấp dẫn của môi trường đầu tư, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, hài hòa hóa các quy
trình,…HNKTQT đã góp phần hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm
của Việt Nam tại các thị trường trong và ngoài nước.
Thứ ba, thông qua việc mở rộng quan hệ hợp tác với các quốc gia trong khu vực và thế giới, Việt Nam
đã tiếp thu được khoa học - công nghệ mới và cách quản lý tiên tiến trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, kỹ
thuật, văn hóa - xã hội… góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh… Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế cũng đã góp phần đào tạo cho Việt Nam
có được đội ngũ nguồn nhân lực có trình độ và năng lực cả về chuyên môn lẫn quản lý. Hôị nhâp kinh
tế quốc tế cũng góp phần thúc đẩy cải cách hành chính, cải cách thể chế kinh tế thị trường,̣ góp phần
nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ tư, tác động tới việc xây dựng nền kinh tế thị trường đầy đủ. Thông qua hoàn thiện môi trường
kinh doanh, HNKTQT đã góp phần nâng cao năng lực canh tranh quốc gia. Việc thực hiện các cam kết
trong các khuôn khổ hợp tác, đặc biệt là trong khuôn khổ Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ
(BTA) và việc gia nhập WTO đã giúp Việt Nam hoàn thiện được một hệ thống pháp luật tương đối đầy
đủ và đồng bộ với quy định của WTO, tạo ra môi trường kinh doanh ngày càng bình đẳng và thông
thoáng hơn. Ngoài ra, thông qua quá trình đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại tự do các đối
tác đã công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường đầy đủ.
Thứ năm, tác động tới xã hội, văn hóa, môi trường, chính trị, an ninh quốc phòng. Trong quá trình
HNKTQT, Việt Nam đã chú trọng thực hiện các vấn đề an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo. Việt Nam
đã mở rộng đối tượng và tăng mức trợ cấp cho các đối tượng bảo trợ xã hội, hệ thống bảo hiểm xã hội
và bảo trợ xã hội cũng ngày càng được hoàn thiện. thêm nữa, các chính sách bảo vệ và phát huy
những giá trị văn hóa của dân tộc cũng tăng cường thực hiện. Các vấn đề về môi trường cũng được
để ý và giải quyết. Ngoài ra, HNKTQT đã góp phần nâng cao các thiết chế dân chủ, xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đi đôi với đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Thông qua
HNKTQT, đặc biệt là thông qua việc tham gia ASEAN và các Hiệp định thương mại tự do, Việt Nam đã
mở rộng, tăng cường, liên kết và hợp tác với các nước, điều này cũng tạo điều kiện thuận lợi trong
phát triển kinh tế - xã hội. Song song với đó, hoạt động an ninh quốc phòng tiếp tục được đảm bảo,
chính trị được giữ ổn định góp phần bảo vệ vững chắc tổ quốc.
Sau gần 30 năm đổi mới, hôi nhậ
p kinh tế quốc tế đã tác động mạnh đến sự tăng trưởng, phát
triểṇ kinh tế của Việt Nam. Nhờ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định mà quy mô của nền kinh tế được
mở rộng nhiều lần, do đó thu nhập bình quân đầu người cũng tăng lên đáng kể: Năm 2016, GDP đầu
người đạt hơn 2.200 USD so với 86 USD vào năm 1988. lOMoAR cPSD| 44879730
4. Những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trong quá trình hôi nhậ p kinh tế quốc tế ̣
Bên cạnh những kết quả đạt được, Việt Nam cũng còn gặp không ít khó khăn, đặc biệt là chưa tận
dụng được hết những cơ hội mà quá trình hôi nhậ p kinh tế quốc tế đem đến mà ngược lại hội nhập̣
kinh tế quốc tế còn làm trầm trọng hơn những khó khăn nội tại của nền kinh tế, cụ thể:
Thứ nhất, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế càng nhanh, càng rộng thì áp lực cạnh tranh đối với sản
xuất trong nước càng lớn trong khi đó năng lực sản xuất trong nước chậm cải thiện, đặc biệt là ở các
ngành công nghiệp hỗ trợ nên nhập siêu đã liên tục tăng lên (chủ yếu nhập các nguyên vật liệu đầu
vào cho sản xuất). Trong khi đó, sự chuẩn bị trong nước về cơ bản là chưa đầy đủ, chưa có sự nỗ lực
chung của cả cộng đồng để tận dụng cơ hội từ hội nhập. Do đó, cơ cấu kinh tế còn châm chuyểṇ dịch
theo hướng hợp lý và hiêu quả. Tình trạng phát triển dàn trải, không có trọng tâm của nền kinḥ tế trong
điều kiện các nguồn lực hạn chế đang kìm hãm khả năng tăng trưởng vượt bâc và bền vững.̣ Năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp vẫn ở mức thấp, khu vực tư nhân mặc dù đã phát triển song quy mô còn
nhỏ và còn nhiều hạn chế về năng lực tài chính. Ngoài ra, các vấn đề về đất đai, lao động, vốn và công
nghệ còn chưa phát triển đồng bộ … tất các những vấn đề này đều tác động và ảnh hưởng lớn đến sự
phát triển bền vững của Việt Nam trong tương lai.
Thứ hai, năng lực kiểm soát và điều tiết các dòng vốn còn yếu khiến cho hiệu quả của FDI cũng như
ODA chưa cao. Hội nhập KTQT đã mang lại cho Việt nam cơ hội thu hút các dòng vốn nước ngoài cho
phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy bên cạnh những tác động tích cực, chất lượng
kiểm soát và điều tiết, quản lý các dòng vốn này chưa cao nên những vấn đề từ thu hút FDI (ô nhiễm
môi trường, chuyển giá, thất thu thuế, tác động lan tỏa từ khu vực kinh tế nhà nước sang các khu vực
khác kém…), hiệu quả sử dụng ODA, ổn định kinh tế vĩ mô… đều là thách thức không nhỏ đối với Việt
Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ ba, các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ trong các lĩnh vực khác chưa được
triển khai đồng bộ, nhịp nhàng trong một chiến lược tổng thế. Cơ chế chỉ đạo, điều hành, phối hợp thực
hiện và giám sát quá trình hội nhập từ Trung ương đến địa phương, giữa các ban, ngành còn nhiều
bất cập. Chất lượng nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng chậm được cải thiện. Năng lực đội ngũ cán bộ,
công chức, doanh nhân chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập.
Thứ tư, khả năng nhận định, đánh giá và dự báo trước tình hình diễn biến trên thực tế để chủ động xử
lý những vấn đề phát sinh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế còn hạn chế.
Môt số giải pháp để chủ động, tích cực hộ i nhập kinh tế quốc tế ̣
Mặc dù hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng cục diện thế giới, khu vực trong giai đoạn tiếp
theo sẽ có nhiều chuyển biến nhanh và khó lường. Cục diện thế giới đa cực, đa trung tâm sẽ ngày
càng rõ nét và sẽ có những điều chỉnh theo các tâm trục và lĩnh vực khác nhau, chủ nghĩa khu vực sẽ
tăng lên. Các nước lớn vừa hợp tác, vừa kiềm chế lẫn nhau, cạnh tranh gay gắt hơn, nhất là ở các địa
bàn chiến lược, giàu tài nguyên (trong đó có khu vực Biển Đông)… Bên cạnh đó, điều có thể nhận thấy
rõ nét trong những năm gần đây là các nước đang đẩy mạnh tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng nâng
cao chất lượng tăng trưởng và phát triển bền vững, dựa vào tiêu dùng nội địa nhiều hơn nhằm ứng
phó với sự trì trệ của tăng trưởng kinh tế, thương mại toàn cầu. Sự chuyển biến bối cảnh kinh tế thế
giới sẽ mở ra những cơ hội phát triển nhanh nhưng cũng tiềm ẩn những nguy cơ, thách thức lớn đối
với Việt Nam trong quá trình nhập kinh tế quốc tế.
Để khắc phục những hạn chế, vượt qua những thách thức, thực hiện thành công mục tiêu “thực hiện
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, nhằm tăng cường khả năng tự
chủ của nền kinh tế, mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý,
bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; bảo tồn và phát huy bản sắc văn
hoá dân tộc; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao uy tín và vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế”6, cần tâp trung vào các nhóm giải pháp cơ bản sau:̣ -
Tăng cường cải cách trong nước nhằm nâng cao năng lực sản xuất và xuất khẩu của doanh
nghiệptrong nước, năng lực cạnh tranh quốc gia. -
Nâng cao năng lực kiểm soát và điều tiết các dòng vốn nhằm đảm bảo an toàn kinh tế vĩ mô
vànâng cao hiệu quả sử dụng của các dòng vốn. Xây dựng hệ thống thu thập và xử lý thông tin về sự
luân chuyển của dòng vốn nước ngoài kịp thời, chính xác để đáp ứng yêu cầu công tác phân tích, dự
báo và hoạch định chính sách. Để có thể điều tiết tốt sự di chuyển của dòng vốn nước ngoài cũng như
hạn chế tác động của dòng vốn đến các yếu tố kinh tế vĩ mô lạm phát, tỷ giá… hay để đánh giá được
mức độ ảnh hưởng hệ thống thu thập dữ liệu phải được cập nhật thường xuyên. -
Xây dựng khuôn khổ phối hợp chính sách vĩ mô và các chính sách thận trọng vĩ mô, chính
sáchquản lý vốn nhằm điều tiết và giảm thiểu sự biến động của các dòng vốn: Vai trò của chính sách
kinh tế vĩ mô đối với việc điều tiết dòng vốn, giảm áp lực lên lạm phát là cần thiết song vẫn chưa đủ
nếu không gian chính sách bị giới hạn. Do các chính sách thận trọng vĩ mô chủ yếu tập trung vào giám
sát và đánh giá các rủi ro có thể xảy ra đối với (nhóm) định chế được giám sát, có tính đến tác động lOMoAR cPSD| 44879730
lan truyền rủi ro trong tương lai của đối tượng được giám sát tới các đối tượng khác trong hệ thống tài
chính và trong nền kinh tế. Vì vây, phối hợp chính sách giám sát thận trọng vĩ mô với các chínḥ sách
điều hành kinh tế vĩ mô khác (chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ,…) sẽ hỗ trợ quản lý tốt rủi ro hệ
thống từ đó có những đối sách phù hợp để giảm thiểu khả năng xảy ra khủng hoảng. -
Nâng cao nhận thức, năng lực lãnh đạo và chỉ đạo tổ chức thức hiện. Quán triệt nhận thức về
chủtrương, đường lối của Đảng về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tại các cấp, các ngành và các địa
phương. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và thống nhất chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu quả các
mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra. Ngoài ra, các cấp, các ngành và các địa phương còn chủ động bám sát
các chủ trương, đường lối, các quan điểm chỉ đạo của Đảng và nhà nước về hội nhập kinh tế quốc tế
trong quá trình thực hiện. -
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách nhằm nâng cao hiệu quả hội
nhậpkinh tế quốc tế. Nhằm đáp ứng tốt các yêu cầu của các đối tác quốc tế cũng như nâng cao hiệu
quả trong HNKTQT, Việt Nam cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách để
thực hiện các hiệp định, thỏa thuận kinh tế - thương mại, qua đó góp phần thúc đẩy, gia tăng thị phần
xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, khai thác tốt nhất tiềm năng lợi thế so sánh và lợi thế quốc gia
trong quan hệ kinh tế quốc tế. Ngoài ra, còn giúp tận dụng tối đa những cơ hội và hạn chế những thách thức trong HNKTQT. -
Các doanh nghiệp cần chủ động, tích cực tìm hiểu thông tin các cam kết về hội nhập, tập trung
tìmhiểu và nắm chắc những thông tin về lộ trình cắt giảm thuế liên quan đến các mặt hàng kinh doanh
của mình để có chiến lược điều chỉnh sản xuất, kinh doanh và cạnh tranh phù hợp nhằm tận dụng tối đa các cơ hội. -
Nhà nước cần đẩy mạng công tác tuyên truyền cho các doanh nghiệp về các cam kết của Việt
Namcũng như các cam kết của các đối tác để giúp các doanh nghiệp tận dụng được các cơ hội và
vượt qua được các thử thách; thêm nữa nhà nước cần có chiến lược rà soát quy hoạch phát triển
ngành, vùng phù hợp với tiến trình hội nhập cũng như cần có nhiều hoạt động tham vấn cộng đồng
doanh nghiệp để hòan thiện khuôn khổ pháp luật nhằm cạnh tranh theo hướng minh bạch, ổn định.
Ngoài ra, nhà nước cần đẩy mạnh cải cách các thủ tục hành chính, từng bước hoàn thiện môi trường
kinh doanh để thu hút đầu tư nước ngoài./.