lOMoARcPSD| 45470709
CHẾ KẾ HOẠCH HÓA TẬP TRUNG VIỆT NAM
I. chế kế hoạch hóa tập trung
1. khái niệm
+ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp là một chính
sách, trong đó nền kinh tế hoạt động dưới sự trấn áp của Nhà nước .
+ Nhà nước đã can thiệp sâu vào các hoạt động của nền kinh tế mà
không coi trọng những quy luật thị trường.
+ Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể giữ vai trò chủ yếu trong thời
kỳ bao cấp, còn những thành phần kinh tế khác lại phần đông
không được chú trọng.
=>cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp này tuy có
những ưu điểm thích hợp cho thực trạng của nước ta thời kỳ đó,
nhưng đồng thời cũng có nhiều hạn chế ảnh hưởng tới sự phát triển
của Việt Nam sau này.
2. đặc điểm của chế độ kế hoạch hóa tập trung
- Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính
dựa trên hệ thống pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới -
các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào các hoạt động sản
xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách
nhiệm gì về vật chất cũng như pháp lý đối với các quyết định của
mình
- quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ; quan hệ hiện vật là chủ yếu
- bộ máy nhà nước cồng kềnh, kém năng lực…
II. chế kế hoạch hóa tập trung Việt Nam trước Đổi
mới: 1,Đặc trưng:
Cơ chế kế hoạch hóa tập trung có đặc trưng cơ bản là mọi hoạt động kinh tế xã hội
đều theo một kế hoạch thống nhất từ trung tâm, nhấn mạnh quan điểm hiện vật,
không coi trọng các quy luật kinh tế, xem nhẹ hạch toán kinh doanh. - Phương
pháp, công cụ quản lý: sử dụng công cụ mệnh lệnh hành chính mang tính áp đặt
từ trên xuống trong việc giao nhiệm vụ sản xuất – kinh doanh thông qua hệ thống
chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh.
- Chức năng quản lý: Nhà nước can thiệp quá sâu vào các lĩnh vực hoạt động
của nền kinh tế.
- Nguyên tắc quản lý: thực hiện nguyên tắc tập trung cao độ. Nhà nước tập
lOMoARcPSD| 45470709
trung trong tay 3 loại quyền là:
Quyền quản nhà nước về hành chính kinh tế: không chịu trách nhiệm về vật
chất và pháp lý đối với các quyết định của mình.
Quyền của chủ sở hữu nhà nước đối với các doanh nghiệp: doanh nghiệp
không bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh.
Quyền điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh đối với các doanh
nghiệp: doanh nghiệp không có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh.
Điều này dẫn đến tệ nạn quan liêu, cửa quyền của nhà nước và tính thụ động,
ỷ lại, nạn hối lộ, móc ngoặc của các đơn vị kinh tế.
- Hình thức quản lý: quan hệ hàng hóa- tiền tệ bị coi nhẹ, chủ yếu là nền kinh
tế hiện vật thông qua chế độ “cấp phát- giao nộp” bằng hiện vật các nguyên
liệu đầu vào và các sản phẩm đầu ra.
- Bộ máy quản lý: cồng kềnh, nhiều cấp trung gian, kém năng động với đội ngũ
quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu nhưng được hưởng
quyền lợi cao hơn người lao động.
- Chế độ sở hữu:
+ Chế độ sở hữu toàn dân và tập thể về tư liệu sản xuất đóng vai trò chính của
mô hình phát triển: chỉ thừa nhận sở hữu toàn dân, điều tiết theo cơ chế kế hoạch
hóa, tập trung tất cả mọi vai trò vào tay Nhà nước.
+ Chỉ có một nền kinh tế quốc doanh hoàn toàn, kinh tế Nhà nước và kinh tế tập
thể giữ vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế khác hầu như không được chú
trọng.
+ Các đơn vị kinh tế chủ yếu: công ty nhà nước, xí nghiệp và hợp tác xã.
-chế độ điều phối:
-phân phối trên nền tảng kế hoạch do Nhà nước xây dựng triển khai, điều phối chứ
không phân phối theo các quy luật kinh tế thị trường cơ bản như quy luật giá trị,
quy luật cung- cầu…
- Nhà nước tính toán “số liệu kiểm tra” rồi phân bổ chỉ tiêu cho
các bộ, ngành, tỉnh. Sau đó, số liệu được chuyển xuống các cấp thấp
hơn là các cục, vụ, xí nghiệp,…
- Mỗi cơ sở phải tự xây dựng kế hoạch của mình và trình lên cấp
trên bằng cách cân đối giữa “số liệu kiểm tra” được đưa xuống với “s
liệu điều tra” tại cơ sở.
- Kế hoạch cuối cùng được đưa ra sau khi cấp trên xem xét “số liệu
điều tra” và kế hoạch của cấp dưới. Kế hoạch này trở thành chỉ tiêu
pháp lệnh và giao lại xuống dưới.
lOMoARcPSD| 45470709
Quan niệm về CNXH và con đường đi lên CNXH này của nước ta chịu ảnh
hưởng của mô hình Xô Viết. Điều này không có gì là khó hiểu khi mà Liên Xô
là cái nôi cách mạng XHCN của thế giới, là anh cả trong phong trào đi lên
CNXH.
giai đoạn này, tư duy và lý luận về mô hình CNXH ở Liên Xô được áp dụng
rộng rãi. Mặt khác, do yêu cầu khách quan của cuộc cách mạng giải phóng miền
Nam, Đất nước ta lúc này “tất cả đều tập trung cho tiền tuyến, miền Nam,
sự nghiệp đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào” nên mọi hoạt động đều hướng
về mục tiêu phục vụ cỗ máy quân sự khổng lồ.
=> Nhà nước phải đứng ra điều tiết, tập trung nguồn lực cho mục tiêu này, nếu
không thì sức mạnh của cỗ máy ấy sẽ không được như mong muốn.
2. hình thức bao cấp:
* Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu:
- Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng
hóa thấp hơn giá trị trên thị trường do đó hạch toán kinh tế chỉ là hình
thức.
- Bao cấp qua chế độ tem phiếu: Nhà nước quy định chế độ phân phối vật
phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên theo định mức qua hình thức
tem phiếu,thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡ nguyên
tắc phân phối theo lao động.
- Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách nhưng không có chế tài
ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị cấp vốn; nó làm tăng
gánh nặng ngân sách, sử dụng vốn kém hiệu quả.
-Những đặc trưng và hình thức thực hiện cơ chế kế hoạch hóa trên làm
nảy sinh cơ chế “xin- cho” về hành chính. Làm xuất hiện những mặt tiêu
cực như:
+ Quan hệ bất bình đẳng giữa nhà nước và công dân: quan hệ cai trị. +
Nhiều thủ tục hành chính rườm rà, hành dân để thể hiện quyền lực nhà
nước.
+ Tư duy cũ trong quản lý: ban phát, không phải là dịch vụ hành chính cho
xã hội.
+ Tính tùy tiện, không kiểm soát chặt chẽ được từ phía nhà nước và nhân
dân đối với người “cho” và sự “chạy chọt” của người “xin” để xin được và
được nhiều.
lOMoARcPSD| 45470709
+ Mối quan hệ cứng nhắc trong hệ thống hành chính nhà nước: không phát
huy được tinh thần chủ động sáng tạo, tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong
phạm vi quyền hạn của mình mà phải trông chờ vào cơ quan “cho”.
3. Tình hình Việt Nam trước Đổi mới:
* Trong những năm đầu áp dụng chế này miền Bắc, tuy những kết quả đạt
được còn thấp so với yêu cầu đề ra nhưng cơ bản đã khôi phục kinh tế, hàn gắn vết
thương chiến tranh, ổn định sản xuất và đời sống.
- Nông nghiệp :Khoảng 76.6% các hợp tác xã được đưa lên bậc cao
hợp nhất các hợp tác xã qui mô lớn hơn, tổng thu bình quân trên một ha canh
tác tăng 43,7%, cuối năm 1965 có 162 xã gần 700 hợp tác xã đạt và vượt năng
suất 5 tấn thóc trên 1 ha cả năm, lương thực bình quân đầu người đạt
15kg/tháng; đời sống xã viên có tăng, thu nhập của người lao động từ kinh tế
tập thể tăng khá, thu nhập bình quân của nông dân tăng 24%.
- Cơ sở vật chất- kỹ thuật trong nông nghiệp tăng đáng kể: vốn đầu tư xây
dựng cơ bản tăng 4,9 lần, điện cấp tăng 9 lần, số máy kéo tiêu chuẩn tăng 11
lần so với thời kì 1958-1960, vốn bình quân cho 1 ha canh tác tăng 2,1 lần, hệ
thống các công trình thủy lợi, sửa chữa cơ khí, sân phơi, chuồng trại… của hợp
tác xã liên tục tăng.
- công nghiệp quốc doanh phát triển mạnh mẽ. Đầu năm 1965 có 1.045 xí
nghiệp, trong đó có 250 xí nghiệp lớn do Trung ương quản lí. Công nghiệp
nặng như cơ khí, luyện kim, hóa chất được xây dựng và đi vào sản xuất.
+Ngành công nghiệp nhẹ phát triển khá nhanh, mạng lưới công nghiệp địa phương
phát triển khá. Năm 1965, miềnBắc đảm bảo được 90% về mặt hàng tiêu dùng
một phần tư liệu sản xuất.
- Văn hóa, y tế, giáo dục những bước tiến đáng kể. Trình độ văn
hóa, khoa học kỹ thuật của cán bộ và nhân dân được nâng lên rõ rệt, số học
sinh phổ thông tăng 3,5 lần; học sinh đại học và trung học tăng 25 lần. Công tác
vệ sinh phòng bệnh, bảo vệ sức khỏe phát triển: số y, bác sĩ và dược sĩ năm
1965 tăng 5 lần so với năm 1960, 70% huyện có bệnh viện, 90% xã ở đồng
bằng và 78% xã miền núi có trạm y tế.
- Kết cấu giai cấp và quan hệ xã hội có nhiều thay đổi. Giai cấp công
nhân, tầng lớp trí thức XHCN phát triển nhanh chóng về số lượng và chất
lOMoARcPSD| 45470709
lượng. Giai cấp nông dân đã tổ chức lại theo hướng đi lên CNXH. Khối liên
minh công- nông được củng cố và tăng cường trên cơ sở mới.
- Với khí thế cách mạng tiến công chống nghèo nàn lạc hậu, với tinh thần
lao động hăng say và sáng tạo của nhân dân hướng về miền Nam ruột thịt, miền
Bắc
đã có những biến đổi lớn, trở thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng Việt
Nam trong cả nước với chế độ chính trị ưu việt, lực lượng kinh tế khá và quốc
phòng lớn mạnh.
* Trong giai đoạn chuyển hướng xây dựng kinh tế (1965-1975), với sự chống
phá quyết liệt của đế quốc Mỹ, công cuộc xây dựng CNXH vẫn được tiến hành.
Chế độ XHCN ở miền Bắc lúc đó đã vượt qua được nhiều thử thách nghiêm
trọng và ngày càng phát huy tính ưu việt trong thời kì có chiến tranh.
- Nông nghiệp: cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp được tăng cường,
có sự thay đổi cơ cấu cây trồng, vụ đông xuân được mở rộng, quy mô hợp tác xã
được mở rộng.
- Công nghiệp: sản xuất công nghiệp gặp nhiều khó khăn. Giá trị sản lượng
công nghiệp một số năm bị giảm sút, tốc độ phát triển bình quân của sản xuất
công nghiệp thời kì 1966-1975 là 3,9%.
Mạng lưới công nghiệpđịa phương được hình thành. Tuy bị đánh phá ác liệt nhưng
giao thông vận tải vẫn được đảm bảo thông suốt, việc đào tạo cán bộ khoa học k
thuật tăng khá nhanh. Giá trị tài sản cố định trong khu vực sản xuất tăng nhiều. -
Chính trị: xóa bỏ chế độ phong kiến, người bóc lột người. Chế độ mới, quan h
sản xuất mới bước đầu được xây dựng với kết cấu kinh tế-xã hội mới, tạo sự nhất
trí về tinh thần của toàn xã hội. Đây là cơ sở quan trọng để Đảng tập hợp sức
mạnh toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- hội: xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật ban đầu quan trọng cho nền
kinh tế quốc dân. Giáo dục, y tế, văn hóa phát triển. Đội ngũ cán bộ được đào tạo
tăng nhiều lần, mạng lưới y tế được mở rộng, hoạt động văn hóa nghệ thuật phát
triển, góp phần nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.
- Trong thời gian này, tuy cơ chế kế hoạch hóa tập trung đã đem lại một số
thành tựu đáng chú ý nhưng thực tế cuộc sống trước Đổi mới đã chứng minh rằng
trong nền kinh tế mang đậm bản sắc nông dân- nông nghiệp, lại bị chiến tranh tàn
phá nặng nề, mô hình pt triển gắn với cơ chế kế hoạch hoá tập trung có những
lOMoARcPSD| 45470709
khiếm khuyết lớn trong việc giải quyết các nhiệm vụ phát triển, nhất là trong lĩnh
vực kinh tế.
*giai đoạn 1975 đến 1986 :với khí thế của người chiến thắng trong cơ chế kế
hoạch hoá tập trung, Đảng tiếp tục áp dụng và đẩy nhanh quá trình đi lên CNXH
trên phạm vi cả nước với những đường lối, mục tiêu lớn: xây dựng chế độ làm chủ
tập thể sản xuất lớn được nêu trong Đại hội IV (12/1976) “nắm vững chuyên
chính sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động đẩy mạnh
công nghiệp hóa XHCN nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên CNXH,
xây dựng chế độ làm chủ tập thể…” , “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp trên sở phát triển nông nghiệp công nghiệp nhẹ, y dựng
cấu công- nông nghiệp kết hợp, vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển
kinh tế địa phương…”.
- Ít lâu sau Đại hội IV của Đảng nền kinh tế có chiều hướng đi xuống, đời
sống nhân dân ngày một khó khăn và từ cuối những năm 1970 nước ta lâm vào
cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội.
- Kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980) được thực hiện với những chỉ
tiêu lớn, nhiều điểm duy ý chí nên phần lớn chỉ tiêu đều không đạt.
+ Nhà nước đầu tư khá nhiều tiền của và công sức cho sự nghiệp công nghiệp hóa
XHCN, làm cho năng lực sản xuất của các ngành kinh tế được tăng cường một
bước nhưng những kết quả mang lại còn thấp so với yêu cầu, chưa tương xứng
với công sức bỏ ra.
+ Các xí nghiệp công nghiệp nhìn chung chỉ sử dụng được một nửa công suất
thiết kế; năng suất lao động giảm, chất lượng sản phẩm sút kém.
+ áp dụng sai lệch phương thức quản lý đã làm cho lao động nông nghiệp hoàn
toàn tách rời ruộng đất, tư liệu sản xuất, sản phẩm cuối cùng.
+ Lợi ích kinh tế của người lao động bị vi phạm, làm triệt tiêu động lực sản xuất
của nông dân. Người nông dân chỉ còn phát huy năng lực của mình trên mảnh đất
5%.
- Những khó khăn về mặt kinh tế và đời sống ngày càng gay gắt và chồng chất,
nhiều vấn đề mấu chốt và thiết yếu nhất của cuộc sống nhân dân vẫn chưa
được giải quyết đầy đủ.
lOMoARcPSD| 45470709
Kinh tế: Thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể luôn bị thua lỗ, không
phát huy được vai trò, tác dụng; trong khi đó, các thành phần kinh tế cá thể và tư
hữu bị ngăn cấm. Thu nhập quốc dân và năng suất lao động thấp, chưa đảm bảo
được nhu cầu tiêu dùng của xã hội trong khi dân số tăng nhanh, chưa tạo được
tích lũy từ bên trong. Các chủ trương kiểm soát sản xuất hàng hóa trái với qui
luật phát triển của xã hội đó làm nền kinh tế của cả nước xuống dốc một cách thê
thảm.
- Sản xuất công nông nghiệp bị đình đốn. Tình hình cung ứng năng lượng,
vật tư; tình hình giao thông vận tải rất căng thẳng.
Giáo dục: chưa được quan tâm đúng mức. Trong thời gian đầu hầu như không
học hành, dạy dỗ chuyên môn. Sách vở thiếu, dụng cụ cũnkỹ, học chay nhiều
hơn thực hành. Hệ thống giáo dục chưa phát triển, học chỉ mang tính hình thức.
Lưu thông phân phối:u thông chưa thông suốt, phân phối không hợp lí, tùy
tiện, còn nhiều vấn đề chưa giải quyết được.
Đời sống hội: đời sống nhân dân sa sút chưa từng thấy. Nhất là công nhân
viên chức, các vùng sâu, vùng xa, vùng gặp thiên tai còn gặp nhiều khó khăn,
thiếu thốn. Nhiều người lao động chưa có hoặc chưa đủ việc làm. Nhiều nhu cầu
tối thiểu của nhân dân về đời sống vật chất và văn hoá chưa được bảo đảm.
+ Ở thành thị, lương tháng của công nhân, viên chức chỉ đủ sống 10 – 15 ngày.
+ Ở nông thôn, vào lúc giáp hạt có tới hàng triệu gia đình nông dân thiếu ăn.
Hiện tượng tiêu cực trong hội: chưa được ngăn chặn, thậm chí còn phát
triển. Công bằng xã hội bị vi phạm. Pháp luật, kỉ cương không nghiêm. Những
hành vi cửa quyền, tham ô, "móc ngoặc" của một số cán bộ và nhân viên nhà
nước, những hoạt động làm ăn phi pháp… chưa bị xử lí kịp thời và nghiêm khắc.
Nhìn tổng quát, với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nền kinh tế Việt Nam vận động
thiếu năng động và kém hiệu quả. Những mất cân đối và nguy cơ bất ổn định tiềm
tàng trong đời sống kinh tế - xã hội bị tích nén lại. Tình trạng thiếu hụt kinh niên
làm gia tăng các căng thẳng trong đời sống xã hội.Tiêu cực xã hội lan rộng. Lòng
tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của các cơ quan
Nhà nước giảm sút. Làn sóng người vượt biên ồ ạt, đặc biệt trong giới công chức
chính quyền cũ, nhà buôn, các trí thức.
=>Chính việc thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp cùng
với những kết quả tiêu cực trên đã làm cho tình hình kinh tế của Đất nước rơi vào
trì trệ, khủng hoảng nghiêm trọng; cuộc sống nhân dân thực sự bi thảm. Để rồi
lOMoARcPSD| 45470709
mỗi khi nhắc tới giai đoạn 1975-1986 người ta đều nhớ tới nó như một giai đoạn
thất bại và tù đọng nhất Việt Nam qua cái tên “thời bao cấp”.
4. ưu điểm Nguyên nhân gây nên sự thất bại của chế kế hoạch hóa tập
trung:
a,lợi ích
- Trong giai đoạn đầu (1954-1975): thời kì kinh tế còn phát triển chủ yếu
theo chiều rộng thì cơ chế quản lí bao cấp là sự phù hợp và đúng đắn. Nó cho
phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào các mục tiêu .
- Đất nước có chiến tranh, mục tiêu là huy động tối đa sức lực của nhân dân.
Nhà nước thực hiện bao cấp hoàn toàn giúp người lính yên tâm chiến đấu và giải
phóng dân tộc, không phải lo chuyện gia đình. đáp ứng được yêu cầu của thời
chiến. b,Nguyên nhân gây nên sự thất bại của chế kế hoạch hóa tập trung:
- Sau năm 1975 : đất nước ta bước vào xây dựng đất nước trong thời bình,
chế kế hoạch hóa tập trung không còn phù hợp, bộc lộ rõ những khuyết điểm
của mình.
+ Nó thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học kỹ thuật, triệt tiêu động lực
kinh tế đối với người lao động, ko kích thích tính năng động, sáng tạo của các
đơn vị sản xuất kinh doanh.
+ đội ngũ cán bộ công chức của các cơ quan hành chính Nhà nước ngày càng trở
nên quan liêu, lộng quyền, hách dịch.
nền kinh tế xã hội lâm vào khủng hoảng trì trệ.
III . Nhu cầu cấp thiết về đổi mới chế quản lí:
Trước những kết quả yếu kém do cơ chế kế hoạch hóa tập trung gây ra cho kinh
tế các nước XHCN, các nước XHCN đều tiến hành cải tổ sự nghiệp.
- Trung Quốc tiến hành công cuộc cải cách theo hướng thị
trường - mở cửa bắt đầu diễn ra từ năm 1978 và đạt được những
thành tựu nổi bật, vang dội.
- Liên Xô tiến hành công cuộc cải tổ nhưng không thành
công, kéo theo sự sụp đổ của hệ thống XHCN ở Đông Âu. Sự sụp
đổ đó là bằng chứng về sự thất bại của con đường cải tổ theo kiểu
lOMoARcPSD| 45470709
"phủ định sạch trơn", sử dụng "liệu pháp sốc", giải quyết không
đúng mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong quá trình cải tổ.
-Việt Nam bị các nước đế quốc và các thế lực thù địch bao vây ,cấm vận. Cơ chế
quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực
phát triển, làm suy yếu kinh tế XHCN, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành
phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả,
gây rối loạn trong phân phối lưu thông, và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong
xã hội.
=> giúp ta nhận thức rõ phải đổi mới tư duy phát triển, đặt trọng tâm vào phát
triển kinh tế theo một phương thức mới. Chúng ta cần một duy mới, chế
mới, tri thức mới một kiểu dũng cảm mới.
- Kết quả là trong kỳ Đại hội Đảng lần thứ VI vào cuối năm
1986, Đảng tuyên bố chủ trương Đổi mới, xóa bỏ cơ chế tập trung
quan liêu ,hành chính , bao cấp chuyển sang hạch toán kinh doanh
,kết hợp kế hoạch với thị trường. * Nhiệm vụ
- Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy,đặc biệt chú trọng ba
chương trình kinh tế lớn là :lương thực – thực phẩm, hàng tiêu
dùng cà hàn xuất khẩu =>coi đó là sự cụ thể hóa nội dung công
nghiệp hóa trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ.
- Cải tạo XHCH thường xuyên với hình thức,bước đi thích
hợp làm cho quan hệ sản xuất phù hợp và lực lượng sản xuất phát
triển.
- đổi mới cơ chế quản lý kinh tế =>giải quyết được vấn đề về
phân phối ,lưu thông.
- năm phương hướng phát triển kinh tế :bố chí lại cơ chế sản
xuất,điều chỉnh cơ cấu đầu tư xây dựng và củng cố quan hệ sản
xuất XHCN, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh
tế,phát huy lực lượng khoa học kỹ thuật,mở dộng và nâng cao hiệu
quả kinh tế đối ngoại,
-đại hội VI nhấn mạnh “ tưởng chỉ đạo của kế hoạch các chính
sách kinh tế giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có,khai thác
mọi khả năng tiềm tàng của đất nước sử dụng hiệu quả sự
giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với
xây dựng củng cố quan hệ sản xuất XHCN
lOMoARcPSD| 45470709
-hơn 20 năm đôi mới ,Cuối năm 1986 trở đi, nền kinh tế nước ta đã dần thoát ra
được cuộc khủng hoảng. Chế độ bao cấp từng bước được xóa bỏ, chấm dứt thời
kì ảm đạm, cay đắng trong lịch sử phát triển kinh tế Việt Nam.
-Đại hội VI với những khởi sướng đổi mới toàn diện ,đánh dấu bước phát triển
mới trong thời kỳ quá độ lên CNXH.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45470709
CHẾ KẾ HOẠCH HÓA TẬP TRUNG VIỆT NAM I.
chế kế hoạch hóa tập trung 1. khái niệm
+ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp là một chính
sách, trong đó nền kinh tế hoạt động dưới sự trấn áp của Nhà nước .
+ Nhà nước đã can thiệp sâu vào các hoạt động của nền kinh tế mà
không coi trọng những quy luật thị trường.
+ Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể giữ vai trò chủ yếu trong thời
kỳ bao cấp, còn những thành phần kinh tế khác lại phần đông không được chú trọng.
=>cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp này tuy có
những ưu điểm thích hợp cho thực trạng của nước ta thời kỳ đó,
nhưng đồng thời cũng có nhiều hạn chế ảnh hưởng tới sự phát triển của Việt Nam sau này.
2. đặc điểm của chế độ kế hoạch hóa tập trung
- Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính
dựa trên hệ thống pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới -
các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào các hoạt động sản
xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách
nhiệm gì về vật chất cũng như pháp lý đối với các quyết định của mình
- quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ; quan hệ hiện vật là chủ yếu
- bộ máy nhà nước cồng kềnh, kém năng lực… II.
chế kế hoạch hóa tập trung Việt Nam trước Đổi
mới: 1,Đặc trưng:
Cơ chế kế hoạch hóa tập trung có đặc trưng cơ bản là mọi hoạt động kinh tế xã hội
đều theo một kế hoạch thống nhất từ trung tâm, nhấn mạnh quan điểm hiện vật,
không coi trọng các quy luật kinh tế, xem nhẹ hạch toán kinh doanh. - Phương
pháp, công cụ quản lý: sử dụng công cụ mệnh lệnh hành chính mang tính áp đặt
từ trên xuống trong việc giao nhiệm vụ sản xuất – kinh doanh thông qua hệ thống
chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh.
- Chức năng quản lý: Nhà nước can thiệp quá sâu vào các lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế.
- Nguyên tắc quản lý: thực hiện nguyên tắc tập trung cao độ. Nhà nước tập lOMoAR cPSD| 45470709
trung trong tay 3 loại quyền là:
Quyền quản nhà nước về hành chính kinh tế: không chịu trách nhiệm về vật
chất và pháp lý đối với các quyết định của mình.
Quyền của chủ sở hữu nhà nước đối với các doanh nghiệp: doanh nghiệp
không bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh.
Quyền điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh đối với các doanh
nghiệp: doanh nghiệp không có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh.
  Điều này dẫn đến tệ nạn quan liêu, cửa quyền của nhà nước và tính thụ động,
ỷ lại, nạn hối lộ, móc ngoặc của các đơn vị kinh tế.
- Hình thức quản lý: quan hệ hàng hóa- tiền tệ bị coi nhẹ, chủ yếu là nền kinh
tế hiện vật thông qua chế độ “cấp phát- giao nộp” bằng hiện vật các nguyên
liệu đầu vào và các sản phẩm đầu ra.
- Bộ máy quản lý: cồng kềnh, nhiều cấp trung gian, kém năng động với đội ngũ
quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu nhưng được hưởng
quyền lợi cao hơn người lao động.
- Chế độ sở hữu:
+ Chế độ sở hữu toàn dân và tập thể về tư liệu sản xuất đóng vai trò chính của
mô hình phát triển: chỉ thừa nhận sở hữu toàn dân, điều tiết theo cơ chế kế hoạch
hóa, tập trung tất cả mọi vai trò vào tay Nhà nước.
+ Chỉ có một nền kinh tế quốc doanh hoàn toàn, kinh tế Nhà nước và kinh tế tập
thể giữ vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế khác hầu như không được chú trọng.
+ Các đơn vị kinh tế chủ yếu: công ty nhà nước, xí nghiệp và hợp tác xã.
-chế độ điều phối:
-phân phối trên nền tảng kế hoạch do Nhà nước xây dựng triển khai, điều phối chứ
không phân phối theo các quy luật kinh tế thị trường cơ bản như quy luật giá trị, quy luật cung- cầu… -
Nhà nước tính toán “số liệu kiểm tra” rồi phân bổ chỉ tiêu cho
các bộ, ngành, tỉnh. Sau đó, số liệu được chuyển xuống các cấp thấp
hơn là các cục, vụ, xí nghiệp,… -
Mỗi cơ sở phải tự xây dựng kế hoạch của mình và trình lên cấp
trên bằng cách cân đối giữa “số liệu kiểm tra” được đưa xuống với “số
liệu điều tra” tại cơ sở. -
Kế hoạch cuối cùng được đưa ra sau khi cấp trên xem xét “số liệu
điều tra” và kế hoạch của cấp dưới. Kế hoạch này trở thành chỉ tiêu
pháp lệnh và giao lại xuống dưới. lOMoAR cPSD| 45470709
  Quan niệm về CNXH và con đường đi lên CNXH này của nước ta chịu ảnh
hưởng của mô hình Xô Viết. Điều này không có gì là khó hiểu khi mà Liên Xô
là cái nôi cách mạng XHCN của thế giới, là anh cả trong phong trào đi lên CNXH.
giai đoạn này, tư duy và lý luận về mô hình CNXH ở Liên Xô được áp dụng
rộng rãi. Mặt khác, do yêu cầu khách quan của cuộc cách mạng giải phóng miền
Nam, Đất nước ta lúc này “tất cả đều tập trung cho tiền tuyến, miền Nam,
sự nghiệp đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào” nên mọi hoạt động đều hướng
về mục tiêu phục vụ cỗ máy quân sự khổng lồ.
=> Nhà nước phải đứng ra điều tiết, tập trung nguồn lực cho mục tiêu này, nếu
không thì sức mạnh của cỗ máy ấy sẽ không được như mong muốn.
2. hình thức bao cấp:
* Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu:
- Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng
hóa thấp hơn giá trị trên thị trường do đó hạch toán kinh tế chỉ là hình thức.
- Bao cấp qua chế độ tem phiếu: Nhà nước quy định chế độ phân phối vật
phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên theo định mức qua hình thức
tem phiếu,thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡ nguyên
tắc phân phối theo lao động.
- Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách nhưng không có chế tài
ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị cấp vốn; nó làm tăng
gánh nặng ngân sách, sử dụng vốn kém hiệu quả.
-Những đặc trưng và hình thức thực hiện cơ chế kế hoạch hóa trên làm
nảy sinh cơ chế “xin- cho” về hành chính. Làm xuất hiện những mặt tiêu cực như:
+ Quan hệ bất bình đẳng giữa nhà nước và công dân: quan hệ cai trị. +
Nhiều thủ tục hành chính rườm rà, hành dân để thể hiện quyền lực nhà nước.
+ Tư duy cũ trong quản lý: ban phát, không phải là dịch vụ hành chính cho xã hội.
+ Tính tùy tiện, không kiểm soát chặt chẽ được từ phía nhà nước và nhân
dân đối với người “cho” và sự “chạy chọt” của người “xin” để xin được và được nhiều. lOMoAR cPSD| 45470709
+ Mối quan hệ cứng nhắc trong hệ thống hành chính nhà nước: không phát
huy được tinh thần chủ động sáng tạo, tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong
phạm vi quyền hạn của mình mà phải trông chờ vào cơ quan “cho”.
3. Tình hình Việt Nam trước Đổi mới:
* Trong những năm đầu áp dụng chế này miền Bắc, tuy những kết quả đạt
được còn thấp so với yêu cầu đề ra nhưng cơ bản đã khôi phục kinh tế, hàn gắn vết
thương chiến tranh, ổn định sản xuất và đời sống. -
Nông nghiệp :Khoảng 76.6% các hợp tác xã được đưa lên bậc cao và
hợp nhất các hợp tác xã qui mô lớn hơn, tổng thu bình quân trên một ha canh
tác tăng 43,7%, cuối năm 1965 có 162 xã gần 700 hợp tác xã đạt và vượt năng
suất 5 tấn thóc trên 1 ha cả năm, lương thực bình quân đầu người đạt
15kg/tháng; đời sống xã viên có tăng, thu nhập của người lao động từ kinh tế
tập thể tăng khá, thu nhập bình quân của nông dân tăng 24%. -
Cơ sở vật chất- kỹ thuật trong nông nghiệp tăng đáng kể: vốn đầu tư xây
dựng cơ bản tăng 4,9 lần, điện cấp tăng 9 lần, số máy kéo tiêu chuẩn tăng 11
lần so với thời kì 1958-1960, vốn bình quân cho 1 ha canh tác tăng 2,1 lần, hệ
thống các công trình thủy lợi, sửa chữa cơ khí, sân phơi, chuồng trại… của hợp tác xã liên tục tăng. -
công nghiệp quốc doanh phát triển mạnh mẽ. Đầu năm 1965 có 1.045 xí
nghiệp, trong đó có 250 xí nghiệp lớn do Trung ương quản lí. Công nghiệp
nặng như cơ khí, luyện kim, hóa chất được xây dựng và đi vào sản xuất.
+Ngành công nghiệp nhẹ phát triển khá nhanh, mạng lưới công nghiệp địa phương
phát triển khá. Năm 1965, miềnBắc đảm bảo được 90% về mặt hàng tiêu dùng và
một phần tư liệu sản xuất. -
Văn hóa, y tế, giáo dục những bước tiến đáng kể. Trình độ văn
hóa, khoa học kỹ thuật của cán bộ và nhân dân được nâng lên rõ rệt, số học
sinh phổ thông tăng 3,5 lần; học sinh đại học và trung học tăng 25 lần. Công tác
vệ sinh phòng bệnh, bảo vệ sức khỏe phát triển: số y, bác sĩ và dược sĩ năm
1965 tăng 5 lần so với năm 1960, 70% huyện có bệnh viện, 90% xã ở đồng
bằng và 78% xã miền núi có trạm y tế. -
Kết cấu giai cấp và quan hệ xã hội có nhiều thay đổi. Giai cấp công
nhân, tầng lớp trí thức XHCN phát triển nhanh chóng về số lượng và chất lOMoAR cPSD| 45470709
lượng. Giai cấp nông dân đã tổ chức lại theo hướng đi lên CNXH. Khối liên
minh công- nông được củng cố và tăng cường trên cơ sở mới. -
Với khí thế cách mạng tiến công chống nghèo nàn lạc hậu, với tinh thần
lao động hăng say và sáng tạo của nhân dân hướng về miền Nam ruột thịt, miền Bắc
đã có những biến đổi lớn, trở thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng Việt
Nam trong cả nước với chế độ chính trị ưu việt, lực lượng kinh tế khá và quốc phòng lớn mạnh.
* Trong giai đoạn chuyển hướng xây dựng kinh tế (1965-1975), với sự chống
phá quyết liệt của đế quốc Mỹ, công cuộc xây dựng CNXH vẫn được tiến hành.
Chế độ XHCN ở miền Bắc lúc đó đã vượt qua được nhiều thử thách nghiêm
trọng và ngày càng phát huy tính ưu việt trong thời kì có chiến tranh. -
Nông nghiệp: cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp được tăng cường,
có sự thay đổi cơ cấu cây trồng, vụ đông xuân được mở rộng, quy mô hợp tác xã được mở rộng. -
Công nghiệp: sản xuất công nghiệp gặp nhiều khó khăn. Giá trị sản lượng
công nghiệp một số năm bị giảm sút, tốc độ phát triển bình quân của sản xuất
công nghiệp thời kì 1966-1975 là 3,9%.
Mạng lưới công nghiệpđịa phương được hình thành. Tuy bị đánh phá ác liệt nhưng
giao thông vận tải vẫn được đảm bảo thông suốt, việc đào tạo cán bộ khoa học kỹ
thuật tăng khá nhanh. Giá trị tài sản cố định trong khu vực sản xuất tăng nhiều. -
Chính trị: xóa bỏ chế độ phong kiến, người bóc lột người. Chế độ mới, quan hệ
sản xuất mới bước đầu được xây dựng với kết cấu kinh tế-xã hội mới, tạo sự nhất
trí về tinh thần của toàn xã hội. Đây là cơ sở quan trọng để Đảng tập hợp sức
mạnh toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. -
hội: xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật ban đầu quan trọng cho nền
kinh tế quốc dân. Giáo dục, y tế, văn hóa phát triển. Đội ngũ cán bộ được đào tạo
tăng nhiều lần, mạng lưới y tế được mở rộng, hoạt động văn hóa nghệ thuật phát
triển, góp phần nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. -
Trong thời gian này, tuy cơ chế kế hoạch hóa tập trung đã đem lại một số
thành tựu đáng chú ý nhưng thực tế cuộc sống trước Đổi mới đã chứng minh rằng
trong nền kinh tế mang đậm bản sắc nông dân- nông nghiệp, lại bị chiến tranh tàn
phá nặng nề, mô hình phát triển gắn với cơ chế kế hoạch hoá tập trung có những lOMoAR cPSD| 45470709
khiếm khuyết lớn trong việc giải quyết các nhiệm vụ phát triển, nhất là trong lĩnh vực kinh tế.
*giai đoạn 1975 đến 1986 :với khí thế của người chiến thắng trong cơ chế kế
hoạch hoá tập trung, Đảng tiếp tục áp dụng và đẩy nhanh quá trình đi lên CNXH
trên phạm vi cả nước với những đường lối, mục tiêu lớn: xây dựng chế độ làm chủ
tập thể
sản xuất lớn được nêu trong Đại hội IV (12/1976) “nắm vững chuyên
chính sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động… đẩy mạnh
công nghiệp hóa XHCN nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên CNXH,
xây dựng chế độ làm chủ tập thể…” , “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp trên sở phát triển nông nghiệp công nghiệp nhẹ, xây dựng
cấu công- nông nghiệp kết hợp, vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển
kinh tế địa phương…”. -
Ít lâu sau Đại hội IV của Đảng nền kinh tế có chiều hướng đi xuống, đời
sống nhân dân ngày một khó khăn và từ cuối những năm 1970 nước ta lâm vào
cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội. -
Kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980) được thực hiện với những chỉ
tiêu lớn, nhiều điểm duy ý chí nên phần lớn chỉ tiêu đều không đạt.
+ Nhà nước đầu tư khá nhiều tiền của và công sức cho sự nghiệp công nghiệp hóa
XHCN, làm cho năng lực sản xuất của các ngành kinh tế được tăng cường một
bước nhưng những kết quả mang lại còn thấp so với yêu cầu, chưa tương xứng với công sức bỏ ra.
+ Các xí nghiệp công nghiệp nhìn chung chỉ sử dụng được một nửa công suất
thiết kế; năng suất lao động giảm, chất lượng sản phẩm sút kém.
+ áp dụng sai lệch phương thức quản lý đã làm cho lao động nông nghiệp hoàn
toàn tách rời ruộng đất, tư liệu sản xuất, sản phẩm cuối cùng.
+ Lợi ích kinh tế của người lao động bị vi phạm, làm triệt tiêu động lực sản xuất
của nông dân. Người nông dân chỉ còn phát huy năng lực của mình trên mảnh đất 5%.
- Những khó khăn về mặt kinh tế và đời sống ngày càng gay gắt và chồng chất,
nhiều vấn đề mấu chốt và thiết yếu nhất của cuộc sống nhân dân vẫn chưa
được giải quyết đầy đủ. lOMoAR cPSD| 45470709
Kinh tế: Thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể luôn bị thua lỗ, không
phát huy được vai trò, tác dụng; trong khi đó, các thành phần kinh tế cá thể và tư
hữu bị ngăn cấm. Thu nhập quốc dân và năng suất lao động thấp, chưa đảm bảo
được nhu cầu tiêu dùng của xã hội trong khi dân số tăng nhanh, chưa tạo được
tích lũy từ bên trong. Các chủ trương kiểm soát sản xuất hàng hóa trái với qui
luật phát triển của xã hội đó làm nền kinh tế của cả nước xuống dốc một cách thê thảm.
- Sản xuất công nông nghiệp bị đình đốn. Tình hình cung ứng năng lượng,
vật tư; tình hình giao thông vận tải rất căng thẳng.
Giáo dục: chưa được quan tâm đúng mức. Trong thời gian đầu hầu như không
học hành, dạy dỗ chuyên môn. Sách vở thiếu, dụng cụ cũnkỹ, học chay nhiều
hơn thực hành. Hệ thống giáo dục chưa phát triển, học chỉ mang tính hình thức.
Lưu thông phân phối: lưu thông chưa thông suốt, phân phối không hợp lí, tùy
tiện, còn nhiều vấn đề chưa giải quyết được.
Đời sống hội: đời sống nhân dân sa sút chưa từng thấy. Nhất là công nhân
viên chức, các vùng sâu, vùng xa, vùng gặp thiên tai còn gặp nhiều khó khăn,
thiếu thốn. Nhiều người lao động chưa có hoặc chưa đủ việc làm. Nhiều nhu cầu
tối thiểu của nhân dân về đời sống vật chất và văn hoá chưa được bảo đảm.
+ Ở thành thị, lương tháng của công nhân, viên chức chỉ đủ sống 10 – 15 ngày.
+ Ở nông thôn, vào lúc giáp hạt có tới hàng triệu gia đình nông dân thiếu ăn.
Hiện tượng tiêu cực trong hội: chưa được ngăn chặn, thậm chí còn phát
triển. Công bằng xã hội bị vi phạm. Pháp luật, kỉ cương không nghiêm. Những
hành vi cửa quyền, tham ô, "móc ngoặc" của một số cán bộ và nhân viên nhà
nước, những hoạt động làm ăn phi pháp… chưa bị xử lí kịp thời và nghiêm khắc.
Nhìn tổng quát, với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nền kinh tế Việt Nam vận động
thiếu năng động và kém hiệu quả. Những mất cân đối và nguy cơ bất ổn định tiềm
tàng trong đời sống kinh tế - xã hội bị tích nén lại. Tình trạng thiếu hụt kinh niên
làm gia tăng các căng thẳng trong đời sống xã hội.Tiêu cực xã hội lan rộng. Lòng
tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của các cơ quan
Nhà nước giảm sút. Làn sóng người vượt biên ồ ạt, đặc biệt trong giới công chức
chính quyền cũ, nhà buôn, các trí thức.
=>Chính việc thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp cùng
với những kết quả tiêu cực trên đã làm cho tình hình kinh tế của Đất nước rơi vào
trì trệ, khủng hoảng nghiêm trọng; cuộc sống nhân dân thực sự bi thảm. Để rồi lOMoAR cPSD| 45470709
mỗi khi nhắc tới giai đoạn 1975-1986 người ta đều nhớ tới nó như một giai đoạn
thất bại và tù đọng nhất Việt Nam qua cái tên “thời bao cấp”.
4. ưu điểm Nguyên nhân gây nên sự thất bại của chế kế hoạch hóa tập trung: a,lợi ích -
Trong giai đoạn đầu (1954-1975): thời kì kinh tế còn phát triển chủ yếu
theo chiều rộng thì cơ chế quản lí bao cấp là sự phù hợp và đúng đắn. Nó cho
phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào các mục tiêu . -
Đất nước có chiến tranh, mục tiêu là huy động tối đa sức lực của nhân dân.
Nhà nước thực hiện bao cấp hoàn toàn giúp người lính yên tâm chiến đấu và giải
phóng dân tộc, không phải lo chuyện gia đình.   đáp ứng được yêu cầu của thời
chiến. b,Nguyên nhân gây nên sự thất bại của chế kế hoạch hóa tập trung: -
Sau năm 1975 : đất nước ta bước vào xây dựng đất nước trong thời bình,
cơ chế kế hoạch hóa tập trung không còn phù hợp, bộc lộ rõ những khuyết điểm của mình.
+ Nó thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học kỹ thuật, triệt tiêu động lực
kinh tế đối với người lao động, ko kích thích tính năng động, sáng tạo của các
đơn vị sản xuất kinh doanh.
+ đội ngũ cán bộ công chức của các cơ quan hành chính Nhà nước ngày càng trở
nên quan liêu, lộng quyền, hách dịch.
  nền kinh tế xã hội lâm vào khủng hoảng trì trệ.
III . Nhu cầu cấp thiết về đổi mới chế quản lí:
Trước những kết quả yếu kém do cơ chế kế hoạch hóa tập trung gây ra cho kinh
tế các nước XHCN, các nước XHCN đều tiến hành cải tổ sự nghiệp. -
Trung Quốc tiến hành công cuộc cải cách theo hướng thị
trường - mở cửa bắt đầu diễn ra từ năm 1978 và đạt được những
thành tựu nổi bật, vang dội. -
Liên Xô tiến hành công cuộc cải tổ nhưng không thành
công, kéo theo sự sụp đổ của hệ thống XHCN ở Đông Âu. Sự sụp
đổ đó là bằng chứng về sự thất bại của con đường cải tổ theo kiểu lOMoAR cPSD| 45470709
"phủ định sạch trơn", sử dụng "liệu pháp sốc", giải quyết không
đúng mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong quá trình cải tổ.
-Việt Nam bị các nước đế quốc và các thế lực thù địch bao vây ,cấm vận. Cơ chế
quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực
phát triển, làm suy yếu kinh tế XHCN, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành
phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả,
gây rối loạn trong phân phối lưu thông, và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội.
=> giúp ta nhận thức rõ phải đổi mới tư duy phát triển, đặt trọng tâm vào phát
triển kinh tế theo một phương thức mới. Chúng ta cần một duy mới, chế
mới, tri thức mới một kiểu dũng cảm mới. -
Kết quả là trong kỳ Đại hội Đảng lần thứ VI vào cuối năm
1986, Đảng tuyên bố chủ trương Đổi mới, xóa bỏ cơ chế tập trung
quan liêu ,hành chính , bao cấp chuyển sang hạch toán kinh doanh
,kết hợp kế hoạch với thị trường. * Nhiệm vụ -
Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy,đặc biệt chú trọng ba
chương trình kinh tế lớn là :lương thực – thực phẩm, hàng tiêu
dùng cà hàn xuất khẩu =>coi đó là sự cụ thể hóa nội dung công
nghiệp hóa trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. -
Cải tạo XHCH thường xuyên với hình thức,bước đi thích
hợp làm cho quan hệ sản xuất phù hợp và lực lượng sản xuất phát triển. -
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế =>giải quyết được vấn đề về phân phối ,lưu thông. -
năm phương hướng phát triển kinh tế :bố chí lại cơ chế sản
xuất,điều chỉnh cơ cấu đầu tư xây dựng và củng cố quan hệ sản
xuất XHCN, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh
tế,phát huy lực lượng khoa học kỹ thuật,mở dộng và nâng cao hiệu
quả kinh tế đối ngoại,
-đại hội VI nhấn mạnh “ tưởng chỉ đạo của kế hoạch các chính
sách kinh tế giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có,khai thác
mọi khả năng tiềm tàng của đất nước sử dụng hiệu quả sự
giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với
xây
dựng củng cố quan hệ sản xuất XHCN” lOMoAR cPSD| 45470709
-hơn 20 năm đôi mới ,Cuối năm 1986 trở đi, nền kinh tế nước ta đã dần thoát ra
được cuộc khủng hoảng. Chế độ bao cấp từng bước được xóa bỏ, chấm dứt thời
kì ảm đạm, cay đắng trong lịch sử phát triển kinh tế Việt Nam.
-Đại hội VI với những khởi sướng đổi mới toàn diện ,đánh dấu bước phát triển
mới trong thời kỳ quá độ lên CNXH.