Khái niệm và bản chất của quá trình dạy học. ( Các kết luận sư phạm cần thiết cho công việc dạy học trong tương lai ?
Khái niệm và bản chất của quá trình dạy học. ( Các kết luận sư phạm cần thiết cho công việc dạy học trong tương lai của bản thân anh (chị))?với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống.
Môn: Kinh tế chính trị Mác - Lênin
Trường: Đại học Sư Phạm Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 40439748
Câu 1. Khái niệm và bản chất của quá trình dạy học. ( Các kết luận sư
phạm cần thiết cho công việc dạy học trong tương lai của bản thân anh (chị))?
1.Khái niệm bản chất của Quá trình dạy học
Việc lĩnh hội tri thức, kỹ năng hoạt động của học sinh có thể thực hiện
bằng nhiều hình thức (tự phát hoặc tự giác), song dạy học là con đường tối
ưu nhất giúp cho học sinh tiếp cận, nắm vững kinh nghiệm xã hội được
phản ánh trong các khái niệm khoa học do loài người tích luỹ với sự tham
gia điều chỉnh hợp lý về mặt tổ chức trong những khoảng thời gian xác
định họ đạt với mục đích do nhu cầu xã hội đặt ra với từng trình độ nhận thức tương ứng. A.Khái niệm -
Học là quá trình tự giác, tích cực, tự lực chiếm lĩnh khái niệm khoa
họcdưới sự điều khiển sư phạm của giáo viên, chiếm lĩnh khái niệm khoa
học là mục đích của hoạt động học. Học sinh sẽ thu nhân kiến thức từ kho
tàng văn hóc xã hội của nhân loại thành nền học vấn riêng cho bản thân. -
“Dạy học là quá trình hoạt động hai mặt do thầy giáo (dạy) và học
sinh (học) nhằm thực hiện các mục đích dạy học. Nhiệm vụ dạy học trong
nhà trường không chỉ đảm bảo một trình độ học vấn nhất định mà còn góp
phần hình thành nhân cách con người của xã hội cộng sản chủ nghĩa”.(Bách
khoa Giáo dục học – Maxcơva). •
Quan niệm trên về quá trình dạy học đã phản ánh tính chất hai mặt
của quá trình này: quá trình dạy của giáo viên và quá trình học của học
sinh. Hai quá trình này không tách rời nhau mà là một quá trình hoạt động
chung nhằm hình thành nhân cách của con người mới, đáp ứng được yêu
cầu của thời đại. Trong quá trình họat động chung đó, người giáo viên đóng
vai trò lãnh đạo, tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức của học sinhđể
giúp họ tự khám phá ra tri thức. Tất nhiên người giáo viên còn có chức
năng cung cấp cho người học tri thức, nhưng chỉ khi nào thật cần thiết.
Song chức năng này không phải là chức năng chính yếu của toàn bộ quá
trình dạy. Người giáo viên phải suy nghĩ để giúp học sinh sử dụng những
tri thức, những kinh nghiệm mà họ thu thập được qua các phương tiện
thông tin đại chúng, qua cuộc sống, kết hợp với tri thức giáo viên cung cấp
cho để tạo nên sự hiểu biết của bản thân mình. •
Phối hợp với hoạt động đó của giáo viên, học sinh tự giác, tích cực,
chủ động, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức của mình nhằm
nắm vững tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo, phát triển năng lực nhận
thức, đặc biệt là năng lực tư duy sáng tạo, hình thành cơ sở thế giới quan
khoa học và những phẩm chất đạo đức của con người mới. Chính học sinh lOMoAR cPSD| 40439748
chứ không phải người nào khác phải tự mình làm ra sản phẩm giáo dục.
Tính chất hành động của họ có ảnh hưởng quyết định tới chất lượng tri thức mà họ tiếp thu.
Từ đó có thể rút ra định nghĩa quá trình dạy học như sau: Quá trình dạy
học là quá trình mà dưới sự lãnh đạo, tổ chức, điều khiển của người
giáo viên, người học tự giác, tích cực, chủ động tự tổ chức, tự điều khiển
hoạt động của mình nhằm thực hiện những nhiệm vụ dạy học.
B. Bản chất quá trình dạy học
Bản chất của quá trình dạy học là quá trình nhận thức độc đáo của học sinh.
* Trước tiên, ta khẳng định học là một hoạt động nhận thức. Vậy thế nào là hoạt động nhận thức?
- Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào não người – đó là sự phản
ánh tâm lý của con người bắt đầu từ cảm giác đến tư duy, tưởng tượng. Sự học
tập của học sinh cũng là quá trình như vậy. Đó là sự phản ánh đi trước, có tính
chất cải tạo mà mức độ cao nhất là sự sáng tạo. Sự phản ánh đó bị khúc xạ qua
lăng kính chủ quan của mỗi người (như qua kinh nghiệm, nhu cầu, hứng thú…),
và đó là sự phản ánh tích cực của mỗi chủ thể.
– Quá trình học tập của học sinh cũng diễn ra theo công thức của V.I.Leenin về
quá trình nhận thức: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy
trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lý, nhận
thức hiện thực khách quan”.
* Tuy nhiên, trong quá trình, nhận thức của học sinh còn thể hiện tính độc đáo, cụ thể như sau: –
Quá trình nhận thức của học sinh không phải là quá trình tìm ra cái mới
chonhân loại mà chủ yếu là sự tái tạo những tri thức của loài người đã tạo ra. –
Quá trình nhận thức của học sinh không diễn ra theo con đường mò mẫm,
thửvà sai như quá trình nhận thức nói chung của loài người, mà diễn ra theo con
đường đã được khám phá, được những nhà xây dựng chương trình, nội dung
dạy học gia công sư phạm. Vì vậy, trong một thời gian nhất định, học sinh có
thể lĩnh hội khối lượng tri thức rất lớn một cách thuận lợi. –
Quá trình học tập của học sinh phải tiến hành theo các khâu của quá trình dạyhọc –
Quá trình nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học diễn ra dưới vai
tròchủ đạo của người giáo viên cùng với những điều kiện sư phạm nhất định. lOMoAR cPSD| 40439748
Kết luận: Như vậy bản chất của quá trình dạy học là hoạt động nhận
thức độc đáo của học sinh.
2. Kết luận Sư Phạm
Để có thể thực hiện tốt công việc dạy học trong tương lai người GV cần: •
“Dạy học lấy học sinh làm trung tâm” là phương pháp sư phạm
tiến bộ của thế giới hiện nay, yêu cầu người dạy phải quan tâm tới
học sinh từ tâm sinh lý đến hoàn cảnh sở trường, sở đoản… Từ nhiều
phương diện khác nhau đó người dạy mới có thể chọn lựa được
những phương pháp giảng dạy phù hợp, động viên học sinh hứng thú học tập. •
Giúp học sinh tự học: Muốn trở thành người công dân tốt, ai cũng
cần được giáo dục về quyền lợi và nghĩa vụ của mình để tự giác thực
hiện cho đúng. Giúp học sinh hình thành những kỹ năng sống cơ bản
để vững vàng bước vào đời: ý thức tổ chức kỷ luật, có thái độ đúng
đắn trong việc nhận thức và chấp hành pháp luật. •
Đổi mới hoạt động của người giáo viên là khâu quan trọng nhất vì
đó là hoạt động trực tiếp quyết định kết quả học tập của quá trình
dạy học. Qua thực tế có thể nhận thấy, phương pháp dạy học trước
đây thường máy móc, rập khuôn, đồng loạt cho tất cả các thành viên
trong lớp, thầy đọc, trò chép, tạo cảm giác mệt mỏi, thụ động đối với
học sinh trong việc tiếp nhận kiến thức. Bên cạnh đó, việc thiếu
những dẫn chứng sinh động trong thực tế cũng như thiếu những dụng
cụ trực quan làm cho các tiết học trở nên khô khan, nhàm chán,
không gây được sự hứng thú đối với học sinh. Hệ quả tất yếu là chất
lượng tiết học có nhiều hạn chế có tính. Học sinh chỉ biết im lặng
ngồi nghe, không dám nêu ý kiến khác biệt, không phát huy được
tính tích cực trong học tập.
- Giáo viên cần có những cách thức cụ thể trong việc làm “mềm” hoá môn
học vốn được xem là khô khan, trừu tượng này bằng những thí dụ sinh
động trong đời sống thực tế. Có thể thay cách thuyết giảng một chiều bằng
việc nêu những câu hỏi gợi mở, nêu vấn đề thảo luận nhằm phát huy tính
tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh. Trong một số tiết học, trong
những tình huống cụ thể, để tạo sự hào hứng và cuốn hút học sinh vào bài
học, có thể dàn dựng những vở kịch ngắn do chính học sinh thể hiện. Mặt
khác, cần đầu tư hơn trong việc sưu tầm tư liệu, tranh ảnh minh hoạ, cùng
các dụng cụ trực quan tạo ra sự sinh động cho mỗi giờ lên lớp. •
Rèn luyện tư duy và kỹ năng
Trước khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu các tư liệu, tài liệu liên quan đến
nội dung bài giảng. Khi chia nhóm, giáo viên phải giao từng nhiệm vụ cụ
thể, quan sát các hoạt động của nhóm. Sau đó yêu cầu từng nhóm tổng hợp lOMoAR cPSD| 40439748
và trình bày trước tập thể lớp các ý kiến. Trong khi thảo luận nhóm, các
thành viên phải có ý kiến tham gia cho dù ý kiến đó chưa hay hoặc chưa
đúng lắm nhưng bước đầu tạo điều kiện cho các em ham thích học tập bộ
môn, đặc biệt giúp học sinh yếu kém có động lực vươn lên, còn học sinh
khá giỏi năng động sáng tạo hơn. •
Điều đổi mới ở đây là không nhất thiết giáo viên phải hướng dẫn tất
cả các em làm thực hành các kỹ năng nhận biết các nội dung liên
quan đến bài học vận dụng trong cuộc sống hàng ngày; có thể chọn
một vài học sinh có kỹ năng tốt đặc biệt là những em có kỹ năng
diễn đạt bằng lời nói để rèn luyện cho các em kỹ năng sư phạm, từ
đó các em hướng dẫn lại bạn trong nhóm, trong lớp. Thông qua đó
giáo viên đã khơi dậy tính tích cực học tập của học sinh. Ngoài ra,
giáo viên cần rèn luyện tư duy logic, phân tích tổng hợp nêu vấn đề
và giải quyết vấn đề bằng cách nêu các câu hỏi phù hợp với từng đối
tượng học sinh để các em tự trả lời. Trong quá trình thảo luận nếu có
ý kiến khác nhau giáo viên nên khuyến khích các em phản biện. •
Lớp học tập cá thể hóa cho phép học sinh tự đánh giá, tự rèn luyện
cho tới khi đạt được các kỹ năng cần thiết. Cuối cùng giáo viên là
người đưa ra kết luận về kiến thức đạt được của học sinh. •
Xây dựng thái độ học tập nghiêm túc.
Người giáo viên cần giúp học sinh nhận thức các môn học không khó, tất
cả đều là những vấn đề rất gần gũi và thiết thực trong cuộc sống mà chúng
ta vẫn thường gặp hằng ngày và tất cả mọi người đều cần phải rèn luyện
trong mọi lĩnh vực, trong mọi hoàn cảnh. •
Học sinh cần suy nghĩ và bày tỏ quan điểm của mình để hiểu và khắc
sâu kiến thức. Thông qua từng bài học, hãy liên hệ bản thân để từng
bước tự hoàn thiện mình trở thành những người tốt, những công dân gương mẫu.
Tóm lại, dạy học cá thể là một phương pháp giáo dục tiến bộ, tôn trọng
tư duy độc lập, khơi gợi sự sáng tạo, ươm mầm cho từng cá nhân phát
triển. Tuy nhiên không thể xem nhẹ vai trò người thầy vì không máy móc
nào có thể thay thế được vai trò chủ đạo trong việc lĩnh hội kiến thức của học sinh.
Câu 2. Các qui luật cơ bản của quá trình dạy học.
a/ Các quy luật cơ bản
Quy luật dạy học phản ánh mối quan hệ chủ yếu, tất yếu và bền vững giữa các
thành tố trong cấu trúc của quá trình dạy học (và giữa các yếu tố trong từng thành tố).
Các quy luật dạy học bao gồm: lOMoAR cPSD| 40439748 -
Quy luật về mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa môi trường kinh tế -
xã hội văn hoá, khoa học công nghệ với các thành tố của quá trình dạy học; -
Quy luật về mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa hoạt động dạy của giáo
viên với hoạt động học của học sinh; -
Quy luật về mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa dạy học và giáo
dục;- Quy luật về mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa dạy học và sự phát triển trí tuệ; -
Quy luật về mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa mục đích, nội dung,
phương pháp, phương tiện của quá trình dạy học.
Trong các quy luật trên, quy luật về mối quan hệ thống nhất biện chứng
giữa hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh được coi là quy
luật cơ bản của quá trình dạy học.
Nắm được những quy luật trên, ta có thể xây dựng những biện pháp để
xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho học sinh
CÂU 3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG ĐỘNG CƠ HỌC TẬP
ĐÚNG ĐẮN CHO HỌC SINH.
Những vấn đề triển khai
I. Hiểu biết về thực tế dạy học
II. Một số biện pháp xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho học sinh hiện nay
1. Cơ sở tạo nên các biện pháp xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho học
sinh hiện nay:
a/ Quy luật của quá trình dạy học
b/ Động lực của quá trình dạy học
2. Các biện pháp xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho học sinh hiện nay
a/ Khái niệm về động cơ b/ Một số quan niệm về động cơ học tập c/ Các
biện pháp xây dựng động cơ học tập đúng đắn đúng đắn 3. Kết luận BÀI LÀM CỤ THỂ
Khái niệm quá trình dạy học : Quá trình dạy học là một quá trình dưới sự tổ
chức, hướng dẫn, điều khiển của người dạy, người học tự giác, tích cực, chủ lOMoAR cPSD| 40439748
động, sáng tạo, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức – học tập của
mình nhằm thực hiện tốt mục đích dạy học, qua đó, phát triển nhân cách. Thực tế dạy học: -
Các nhà trường phổ thông vẫn còn dạy học theo những phương pháp
truyền thống, giáo viên thuyết giảng và học sinh chép bài -> Chưa thật sự gây
được mong muốn học tập của học sinh -
Giáo viên vẫn sử dụng bảng và phấn làm công cụ chính để dạy học, chưa
áp dụng những tiến bộ của KHKT như máy tính, máy chiếu, bảng tương tác ->
Không gây được sự tò mò, hứng thú, say mê của học sinh trong tìm hiểu tri thức -
Giáo viên chưa chú trọng sự tương tác giữa thầy và trò, nhiều thầy cô dạy
kiếnthức trên sách vở, không chấp nhận sự sáng tạo, ý kiến cá nhân của người học
-> Học sinh không có nhiều cơ hội để sáng tạo, tư duy, tưởng tượng, phát biểu
những ý kiến riêng của bản thân -
Học sinh không có nhiều cơ hội thực hành, làm thí nghiệm, đi thực tế trải
nghiệm trong nhà trường phổ thông -> Do đó thiếu kiến thức thực tế, thiếu kĩ
năng, các lí thuyết học được chỉ trên sách vở mà không có cơ hội áp dụng, trải nghiệm
Một số thực tế dạy học trên trong các nhà trường phổ thông khiến học sinh
không thể xác định được động cơ học tập của mình, chỉ học tập vì bị bắt buộc
hoặc học tập theo số đông
II. Một số biện pháp xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho học sinh hiện nay
1. Cơ sở tạo nên các biện pháp xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho học sinh hiện nay
Để xây dựng các biện pháp thì ta phải hiểu về quy luật, động lực và logic của
quá trình dạy học a/ Các quy luật
Quy luật dạy học phản ánh mối quan hệ chủ yếu, tất yếu và bền vững giữa các
thành tố trong cấu trúc của quá trình dạy học (và giữa các yếu tố trong từng thành tố).
Các quy luật dạy học bao gồm: -
Quy luật về mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa môi trường kinh tế
- xã hội văn hoá, khoa học công nghệ với các thành tố của quá trình dạy học; - lOMoAR cPSD| 40439748
Quy luật về mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa hoạt động dạy của giáo
viên với hoạt động học của học sinh; -
Quy luật về mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa dạy học và giáo
dục;- Quy luật về mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa dạy học và sự phát triển trí tuệ; -
Quy luật về mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa mục đích, nội
dung, phương pháp, phương tiện của quá trình dạy học.
Trong các quy luật trên, quy luật về mối quan hệ thống nhất biện chứng
giữa hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh được coi là quy
luật cơ bản của quá trình dạy học.
Nắm được những quy luật trên, ta có thể xây dựng những biện pháp để xây
dựng động cơ học tập đúng đắn cho học sinh b) Động lực của quá trình dạy học
Quá trình dạy học tồn tại với tư cách là một hệ thống - cấu trúc luôn vận
động và phát triển không ngừng nhờ động lực của nó.
Động lực của quá trình dạy học là kết quả của việc giải quyết các mâu thuẫn
của quá trình dạy học .
Mâu thuẫn của quá trình dạy học bao gồm mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài:
+ Mâu thuẫn bên ngoài của quá trình dạy học là mâu thuẫn giữa các thành tố
của quá trình dạy học với môi trường kinh tế- xã hội, văn hoá, khoa học, công nghệ.
+ Mâu thuẫn bên trong của quá trình dạy học là mâu thuẫn giữa các thành tố của
quá trình dạy học với nhau và mâu thuẫn giữa các yếu tố trong từng thành tố.
Trong số các mâu thuẫn bên trong của quá trình dạy học, có một mâu thuẫn tồn
tại suốt từ đầu đến cuối quá trình này và kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn
đó sẽ có những tác động đến việc giải quyết các mâu thuẫn khác của quá trình
dạy học, quá trình này cũng nhờ đó mà vận động và phát triển không ngừng, đó
chính là mâu thuẫn cơ bản của quá trình dạy học.
Mâu thuẫn cơ bản của quá trình dạy học là mâu thuẫn giữa yêu cầu,
nhiệm vụ học tập do giáo viên đề ra với trình độ nhận thức (trình độ phát triển
trí tuệ, trình độ tri thức, kĩ năng, kĩ xảo) hiện có của người học. Kết quả của
việc giải quyết mâu thuẫn này sẽ tạo nên động lực chủ yếu của quá trình dạy
học. Quá trình dạy học vận động và phát triển chủ yếu là nhờ động lực này.
Quá trình giải quyết mâu thuẫn cơ bản là quá trình học sinh thực hiện các yêu lOMoAR cPSD| 40439748
cầu, nhiệm vụ học tập dưới sự hỗ trợ của giáo viên. Dưới góc độ Triết học thì
đây là quá trình học sinh tích lũy, tìm kiếm, huy động tri thức, kỹ năng của bản
thân (tích lũy về lượng) đến mức độ cần thiết, đủ để thực hiện các yêu cầu,
nhiệm vụ học tập, nhờ đó người học được nâng cao trình độ và đáp ứng được
nhiệm vụ dạy học đề ra (biến đổi về chất).
Quá trình dạy học là quá trình giáo viên liện tục đề ra các nhiệm vụ học
tập và khi một nhiệm vụ được giải quyết lại có nhiệm vụ khác xuất hiện và lại
được giải quyết, cứ như vậy mà quá trình dạy học không ngừng vận động và
phát triển. Sự thúc đẩy giải quyết các mâu thuẫn cơ bản đó tạo ra động lực cơ
bản của quá trình dạy học.
Tuy nhiên, muốn quá trình dạy học phát triển thì quá trình học của học
sinh phải tiến triển. Vì vậy, mâu thuẫn cơ bản của quá trình dạy học phải chuyển
hoá thành mâu thuẫn cơ bản của quá trình lĩnh hội tri thức của học sinh.
Mâu thuẫn cơ bản muốn giải quyết được, cần có những điều kiện sau: - Thứ
nhất, người học phải hiểu đúng, đầy đủ, sâu sắc nhiệm vụ học tập và các điều
kiện thực hiện nhiệm vụ đó.
- Thứ hai, yêu cầu, nhiệm vụ học tập phải vừa sức với người học. Điều này có
nghĩa là yêu cầu, nhiệm vụ học tập được đề ra ở mức độ tương ứng với giới
hạn trên của vùng phát triển trí tuệ gần nhất: ZPD - Zone of Proximal
Develoment (theo lí thuyết của Vugozky) mà họ có thể giải quyết được với sự nỗ lực cao nhất;
- Thứ ba, yêu cầu, nhiệm vụ học tập phải dựa trên lô-gic của quá trình dạy học.
Ví dụ: Khi học về môn toán hình học thì các em sẽ được tiếp xúc với hình
khối dưới sự trợ giúp và hướng dẫn từ giáo viên về cách phân biệt hình
khối, cách vẽ hình, cách tính chu vi, diện tích,...và người giáo viên sẽ
phải giảng giải từng phần cho học sinh, sau đó giao bài tập để học sinh có
thể nắm rõ hơn về yêu cầu bài và kiến thức cần đạt được. Sau khi hiểu rõ
rồi lại tiếp tục đi phân tích sâu hơn về mối liên hệ giữa các hình
học,...phạm vi kiến thức sẽ ngày càng mở rộng hơn, quá trình học tập
không ngừng mở rộng và phát triển.
2/ Các biện pháp xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho học sinh hiện nay
a / Khái niệm về động cơ
Động cơ trong tiếng Latin là Motiff, có nghĩa là nguyên nhân thúc đẩy
con người hành động. Nguyên nhân nằm trong chủ thể có thể xuất phát từ nhu
cầu sinh lý hoặc tâm lý (vì đói khát mà con người đi tìm thức ăn, nước uống; vì
yêu quý thầy cô mà trẻ học hành,…) Động cơ về mặt sinh học đó là những kích
thích bản năng, ý hướng sinh vật, những hành vi của phản xạ không điều kiện, lOMoAR cPSD| 40439748
cảm xúc, trạng thái rối loạn tinh thần… Động cơ ý chí có thể bắt nguồn từ
những ham muốn, nhu cầu, cảm xúc cũng như từ những lợi ích, tư tưởng nhận
thức, những nhiệm vụ mà đời sống xã hội đã đặt ra trước con người.
Động cơ có hai chức năng: thúc đẩy, hướng dẫn hoạt động và tạo cho
hoạt động một ý chủ quan. Mỗi hoạt động đều có nhiều động cơ chi phối, chúng
hợp thành hệ thống thứ bậc các động cơ. Con người hướng hoạt động vào đối
tượng nào điều đó phụ thuộc động cơ nào chiếm ưu thế.
“Động cơ là đối tượng đáp ứng nhu cầu này hay nhu cầu khác, nó thúc
đẩy hay điều khiển hoạt động của con người”. Hay “Cái gì khi được phản ánh
trong đầu con người, thúc đẩy con người hoạt động nhằm thỏa mãn một nhu cầu
nhất định thì gọi là động cơ của hoạt động ấy”.
Như vậy, khi nghiên cứu về động cơ phải xem xét cái gì phản ánh vào
đầu học sinh trong lúc nó hoạt động.
b/ Một số quan niệm về động cơ học tập
Tiếp thu kiến thức là một yếu tố rất quan trọng trong quá trình học tập, là
điều luôn quyết định mang đến sự thành công hay thất bại của người học. Việc
tiếp thu kiến thức tốt hay không tốt phụ thuộc vào động cơ học tập. Động cơ
học tập sẽ giúp duy trì sự hứng thú, sự ham muốn tìm tòi khám phá và có tinh
thần vượt khó khăn, trở ngại,…
Các nhà tâm lý học phương Tây cho rằng: “Động cơ học tập bao gồm
không chỉ yếu tố bên trong mang tính chủ quan mà cả những yếu tố bên ngoài
mang tính khách quan. Những yếu tố này được tạo ra bởi bản thân con người
với tư cách một chủ thể hoạt động, bởi tính chất của những hoàn cảnh bên ngoài
cùng những kích thích bản năng bên trong”
Các nhà tâm lý học Mác-xít nghiên cứu hoạt động học tập như một quá
trình, có vị trí nhất định trong cuộc sống của con người. Theo họ, động cơ học
tập của con người được quan niệm như là những kích thích mà con người ý thức
được, có tác dụng thúc đẩy hoạt động học tập.
Theo L.I.Bozovic: “Động cơ học tập là cái vì nó khiến trẻ học tập hay nói
cách khác cái kích thích trẻ học tập”. Đây là một quan điểm đúng đắn mà đơn
giản, dễ hiểu. Ta có thể đưa ra một số nhận xét chung về động cơ học tập như sau: -
Một, động cơ học tập không phải thuần túy tinh thần. Động cơ ấy
phải mang một hình thức tồn tại vật chất bên ngoài. Khi ở bên ngoài, nó
phải hiện thân vào một thực thể khác, là đối tượng hoạt động học, là tri
thức, kĩ năng . Trên cùng một đối tượng học tập có thể bám vào nhiều động cơ khác nhau. lOMoAR cPSD| 40439748 -
Hai, động cơ học tập được biểu hiện ở nhận thức, thái độ, hành động. -
Ba, động cơ học tập chỉ được hình thành chính trong quá trình học
sinh giải quyết những nhiệm vụ học tập. -
Bốn, hoạt động học tập của học sinh được thúc đẩy bởi nhiều động
cơ. Các động cơ này tạo thành cấu trúc xác định có thứ bậc của các kích
thích. Trong đó có một số động cơ là chủ đạo, là cơ bản một số động cơ khác là phụ, thứ yếu.
c/ Các biện pháp xây dựng động cơ học tập đúng đắn đúng đắn
Dựa trên logic của quá trình dạy học, ta có thể xây dựng động cơ học tập
đúng đắn cho học sinh như sau:
Kích thích thái độ học tập tích cực của học sinh
Thái độ tích cực trong học tập là sự huy động ở mức độ cao các chức năng tâm
lý (Sự chú ý; nhu cầu, hứng thú học tập; các phẩm chất đạo đức; các phẩm chất
trí tuệ; các phẩm chất thể chất...) để giúp cho việc học tập đạt hiệu quả. Thái độ
học tập tích cực thể hiện đặc trưng ở sự chú ý và nhất là ở hứng thú của học
sinh đối với việc học. Cho nên, kích thích học sinh tích cực học tập tức là kích
thích sự chú ý của học sinh, làm cho các em có hứng thú với việc học tập, các
em nhận thấy việc học tập là nhu cầu tự thân, từ đó có niềm vui trong học tập...
Thái độ học tập tích cực của học sinh được coi là điều kiện, động lực thúc đẩy quá trình học tập.
Từ nghiên cứu cấu trúc của quá trình dạy học, các nhà tâm lý, giáo dục học cho
rằng các yếu tố ảnh hưởng đến thái độ học tập tích cực của học sinh bao gồm:
Môi trường học tập; yêu cầu, nhiệm vụ học tập; nội dung học tập; giáo viên đặc
biệt là phương pháp dạy học của giáo viên và từ chính bản thân học sinh. Kích
thích thái độ học tập tích cực của HS là quá trình điều khiển, điều chỉnh tất cả
các yếu tố tác động trên nhằm tạo nên thái độ tích cực của HS trong học tập.
Các biện pháp cụ thể kích thích thái độ học tập tích cực:
- Giáo viên có thể tạo ra nhiều hoạt động gắn với nội dung học tập (trò chơi,
hoạt động trải nghiệm,...) để từ đó kích thích sự hứng thú, khuyến khích sự tò
mò, óc sáng tạo để khơi dậy động lực thúc đẩy nội tâm của học sinh
Ví dụ: Trong một tiết học, giáo viên tổ chức cho các em trò chơi “Chiếc nón kì
diệu” (mỗi ô sẽ có một câu hỏi và học sinh sẽ trả lời, trả lời đúng sẽ có 1 phần
thưởng), nội dung ô chữ liên quan đến vấn đề đang học để từ đó kích thích sự
năng nổ của các em làm cho các em tích cực hơn trong học tập.
- Giáo viên kết hợp công nghệ thông tin trong giảng dạy: sử dụng máy chiếu lOMoAR cPSD| 40439748
(xây dựng slide bài giảng đẹp, gây hứng thú), sử dụng bảng tương tác
- Giáo viên kết hợp các hình ảnh minh họa, các ví dụ trực quan
Ví dụ: Khi học về cơ thể người trong môn Sinh học, cần đưa ra những hình ảnh
trực quan (mô hình, hình ảnh trên màn chiếu…) để học sinh tham khảo, nắm rõ
và hứng thú hơn về bài học
Ví dụ: Khi học về lắp đặt mạch điện trong Công nghệ 9, giáo viên đưa mô hình
lắp đặt, thị phạm lắp đặt mạch điện cho học sinh quan sát
Tổ chức, hỗ trợ học sinh kiến tạo tri thức mới
Việc tổ chức, hỗ trợ học sinh chiếm lĩnh tri thức mới được bắt đầu từ chỗ: +
Kích thích học sinh huy động các tri thức, kinh nghiệm có liên quan đã biết
làm cơ sở cho việc nắm tri thức mới;
+ Tổ chức, hỗ trợ học sinh thu thập thông tin về vấn đề nghiên cứu (hay nắm
các tài liệu cảm tính) với các biện pháp khai thác thông tin từ các nguồn như:
Từ nội dung bài giảng phong phú, hấp dẫn, lời nói sinh động, giàu hình tượng,
dễ hiểu của giáo viên; từ việc sử dụng đúng các phương tiện trực quan, hướng
dẫn học sinh quan sát đúng; từ các nguồn tài liệu in ấn hay từ việc khai thác trải nghiệm của học sinh...
+ Trên cơ sở những tài liệu cảm tính mà học sinh có được, tổ chức, hỗ trợ học
sinh vận dụng các thao tác tư duy để hình thành kiến thức. Quá trình đó được
tiến hành với các biện pháp giúp học sinh biết huy động những kinh nghiệm đã
có, những tài liệu cảm tính làm nguyên liệu cho nhận thức lý tính; giúp các em
thực hiện các thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh... qua các câu
hỏi, các bài tập có vấn đề...
Một số biện pháp cụ thể tổ chức, hỗ trợ học sinh kiến tạo tri thức mới - Giáo
viên cho học sinh thực hành, làm các thí nghiệm ngay trong buổi học, nội dung
thực hành thí nghiệm phải liên quan đến bài vừa học
Ví dụ: Sau khi học về sự giãn nở vì nhiệt trong vật lí, giáo viên có thể cho học
sinh tự thực hành để quan sát và hiểu được hiện tượng cùng nguyên nhân của sự
giãn nở đó. Từ đó giúp học sinh có cái nhìn sâu sắc, hiểu và nhớ lâu bài học -
Giáo viên sử dụng phương pháp thuyết trình kết hợp với phương pháp vấn đáp
bằng hệ thống câu hỏi linh hoạt sẽ tạo được hứng thú cho học sinh trong lớp
học. Người học với đặc điểm tâm lý là ngại giơ tay phát biểu ý kiến, vì sợ sai, bị
đánh giá nên khi xây dựng hệ thống câu hỏi chú ý tới nguyên tắc dạy học “sát
đối tượng”. Giáo viên có thể tăng dần mức độ khó của các câu hỏi, tùy từng lớp lOMoAR cPSD| 40439748
học, từng học sinh mà có những câu hỏi vừa sức, khuyến khích học sinh trả lời
bằng lời nói, điểm số…kích thích học sinh trong học tập.
- Giáo viên áp dụng các phương pháp tích cực trong giảng dạy học sinh
như thảo luận nhóm, nghiên cứu trường hợp điển hình qua câu chuyện
kể, đoạn clip, trò chơi ô chữ, những trò chơi phá “tảng băng”. Những
phương pháp này sẽ góp phần tạo sự hào hứng, tạo ấn tượng cho người
học nhằm truyền tải nội dung giảng dạy một cách nhẹ nhàng, hiệu quả.
Tổ chức, hỗ trợ học sinh củng cố tri thức, rèn luyện hình thành kĩ năng, kĩ xảo
Chỉ trong một thời gian ngắn của tiết học trên lớp, học sinh không thể
nắm chắc tài liệu học tập để biến tri thức thành kinh nghiệm của bản thân. Cho
nên, phải hướng dẫn các em:
- Biết cách ghi nhớ, nhất là ghi nhớ có chủ định, có ý nghĩa;
- Biết cách ôn tập, ôn tập thường xuyên, liên tục và bằng nhiều cách;
- Biết cách hệ thống hóa tri thức học được, từ đó đưa tri thức mới tiếp thu
được vào hệ thống những kinh nghiệm vốn có của mình. Trên cơ sở đó,
giáo viên tổ chức, hỗ trợ học sinh rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo và sử dụng
tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách có hiệu quả.
Người giáo viên có thể tiến hành rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo cho người học bằng
cách hướng dẫn học sinh:
- Giải quyết các bài tập, các nhiệm vụ học tập với các loại khác nhau;
- Làm thí nghiệm, thực nghiệm;
- Giải quyết các vấn đề, các tình huống xảy ra trong cuộc sốngKhi tổ
chức rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo và sử dụng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cần lưu ý:
- Luyện tập có mục đích, có kế hoạch;
- Luyện tập một cách có hệ thống;
- Luyện tập tuân theo quy trình nhất định, phù hợp với quy luật nhận thứccủa học sinh;
- Luyện tập có cơ sở khoa học...
Một số biện pháp cụ thể để tổ chức, hỗ trợ học sinh củng cố tri thức, rèn luyện
hình thành các kĩ năng, kĩ xảo
- Giáo viên giao các bài tập về nhà cho học sinh với mức độ khó tăng dần
liên quan đến nội dung bài học để các em nắm được kiến thức và nhớ
lâu hơn về nội dung bài học
Ví dụ: Sau tiết học Tiếng anh, giáo viên giao bài tập liên quan đến bài học hôm
đó: tăng dần mức độ khó: bài tập nhận biết (nhận biết được từ tiếng anh bằng lOMoAR cPSD| 40439748
cách chép các từ đã học) -> bài tập thông hiểu (bài tập giúp các em nhớ từ và
hiểu được các hoàn cảnh dùng từ đó) -> bài tập vận dụng (bài tập giúp các em
thuần thục vận dụng các từ tiếng anh đã học trong các hoàn cảnh khác nhau) -
Hướng dẫn các em hình thành kĩ năng hệ thống hóa kiến thức bằng các biểu
đồ, các sơ đồ, mindmap
Ví dụ: Sau khi học về tác giả Nguyễn Trãi, giáo viên giao nhiệm vụ cho học
sinh hệ thống hóa kiến thức về tác giả bằng sơ đồ, mindmap… (Giáo viên hướng dẫn cách làm)
- Hướng dẫn các em làm thí nghiệm tại nhà, áp dụng những bài học vào cuộc sống
Ví dụ: Sau khi học về mắc mạch điện song song trong môn vật lí, giáo viên có
thể giao bài thu hoạch cho học sinh, hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm mắc
mạch điện tại nhà hoặc quan sát các mạch điện có thể có trong gia đình mình
Ví dụ: Sau khi học xong bài “Tim và mạch máu” và bài “Vận chuyển máu qua
hệ mạch” (Sinh học 8) học sinh sẽ được thực hành “Sơ cứu cầm máu” (giả
định), qua đó các em sẽ được vận dụng tri thức đã học để thực hành và áp dụng
vào thực tế cuộc sống sau này.
Tổ chức, điều khiển việc kiểm tra, đánh giá mức độ chiếm lĩnh tri thức,
hình thành kĩ năng, kĩ xảo của học sinh đồng thời tổ chức cho học sinh tự
kiểm tra, đánh giá mức độ chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo của bản thân
Khâu này nhằm đảm bảo các mối liên hệ xuôi, ngược diễn ra trong quá
trình dạy học qua đó giúp cho giáo viên có cơ sở để điều khiển, điều chỉnh quá
trình dạy học; học sinh tự điều khiển, điều chỉnh quá trình học tập của mình.
Khi tổ chức thực hiện khâu này cần lưu ý:
- Thực hiện một cách có mục đích, có kế hoạch và có hệ thống;
- Thực hiện kết hợp các phương pháp và hình thức khác nhau;
- Đảm bảo đúng các nguyên tắc cũng như các chức năng của việc kiểm tra đánh giá;
- Bồi dưỡng cho học sinh ý thức và năng lực tự kiểm tra, đánh giá
Một số biện pháp cụ thể để tổ chức điều khiển việc kiểm tra, đánh giá của giáo
viên và tổ chức tự đánh giá cho học sinh
- Sau tiết học, giáo viên cho học sinh nêu lại những kiến thức đã học, lấy ví dụ,
áp dụng trong cuộc sống để thấy được mức độ lĩnh hội kiến thức hôm đó của học sinh lOMoAR cPSD| 40439748
Ví dụ: Sau bài học môn GDCD về “Lý tưởng sống của thanh niên” (Bài 10 –
Sách GDCD lớp 9), giáo viên gọi các học sinh nêu khái quát lại những vấn đề
chính đã học, lấy ví dụ về vấn đề và liên hệ bản thân
- Sau một quá trình học, tổ chức một buổi đánh giá kiểm tra theo nhiều hình
thức khác nhau (ví dụ kiểm tra giấy, kiểm tra vấn đáp, kiểm tra thuyết trình…)
để thấy được mức độ tiếp thu, lĩnh hội và ghi nhớ của học sinh trong cả quá trình
Một số biện pháp khác
Hình thành mối quan hệ tình bạn tuổi học trò ngay khi các em còn đang học như
thành lập các nhóm học cùng tiến, cùng giúp nhau khai phá kiến thức, cùng
chung tay với nhau trong các công việc của lớp, của trường. Khuyến khích khen
thưởng, động viên kịp thời những việc làm tốt, học tập tốt của các nhóm học
tập, những tình cảm chân thành, vô tư khi giúp đỡ bạn cùng lớp cùng trường.
Không ngừng cải tiến phương pháp giảng dạy để có thể tự làm mới mỗi tiết dạy
kể cả hình thức lẫn nội dung để mỗi tiết lên lớp là một sự sáng tạo. Đổi mới từ
cách kiểm tra kiến thức, cách đặt vấn đề cho bài mới, hệ thông câu hỏi pháp
vấn, thảo luận, cách củng cố bài, cách ghi bảng, ghi các tiêu đề… cần tạo được
sự tập trung chú ý của các học sinh ngay từ phút đầu tiên của tiết học… Chắt
lọc, tổng hợp tri thức của cá nhân để truyền thụ cho học sinh, đưa ra các ví dụ,
minh họa cụ thể, tiêu biểu, điển hình, có chọn lọc, phù hợp với nội dung bài giảng. 3. Kết luận
Tóm lại, động cơ học tập không có sẵn, cũng không thể áp đặt mà được hình
thành dần dần trong quá trình người học đi sâu chiếm lĩnh đối tượng học tập. Từ
nhu cầu với các đối tượng học tập, từ những yếu tố bên ngoài mà hình thành
nên động cơ thúc đẩy hoạt động học tập của người học. Giáo viên có vai trò rất
quan trọng trong việc xây dựng động cơ học tập cho học sinh, để làm được điều
đó các nhà giáo cần nắm vững kiến thức lý luận, chuyên môn, kĩ năng và không
ngừng học hỏi để quá trình dạy học phù hợp và đạt được hiệu quả tốt nhất.
CÂU 4. CÁC NGUYÊN TẮC DẠY HỌC Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG.
1. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa học và tính giáo dục: Nội dung nguyên tắc: lOMoAR cPSD| 40439748
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học phải vũ trang cho người
học những tri thức khoa học chân chính, phản ánh những thành tựu khoa
học, công nghệ và văn hoá hiện đại, phải dần dầngiúp học sinh tiếp cận với
những phương pháp học tập, nhận thức, thói quen suy nghĩ và làm việcmột
cách khoa học. Thông qua đó mà dần dần hình thành cơ sở thế giới quan
khoa học, tình cảm và những phẩm chất đạo đức cao quý của con người hiện đại
Dạy học không chỉ làm phát triển lý trí của con người và cung cấp cho
người học một khối lượng kiến thức nào đó mà phải làm cháy lên ở họ lòng
khát khao học tập một cách nghiêm túc. Thiếu điều đó thì cuộc sống không
thể nào là một cuộc sống xứng đáng và hạnh phúc. Ảnh hưởng giáo
dục của khoa học là người đồng hành không tránh khỏi của dạy học. Song
từ đó sẽ không đúng khi cho rằng dạy học bao giờ cũng có tác động như
nhau đến học sinh và sự nỗ lựcmột cách tự giác, nghệ thuật của nhà giáo
dục không có ý nghĩa quan trọng. Trái lại, tính chất giáo dục của dạy học,
phương hướng tư tưởng và sức mạnh ảnh hưởng của nó tới học sinh là do
nội dung, phương pháp dạy học, sự tổ chức tiết học và do tác động của
chính nhân cách người giáo viên quyết định.Chính vì vậy, để thực hiện
nguyên tắc này cần phải:- Vũ trang cho người học những tri thức khoa học
chân chính, hiện đại nhằm giúp cho họ nắm được quy luật phát triển của
tự nhiên, xã hội, tư duy, có cách nhìn và thái độ hành động đúngđắn đối
với hiện thực.- Cung cấp cho họ những hiểu biết sâu sắc về thiên nhiên, xã
hội, con người Việt Nam, nhữngtruyền thống tốt đẹp trong lịch sử dựng
nước và bảo vệ đất nước của dân tộc ta qua hàng ngàn năm, đặc biệt truyền
thống đó ngày càng phát triển mạnh mẽ dưới sư lãnh đạo của Dảng. Từ đó
giáo dục cho học sinh tinh thần trách nhiệm, nghĩa vụ công dân trước sự
nghiệpcông nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong học tập và tu dưỡng.
- Bồi dưỡng cho học sinh ý thức và năng lực phân tích, biết phê phán
một cách đúng mức những thông tin đăng tải trên các phương tiện thông lOMoAR cPSD| 40439748
tin đại chúng, những quan niệm khác nhau về một vấn đề- Vận dụng các
phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học theo hướng giúp học sinh
làm quen với một số phương pháp nghiên cứu khoa học ở mức độ đơn giản
nhằm dần dần tiếp cận với hoạt động khoa học, rèn luyện những tác phong,
phẩm chất của người nghiên cứu khoa học
2. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn,
học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với đời sống, với nhiệm vụ
phát triển đất nước. Nội dung nguyên tắc:
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học nắm vững tri thức, nắm
vững cơ sở khoa học, kỹ thuật, văn hoá khi kết hợp hai điều kiện: Thứ nhất
tri thức là những điểm có hệ thống, quan trọng và then chốt hơn cả. Thứ
hai tri thức đó phải được vận dụng trong thực tiễn để cải tạo hiện thực, cải
tạo bản thân. Thông qua đó mà giúp họ ý thức rõ tác dụng của tri thức lý
thuyết đối với đời sống, với thực tiễn, với công cuộc xây dựng và bảo vệ
đất nước, hình thành cho họ những kỹ năng vận dụng chúng ở những mức
độ khác nhau mà mức độ cao nhất là góp phần phát triển kinhtế xã hội và
văn hoá khoa học của đất nước.
Bản thân nội dung “ Lý luận liên hệ với thực tiễn” đã phản ánh nội
dung “học đi đôi với hành”. Theo Hồ Chí Minh thì “ Lý luận phải đem ra
thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận. Lý luận cũng như cái tên.
Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn hoặc bắn lung
tung cũng như không có tên. Vì vậy, chúng ta phải gắng học, đồng thời
phải hành”.Theo Bác, học phải toàn diện: “ Trong giáo dục không những
phải có tri thức phổ thông mà còn phải có đạo đức cách mạng”. Còn “
hành” theo Người là vận dụng những điều đã học vào việc giải quyết những
vấn đề do thực tiễn đề ra. “Hành” đối với Người không chỉ là những việc
to lớn mà cả trong những việc bình thường, ai cũng làm được. Song việc
làm đó có ý nghĩa xã hội, ý nghĩa cách mạng rất lớn, có tác dụng hình thành lOMoAR cPSD| 40439748
con người có tư tưởng cao cả, tình cảm và hành vi đẹp đẽ, góp phần vào
sự nghiệp vĩ đại của tập thể, của dân tộc từ những công việc bình thường
hàng ngày.Từ đó có thể nhận thấy nội dung khái niệm học và hành quện
vào nhau, đan kết chặt chẽ với nhau. Trong nội dung học có nội dung hành
và ngược lại, trong nội dung hành đã có nội dung học, thể hiện ở động cơ,
mục đích, thái độ và cách học: Học làm người.Nguyên tắc này dựa trên
nhận thức luận của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng giáo dục Hồ Chí
Minh. Theo Bác, “ thống nhất lý luận và thực tiễn là nguyên tắc căn bản
của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì
thành thực tiễn mù quáng. Lý luận không liên hệvới thực tiễn là lý luận
suông”. Một mặt, Người chống lại lý luận suông, nhưng mặt khác Người
cũng chống lại bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, coi thường lý luận: “ Có kinh
nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng, một mắt mờ” Để thực
hiện nguyên tắc này cần phải: -
Khi xây dựng kế hoạch chương trình dạy học cần lựa chọn
nhữngmôn học và những tri cơ bản, phù hợp với những điều kiện thiên
nhiên, với hoàn cảnh thực tiễn xây dựng và phát triển kinh tế
– xã hội, chuẩn bị cho người học thích ứng nhanh và tham gia có hiệu
quả vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. -
Về nội dung dạy học phải làm cho người học nắm vững tri thức
lýthuyết, thấy rõ nguồn gốccủa những tri thức đó và vai trò của tri thức
khoa học đối với thực tiễn; phải vạch ra phương hướng ứng dụng tri thức
khoa học vào hoàn cảnh cụ thể đất nước, của địa phương; phải phảnámh
tình hình thực tiễn vào nội dung dạy học -
Về phương pháp dạy học cần khai thác vốn sống của người học
đểminh hoạ, để đặt ra và giải quyết những vấn đề lý luận. Cần vận dụng có
đổi mới những phương pháp như thí nghiệm, thực nghiệm, nghiên cứu các
tài liệu thực tiễn…làm cho học sinh nắm nhanh và nắm chắc những tri thức
lý thuyết và vận dụng những tri thức lý thuyết đó vào giải quyết những tình lOMoAR cPSD| 40439748
huống khác nhau. Thông qua đó, bước đầu giúp học sinh làm quen với
những phương pháp nghiên cứu khoa học -
Về hình thức tổ chức dạy học thì cần kết hợp các hình thức tổ
chứcdạy học khác nhau, đặc biệt là hình thức lên lớp với hình thức tham
quan học tập, hình thức thực hành, thực tập ở phòng thí nghiệm, ở các trung
tâm kĩ thuật tổng hợp.Dạy học kết hợp với lao động sản xuất và hoạt động
công ích là điều kiện quan trọng để thực hiện hiệu quả nguyên tắc nàyg thí
nghiệm, ở các trung tâm kỹ thuật tổng hợp…
Ví dụ: Giáo viên dạy về phát triển cây công nghiệp lâu năm ở Tây
NguyênVề lí thuyếtCho học sinh đọc SGK nắm lí thuyết về phát triểt cây
công nghiệp như:Các loại cây công nghiệp lâu năm về diện tích, sản lượng,
phân bốVề điều kiện thuận lợi: khí hậu, thổ nhưỡng,thị trường, nguồn
vốnTình hình phát triểnVề thực tiễnCho học sinh quan sát át lát.Giới thiệu
các hình ảnh về các loại cây công nghiệp.Cho học sinh xem đoạm phim về
giá trị sản phẩm của các loại cây công nghiệp.Giới thiệu các thông tin qua
báo, tin tức ở ti vi, internet được cập nhật hằng ngày.GV cho học sinh hoạt
động nhómCho học sinh làm sơ đồ minh họa Học sinh quan sát bản đồ
Khai thác thực tiễn bên ngoài thông qua các hình ảnh minh họa ,đoạn phim
để vận dụng cho bài học Kết quả đạt được của học sinhBiết quan sát và
trình bày nội dung bài học Nắm được lí thuyết và hiểu bài hơnVận dụng
vào làm các bài tập một cách nhanh chóngLàm cho tiết học hứng thú hơn
3. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa cái cụ thể và cái trừu
tượng trong dạy học. Nội dung nguyên tắc:
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học có thể cho học sinh
tiếp xúc trực tiếp với sự vật, hiện tượng hay hình tượng của chúng, từ đó
hình thành những khái niệm, quy luật, lý thuyết; ngược lại, có thể từ việc
lĩnh hội những tri thức lý thuyết trước rồi xem xét những sự vật, hiện tượng
cụ thể sau.Trong việc vận dụng nguyên tắc này bao giờ cũng đảm bảo mối lOMoAR cPSD| 40439748
quan hệ qua lại giữa tư duy cụ thể và tư duy trừu tượng.Từ đó ta có thể nhận thấy rằng:
Đầu tiên tính trực quan có thể là điểm xuất phát chủ yếu ở các lớptiểu học.
Thứ hai tuỳ theo mức độ vận động của trẻ từ các lớp dưới lên các lớp trên
thì điểm xuất phát của quá trình dạynhọc là sự tiếp cận lịch sử đối với sự
phát minh một quy luật nào đó. Lúc đầu nêu lên vấn đề, tiếp theo là trình
bày lịch sử giải quyết vấn đề đó và cuối cùng là trạng thái hiện nay. Sau đó
cần phải tiến hành công tác thực hành hoặc làm thí nghiệm. Đó là con đường có tính quy nạp
– lịch sử trong việc nghiên cứu tri thức. Ở đây tính trực quantham gia hai
lần như là minh hoạ sự phát minh, nghĩa là sự phát minh đó diễn ra trong
lịch sử khoa học như thế nào và vạch ra cách giải quyết vấn đề hiện nay ra
sao. Tuy nhiên cần phải thấy rằng việc trình bày theo quan điểm lịch sử
mất nhiều thời gian học tập và không phải bao giờ cũng cần thiết. Cơ sở
xuất phát có thể là những luận điểm lý thuyết, tiên đề, hệ thống khái niệm
đã được lĩnh hội ở những giai đoạn dạy học trước đây hoặc thậm chí được
đưa vào bằng con đường lý luận. Chỉ sau khi đã nắm được những định luật
có tính chất lý luận đó, trực quan được sử dụng để minh hoạ sự vận dụng
chúng hoặc dưới hình thức công việc ở phòng thí nghiệm khi bài tập nhận
thức được giải quyết bằng con đường thực nghiệm.Ngay cả học sinh tiểu
học cũng tiến hành dạy học từ cái chung đến cái riêng nhằm phát triển tư duy lý luận cho trẻ.
Để thực hiện nguyên tắc này cần: -
Sử dụng phối hợp nhiều phương tiện trực quan khác nhau với tư cách
làphương tiện và nguồn nhận thức. -
Kết hợp việc trình bày các phương tiện trực quan và lời nói sinh
động,diễn cảm, nghĩa là kết hợp hai hệ thống tín hiệu. lOMoAR cPSD| 40439748 -
Cần sử dụng lời nói giàu hình ảnh để giúp học sinh vận dụng
nhữngbiểu tượng đã có để hình thành những biểu tượng mới, qua đó mà
hình thành những khái niệm, định luật mới. -
Cần vận dụng một trong những cách sử dụng trực quan nêu trên
phùhợp với lứa tuổi, nội dung và hoàn cảnh cụ thể nhằm hình thành và phát
triển tư duy lý thuyết cho họ. -
Cần sử dụng phối hợp các hình thức tổ chức dạy học một cách hiệu
quả.- Đề ra cho học sinh những bài tập nhận thức đòi hỏi phải thiết lập
được mối quan hệ giữa cái cụ thể, cái trừu tượng và ngược lại.
Ví dụ: Tư duy cánh chim bay lên trời và conngười cũng có thể đi trên
không, sáng chế ramáy bay giúp con người đi trên không lĩnh hội khái niệm
tư duy, trừu tượng, khoa họcở trên lớp và về nhà mới cụ thể, chi tiết.Cần
kết hợp tư duy cụ thể và tư duy trừu tượngCụ thể: những mặt, những thuộc
tính có quan hệ với hiện tượng của hiện thực khách quan(hiện tượng, sự
vật tự nhiên: trời, mây, mưa,gió, chim bay trên trời, nước chảy…)
4. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính vững chắc của tri thức,
kĩ năng, kĩ xảo và tính mềm dẻo của tư duy. Nội dung nguyên tắc:
Nguyên tắc này đòi hỏi học sinh nắm chắc bản chất vấn đề trong sự hòa
trộn với khinh nghiệm bản thân. Mặt khác, học sinh cần phải nhớ lâu, nhớ
nhiều, nhớ nhanh, nhớ chính xác kiến thức phù hợp nhằm giải quyết có
hiệu quả từng tình huống cụ thể.Quá trình nắm kiến thức liên quan mật
thiết đến các phẩm chất tư duy. Tư duy mềm dẻo, linh hoạttrong lĩnh hội,
đồng thời phải cơ động trong việc vận dụng giải quyết những tình huống
quen thuộc và tình huống mới.Tâm lý học đã khẳng định việc lĩnh hội nội
dung dạy học và phát triển năng lực nhận thức là hai mặt của một quá trình,
có liên hệ mật thiết với nhau. Khi lĩnh hội những tri thức khoa học thì trí
não đồng thời thực hiện những nhiệm vụ nhận thức khác nhau, và cùng với
điều đó, năng lực nhận thức của học sinh được phát triển.Trong cách hiểu lOMoAR cPSD| 40439748
như trên, nguyên tắc này cần phải kết hợp với nguyên tắc tự giác, tích cực,
độc lập, sáng tạo của học sinh, nghĩa là phải làm cho họ nhớ lại điều đã
học một cách tự giác, đã đượcsuy ngẫm, tránh lối học thuộc l òng một cách
máy móc và thiếu suy nghĩ sâu sắc về tài liệu đó, vàdo vậy chẳng hiểu được điều mình học.
Để thực hiện nguyên tắc này cần:
- Cần làm nổi bật cái cơ bản, bản chất của vấn đề.
- Học sinh phải biết sử dụng phối hợp các loại ghi nhớ: ghi nhớ chủ
định,ghi nhớ không chủ định, ghi nhơ máy móc, ghi nhớ có ý nghĩa.
Tuy nhiên, ghi nhớ có chủ định có tầm quan trọng đặc biệt, vì nó là cơ
sở của sự học thuộc và nhớ lâu.
- Bên cạnh việc hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa, cần
hướngdẫn các em biết cách sưu tầm và tra cứu tài liệu tham khảo.
- Trong quá trình dạy học, chú ý ôn tập cho học sinh. Song, trong ôn
tậpphải yêu cầu học sinhnắm được tính hệ thống của kiến thức, thấy
được cái mới, đồng thời tạo điều kiện cho học sinh vận dụng kiến thức
vào nhiều tình huống thực tiễn khác nhau. Điều đó có tác dụng làm cho
học sinh vừa nắm chắc kiến thức, vừa rèn luyện phẩm chất linh hoạt trong tư duy.
Ví dụ: Đối với học sinh lớp 10 khi học về bài “DÒNG BIỂN” Học sinh
gặp một số khó khăn trong quá trình tiếp nhận tri thức:Khó nắm quy luật
hoạt động của các dòng biểnkhó nhớ tên cũng như vị trí của các dòng
biểnGiáo viên giúp học sinh hình thành hệ thống tri thức:
Các dòng biển nóng thường di chuyển từ vĩ độ thấp đến vĩ độ caoCác
dòng biển lạnh thì ngược
Câu 5. Khái niệm và chức năng của mục tiêu dạy học 1.
Khái niệm mục tiêu dạy học
- Mục tiêu dạy học là kết quả về sự phát triển nhân cách của người học
cầnđạt được sau khi kết thúc một giai đoạn hai một quá trình dạy học. lOMoAR cPSD| 40439748
- Mục tiêu của quá trình dạy học hiện đại luôn hướng tới những công
việchay những hành động mà người học có thể làm được sau khi kết
thúc khóa học năm học hai kỳ học hay một môn học khoa học nào đó.
=> Để xác định được mục tiêu dạy học cho một chủ đề cần xác định
được Kết quả của sự phát triển nhân cách của người học cần đạt được
sau khi kết thúc khóa học - Hay nói cách khác là xác định được những
hành động việc làm người học sẽ đạt được sau khi kết thúc quá trình
tìm hiểu về một chủ đề nhất định trong một bộ môn khoa học nào đó
a) Chức năng của mục tiêu dạy học -
Chức năng định hướng: Giáo viên căn cứ vào mục tiêu dạy học để thiết kế
nộidung dạy học, lựa chọn phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học
phù hợp nhằm mang lại hiệu quả tối ưu cho hoạt động dạy học. Còn học sinh,
trên cơ sở ý thức được mục tiêu dạy học sẽ có ý thức, hành vi điều chỉnh hoạt
động học tập của bản thân để hoàn thành tốt các nhiệm vụ dạy học. -
Chức năng kiểm tra - đánh giá: Mục tiêu dạy học như là những thước đo
màgiáo viên căn cứ vào đó để đánh giá kết quả học tập của học sinh, cũng như tự
đánh giá hiệu quả hoạt động dạy học của bản thân.
Phụ: Xác định mục tiêu dạy học cho một chủ đề/bài học thuộc môn học anh
(chị) sẽ phụ trách sau này ở trường phổ thông? (phần gạch chân) 1. Mục tiêu dạy học:
Khái niệm mục tiêu dạy học: -
Mục tiêu dạy học là kết quả về sự phát triển nhân cách của người học cầnđạt
được sau khi kết thúc một giai đoạn hai một quá trình dạy học. -
Mục tiêu của quá trình dạy học hiện đại luôn hướng tới những công việchay
những hành động mà người học có thể làm được sau khi kết thúc khóa học năm
học hai kỳ học hay một môn học khoa học nào đó.
=> Để xác định được mục tiêu dạy học cho một chủ đề cần xác định được Kết
quả của sự phát triển nhân cách của người học cần đạt được sau khi kết thúc
khóa học - Hay nói cách khác là xác định được những hành động việc làm lOMoAR cPSD| 40439748
người học sẽ đạt được sau khi kết thúc quá trình tìm hiểu về một chủ đề nhất
định trong một bộ môn khoa học nào đó.
*Trong khung kế hoạch bài dạy của Bộ giáo dục và đào tạo đề ra vào 18/12/2020
yêu cầu về mục đích dạy học được đề ra như sau: Mục tiêu của quá trình dạy
học được đề ra trên 3 cơ sở:
-Về kiến thức: Nêu cụ thể nội dung kiến thức học sinh cần học trong bài theo
yêu cầu cần đạt của nội dung giáo dục/ chủ đề tương ứng trong chương trình môn
học hoạt động giáo dục. -
Về năng lực : Nêu cụ thể yêu cầu học sinh làm được gì (biểu hiện cụ thể
của năng lực chung và năng lực đặc thù môn học cần phát triển) trong hoạt động
học để chiếm lĩnh và vận dụng kiến thức theo yêu cầu cần đạt của chương trình
môn học hoạt động giáo dục.
-Về phẩm chất: Nêu cụ thể yêu cầu về hành vi thái độ (biểu hiện cụ thể của phẩm
chất cần phát triển gắn với nội dung bài dạy) của học sinh trong quá trình thực
hiện các nhiệm vụ học tập và vận dụng kiến thức vào cuộc sống.
* Ngoài ra trong từng phần của tiến trình dạy học giáo viên cũng phải xác định
được mục tiêu của các vấn đề nhiệm vụ rõ ràng:
-. Hoạt động 1: Xác định vấn đề/nhiệm vụ học tập/Mở đầu (Ghi rõ tên thể hiện
kết quả hoạt động): giúp học sinh xác định được vấn đề/nhiệm vụ cụ thể cần giải
quyết trong bài học hoặc xác định rõ cách thức giải quyết vấn đề/thực hiện nhiệm
vụ trong các hoạt động tiếp theo của bài học. -
Hoạt động 2: Hình thành kiến thức mới/giải quyết vấn đề/thực thi nhiệm
vụ đặt ra từ Hoạt động 1 (Ghi rõ tên thể hiện kết quả hoạt động): giúp học sinh
thực hiện nhiệm vụ học tập để chiếm lĩnh kiến thức mới/giải quyết vấn đề/thực
hiện nhiệm vụ đặt ra từ Hoạt động 1. -
Hoạt động 3: Luyện tập: vận dụng kiến thức đã học và yêu cầu phát triển
các kĩ năng vận dụng kiến thức cho học sinh. -
Hoạt động 4: Vận dụng: phát triển năng lực của học sinh thông qua nhiệm
vụ/yêu cầu vận dụng kiến thức, kĩ năng vào thực tiễn (theo từng bài hoặc nhóm
bài có nội dung phù hợp).
2. Xác định mục tiêu dạy học cho một chủ đề/bài học thuộc môn học anh (chị)
sẽ phụ trách sau này ở trường phổ thông?
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CHỦ ĐỀ TIÊU HOÁ THỜI GIAN: 2 Tiết
I. MỤC TIÊU: Sau khi học xong chủ đề này HS có khả năng:
1. Kiến thức :Bảng mô tả mức độ đánh giá năng lực của học sinh qua chủ đề: TIÊU HOÁ lOMoAR cPSD| 40439748
MỨC ĐỘ NHẬN THỨC Nhận biết Thông hiểu
Vận dụng thấp Vận dụng cao
- Nêu được khái - Mố t đả ược quá - So sánh được - Gi i thích đả ược ni m têu
hóa.ệ trình têu hóa n iộ têu hóa n i bàoộ th c ăn c a trấuứ ủ - Xác đ nh đị ược
bào trùng giày.ở v i têu hóaớ bò nghèo dinh các b ph n c aộ ậ ủ - Mố t đả ược
quá ngo i bào.ạ dưỡng nh ngư ốống têu hóa c aủ trình têu hóa - So sánh têu
chúng vấẫn phát người. th c ăn ứ ở th yủ hóa ở đ ng v tộ ậ tri nể bình - Xác đ
nh đị ược t c.ứ ăn c và đ ng v tỏ ộ ậ thường.
các loài đ ng v tộ ậ - Xác đ nh đị ược ăn th t.ị - Gi i thích đả ược ăn th t, ăn th cị
ự mốối liên h gi aệ ữ ru t non c a cáộ ủ v t.ậ cấốu t o và ch cạ ứ ăn th t ngăốn h nị ơ năng c a t ng bủ ừ ộ so v i cá ăn rongớ
ph n trong ốốngậ rêu, c .ỏ têu hóa. 2.
Năng lực : Các năng lực có thể hướng tới trong chủ đề ST
Tên năng lực Các kỹ năng thành phần T 1
Năng lực tự - Nêu được quá trình tiêu hóa thức ăn ở động
vật chưa học có cơ quan, có cơ quan tiêu hóa thức ăn trong túi tiêu
hóa và trong ống tiêu hóa; cơ chế hấp thụ các sản phẩm của quá trình tiêu hóa
- Trình bày được sự tiêu hóa ở động vật ăn thịt, ĐV
ănthực vật và động vật ăn tạp.
- Phân biệt được hệ tiêu hóa ở các nhóm động vật
khácnhau, cấu tạo cơ quan tiêu hóa ở động vật ăn thịt và động vật ăn tạp 2
- Ở động vật ăn thực vật, nguồn protein từ thực vật rất
thấp vậy động vật ăn cỏ nhận được protein từ đâu? Năng
lực - Tại sao thỏ có hiện tượng ăn phân của chính mình? giải quyết - Tại
sao ống tiêu hóa ở động vật ăn thực vật dài hơn vấn đề, tư ống tiêu hóa
ở động vật ăn thịt? duy sáng - Tại sao gà lại ăn sỏi? lOMoAR cPSD| 40439748
tạo. - Tại sao nói quá trình tiêu hóa ở ruột non là giai đoạn tiêu hóa quan trọng nhất? 3
- Qu n lí b n thấn: t p trung trong h c t p.a a ậ ọ ậ - Qu n lí nhóm: a
+ Lắng nghe: báo cáo phân biệt về cấu tạo và chức
năng của ống tiêu hóa giữa thú ăn thịt và thú ăn thực Năng lực tự vật.
quản lý + Phân tích nội dung báo cáo các vấn đề trên. + Chia sẻ phương
pháp nghiên cứu nội dung chủ đề về tiêu hóa ở động vật.
+ Hình thành kĩ năng làm việc nhóm: kĩ năng phân chia công việc. 4
- Sử dụng ngôn ngữ nói, ngôn ngữ cơ thể để thảo luận
Năng lực về các nội dung: phân biệt về cấu tạo và chức năng của giao
tiếp ống tiêu hóa giữa thú ăn thịt và thú ăn thực vật để trình bày bài cáo cáo,..
- Sử dụng ngôn ngữ viết để viết báo cáo; đánh giá kết quả hoạt động nhóm 5 Năng
lực -Hợp tác thực hiện bài báo cáo về
tiêu hóa ở động vật ăn hợp tác
tạp, ăn thịt, ăn cỏ. 6
Năng lực sử - Sử dụng thành thạo internet để sưu tầm các
hình ảnh dụng CNTT về tiêu hóa thức ăn ở trùng giày,
thủy tức, giun đất, côn và truyền trùng, chim, thú và người;
thông (ICT) - Sử dụng thành thạo internet để thông báo, liên lạc các kết
quả mà nhóm đã thực hiện được cho giáo viên hướng dẫn.
- Sử dụng các thiết bị trình chiếu để báo cáo kết quả thực hiện tại lớp. 7
Năng lực sử Sử dụng đúng các thuật ngữ khoa học như:
tiêu hóa, dụng ngôn tiêu hóa nội bào, thực bào, tiêu hóa ngoại bào. ngữ 3. Về phẩm chất
a. Kỹ năng: rèn luyện các kĩ năng, phương pháp khoa học
- Quan sát: Hình ảnh, sơ đồ về cấu tạo ống tiêu hóa ở các nhóm động vậtkhác nhau.
- Phân loại hay sắp xếp theo nhóm: lOMoAR cPSD| 40439748
+ Phân loại các hình thức tiêu hóa ở các nhóm động vật: chưa có cơ quan
tiêu hóa, có túi tiêu hóa, có ống tiêu hóa.
+ Cấu tạo của ống tiêu hóa ở các nhóm động vật khác nhau.
+ Sắp xếp các nhóm động vật theo hướng tiến hóa của các cơ quan tiêu hóa từ thấp đến cao.
b. Thái độ: Vận dụng các kiến thức về tiêu hóa để có chế độ ăn uống để bảo vệ sức khỏe.
II. MỤC TIÊU TRONG KẾ HOẠCH DẠY HỌC A.
Hoạt động 1: HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG -
Tạo tình huống có vấn đề, gợi mở nội dung chuyên đề: TIÊU HOÁ Mục đích :
+ Tạo sự tò mò từ đầu buổi học, giúp học sinh tiếp thu bài học 1 cách chủ động.
+ Học sinh có thể định hình được chủ đề chính của bài học . B.
Hoạt động 2: HOẠT ĐỘNG HÌNH THÀNH KIẾN THỨC
a. Hình thành kiến thức về tiêu hóa và quá trình tiêu hóa ở các nhóm động vật.
- Phát biểu được khái niệm tiêu hóa, phân biệt được tiêu hóa nội bào và tiêuhóa ngoại bào.
- Phân tích được một số đặc điểm nổi bật của quá trình tiêu hóa thức ăn ở
cácnhóm động vật khác nhau.
- Phân tích được chiều hướng tiến hóa trong hệ tiêu hóa của động vật.
b. Hình thành kiến thức về quá trình tiêu hóa ở động vật ăn thịt và ăn tạp .
- Mô tả được các quá trình biến đổi thức ăn trong ống tiêu hóa ở động
vậtăn thịt và động vật ăn tạp.
c. Hình thành kiến thức về quá trình tiêu hóa ở động vật ăn thực vật
-Mô tả được các quá trình biến đổi thức ăn trong ống tiêu hóa ở các nhóm
động vật ăn thực vật: Động vật nhai lại, động vật có dạ dày đơn, chim ăn hạt và gia cầm.
d. Hình thành kiến thức về sự hấp thụ các chất dinh dưỡng .
- Nêu được các cơ chế hấp thụ các chất dinh dưỡng và các con đường
vậnchuyển các chất hấp thụ. lOMoAR cPSD| 40439748
- Trình bày được sự phù hợp cấu tạo với chức năng hấp thụ của ruột.
C. Hoạt động 3: LUYỆN TẬP:
- Chuẩn hóa cũng cố kiến thức chủ đề bài học và luyện tập Mục đích:
+ Giúp HS hệ thống, củng cố kiến thức của đề bài học
+ Đánh giá lại quá trình dạy học của giáo viên và học sinh liên quan đến bài học.
D. Hoạt động 4: VẬN DỤNG - MỞ RỘNG
- Vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống; Vận dụng các kiến thức
vềtiêu hóa để có chế độ ăn uống để bảo vệ sức khỏe. Mục đích:
+ Góp phần bổ sung, hoàn thiện kiến thức biến kiến thức thành hành
động thiết thực trong cuộc sống.
+ Gíup HS áp dụng môtj cách linh hoạt và sáng tạo, từ đó phát triển toàn bộ khả năng của HS .
KẾT LUẬN SƯ PHẠM:
Đổi mới PPDH theo hướng lấy học sinh làm trung tâm đã đưa học sinh lên 1 vị
thế mới, từ chỗ là người thụ động trong quá trình học tập trở nên chủ động hơn.
Nói như vậy không có nghĩa là vai trò của người thầy bị hạ thấp hayg giảm sút
mà vai trò của người thầy được chuyển sang một địa vị khác: từ người truyền
đạo sang người hướng dẫn, hỗ trợ, cố vấn và giám sát. Với đặc điểm phát huy
tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học của xu hướng đổi mới PPDH
thì người thầy có nhiệm vụ vô cùng quan trọng trong việc tạo hứng thú động cơ
học tập cho người học. Mỗi người thầy phải là người khơi mào mọi sự phấn
đấu, tích cực của người học, lôi cuốn, hấp dẫn người học tham gia vào quá trình
học tập. Để làm được điều đó yêu cầu phải hình thành và phát triển cho học sinh: -
05 phẩm chất chủ yếu sau: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm. -
10 năng lực cốt lõi, gồm 03 năng lực chung: NL tự chủ và tự học, NL
giao tiếpvà hợp tác, NL giải quyết vấn đề và sáng tạo và 07 năng lực đặc thù:
NL ngôn ngữ, NL tính toán, NL khoa học, NL công nghệ, NL tin học, NL thẩm mĩ, và NL thể chất. lOMoAR cPSD| 40439748
Bên cạnh đó, việc người nhà giáo tự xếp nên mục tiêu dạy học bậc trung học
phổ thông giúp học sinh tiếp tục phát triển những phẩm chất, năng lực cần thiết
đối với người lao động, ý thức và nhân cách công dân, khả năng tự học và ý
thức học tập suốt đời, khả năng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực và
sở thích, điều kiện và hoàn cảnh của bản thân để tiếp tục học lên, học nghề hoặc
tham gia vào cuộc sống lao động, khả năng thích ứng với những đổi thay trong
bối cảnh toàn cầu hoá và cách mạng công nghiệp mới.
Câu 6. Khái niệm và cấu trúc nội dung dạy học phổ thông. 1.
Khái niệm nội dung dạy học -
Nội dung dạy học là hệ thống những tri thức, kinh nghiệm thực
hiện những cách thức hoạt động đã biết, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo
và kinh nghiệm về thái độ đối với thế giới, con người, được xử lí về mặt
sư phạm và được định hướng về mặt chính trị, mà người giáo viên cần tổ
chức cho học sinh lĩnh hội để đảm bảo hình thành và phát triển nhân
cách học sinh theo mục tiêu dạy học đã định. -
Nội dung dạy học là thành tố đặc biệt quan trọng của quá trình
dạy học. Nội dung dạy học quy định nội dung hoạt động của cả thầy và
trò trong suốt quá trình dạy học, hay nói cách khác nó xác định giáo viên
dạy cái gì và học sinh học cái gì trong quá trình dạy học nhằm thực hiện
mục tiêu nhiệm vụ dạy học.
Ví dụ: Trong giảng dạy: nội dung dạy học của bài “ Sóng – Xuân Quỳnh ” được xác định như sau: Tìm hiểu chung:
+) Tác giả Xuân Quỳnh (cuộc đời – sự nghiệp – phong cách nghệ thuật )
+) Tác phẩm Sóng (Hoàn cảnh ra đời – nội dung, hình thức của tác phẩm:
thể thơ – phương thức biểu đạt – bố cục bài thơ) Đọc – Hiểu văn bản:
+) Nội dung chính của từng khổ thơ
+) Bản chất – Quy luật – Sóng và vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ khi
yêu. +) Đặc sắc nghệ thuật. Tổng kết:
+) Nội dung: Bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng
nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn lOMoAR cPSD| 40439748
của đời người. Từ đó cho thấy tình yêu là một thứ tình cảm cao đẹp, một
hạnh phúc lớn lao của con người.
+) Nghệ thuật: Hình ảnh ẩn dụ vận dụng linh hoạt; tác dụng của thể thơ 5
chữ: ngắn gọn, nhịp điệu linh hoạt, … hình ảnh sóng đôi sóng và em,
ngôn ngữ dung dị, trong sáng. 2.
Đặc trưng của nội dung dạy học -
Là một hệ thống bao gồm đầy đủ các yếu tố của cấu trúc kinh
nghiệm xã hội cần truyền đạt cho thế hệ trẻ .
Ví dụ: Nội dung tri thức trong hệ thống sách giáo khoa
và những kiến thức được đưa vào giảng dạy là toàn bộ cấu trúc kinh
nghiệm của xã hội được đúc rút lại qua nhiều quá trình và được chắt
lọc cẩn thận để truyền lại cho các thế hệ sau, thông qua các bài giảng. -
Được lựa chọn và xây dựng từ kinh nghiệm xã hội của loài người
theo một định hướng chính trị nhất định. Do vậy có thể thấy rằng
nội dung dung dạy học có tính lịch sử, tính giai cấp. - Ví dụ:
Chương trình giáo dục phổ thông mới 2018 xây dựng trên cơ sở
quan điểm của Đảng, Nhà nước về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo; kế thừa và phát triển những ưu điểm của các chương
trình giáo dục phổ thông đã có của Việt Nam; gắn với nhu cầu phát
triển của đất nước, những tiến bộ của thời đại về khoa học - công
nghệ và xã hội; phù hợp với đặc điểm con người, văn hoá Việt Nam,
các giá trị truyền thống của dân tộc và những giá trị chung của nhân
loại cũng như các sáng kiến và định hướng phát triển chung của
UNESCO về giáo dục; tạo cơ hội bình đẳng về quyền được bảo vệ,
chăm sóc, học tập và phát triển, quyền được lắng nghe, tôn trọng và
được tham gia của học sinh; đặt nền tảng cho một xã hội nhân văn,
phát triển bền vững và phồn vinh.
Luật giáo dục 2019: “Nội dung phải bảo đảm […] coi trọng giáo
dục tư tưởng, phẩm chất đạo đức và ý thức công dân; kế thừa và
phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại…nội dung sách giáo khoa không mang định
kiến dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, giới, lứa tuổi và địa vị xã hội”.
Chương trình giáo dục phổ thông mới 2018 môn Lịch sử: “…giúp
học sinh có nhận thức đúng về chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân
tộc chân chính, tiến bộ của dân tộc Việt Nam, vị thế của quốc gia –
dân tộc trong khu vực và trên thế giới trong các thời kì lịch sử, lOMoAR cPSD| 40439748
hướng tới xây dựng lòng tự hào dân tộc chân chính, nhận thức được
thế mạnh và cả những hạn chế trong di tồn lịch sử của dân tộc…” -
Nội dung dạy học đã được xử lí về mặt sư phạm để phù hợp với
đặc điểm tâm lí – sinh lí của học sinh ở từng lứa tuổi, từng cấp học, bậc học . Ví dụ:
Luật giáo dục 2019: “Giáo dục tiểu học phải bảo đảm cho học sinh
nền tảng phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, kỹ năng xã hội;
có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có
nhận thức đạo đức xã hội; có kỹ năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết
và tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh; có
hiểu biết ban đầu về hát, múa, âm nhạc, mỹ thuật”.
Nội dung dạy học phổ thông là hệ thống những tri thức, kĩ năng, kĩ
xảo về nhiều lĩnh vực ở trình độ phổ thông mà học sinh cần nắm
vững trong suốt thời gian học phổ thông và hệ thống những hoạt
động được tổ chức trong quá trình dạy học nhằm đảm bảo hình
thành ở người học thế giới quan, nhân sinh quan khoa học và những
phẩm chất nhân cách của con người mới, chuẩn bị cho các em bước
vào cuộc sống, và lao động sản xuất. 3.
Cấu trúc nội dung dạy học phổ thông
- Dựa vào kiến thức đã nghiên cứu, xác định được nội dung dạy học gồm
có 4 thành phần, cụ thể như sau:
Thứ nhất: Tri thức về nhiều lĩnh vực khác nhau (tự nhiên, xã hội, tư
duy, kĩ thuật, phương pháp…). Sự lĩnh hội các tri thức này sẽ giúp cho học
sinh có vốn hiểu biết phong phú, có công cụ để hình thành thế giới quan khoa học. Ví dụ:
Đối với môn Hóa học: nội dung tri thức HS lĩnh hội được là về các
chất hóa học, các phản ứng giữa các chất, cân bằng phương trình
hóa học, giải thích các hiện tượng trong đời sống bằng việc vận dụng môn hóa học.
Đối với môn Toán học: tri thức các em tiếp thu được là về các công
thức toán học để áp dụng vào từng bài toán cụ thể, vận dụng linh
hoạt vào cuộc sống hàng ngày.
Đối với môn Ngữ Văn: tri thức các em tiếp nhận được sau một buổi
học có thể là sự hiểu biết về giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của
các tác phẩm văn học. Từ các tác phẩm đó hình thành cho các em lOMoAR cPSD| 40439748
cách nhìn nhận mới mẻ về con người và cuộc sống, hình thành thế giới quan, nhân sinh quan.
Thứ hai: Kinh nghiệm tiến hành các phương thức hoạt động đã biết
(kĩ năng, kĩ xảo chung và chuyên biệt, phương pháp, quy trình…). Nắm
vững yếu tố này giúp học sinh vận dụng tri thức để giải quyết vấn đề cụ thể. Ví dụ:
Môn Ngữ văn: Sau khi học về phương pháp làm bài văn nghị luận,
học sinh xây dựng được dàn ý bài văn nghị luận và triển khai được
thành một bài văn nghị luận hoàn chỉnh.
Môn Sinh học: Sau khi học về cấu trúc của ADN, học sinh sẽ vận
dụng kiến thức và công thức đã học để tính số Nu, số đoạn mạch và
tính được số liên kết hóa trị.
Thứ ba: Kinh nghiệm tiến hành các hoạt động sáng tạo (vận dụng tri
thức, kĩ năng, kĩ xảo, phương pháp và các thao tác tư duy trong những tình
huống mới, không giống mẫu). Nhờ có yếu tố này mà học sinh có năng lực
giải quyết vấn đề mới, cải tạo hiện thực, thực hành nghiên cứu khoa học Ví dụ :
Hoạt động giáo dục STEM: vận dụng kiến thức liên môn (Lý – Hóa
– Toán) để thực hiện 1 công trình nghiên cứu, có sản phẩm cụ thể.
Thứ tư: Kinh nghiệm về thái độ cảm xúc đánh giá đối với thế giới,
đối với con người. Thành phần này thể hiện tính giáo dục của nội dung dạy
học. Đây là các tri thức, thái độ và hành vi trong các quan hệ theo những
chuẩn mực xã hội. Lĩnh hội yếu tố này sẽ tạo nên niềm tin, lí tưởng, hình
thành hệ thống giá trị đúng đắn ở học sinh.
Ví dụ: Sau khi học xong văn bản “Vợ nhặt” – Kim Lân, học sinh tiếp thu
thêm tri thức về thân phận rẻ rúng của con người trong xã hội xưa, bị áp
bức bóc lột, cuộc sống cơ cực nghèo khổ. Từ đó hình thành một cái nhìn
thương cảm đồng cảm, cảm thông với những số phận thấp cổ bé họng
trong xã hội xưa, qua đó cũng nói lên được vai trò quan trọng của Đảng, lOMoAR cPSD| 40439748
của cách mạng trong việc thay đổi vận mệnh đất nước, vận mệnh con người...
Qua đây có thể thấy rằng bốn thành phần trên có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau, quy định thống nhất nhau: Bởi tri thức là cơ sở hình thành kĩ
năng, kĩ xảo. Tri thức và kĩ năng, kĩ xảo lại là cơ sở để tạo ra kinh nghiệm
hoạt động sáng tạo. Không có tri thức thì không thể có kĩ năng, kĩ xảo và
cũng không thể có hoạt động sáng tạo. Bởi hoạt động sáng tạo bắt nguồn
từ những cái đã biết, trên cơ sở đó mới có những thay đổi, chỉnh sửa thích
hợp. Song, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo không phải tỉ lệ thuận với khối
lượng tri thức mà phụ thuộc vào cách thức chiếm lĩnh và vận dụng tri thức
đó. Đến lượt mình, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo lại tạo điều kiện để
lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo nhanh hơn, tốt hơn, sâu sắc hơn. Nắm vững
các thành phần trên giúp học sinh có thái độ đánh giá đúng đắn với tự
nhiên, xã hội và con người. Còn thái độ tác động trở lại tạo ra sự tích cực
hay không tích cực trong việc chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và hoạt
động sáng tạo. Bốn thành phần này không thể thiếu trong nội dung dạy học
để giáo dục nên con người phát triển toàn diện.
Câu 7. Mối quan hệ giữa các thành phần của nội dung dạy học 1. Mục đích giáo dục:
Mục đích là định hướng, là hướng đi cho một công việc mà ta dự địng. từ mục
đích ta có thể thiết kế ra, chuẩn bị ra nội dung và phương pháp để sau đó, ta đưa
tất cả vào thực tiễn. Mục đích của giáo dục cũng không nằm ngoài quy luật ấy.
Mục đích giáo dục là sự định hướng của thế hệ trước đối với thế hệ sau với mong
muốn thế hệ trẻ trở thành công dân tốt phù hợp với sự phát triển của thời đại. Thật
thề, ai cũng mong muốn cho thế hệ sau của mình trở nên tốt đẹp, vì vậy mà khi
sinh ra, trẻ đã được ông bà cha mẹ quan tâm một cách cực kì tốt, rồi còn chuẩn bị
cho bé từng li từng tí, khi bé học mẫu giáo, lên cấp một, rồi cấp hai, cấp ba… rồi
vào đời với trăm ngàn ngã rẽ nữa… Tất cả với mong muốn sau nay có một tương
lai sáng lạn cho con cháu. Chính vì vậy mà mục đích giáo dục nó chi phối toàn
bộ hoạt động giáo dục sau này. 2. Nội dung giáo dục: lOMoAR cPSD| 40439748
Khi mục đích giáo dục đã được vẽ ra thì tiếp theo, nội dung giáo dục là một trong
những thành tố quan trọng vì nó trả lời cho câu hỏi ta giáo dục cái gì cho học
sinh. Thật vậy, nội dung giáo dục là hệ thống tri thức về các giá trị văn hóa xã hội
mà đối tượng giáo dục cần nắm vững để biến nó thành ý thức thái độ và hành vi
cá nhân phù hợp với chuẩn mực xã hội. Có câu nói: Tri thức thì vô hạn mà khả
năng của con người thì rất hữu hạn. Vì thế, các kiến thức hay nội dung mà ta giáo
dục cho học sinh thì rất cần có sự chuẩn bị chu đáo từ nhiều phương diện. Ta phải
tinh học, tinh lọc, tinh giảng kiến thức, tìm hiểu xem cái gì cần đưa vào nội dung
giáo dục, cái gì cần nhất cho học sinh hiện giờ…văn hóa, xã hội, khoa học kĩ
thuật… Tất cả nằm trong nội dung của giáo dục đã được chuẩn bị, thiết kế theo
mục đích giáo dục đã được đề ra từ ban đầu.
Ví như ở cấp một, ta cần truyền đạt những kiến thức cơ bản, ban đầu, dễ hiểu cho
học sinh, với một lượng vừa và đủ và sẽ nâng dần mức độ ở các bậc học cao hơn
chứ chúng ta không thể giáo dục cho học sinh lớp hai, lớp ba những kiến thức mà
phai bậc đại học mới có thể tiếp thu được. Như vậy, nội dung giáo dục đó không
phù hợp với đối tượng giáo dục và coi như mục tiêu đặt ra từ ban đầu đã bị “hỏng” mất rồi. 3. Phương pháp giáo dục:
Như chúng ta đã biết, phương pháp giáo dục là cách thức tác động của nhà giáo
dục đến đồi tượng giáo dục thông qua việc tổ chức các hoạt động giáo dục nhằm
giúp họ hình thành ý thức, thái độ, hành vi văn hóa, chẩn mực xã hội. Khi mục
đích và nội dung đã được đề ra một cách chu đáo thì phương pháp giáo dục chính
là con đường, là cách thức mà ta thực hiện những nội dung đã đề ra theo như mục đích ban đầu.
Như đối với một lớp giỏi, có các học sinh ưu tú, ngay từ đầu ta đã định hướng
con đường giáo dục hay phương pháp giáo dục như thế nào cho tốt hay như với lOMoAR cPSD| 40439748
các lớp yếu, ta sẻ có các phương pháp giáo dục khác nhau, không lớp nào như lớp nào.
Vì thế, ta có thể nói: Mục đích, nội dung, phương pháp giáo dục luôn thống nhất
với nhau. Trong đó, phương pháp giáo dục vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ
thuật, quyết định sự thành công của quá trình giáo dục. 4. Nhà giáo dục:
Nhà giáo dục (hay giáo viên, nhà sư phạm…) là chủ thể của các tác động giáo
dục. Nhà giáo dục sẽ liên kết với phụ huynh học sinh và cán bộ các đoàn thể, tức
thực hiện xã hội hóa giáo dục trong đó, nhà trường là môi trường giáo dục giữ vai
trò chủ chốt. Giao viên có vai trò chủ đạo, tổ chức, điều chỉnh, điều khiển quá
trình hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ. Điều này có nghĩa rằng, giáo viên chính
là người cha người mẹ ở trường của các em và chính là người đạo diễn đang
hướng các em trên con đường giáo dục, hình thành nhân cách cho các em.
Hơn thế, nhà giáo dục cần phải bồi dưỡng kiến thức, trình độ chuyên môn nghiệp
vụ và trau dồi nhiều lĩnh vực khác nữa hầu mong cho quá trình giáo dục được nên
trọn vẹn, các em đi đúng hướng theo một mục tiêu đã đề ra. 5. Đối tượng giào dục:
Là cá nhân hay tập thể học sinh chịu sự tác động của các nhà giáo dục. Đối tượng
giáo dục là một lực lượng đông đảo trong xã hội. Là một trong những đội ngũ
tham gia quản lí xã hội sau này vì vậy, giáo dục cần quan tânm đặc biệt để đào
tạo họ thành những con người thật tốt, thật hoàn hảo cho xã hội mai này. Vì thế,
đối tượng giáo dục vừa là đối tượng vừa là chủ thể của quá trình giáo dục (vì mục
tiêu giáo dục của chúng ta hiện nay là giáo dục lấy học sinh làm chủ thể, làm
trung tâm của quá trình giáo duc, nhà giáo dục chỉ đóng vai trò người dẫn đường
định hướng cho các em và theo dõi quá trình lĩnh hội tri thức của các em. 6. Môi trường giáo dục:
chính là nơi sinh sống và hoạt động của các đối tượng giáo dục. Vì đối tượng
giáo dục được sinh ra và lớn lên ở nhiều môi trường khác nhau, không ai giống
ai. Vì vậy, người giáo viên cần có sự linh hoạt và khả năng “đạo diễn” sao cho lOMoAR cPSD| 40439748
các em có thể hòa nhập cùng nhau trong môi trường mới. Muốn vậy, giáo dục cần
có một môi trường lành mạnh, cần khai thác những yếu tố tích cực của môi trường
xã hội để tạo ra một môi trường giáo dục thuận lợi cho thế hệ trẻ như lới một nhà
giáo dục đã từng nói: Môi trường là yế tố của sự phát triển. 7. Kết quả giáo dục:
Đây là sản phẩm của những tác động giáo dục theo từng giai đoạn và của cả quá
trình giáo dục. Sản phẩm của giai đoạn này là tiền đề cho giai đoạn sau và chúng
nối tiếp nhau để đạt mục đích tổng thể. Với những cố gắng từ ban đầu, khi ta thực
hiện tốt các thành tố trên và kết hợp chúng một cách nhuần nhuyễn, khoa học,
hợp lí chúng ta sẽ thu được các kết quả như mong muốn và ngược lại. Vì vậy, khí
thực hiện quá trình giáo dục, nhà giáo dục cần kết hợp các thành tố giáo dục lại
với nhau, không nên xem nhẹ một thành tố nào, vì 7 thành tố của quá trình giáo
dục là các mắt xích liên hoàn bền chặt gắn nối với nhau, cần phối hợp chủ động
và thực hiện một cách khoa học để đạt được những kết quả giáo dục mong muốn
như mục tiêu đã đề ra.
Nhà giáo dục cần thường xuyên học hỏi, rút kinh nghiệm và trau dồi khả năng
trong quá trình giáo dục để có thể đào tạo ra một đội ngũ những người trẻ thật tốt,
có kiến thức và nhân cách tốt cho xã hội, góp phần xây dựng đất nước. Có mục
đích giáo dục ta mới có được nội dung giáo dục, có nội dung ta mới có phương
hướng. Từ mục đích, nội dung, phương hướng ta chẩn bị “tinh tuyển” những nhà
giáo dục có kinh nghiệm, kiến thức, phẩm chất và tâm huyết và hướng tới đối
tượng giáo dục mà ta cần đào tạo. Kết hợp và thực hiện theo hệ thống đã đề ra, ta
sẽ thu được một kết quả như lòng ta mong đợi.
Câu 8. Một số kĩ thuật và phương pháp dạy học phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của người học.
I. Dạy học tích cực là gì ?
1. Phương pháp dạy học tích cực: lOMoAR cPSD| 40439748
Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ rút gọn, được
dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
"Tích cực" trong PPDH - tích cực được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ động,
trái nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái với tiêu cực.
PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức
của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ
không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để
dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy
theo phương pháp thụ động.
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học,
nhưng ngược lại thói quen học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy của
thầy. Chẳng hạn, có trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động
nhưng giáo viên chưa đáp ứng được, hoặc có trường hợp giáo viên hăng hái áp
dụng PPDH tích cực nhưng không thành công vì học sinh chưa thích ứng, vẫn
quen với lối học tập thụ động. Vì vậy, giáo viên phải kiên trì dùng cách dạy hoạt
động để dần dần xây dựng cho học sinh phương pháp học tập chủ động một
cách vừa sức, từ thấp lên cao. Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có sự
hợp tác cả của thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động dạy với hoạt động
học thì mới thành công. Như vậy, việc dùng thuật ngữ "Dạy và học tích cực" để
phân biệt với "Dạy và học thụ động".
2. Mối quan hệ giữa dạy và học, tích cực với dạy học lấy học sinh làm trung tâm.
Dạy học lấy học sinh làm trung tâm còn có một số thuật ngữ tương đương như:
dạy học tập trung vào người học, dạy học căn cứ vào người học, dạy học hướng
vào người học… Các thuật ngữ này có chung một nội hàm là nhấn mạnh hoạt
động học và vai trò của học sinh trong qúa trình dạy học, khác với cách tiếp cận
truyền thống lâu nay là nhấn mạnh hoạt động dạy và vai trò của giáo viên. Lịch lOMoAR cPSD| 40439748
sử phát triển giáo dục cho thấy, trong nhà trường một thầy dạy cho một lớp
đông học trò, cùng lứa tuổi và trình độ tương đối đồng đều thì giáo viên khó có
điều kiện chăm lo cho từng học sinh nên đã hình thành kiểu dạy "thông báo -
đồng loạt". Giáo viên quan tâm trước hết đến việc hoàn thành trách nhiệm của
mình là truyền đạt cho hết nội dung quy định trong chương trình và sách giáo
khoa, cố gắng làm cho mọi học sinh hiểu và nhớ những điều giáo viên giảng.
Cách dạy này đẻ ra cách học tập thụ động, thiên về ghi nhớ, ít chịu suy nghĩ,
cho nên đã hạn chế chất lượng, hiệu quả dạy và học, không đáp ứng yêu cầu
phát triển năng động của xã hội hiện đại. Để khắc phục tình trạng này, các nhà
sư phạm kêu gọi phải phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, thực hiện
"dạy học phân hóa" quan tâm đến nhu cầu, khả năng của mỗi cá nhân học sinh
trong tập thể lớp. Phương pháp dạy học tích cực, dạy học lấy học sinh làm trung
tâm ra đời từ bối cảnh đó.
Trên thực tế, trong qúa trình dạy học người học vừa là đối tượng của hoạt động
dạy, lại vừa là chủ thể của hoạt động học. Thông qua hoạt động học, dưới sự chỉ
đạo của thầy, người học phải tích cực chủ động cải biến chính mình về kiến
thức, kĩ năng, thái độ, hoàn thiện nhân cách, không ai làm thay cho mình được.
Vì vậy, nếu người học không tự giác chủ động, không chịu học, không có
phương pháp học tốt thì hiệu quả của việc dạy sẽ rất hạn chế.
Như vậy, khi đã coi trọng vị trí hoạt động và vai trò của người học thì đương
nhiên phải phát huy tính tích cực chủ động của người học. Tuy nhiên, dạy học
lấy học sinh làm trung tâm không phải là một phương pháp dạy học cụ thể. Đó
là một tư tưởng, quan điểm giáo dục, một cách tiếp cận quá trình dạy học chi
phối tất cả qúa trình dạy học về mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện,
tổ chức, đánh giá… chứ không phải chỉ liên quan đến phương pháp dạy và học.
II. Đặc trưng của các phương pháp dạy học tích cực.
A . Dạy và học không qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
Trong phương pháp dạy học tích cực, người học - đối tượng của hoạt động
"dạy", đồng thời là chủ thể của hoạt động "học" - được cuốn hút vào các hoạt lOMoAR cPSD| 40439748
động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá
những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã
được giáo viên sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế,
người học trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra
theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức kĩ năng mới, vừa nắm
được phương pháp "làm ra" kiến thức, kĩ năng đó, không rập theo những khuôn
mâu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.
Dạy theo cách này thì giáo viên không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà còn
hướng dẫn hành động. Chương trình dạy học phải giúp cho từng học sinh biết
hành động và tích cực tham gia các chương trình hành động của cộng đồng. B.
Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học. Phương pháp tích cực
xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện
pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học. Trong xã hội
hiện đại đang biến đổi nhanh - với sự bùng nổ thông tin, khoa học, kĩ thuật,
công nghệ phát triển như vũ bão - thì không thể nhồi nhét vào đầu óc học sinh
khối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải quan tâm dạy cho học sinh
phương pháp học ngay từ bậc Tiểu học và càng lên bậc học cao hơn càng phải được chú trọng.
Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện
cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo
cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học
tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh mặt hoạt
động học trong qúa trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ
động sang tự học chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong trường phổ
thông, không chỉ tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự
hướng dẫn của giáo viên. C.
Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.
Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không thể đồng
đều tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự lOMoAR cPSD| 40439748
phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học
được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập.
Áp dụng phương pháp tích cực ở trình độ càng cao thì sự phân hóa này càng
lớn. Việc sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin trong nhà trường sẽ đáp
ứng yêu cầu cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học sinh.
Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều được
hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao
tiếp thầy - trò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con
đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập
thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học
nâng mình lên một trình độ mới. Bài học vận dụng được vốn hiểu biết và kinh
nghiệm sống của người thầy giáo.
Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ,
lớp hoặc trường. Được sử dụng phổ biến trong dạy học là hoạt động hợp tác
trong nhóm nhỏ 4 đến 6 người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất
là lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuát hiện thực sự nhu cầu phối
hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động theo
nhóm nhỏ sẽ không thể có hiện tượng ỷ lại; tính cách năng lực của mỗi thành
viên được bộc lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương
trợ. Mô hình hợp tác trong xã hội đưa vào đời sống học đường sẽ làm cho các
thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện nhu cầu hợp tác xuyên quốc gia, liên
quốc gia; năng lực hợp tác phải trở thành một mục tiêu giáo dục mà nhà trường
phải chuẩn bị cho học sinh. D.
Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực
trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận
định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy. lOMoAR cPSD| 40439748
Trước đây giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương pháp tích
cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều
chỉnh cách học. Liên quan với điều này, giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi để
học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt
động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà
trường phải trang bị cho học sinh.
Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con người
năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh giá
không thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã học
mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống thực tế.
Với sự trợ giúp của các thiết bị kĩ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ không còn là một
công việc nặng nhọc đối với giáo viên, mà lại cho nhiều thông tin kịp thời hơn
để linh hoạt điều chỉnh hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học.
Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng vai
trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế,
tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự
lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng,
thái độ theo yêu cầu của chương trình. Trên lớp, học sinh hoạt động là chính,
giáo viên có vẻ nhàn nhã hơn nhưng trước đó, khi soạn giáo án, giáo viên đã
phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mới có
thể thực hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn,
trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng, tranh luận sôi nổi của học sinh.
Giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề
mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh mà nhiều khi diễn
biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên.
Câu 9. Phương tiện tiện dạy học và vai trò của nó. 1.
KHÁI NIỆM VỀ PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC lOMoAR cPSD| 40439748 1.
Khái niệm về phương tiện.
Phương tiện là tất cả những gì dùng để tiến hành công việc, được cảm nhận
bằng giác quan, nhưng không phải bằng tư duy.
Phương tiện được coi là cái để làm một việc gì nhằm đạt tới một mục đích nào
đó bao gồm các điều kiện, các công cụ để thực hiện cho các giai đoạn hoặc cả
quá trình đạt mục đích đó. Phương tiện là yếu tố quan trọng chi phối hiệu quả
của hoạt động. Phương tiện được sử dụng mà càng sắc bén và hữu hiệu thì năng
suất, chất lượng của hoạt động càng cao, làm cho mục đích định trước càng dễ dàng được thực hiện. 2.
Phương tiện dạy học (PTDH).
PTDH được hiểu là cái mà giáo viên và học sinh dùng trong quá trình dạy học
để đảm bảo cho nó đạt được các mục đích đã hướng dẫn trong các điều kiện sư phạm.
Trong lịch sử phát triển của giáo dục học đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau
về PTDH. PTDH là một tập hợp những đối tượng vật chất được giáo viên sử
dụng với tư cách là phương tiện để điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh.
Còn đối với học sinh, PTDH nó là nguồn cung cấp tri thức cần lĩnh hội, thứ để
tạo ra tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và phục vụ mục đích giáo dục. PTDH được bao
gồm tập hợp các khách thể vật chất, tinh thần đóng vai trò phụ trợ để giúp cho
thầy – trò có thể thực hiện những mục đích, nhiệm vụ và nội dung của quá trình
giáo dục – huấn luyện.
Trong lý luận dạy học, thuật ngữ PTDH được dùng để chỉ những thiết bị dạy
học (như các loại đồ dùng trực quan, dụng cụ máy móc…), những trang thiết bị,
kỹ thuật mà thầy trò dùng khi giải quyết nhiệm vụ dạy học, nó không dùng để
chỉ các hoạt động của giáo viên và học viên.
PTDH là công cụ tiến hành thực hiện nhiệm vụ của hoạt động dạy và học, giúp
cho người dạy và người học tác động tới đối tượng nghiên cứu nhằm phát hiện
ra logic nội tại, nắm bắt và nhận thức được bản chất của nó để tạo nên sự phát
triển những phẩm chất nhân cách cho người học. lOMoAR cPSD| 40439748
PTDH được coi là một trong những nhân tố của quá trình dạy học có tác dụng
quyết định tới kết quả của cả hoạt động dạy của giáo viên và học sinh, yếu tố
phương tiện được chúng ta quan tâm chỉ ở góc độ cách thức làm như thế nào và
làm bằng gì? để thực hiện nhiệm vụ dạy học. Với ý nghĩa đó, PTDH là vật
mang tin được sử dụng trong dạy học như là cái giá mang cụ thể của việc tiếp
thu các tri thức trừu tượng nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình này. 3.
VAI TRÒ CỦA PHƯƠNG TIỆN TRONG GIÁO DỤC a.
Vai trò đối với giáo viên
- Hỗ trợ hiệu quả cho giáo viên trong quá trình tổ chức các hoạt động nhận thức
cho người học bởi đảm bảo quá trình dạy học được sinh động, thuận tiện, chính xác.
- Rút ngắn thời gian giảng dạy mà vẫn bảo đảm người học lĩnh hội đủ nội dung
học tập một cách vững chắc.
- Giảm nhẹ cường độ lao động của giáo viên, do đó nâng cao hiệu quả dạy học.
Vai trò đối với người học
- Kích thích hứng thú học tập cho người học, tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trình lĩnh hội kiến thức của người học.
- Giúp người học tăng cường trí nhớ, làm cho việc học tập được lâu bền.
- Là phương tiện giúp người học hình thành và rèn luyện các kĩ năng, kĩ xảo cả
thao tác trí tuệ lẫn thao tác vật chất. Cung cấp thêm kiến thức, kinh nghiệm
trực tiếp liên quan đến thực tiễn xã hội và môi trường sống. b.
Vai trò của phương tiện trong việc dạy
Phương tiện dạy học đóng nhiều vai trò trong quá trình dạy học. Các phương
tiện dạy học thay thế cho những sự vật, hiện tượng và các quá trình xảy ra trong
thực tiễn mà giáo viên và học sinh không thể tiếp cận trực tiếp được.
Chúng giúp cho thầy giáo phát huy tất cả các giác quan của học sinh trong quá
trình truyền thụ kiến thức, do đó giúp cho học sinh nhận biết được quan hệ giữa
các hiện tượng và tái hiện được những khái niệm, quy luật làm cơ sở cho việc
đúc rút kinh nghiệm và áp dụng kiến thức đã học vào thực tế sản xuất. lOMoAR cPSD| 40439748 c.
Vai trò của phương tiện trong việc học
Phương tiện dạy học cũng được sử dụng có hiệu quả trong các trường hợp dạy
học chính quy không có thầy giáo hay dùng để học nhóm.
Trong giáo dục không chính quy (đào tạo từ xa), các phương tiện như video
cassette và các phần mềm của máy vi tính được các học viên sử dụng để tự học
tại chỗ làm việc hay nhà riêng.
Việc học theo nhóm trên lớp có liên quan chặt chẽ với việc tự học. Các học sinh
học tập cùng nhau trong một nhóm hay kết hợp với thầy giáo trong một đề án
họ sẽ có trách nhiệm cao hơn trong học tập.
Các công nghệ dạy học mới như phương tiện đa năng khuyến khích học sinh tin
tưởng vào khả năng nhận thức của bản thân trong học tâp. Sử dụng các tài liệu
tự học tạo cho thầy giáo có nhiều thời gian để chẩn đoán và sửa chữa các sai sót
của học sinh, khuyên bảo các cá nhân hay dạy kèm một người hay một nhóm nhỏ.
Thời gian mà thầy giáo có được để làm các hoạt động như vậy phụ thuộc vào
chức năng giáo dục được giao cho các phương tiện dạy học. Trong một vài
trường hợp , nhiệm vụ dạy học hoàn toàn có thể giao cho phương tiện dạy học. 3.
Phương tiện kỹ thuật dạy học
Phương tiện kỹ thuật dạy học là tập hợp các khách thể được vật chất hóa, mô hình
hóa nội dung của đối tượng dạy học bởi công nghệ mới, bao gồm các phương tiện
kỹ thuật tạo điều kiện cho giáo viên tác động đạt hiệu quả sư phạm, giúp người
học lĩnh hội thông tin học tập một cách sâu sắc, tạo điều kiện vật chất cần thiết lOMoAR cPSD| 40439748
cho sự phát triển kỹ năng, kỹ xảo, phẩm chất trí tuệ và các phẩm chất nhân cách khác.
Câu 10. Mối quan hệ của phương tiện dạy học với các yếu tố của quá trình dạy học. 1.
Phương tiện dạy học là gì ?
Phương tiện dạy học là tập hợp những đối tượng vật chất được người dạy sử
dụng với tư cách là những phương tiện tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức
của người học, là phương tiện nhận thức của người học, thông qua đó mà thực
hiện những nhiệm vụ dạy học. Ví dụ: tivi, đầu đĩa, máy vi tính v.v.. 2.
Vai trò của phương tiện dạy học
Phương tiện dạy học cũng được sử dụng có hiệu quả trong các trường hợp dạy
học chính quy không có thầy giáo hay dùng để học nhóm.
Trong giáo dục không chính quy (đào tạo từ xa), các phương tiện như video
cassette và các phần mềm của máy vi tính được các học viên sử dụng để tự học
tại chỗ làm việc hay nhà riêng.
Việc học theo nhóm trên lớp có liên quan chặt chẽ với việc tự học. Các học sinh
học tập cùng nhau trong một nhóm hay kết hợp với thầy giáo trong một đề án
họ sẽ có trách nhiệm cao hơn trong học tập.
Các công nghệ dạy học mới như phương tiện đa năng khuyến khích học sinh tin
tưởng vào khả năng nhận thức của bản thân trong học tâp. Sử dụng các tài liệu
tự học tạo cho thầy giáo có nhiều thời gian để chẩn đoán và sửa chữa các sai sót
của học sinh, khuyên bảo các cá nhân hay dạy kèm một người hay một nhóm nhỏ.
Thời gian mà thầy giáo có được để làm các hoạt động như vậy phụ thuộc vào
chức năng giáo dục được giao cho các phương tiện dạy học. Trong một vài trường
hợp , nhiệm vụ dạy học hoàn toàn có thể giao cho phương tiện dạy học. 3.
Quan hệ của PTDH với mục đích dạy học lOMoAR cPSD| 40439748
Mục đích được coi như biểu tượng cần đạt được của quá trình hoạt động mà chủ
thể đã định trước. Nó là cơ sở định hướng đúng cho việc thực hiện nội dung,
phương pháp, tìm kiếm phương tiện hoạt động của chủ thể.
Mục đích dạy học là cơ sở để chủ thể tiến hành định hướng cho việc lựa chọn
phương tiện dạy học. Tính chất và đặc trưng của mục đích dạy học sẽ quy định
tính chất đặc thù của việc lựa chọn và sử dụng phương tiện dạy học của chủ thể
trong quá trình dạy học.
Mục đích và PTDH luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình vươn
lên chiếm lĩnh đối tượng học tập, có sự chuyển hóa giữa chúng. Bản thân các mục
đích bộ phận một khi đã được thực hiện sẽ trở thành phương tiện cho viện thực
hiện mục đích bộ phân tiếp theo. Mặt khác, khi chủ thể biết cách tìm kiếm để hội
đủ các phương tiện cho hoạt động thì mục đích của nó mới trở thành hiện thực. 4.
Quan hệ của PTDH với nội dung dạy học
Mỗi nội dung dạy học cụ thể cần đến các phương pháp cũng như các PTDH đặc
thù khác nhau để giúp thầy chuyển tải và trò lĩnh hội. Việc học sinh nắm vững
chắc nội dung dạy học cụ thể sẽ phụ thuộc vào việc lựa chọn và vận dụng một
cách phù hợp có hiệu quả phương tiện dạy học tương ứng của người giáo viên.
Nói chung, các phương tiện kỹ thuật có thể được vận dụng vào để tổ chức dạy
học cho nhiều nội dung dạy học khác nhau. Vấn đề là ở chỗ, người giáo viên lOMoAR cPSD| 40439748
biết cách tiến hành khai thác phương tiện trong phạm vi nội dung cụ thể. Ngược
lại, PTDH cũng có tác dụng chi phối sự giảng dạy nội dung dạy học tương ứng .
Có những loại PTDH chỉ thích hợp với những chuyển tải chính những nội dung
dạy học xác định. Việc lựa chọn đúng các PTDH cho phù hợp với nội dung dạy
học tương ứng sẽ làm tăng hiệu quả chuyển tải chính nội dung dạy học đó.
Người giáo viên cần am hiểu mối quan hệ này để có sự sáng tạo và tích cực trong
việc tìm chọn và vận dụng hợp lý các PTDH trong quá trình giảng dạy ở trên lớp. 5.
Quan hệ của PTDH và phương pháp dạy học
Giữa phương pháp và phương tiện cũng có mối quan hệ qua lại tương hỗ nhau.
Phương tiện hỗ trợ cho việc thực hiện các tác động của phương pháp dạy học.
Phương pháp dạy học khi đã được xác định sẽ cần tới sự trợ giúp của các phương
tiện dạy học thích hợp, ứng với nội dung dạy học nhất định.
Để làm tăng hiệu quả vận dụng phương pháp dạy học, người ta căn cứ vào thực
tiễn mà nỗ lực tư duy nhằm tìm kiếm cho bằng được các PTDH sẵn có để tiến
hành thực hiện các nhiệm vụ dạy học. Sự lựa chọn được các phương tiện phù hợp
sẽ đem lại hiệu quả tối ưu của sự vận dụng phương pháp dạy học trong quá trình
dạy học cụ thể của mỗi một giáo viên.
Câu 11. Các đặc điểm của cơ chế học tập theo các lí thuyết học tập và
việc vận dụng các lí thuyết dạy học trong môn học mình sẽ đảm nhận. Thuyết Nội dung
Ứng dụng trong dạy học
Thuyết hành vi Quan niệm: Học tập là sự Vận dụng trong việc xác thay đổi
hành vi. định mục tiêu bài học (xác Cơ chế học tập: cơ chế
kích định các hành vi HS có thể
thích và phản ứng. thông thực hiện dược sau khi học qua
những phương pháp xong bài đó).
Downloaded by kim kim (ngothiphuongvtath4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40439748
dạy học và đánh giá. Thông Nhấn mạnh vai trò của việc qua
những kích thích về nội GV cung cấp phản hối, điều dung.
Phương pháp dạy học chỉnh và giám sát QTHT của và đảnh
giá (ví dụ: điêm HS. cao cho các câu trả lời Vận dụng tốt
trong việc rèn đúng, điểm thấp cho các luyện một số kỹ năng
cho câu trả lời sai...), người học HS.
có những phan ứng tạo ra
nhừng hành vi học tập và
qua việc luyện tập đó, thay đổi hảnh vi của mình.
→ QTHT drgc hiểu là quả trinh thay đổi hành vi.
→ Sự phát triên của người
học được đong đềm theo
mức độ anh ta có thê đưa ra những hành vi mong đợi theo yêu cầu. Nhược điểm: không quan
tâm đến quá trình nhận thức
bên trong của HS → Việc
thiết kế bài học đôi khi đi
ngược lại với quá trình nhận
thức tự nhiên đó → HS có
thể học vì bị áp đặt, học vì điểm.
Thuyết phát Tập trung nghiên cứu và Việc cung cấp thông tin mới triển nhận
thức quá trình nhận thức: con dựa trên những kinh nghiệm người phát triển
nhận thức và kiến thức đã có của HS về thế giới của mình như (ứng dụng lý
thuyết đồng thế nào và vai trò của sinh hóa và điều ứng) học trong quá trình
phát Bài học cần được xây dựng triển đó. Nền tảng của theo cách mà thông tin
mới thuyết phát triển nhận thức được suy ra từ kinh nghiệm là học thuyết của
Jean và kiến thức trước đó và sau Piaget, được chia thành hai đó tiến dần lên tư
duy bậc thành phần chính: cao.
Thuyết về sự thích nghi và
quá trình sử dụng các cấu
trúc nhận thức (trả lời cho
Downloaded by kim kim (ngothiphuongvtath4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40439748 câu hỏi: quá trình Downloaded by kim kim
(ngothiphuongvtath4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40439748 nhận thức diễn ra dựng quan điểm như thế nào?). riêng của từng cá Piaget đưa ra các nhân… khái niệm về quá Thuyết về sự phát trình đồng hóa và triển nhận thức qua điều ứng để đạt các giai đoạn: Sự trạng thái cân bằng. phát triển nhận thức + Đồng hóa: quá của con người trình đưa các thông thường trải qua 4 tin mới vào các cấu giai đoạn: cảm giác trúc nhận thức đã có – vận động (sinh ra (nếu các thông tin – 2 tuổi); tiền thao mới có tính quen tác (2 – 7 tuổi); thao thuộc, con người sử tác cụ thể (7 – 11 dụng các cấu trúc tuổi) và cuối cùng nhận thức đã có để là thao Thiết kế nội tiếp nhận chúng). + dung cũng như các Điều ứng: quá trình nhiệm vụ học tập biến đổi cấu trúc phù hợp với đặc nhận thức đã có để điểm phát triển thích nghi với thông nhận thức của HS. tin mới (nếu các tác hình thức tư thông tin mới quá duy và tư duy hình sai khác với những tượng (11 – 15
cái đã có -> biến đổi tuổi và kéo dài đến cấu trúc nhận thức giai đoạn trưởng đã có để tiếp nhận thành) thông tin mới)
Thuyết kiến tạo Hạt nhân là học
Cả hai con đường thuyết của xã hội L.S. Vygotksky, coi
này đều dẫn tới một các tưởng tác xã hội như nền tảng cho
mục đích là đạt tất cả mọi QTHT và phát triển. Các
được sự cân bằng điểm chính cần lưu ý trong học thuyết giữa các tổ chức này: thần kinh đó với Sự tưởng tác xã môi trường -> con hội đóng vai trò người chủ động xử then chốt với sự lý các tương tác phát triển nhận giữa bản than với thức, nó quyết môi trường theo định cái gì được cách tự chỉ đạo, sử học, việc học tập dụng nhiều dạng diễn ra khi nào và quá trình xử lý như thế nào? thông tin để xây
Downloaded by kim kim (ngothiphuongvtath4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40439748
Mỗi người có một Cần khám phá ra “vùng phát triển
vùng tiềm năng gần” của HS và sau đó thiết kế các
học tập được gọi là nhiệm vụ và chỉ dẫn nằm trong vùng “vùng đất phát này.
triển gần” + tại bất cứ thời điểm nào tỏng quá trình phát triển, có 3 mức độ có thể xảy ra: / mức độ cá nhân có thể thực hiện coogn việc mà k cần sự trợ giúp hay hướng dẫn. / mức độ cá nhân không thể làm được dù có sự hỗ trợ hay hướng dẫn. / mức độ cá nhân có thể làm được nếu có sự giúp đỡ hya hướng dẫn Vùng phát triển gần: khoảng cách giữa mức độ phát triển thực tế được xác định thông qua việc giải quyết vấn đề một cách độc lập với mức độ phát triển tiềm năng được xác định thoogn qua việc giải quyết vấn đề dưới sự hướng dẫn của người lớn hay thông Cần cung cấp cho HS sự tương tác xã hội trong suốt QTHT. Downloaded by kim kim
(ngothiphuongvtath4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40439748
qua việc hợp tác với những
đồng nghiệp có khả năng hơn.
Câu 12. Đặc điểm cơ bản của từng loại trí tuệ theo Howard Gardner
và phân tích các chiến lược dạy học tương ứng.
Gồm 8 loại trí tuệ: 1. Trí tuệ tự nhiên học 2. Trí tuệ hình thể 3. Trí tuệ nội tâm 4. Trí tuệ ngôn ngữ 5. Trí tuệ âm nhạc 6. Trí tuệ giao tiếp 7. Trí tuệ không gian 8. Trí tuệ logic- toán học
Trí tuệ tự nhiên học Đặc điểm: -
Đó là năng khiếu nắm bắt, nhận dạng và phân loại các loài đông
đảo (thực vật và động vật) có trong môi trường. -
Dạng trí tuệ này cũng bao gồm sự nhạy cảm đối với các hiện tượng
thiên nhiên (chẳng hạn, sự hình thành mây, sự tạo thành núi…). -
Đối với những người sống ở đô thị, loại trí thông minh này thể hiện
ở năng khiếu phân biệt giữa các vật ô tô, quần áo, máy. Ví dụ:
Tả cảnh đường phố khi trời mưa => Trí tuệ ngôn ngữ, trí tuệ không gian, trí tuệ tự nhiên.
Downloaded by kim kim (ngothiphuongvtath4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40439748
Phong cách học: Tự nhiên học
Suy nghĩ: Thông qua thiên nhiên, bằng hình tượng thiên nhiên
Thích: Chơi đùa với vật nuôi, làm vườn, khảo sát thiên nhiên, sự quan tâm tới trái đất.
Cần: Tiếp cận thiên nhiên, tương tác với động vật, các phương tiện
để nghiên cứu thiên nhiên (kính lúp, ống nhòm...)
Các chiến lược dạy học sử dụng trí tuệ tự nhiên:
Cho các em có trải nghiệm được dạo chơi trong thiên nhiên; có cơ hội
tiếp xúc với tự nhiên như: trồng nhiều cây cảnh, bố trí mô hình động vật trong lớp học. Ví dụ:
GV mua các chậu cây nhỏ, dễ trồng đến lớp học và phân công cho
các em chăm sóc mỗi ngày.
Nhà trường phát động Phong trào “Tết trồng cây”, học sinh trồng
cây và trang trí cây cho dịp Tết.
Tổ chức các buổi đi tham quan: vườn bách thú, bách thảo…;
hướng dẫn cho các em biết và phân biệt được các loại động vật, loại cây
Lồng ghép các kiến thức về các hiện tượng tự nhiên trong bài dạy
như hiện tượng mưa, gió, sấm, chớp để kích thích trí tò mò của HS Trí tuệ hình thể Đặc điểm -
Đó là sự thành thạo trong việc sử dụng toàn bộ cơ thể để thể
hiện các ý tưởng và cảm xúc, cũng như sự khéo léo trong việc
sử dụng hai bàn tay để sản xuất hay biến đổi sự vật. -
Dạng trí tuệ này bao gồm các kĩ năng cơ thể đặc biệt như sự
phối hợp cử động, khả năng giữ thăng bằng, sự khéo tay, sức
mạnh cơ bắp, sự mềm dẻo (tài uốn éo) và tốc độ. Cũng như các
năng khiếu tự cảm, chẩn đoán bằng tay.
Chiến lược dạy học trí tuệ hình thể: 51 Downloaded by kim kim
(ngothiphuongvtath4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40439748 -
Sân khấu trong lớp: phương pháp đóng kịch, trò chơi vận động.
VD: Cho học sinh vào vai, đóng kịch các tác phẩm văn học trong
chương trình Ngữ Văn (“Tấm Cám”, “Hồn Trương Ba, da Hàng
Thịt”,…) để học sinh thử sức với các khả năng sân khấu hóa của bản thân…. -
Diễn đạt một số khái niệm hay từ ngữ bằng các hành động cơ thể, kịch câm.
VD: Tổ chức trò chơi đoán từ khi dạy bài “Thế giới động vật đa dạng,
phong phú” (sinh học 7) một cặp chơi gồm 2 người: một người cầm
trong tay từ cho sẵn mà mô tả từ bằng hành động, một người đoán từ,
qua hoạt động giúp HS có thêm nhiều tri thức và phát triển trí tuệ hình thể. Trí tuệ nội tâm Đặc điểm -
Đó là khả năng hiểu biết bản thân và hành động một cách thích
hợp trên cơ sở sự tự hiểu mình. -
Dạng trí tuệ này bao gồm:
+ Khả năng có một hình ảnh rõ nét về mình (về ưu điểm, hạn chế của chính mình).
+ Ý thức đầy đủ và đúng về tâm trạng, ý đồ, động cơ, tính khí và ước ao của riêng mình.
+ Kèm theo khả năng tự kiềm chế, tự kiểm soát (tính kỷ luật, tự kỉ), lòng tự trọng.
Các chiến lược dạy học sử dụng trí tuệ nội tâm: -
Suy ngẫm trong một phút: Những phút suy ngẫm chính là thời
gian cần thiết để học sinh “tiêu hoá” thông tin vừa học, liên kết với kinh
nghiệm của bản thân. Những phút suy ngẫm là dịp “đổi nhịp bước”, giúp
cho học sinh duy trì “tính năng động” và “tính sẵn sàng” để chuyển sang
hoạt động tiếp theo. Một phút suy ngẫm có hiệu quả tốt nhất ngay sau khi
giáo viên giảng một đoạn khó hoặc trọng tâm của bài học.
VD: Sau khi dạy xong một tiết giáo viên cho học sinh 1-2 phút để
thống kê lại những nội dung chính vừa học trong tiết đó. Việc đó giúp 52
Downloaded by kim kim (ngothiphuongvtath4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40439748
học sinh có thời gian nhớ lại và sẵn sàng cho tiết học tiếp theo mà
không bị quên kiến thức trước đó. -
Các liên kết cá nhân: Giáo viên giúp học sinh tìm được câu trả
lời về sự kết nối những điều đã học với cuộc sống sinh hoạt, lao động và sản xuất.
VD1: Trong môn sinh học: Học lý thuyết về cách phân loại thực
vật để phân loại được các loại cây xuất hiện trong cuộc sống sinh
hoạt: cây xoài thuộc cây thân gỗ lớn; rau má thuộc rau thân bò trên
cạn; hoa thiên lý thuộc rau thân leo;...
VD2: Sau khi học lý thuyết về mạng lưới điện gia đình trong môn
Công nghệ, giáo viên giao bài tập cho học sinh tìm kiếm và trình
bày trước lớp các thiết bị điện mà gia đình học sinh có. -
Phút giây biểu lộ cảm xúc: học sinh được khuyến khích biểu lộ
cảm xúc trong một số hoạt động cụ thể.
VD: Giáo viên cho học sinh xem một đoạn video ngắn về cảnh
người dân Do Thái trong trại lao động cưỡng bức, những trại tập
trung, dưới họng súng của Phát xít Đức và trong các lò thiêu.
Khi xem xong giáo viên hỏi học sinh qua đoạn video đó các
em có những cảm xúc gì? Đó là cảm xúc đau đớn, xót thương, kinh
hoàng trước những gì người dân Do Thái phải trải qua. -
Hoạt động đặt mục đích: Một đặc tính của học sinh có trí tuệ nội
tâm cao là khả năng tự đặt mục đích thiết thực cho mình.
VD: Trước khi vào bài học “ Future Jobs – Việc làm tương lai”
(Tiếng anh 12) giáo viên yêu cầu mỗi học sinh liệt kê 3 điều mà
các em mong muốn đạt được sau khi học bài học ngày hôm nay.
(GV có thể gợi mở để HS tự suy nghĩ: Ước mơ của em là gì? Em
muốn học ngành nào? Em mong muốn đỗ trường đại học nào? Em
cần làm gì để đạt được ước mơ đó,...) Trí tuệ ngôn ngữ Đặc điểm: -
Sử dụng ngôn tử rất linh hoạt trong cả văn nói và văn viết -
Khả năng ghi nhớ sự kiện dữ liệu con số chính xác 53 Downloaded by kim kim
(ngothiphuongvtath4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40439748 - Vốn từ phong phú -
Là người có khả năng trình bày cho người khác hiểu rất dễ
Một số ứng dụng của trí tuệ ngôn ngữ: •
Thuật hùng biện (dùng lời nói để thuyết phục người khác làm
theo một mệnh lệnh, hành động cụ thể). •
Thuật gợi nhớ (mượn ngôn ngữ để hồi tưởng các thông tin). •
Thuật giải thích (dùng lời nói để thuyết trình cho người khác hiểu). •
Thuật siêu ngôn ngữ (dùng ngôn ngữ để nói về ngôn ngữ).
Chiến lược dạy học sử dụng trí tuệ ngôn ngữ
GV có thể sử dụng các hình thức như: Thuyết trình, sử dụng trò chơi ô chữ,
phiếu viết hoặc hoạt động viết (nhật kí...). Đan xen giữa các khái niệm, ý tưởng,
mục tiêu của bài học, GV có thể kể các câu chuyện hoặc đọc bài thơ vui trong giờ học.
VD: Để HS nhận biết được thế nào là Cụm danh từ, GV có thể lồng ghép
các hoạt động vào dạy học như sau:
Bước 1: Cho HS ôn lại kiến thức đã học về Danh từ: Đặc điểm của danh
từ (khái niệm, chức năng), các loại danh từ (chỉ sự vật, chỉ đơn vị...)
-> Thuật gợi nhớ
Bước 2: Sử dụng hình thức thuyết trình: GV đưa ra vấn đề: So sánh danh
từ và cụm danh từ (ý nghĩa, cấu tạo...), với quy định là HS khi khám phá ra một
vấn đề nào đó sẽ phát biểu hoặc ghi lại, không chỉ trích ý kiến của bạn. Sau đó,
cả lớp cùng thảo luận, phân tích, khai thác, chọn lọc để thống nhất.
-> Thuật hùng biện
Bước 3: GV hướng dẫn HS cách ghi chép nội dung vào vở nhằm giúp
những học sinh khó khăn phát triển trí tuệ ngôn ngữ, hệ thống được kiến thức
dễ dàng hơn. GV trực tiếp kiểm tra lại vở ghi của HS để có những điều chỉnh kịp thời. 54
Downloaded by kim kim (ngothiphuongvtath4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40439748
-> Thuật giải thích kết hợp với thuật siêu ngôn ngữ Trí tuệ âm nhạc Đặc điểm: -
Đó là khả năng cảm nhận, phân biệt, biến đổi và thể hiện các hình thức âm nhạc. -
Dạng trí tuệ này bao gồm tính nhạy cảm đối với nhịp điệu, âm sắc,
âm tần của một bản nhạc.
Một người có thể nắm bắt âm nhạc một các chung chung, tổng quát “từ
trên xuống dưới” hoặc nắm bắt âm nhạc một các chính quy, có bài bản,
“từ dưới lên trên”). -
Trí tuệ âm nhạc còn có thể là một kết hợp của hai dạng thưởng thức này
Chiến lược dạy học sử dụng trí tuệ âm nhạc:
Những HS có khuynh hướng cảm âm và nhịp điệu tốt thì GV có thể xem xét
những hoạt động âm nhạc để thu hút các bạn:
VD1: Khi dạy học môn Ngữ Văn , có thể cho học sinh xem những MV
có nội dung văn học, đã được chuyển thể sang âm nhạc như : Để Mị nói
cho mà nghe, Bánh trôi nước, Sóng, Bống bống bang bang, ... Từ đó kích
thích, thu hút sự quan tâm đối với những học sinh có trí tuệ âm nhạc,
giúp các em có hứng thú hơn khi tiếp nhận bài giảng.
VD2: Khi dạy bài Tây Tiến, Việt Bắc, Đất Nước giáo viên có thể tổ chức
cuộc thi “Trò chơi âm nhạc ” khuyến khích các em tự sáng tác, chuyển thể
thơ thành ca khúc và thể hiện trước lớp. Hoạt động này không chỉ kích
thích trí tuệ âm nhạc của học sinh mà còn tạo không khí sôi nổi, húng thú trong giờ học.
=> Phương pháp, chiến lược này giúp HS cảm thấy thích thú với môn học hơn,
từ đó kích thích học sinh phát triển, sáng tạo.
Trí tuệ giao tiếp 55 Downloaded by kim kim
(ngothiphuongvtath4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40439748 Đặc điểm •
Là khả năng cảm nhận và phân biệt giữa các tâm trạng, ý đồ, động cơ và
cảm nghĩ của người khác • Phân loại:
- Năng khiếu nắm bắt những thay đổi về nét mặt, giọng nói, động tác, tư thế.
- Khả năng phân biệt các biểu hiện giao lưu giữa người và người và
đáp ứng các biểu hiện đó một cách thích hợp. Biểu hiện:
- Thích giao tiếp, thích nói trước đám đông.
- Có thể cảm nhận suy nghĩ và cảm xúc của người xung quanh.
- Có xu hướng trở thanh lãnh đạo nhóm nhờ khả năng khích lệ, nâng đỡ
và giải quyết tốt xung đột.
- Thường học tốt nhất bằng cách làm việc với người khác và thường
thích thú với các cuộc thảo luận, tranh luận
Các chiến lược dạy học sử dụng trí tuệ giao tiếp •
Đối với trẻ dưới 12 tuổi -
Thường xuyên đưa trẻ ra ngoài, tiếp xúc với nhiều người ngoài xã hội
-> Tăng khả năng giao tiếp, tránh sợ đám đông.
VD: Cho trẻ đi tham gia vào các CLB MC nhí, CLB múa,... tạo
môi trường, điều kiện cho trẻ tăng cường sự tương tác, phát triển trí tuệ giao tiếp. -
Dạy trẻ cách nói chuyện với người lớn, dạy trẻ tôn
trọng mọi người và làm việc tốt -> Giúp trẻ giao tiếp tốt hơn, hòa đồng
với mọi người xung quanh, được mọi người yêu quý.
VD: GV dạy trẻ biết khi gặp người lớn phải chào hỏi và thưa gửi. -
Giải thích cho trẻ những sự việc đang diễn ra xung 56
Downloaded by kim kim (ngothiphuongvtath4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40439748
quanh -> giúp trẻ hình dung được những gì đang diễn ra xung quanh mình.
VD: Khi gặp đèn đỏ, mọi người đều dừng lại, GV có thể giải thích
cho trẻ lí do mọi người dừng lại là vì phải tuân thủ luật giao thông. •
Đối với những trẻ ở lứa tuổi 12+ -
GV nên tạo ra các hoạt động nhóm cho HS thông
qua các phương pháp dạy học tích cực như kỹ thuật mảnh ghép, phương
pháp làm việc theo cặp/nhóm -> giúp HS phát huy thế mạnh bản thân.
VD: Áp dụng phương pháp “lớp học đảo ngược” (Flipped Classroom):
HS là người tìm hiểu và tự hướng dẫn nhau giải quyết vấn đề - GV là người
tổng kết, đưa ra đánh giá.
Bài "Quyền và nghĩa vụ của công dân trong hôn nhân và gia đình" thực
hiện theo mô hình lớp học đảo ngược. HS sẽ thực hiện quá trình tự học
trước khi đến tiết học: đọc sách giáo khoa, xem video bài giảng, tóm tắt
kiến thức, trả lời câu hỏi và làm bài tập theo yêu cầu của GV. Khi lên lớp
học trực tiếp HS sẽ được tham gia thảo luận các nội dung đã chuẩn bị
trước, đặt câu hỏi những vấn đề còn thắc mắc, cuối cùng GV sẽ chốt lại
nội dung trọng tâm. Sau buổi học HS cần hoàn thiện và điều chỉnh những
nội dung tự nghiên cứu dựa trên kiến thức trọng tâm mà GV đã đưa ra. 57 Downloaded by kim kim
(ngothiphuongvtath4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40439748
Ví dụ: Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào bài học “Thảo luận về
ích lợi của việc ăn uống đầy đủ - Bài 7 (SGK môn Tự nhiên và Xã hội 2) lớp 2”
Giáo viên có thể tiến hành theo các bước như sau:
Phổ biến chủ đề và chia nhóm:
GV nêu nội dung thảo luận
- Tại sao chúng ta cần ăn đủ no, uống đủ nước?
- Nếu ta thường xuyên bị đói, bị khát thì điều gì sẽ xảy ra?
Giáo viên tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm (3-5 học sinh), học sinh
thuộc nhóm nào sẽ tập trung theo vị trí và chuẩn bị tâm thế hoạt động nhóm.
Làm việc theo nhóm:
Học sinh có 3-5 phút để hội ý và chia sẻ câu trả lời. Sau khi thực hiện xong các
nội dung liên quan tới bài, học sinh tổng hợp lại ý kiến để thống nhất kết quả chung cho nhóm.
Trình bày kết quả:
Khi thảo luận xong, giáo viên mời đại diện học sinh của nhóm chia sẻ phần trả
lời của các thành viên.
Đánh giá kết quả:
Giáo viên mời các nhóm nhận xét các nhóm khác. Các nhóm còn lại sẽ lần lượt
đặt thêm các câu hỏi liên quan để thu thập thêm thông tin. Giáo viên đánh giá
kết quả cụ thể của từng nhóm, chỉnh sửa cho các nhóm thực hiện chưa chính xác.
GV hoặc HS tổng kết thảo luận: Chúng ta cần ăn đủ loại và đủ lượng thức ăn,
uống đủ nước thì mới đủ chất bổ dưỡng nuôi dưỡng cơ thể, làm cơ thể khoẻ
mạnh, chóng lớn. Nếu cơ thể thường xuyên bị đói, khát sẽ mệt mỏi, gầy yếu và
có thể bị bệnh, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả học tập và làm việc. Trí tuệ không gian Đặc điểm: -
Đó là khả năng tiếp nhận một cách chính xác vị trí, định hướng
không gian qua thị giác (ví dụ, một người đi săn, người dẫn đường, người 58
Downloaded by kim kim (ngothiphuongvtath4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40439748
lái xe, cầu thủ) và thực hiện thành thạo các hoạt động thay hình đổi dạng
trên cơ sở các năng khiếu đó (chẳng hạn, một nhà trang trí nội thất, kiến
trúc sư, hoạ sĩ hay một nhà phát minh).
Các chiến lược dạy học sử dụng trí tuệ không gian: -
Dạng trí tuệ này liên hệ chặt chẽ với tính nhạy cảm về màu sắc,
đường nét, hình dạng và các tương quan vốn có giữa những yếu tố đó.
VD1: Khi học bài “Động từ” trong môn Văn, giáo viên đưa ra những
tranh ảnh có các hoạt động trong cuộc sống -> Mục đích: Giúp học sinh
có thể tưởng tượng và có tiếp nhận thông tin bằng những giác quan qua
thị giác -> Từ đó ghi nhớ về động từ.
VD2: Dạy học môn toán sử dụng các bộ mô hình: khối đa diện, khối đa
diện đều, khối tròn xoay (Toán 12), cho học sinh được thao tác trực tiếp
trên các mô hình này, đặc biệt là với hs trung bình, yếu kém, trí tưởng
tượng không gian còn hạn chế thì ban đầu nên cho các em được tiếp cận
các khái niệm này thông quan việc quan sát các mô hình. Yêu cầu hs sử
dụng các mô hình để trả lời các câu hỏi liên quan đến kiến thức của phần
này, như số đỉnh, số cạnh, số mặt,... của khối đa diện, đa diện đều và từng
bước thoát dẫn khỏi cái "trực quan" để tiến đến việc tưởng tượng không
gian, đến suy luận và hướng tới những kết luận khái quát. -
Dạng trí tuệ này bao gồm khả năng quan sát, khả năng thể hiện
bằng đồ thị và khả năng tự định hướng một cách thích hợp trong không gian.
VD: Khi học môn Mỹ thuật, Giáo viên đưa ra các mẫu, hình vẽ có sẵn để
học sinh thỏa sức quan sát, suy nghĩ và thay đổi theo hướng mà học sinh thấy thích hợp nhất.
VD2: Khi học môn Sinh học với chủ đề về cây cối, giáo viên có thể mang
các loại cây, hoa nhỏ để học sinh quan sát hoặc sờ nắm.
VD3: Khi học môn Địa, giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ biểu đồ, sau đó
để học sinh tự vẽ một biểu đồ; giáo viên xác định vị trí của một thành phố
trên thế giới trên bản đồ, sau đó học sinh xác định các thành phố khác tương tự cách cô làm. 59 Downloaded by kim kim
(ngothiphuongvtath4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40439748
Trí tuệ logic- toán học Đặc điểm: -
Là khả năng sử dụng có hiệu quả các con số (như nhà toán học,
người lập biểu thuế, nhà thống kê) và lí luận thông thạo (như nhà khoa
học, lập trình viên máy tính hay nhà logic học). -
Dạng trí tuệ này bao gồm: Tính nhạy cảm với các mối quan hệ và
các sơ đồ logic; các mệnh đề và tỉ lệ thức (nếu – thì, nguyên nhân – hệ
quả); các hàm số và các dạng trừu tượng hóa có liên quan. -
Các ứng dụng của trí tuệ logic – toán học: Thuật xếp loại, phân lớp,
suy luận, khái quát hóa, tính toán và kiểm nghiệm giả thuyết.
Các chiến lược dạy học sử dụng trí tuệ logic – toán học -
Tính toán và định lượng hoá: Ngoài các môn Toán và khoa học tự
nhiên, trong dạy học các môn Lịch sử và Địa lí, có thể tổ chức và khai thác các
bảng, biểu đồ thống kê như thiệt hại về người trong chiến tranh, biến động dân số các nước….
VD: Hướng dẫn học sinh vẽ biểu đồ dân số nước Việt Nam trong môn
Địa Lý, HS quan sát biểu đồ để tính toán tỉ lệ dân số, mật độ dân số, qua
đó đánh giá được dân số nước ta là dân số già hay dân số trẻ, có sự chênh
lệch giới tính hay không,... -
Phân loại và xếp hạng: Một trí tuệ logic có thể được phát triển
trước mọi thông tin trình bày dưới dạng cấu trúc logic – toán, ngôn ngữ, không gian…
VD: Khi học bài “Trao đổi vật chất trong hệ sinh thái” (Sinh học 12), GV
cấu trúc bài thành 2 nội dung chính dưới dạng sơ đồ tư duy: 60
Downloaded by kim kim (ngothiphuongvtath4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40439748 Chuốẫi thc ăn - ND1: Trao đi vt chấốt trong quấần xã L i dinh d ng sinh vt Bc din h d ng Trao đi vt chấtố trong h sinh th ái Tháp sốố l ng ND2: Tháp sinh vt Tháp sinh khốối Tháp năng l ng
Hỏi đáp theo kiểu Socrates: Dùng chiến lược dạy học này giáo viên trở thành
người đối thoại với học sinh; học sinh nói lên những giả thuyết của mình và
luận chứng về những giả thuyết đó.
VD: Học môn Văn, bài “Truyện Kiều”, giáo viên tổ chức buổi thảo luận
với chủ đề “Giá trị tư tưởng vượt thời đại của Nguyễn Du trong Truyện
Kiều”. GV và HS sẽ cùng trao đổi, HS được nói lên những suy nghĩ riêng
của mình, nêu ra ý kiến và bảo vệ ý kiến của mình bằng các quan điểm,
lý lẽ, dẫn chứng thuyết phục -> Từ đó phát triển trí tuệ logic cho HS. -
Khoa học về phát minh, sáng chế: Chiến lược dạy học này
hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề một cách logic bằng cách
chia nhỏ vấn đề cần giải quyết thành những mảnh vụn nhỏ hơn
để dễ xử lí, đặt giả thuyết về cách giải quyết và cuối cùng thực hiện giải quyết.
VD: Dạy Phép cộng số thập phân. -
GV đưa ra bài toán: Cắt một sợi dây thành hai đoạn. Biết đoạn
thứ nhất dài 2,4dm và đoạn thứ hai dài 5,8dm. Hỏi sợi dây lúc
đầu dài bao nhiêu đề-xi-mét? -
Đối với HS lớp 5 thì việc biết được muốn tính độ dài sợi dây
thì cần phải tính tổng độ dài của hai đoạn cắt ra là một việc làm
đơn giản. Tuy nhiên tình huống được đặt ra ở đây đối với HS
là: độ dài của hai đoạn dây cắt ra đều là những số thập phân. 61 Downloaded by kim kim
(ngothiphuongvtath4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40439748 -
Từ tình huống đó, HS phải phát huy những khả năng của mình
tìm cách giải quyết vấn đề là làm thế nào để tìm được kết quả
của phép cộng hai số thập phân đó. -
Tuỳ theo từng đối tượng HS mà GV có thể định hướng cách
giải quyết vấn đề cho phù hợp:
+ Thông thường GV hướng HS đưa các số đo về dạng số tự nhiên (đổi ra
cm) rồi thực hiện phép cộng hai số tự nhiên sau đó đưa các số đo về đơn
vị dm dưới dạng số thập phân.
+ HS cũng có thể giải quyết vấn đề đó bằng cách đưa các số thập phân về
dạng phân số thập phân rồi thực hiện cộng hai phân số sau đó đưa kết quả
về dạng số thập phân.
Kết luận sư phạm: -
Thuyết đa trí tuệ của Horward Gardner thực sự là phù hợp và
là hướng đi mới trong dạy học học, góp phần phát triển con người toàn diện.
Để phát triển các năng lực cần thiết, GV cần sử dụng các PPDH phù hợp
nhằm phát huy những thế mạnh, khắc phục những hạn chế còn tồn tại của HS. -
Giáo viên cần hiểu rõ về tám năng lực trí tuệ và biết vận dụng đa trí tuệ.
Cần đánh giá được các dạng năng lực trí tuệ trong mỗi học sinh linh hoạt
thay đổi phương pháp hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp đối với học
sinh để phát huy được trí thông minh đa dạng của các em. -
Cần coi trọng sự đa dạng về mỗi trí tuệ ở mỗi học sinh, phải
linh hoạt thay đổi phương pháp và khéo léo chuyển từ lối dạy
ngôn ngữ sang lối dạy không gian rồi lối dạy âm nhạc hay vận động giao tiếp,...
=> Thuyết đa trí tuệ nhấn mạnh đến tính đa dạng, phong phú của các phương
thức biểu lộ năng khiếu hoặc giữa các trí tuệ khác nhau.
Câu 13. Khái niệm năng lực. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình
thành phát triển năng lực của học sinh. 62
Downloaded by kim kim (ngothiphuongvtath4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40439748
Câu 14. Các đặc điểm của dạy học phát triển năng lực cho học sinh.
1. Khái niệm dạy học phát triển năng lực
1.1. Khái niệm dạy học
I. Khái niệm dạy học phát triển năng lực 1. Khái niệm dạy học
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu giáo dục: “Dạy học là toàn bộ
các thao tác có mục đích nhằm chuyển các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các
giá trị văn hóa mà nhân loại hoặc cộng đồng đã đạt được vào bên trong một con người”.
Quan niệm này lí giải đầy đủ cách mà nền giáo dục đang cố gắng đào tạo
những con người thích ứng với những nhu cầu hiện tại của xã hội. Tuy nhiên
quan niệm này làm cho nền giáo dục luôn đi sau sự phát triển của xã hội. Bởi vì
nó chỉ có nhiệm vụ tái hiện lại các giá trị tinh thần xã hội đã được vật chất hóa
bằng cách nào đó để trở lại thành giá trị tinh thần bên trong người học.
Một số quan điểm khác dựa trên sự phát triển, nhất là phát triển về khoa
học và công nghệ cho rằng “Dạy học là một quá trình gồm toàn bộ các thao tác
có tổ chức và có định hướng giúp người học từng bước có năng lực tư duy và
năng lực hành động với mục đích chiếm lĩnh các giá trị tinh thần, các hiểu biết,
các kỹ năng, các giá trị văn hóa mà nhân loại đã đạt được để trên cơ sở đó có
khả năng giải quyết được các vấn đề thực tế đặt ra trong toàn bộ cuộc sống của
mỗi người học một cách sáng tạo và hiệu quả”.
Đặc điểm của dạy học phát triển năng lực
Đặc điểm quan trọng nhất của dạy học phát triển năng lực là xác định và
đo lường được “năng lực” đầu ra của học sinh. Dựa trên mức độ làm chủ kiến
thức, kỹ năng và thái độ của học sinh trong quá trình học tập.
dạy học phát triển năng lực
Dưới đây là những đặc điểm nổi bật của dạy học theo định hướng phát
triển năng lực (Dựa trên “Tiêu chí đánh giá SGK theo định hướng phát triển năng lực”) 63 Downloaded by kim kim
(ngothiphuongvtath4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40439748
Đặc điểm về mục tiêu: Chú trọng hình thành phẩm chất và năng lực
thông qua việc hình thành kiến thức, kỹ năng; mục tiêu dạy học được mô tả chi
tiết và có thể đo lượng và đánh giá được. Dạy học để biết cách làm việc và giải quyết vấn đề.
Đặc điểm về nội dung dạy học: Nội dung được lựa chọn nhằm đạt được
các mục tiêu năng lực đầu ra. Chú trọng các kỹ năng thực hành, vận dụng vào
thực tiễn. Nội dung chương trình dạy học có tính mở tạo điều kiện để người dạy
và người học dễ cập nhật tri thức mới.
Đặc điểm về phương pháp tổ chức:
Người dạy chủ yếu đóng vai trò là người tổ chức, cố vấn, hỗ trợ người
học chiếm lĩnh tri thức; chú trọng phát triển khả năng giải quyết vấn đề.
Đẩy mạnh tổ chức dưới dạng các hoạt động, người học chủ động tham
gia các hoạt động nhằm tìm tòi khám phá, tiếp nhận tri thức mới.
Giáo án được thiết kế có sự phân hóa theo trình độ và năng lực của người học
Người học có nhiều cơ hội được bày tỏ ý kiến, quan điểm và tham gia phản biện.
Đặc điểm về không gian dạy học: Không gian dạy học có tính linh hoạt,
tạo không khí cởi mở, thân thiện trong lớp học. Lớp học có thể tron phòng hoặc
ở ngoài trời, trong công viên, bảo tàng… nhằm dễ dàng tổ chức các hoạt động nhóm
Đặc điểm về đánh giá: Tiêu chí đánh giá dựa vào kết quả “đầu ra”, quan
tâm tới sự tiến bộ của người học. Chú trọng khả năng vận dụng kiến thức đã học
vào thực tiễn. Ngoài ra 1 đặc điểm quan trọng trong đánh gia đó là: người học
được tham gia vào quá trình đánh giá, nâng cao năng lực phản biện, một phẩm
chất quan trọng của con người thời kỳ hiện đại.
Đặc điểm về sản phẩm giáo dục:
Tri thức người học có được là khả năng áp dụng vào thực tiễn.
Phát huy khá năng tự tìm tòi, khám phá vừ ứng dụng nên người học
không bị phụ thuộc vào học liệu
Người học trở thành những con người tự tin năng động và có năng lực.
Đặc trưng của dạy học phát triển năng lực và phẩm chất 64
Downloaded by kim kim (ngothiphuongvtath4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40439748
Dạy học phát triển năng lực và phẩm chất là quan điểm dạy học trong đó
mục tiêu được cụ thể hóa bằng yêu cầu cần đạt. Trong đó, mỗi năng lực và
phẩm chất được mô tả chi tiết cấu trúc các tiêu chí, chỉ báo. Chuẩn đầu ra đạt
được thông qua tổ chức dạy học nội dung ứng với công thức sau:
NĂNG LỰC = KIẾN THỨC x KỸ NĂNG x THÁI ĐỘ x TÌNH HUỐNG
Dạy học phát triển năng lực có những đăc trưng sau:̣ -
Mục tiêu dạy học: Phát triển toàn diên phẩm chất và năng lực của ̣
người học; chú trọng vân dụng kiến thức vào tình huống thực tiễn, chuẩn bị ̣
năng lực giải quyết các tình huống của cuôc sống và nghề nghiệ p, giúp người ̣
học thích ứng với sự thay đổi của xã hội. - Nôi dung dạy học: Nộ
i dung và hoạt độ ng cơ bản trong các
môn học ̣ được liên kết với nhau, gắn với tình huống thực tiễn. Chương trình chỉ
quy định những nôi dung chính nhằm đạt được kết quả đầu ra, gắn với việ c
hình thành và ̣ phát triển năng lực. -
Phương pháp dạy học: Người dạy tổ chức, tư vấn, hỗ trợ giúp
người học tự lực, tích cực và sáng tạo trong học tập; Chú trọng sử dụng các
quan điểm, phương pháp, kỹ thuât, thủ thuậ t dạy học tích cực giúp người học
trải ̣ nghiêm thực tế tìm kiếm và vậ n dụng kiến thức.̣ -
Hình thức tổ chức dạy học: Chú trọng các hình thức học cá nhân,
học hợp tác với các hoạt đông đa dạng như hoạt độ ng xã hộ i, ngoại khóa,
nghiên ̣ cứu khoa học, trải nghiêm sáng tạo, đẩy mạnh việ c ứng dụng công nghệ thông ̣ tin. 65 Downloaded by kim kim
(ngothiphuongvtath4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40439748 -
Môi trường học tâp: Đa dạng ở trên lớp, ngoài lớp, ngoài trường đặ
c ̣ biêt là vườn trường, xưởng trường, vậ
n dụng trong đời sống thực
tế. Môi trường ̣ học tâp đa dạng, linh hoạt phát huy được tính sáng tạo của người
học, có sự hỗ ̣ trợ hoặc tham gia của các tổ chức xã hội và gia đình. -
Đánh giá kết quả: Dựa vào tiêu chí hoăc bộ công cụ chủ yếu
hướng ̣ vào năng lực đầu ra, tính đến sự tiến bô, tư vấn cho người học biệ n
pháp thay ̣ thế bằng phương thức học tâp hiệ u quả; chú trọng vào các sản phẩm
học tậ p và ̣ khả năng vân dụng trong các tình huống thực tiễn.̣
Câu 15. Các đặc điểm của dạy học tích hợp.
I. Dạy học tích hợp là gì?
Dạy học tích hợp là gì? Phương pháp dạy học tích hợp là gì?
Dạy học tích hợp là một quan niệm dạy học nhằm hình thành và phát
triển ở học sinh những năng lực cần thiết, đặc biệt là năng lực vận dụng kiến
thức vào giải quyết có hiệu quả những tình huống thực tiễn. Theo đó, giáo viên
sẽ lồng ghép những nội dung giáo dục vào các môn học có sẵn, thông qua các
hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và hướng dẫn, học sinh không chỉ biết
cách thu thập, chọn lọc và xử lý thông tin mà còn chủ động nên lên vấn đề, vận
dụng các kiến thức và kỹ năng vào giải quyết các vấn đề liên quan đến học tập
và thực tiễn cuộc sống. Dạy học tích hợp giúp cho việc học tập của học sinh trở
nên ý nghĩa hơn, phát triển được những năng lực cần thiết như năng lực giải
quyết vấn đề, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.
Khác với phương pháp dạy học truyền thống có phần khô khan, phương
pháp dạy học tích hợp đang trở nên phổ biến và được các em học sinh yêu thích
vì tính thực tiễn và khả năng ứng dụng cao. Chính vì vậy, phương pháp dạy học
tích hợp đã được ứng dụng trong các cấp mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông.
Phương pháp dạy học tích hợp là gì?
Phương pháp dạy học tích hợp là cách thức giáo viên hướng dẫn, tổ chức
học sinh chủ động, phối hợp và khai thác tri thức, kỹ năng đã có từ vốn sống, vốn 66
Downloaded by kim kim (ngothiphuongvtath4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40439748
văn hóa, từ các phân môn khác ứng dụng vào phân môn đang giảng dạy nhằm
mục đích nâng cao hiệu quả tiết học theo yêu cầu, mục đích đề ra
Các phương pháp dạy học được biên soạn theo nguyên tắc, quan điểm tích hợp bao gồm: -
Phương pháp giảng giải, thảo luận, đàm thoại, nhóm -
Phương pháp tham quan, khảo sát, điều tra, nghiên cứu thực địa -
Phương pháp khai thác kinh nghiệm thực tế để giáo dục -
Phương pháp hoạt động thực tiễn -
Phương pháp giao bài tập về nhà - Phương pháp đóng vai - Phương pháp động não -
Phương pháp tiếp cận kỹ năng sống …
Đặc điểm của dạy học tích hợp là gì?
1. Dạy học tích hợp hướng tới người học
Đặc điểm này yêu cầu người học là chủ thể của hoạt động học. Người học
phải tự học, tự nghiên cứu khám phá kiến thức. Người học không chỉ đặt mình
vào kiến thức có sẵn ở trong bài dạy mà còn phải đặt mình vào tình huống thực
của cuộc sống, từ đó tự phát hiện ra điều chưa biết, điều cần tìm hiểu, tức là khám
phá kiến thức cho bản thân. Dạy học tích hợp chú trọng đến kết quả học tập của
người học, hướng người học vận dụng các kiến thức đã học vào giải quyết các
tình huống thực tiễn. Điều này yêu cầu quá trình học tập phải đảm bảo hiệu quả
và chất lượng để thực hiện nhiệm vụ đưa ra.
2. Dạy học tích hợp hướng tới mục tiêu phát triển năng lực 67 Downloaded by kim kim
(ngothiphuongvtath4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40439748
Trong dạy học tích hợp, người học phải phát huy tối đa năng lực của mình.
Đó là sự tích cực, chủ động tìm tòi kiến thức của người học. Giáo viên chỉ là
người tổ chức và hướng dẫn, khuyến khích người học tự chiếm lĩnh kiến thức
bằng chính hành động của mình. Trong quá trình giải quyết vấn đề người học có
thể rút ra những kiến thức chưa khoa học, chưa chính xác. Học sinh cũng có thể
căn cứ vào kết luận của giáo viên để tự rút kinh nghiệm và thay đổi về cách học
của mình cho phù hợp, nhận ra những điểm sai và biết sửa sai đó là biết cách học.
Trong dạy học tích hợp, người học được yêu cầu phải tự thể hiện mình,
hình thành và phát triển năng lực hợp tác với nhóm, với lớp. Sự hợp tác nhóm sẽ
đưa ra các cách giải quyết mới mẻ, sáng tạo, thúc đẩy các thành viên khác hứng
thú tham gia vào giải quyết vấn đề.
3. Dạy học tích hợp kết hợp giữa lý thuyết và thực hành
Đây là quá trình dạy học qua đó người học hình thành năng lực học tập
nhằm đáp ứng được mục tiêu của chủ đề, bài học. Người học cần được phát triển
các năng lực tương ứng với mục tiêu của chương trình môn học (Lịch sử và Địa
lí). Do đó, việc dạy kiến thức lí thuyết không chỉ ở mức độ hàn lâm mà cần phải
hỗ trợ cho việc phát triển các năng lực thực hành ở mỗi người học. Người dạy cần
định hướng, giúp đỡ, tổ chức và điều chỉnh, động viên các hoạt động của người
học đồng thời khuyến khích người học nảy sinh nhu cầu, tạo hứng thú để đưa ra kết quả mới.
4. Dạy học tích hợp đặt người học vào tình huống thực tế
Trong dạy học tích hợp, người học được vận dụng những kiến thức, kĩ
năng đã học vào giải quyết những tình huống thực tiễn. Người học phải quan sát,
thảo luận nhiệm vụ đặt ra theo suy nghĩ của cá nhân, tự lực tìm cách giải quyết
để khám phá những điều mình chưa hiểu mà không phải thụ động tiếp thu những 68
Downloaded by kim kim (ngothiphuongvtath4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40439748
tri thức từ giáo viên cung cấp. Người học cần phải tiếp nhận tình huống học tập
qua các phương tiện dạy học, phân tích tình huống để phát hiện mối quan hệ bản
chất của sự vật, hiện tượng.
Hoạt động dạy học tích hợp cũng cần có sự kiểm soát, củng cố những
nhận thức của người học. Việc kiểm soát được thực hiện qua thông tin của hoạt
động tự đánh giá, điều chỉnh. Việc đánh giá năng lực của người học phải dựa vào
việc người học đã vận dụng các kiến thức đã học vào việc thực hiện giải quyết
các tình huống phức hợp trong cuộc sống. Việc đánh giá được thực hiện ở từng
cá nhân người học dựa trên mức độ hoàn thành công việc theo các tiêu chí đánh
giá của chủ đề, môn học.
Câu 16. Các biện pháp dạy học phân hóa
Dạy học phân hoá là gì ?
Dạy học phân hóa là sự điều chỉnh các kinh nghiệm giáo dục để
đáp ứng nhu cầu cá nhân của người học. Đó là điều không có gì mới. Các giáo
viên tích cực luôn nhận ra nhu cầu đa dạng của học sinh và điều chỉnh việc giảng
dạy cho phù hợp. Thông qua các buổi học một kèm một, các hoạt động nhóm nhỏ,
các khóa học cá nhân, bài tập đọc và dự án, giáo viên đang giải quyết sự đa dạng
của các cấp độ học sinh, sở thích, điểm mạnh, điểm yếu và mục tiêu trong lớp học.
Dạy học phân hóa là định hướng trong đó giáo viên tổ chức dạy học
tùy theo đối tượng, nhằm bảo đảm yêu cầu giáo dục phù hợp với đặc điểm tâm -
sinh lý, nhịp độ, khả năng, nhu cầu và hứng thú khác nhau của những người học;
trên cơ sở đó phát triển tối đa tiềm năng vốn có của mỗi học sinh.
Dạy học phân hóa – con đường để nâng cao kết quả học tập của mỗi học sinh 69 Downloaded by kim kim
(ngothiphuongvtath4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40439748
Tuy nhiên, dạy học phân hóa là công việc khó khăn và tốn thời gian, và
quy mô lớp học đang tăng lên mọi lúc, khiến việc dạy học phân hóa trở nên khó
khăn hơn. Công nghệ mới có thể hỗ trợ giáo viên và tăng cường các nỗ lực bằng
cách đề xuất những điểm cần tập trung vào người học hoặc toàn bộ lớp học. Điều
này được thực hiện bằng cách cung cấp cho giáo viên các thông tin về điểm mạnh
và điểm yếu của người học. Những tiến bộ này cho phép giáo viên tận dụng tối
đa thời gian trên lớp, khiến học sinh không bị choáng ngợp trước các nhiệm vụ
học tập và không bị chán nản trong học tập..
Trong một vài năm qua, bối cảnh lớp học và trường học đã trở nên
vô cùng đa dạng. Học sinh chuyên, học sinh trung bình, học sinh thuộc giáo dục
đặc biệt, học sinh xuất sắc, học sinh kém và học sinh trung bình đều học cùng
một lớp học. Mỗi học sinh lại có những cách học khác nhau, đến từ những nền
văn hóa khác nhau, có những cảm xúc và niềm hứng thú khác nhau. Trong từng
môn học, mỗi học sinh lại có một xuất phát điểm khác nhau. Nhưng các bài học
lại được thiết kế theo một cách giống nhau cho tất cả các trường và các đối tượng
học sinh. Mọi người đều nghĩ rằng mọi người trong cùng một lớp học đều học
cùng một cách giống nhau. Chính điều đó đã và đang đặt ra những yêu cầu đối
với giáo viên trong sự thay đổi về cách tiếp cận cũng như phương pháp giảng
dạy… Làm thế nào để những yếu tố đó không khiến giáo viên cảm thấy áp lực và
thử thách? Làm thế nào để các thầy cô giáo có thể tạo được môi trường học tập
thích hợp cho các học sinh. Câu trả lời chính là Dạy học phân hóa
Phân loại dạy học phân hóa 70
Downloaded by kim kim (ngothiphuongvtath4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40439748
Phân hóa trong (còn gọi là phân hóa vi mô) là cách dạy học chú ý tới các
đối tượng riêng biệt, cá nhân hóa người học trên lớp, phù hợp với từng đối tượng
để tăng hiệu quả dạy học, kết quả phân hóa trong phụ thuộc chủ yếu vào năng
lực và phương pháp của người dạy.
Phân hóa ngoài (còn gọi là phân hóa vĩ mô) là cách tổ chức dạy học theo
các chương trình khác nhau cho các nhóm người học khác nhau nhằm đáp ứng
được nhu cầu, sở thích và năng lực của từng nhóm người học. Kết quả phân hóa
ngoài phụ thuộc chủ yếu vào việc thiết kế nội dung chương trình các môn học.
Phân hóa trong, được coi trọng ở tất cả các cấp học; phân hóa ngoài được
thực hiện tăng dần ở các cấp học giáo dục phổ thông, đặc biệt phân hóa mạnh ở
các lớp cuối trung học phổ thông.
Hiện có nhiều hình thức tổ chức dạy học phân hoá ngoài khác nhau,
nhưng chủ yếu là hai hình thức sau:
Tổ chức dạy học phân hóa theo hướng phân ban: Mỗi ban được xác định
theo một nhóm môn học phù hợp với nhóm ngành, nghề xã hội. Học sinh lựa
chọn ban căn cứ vào năng lực và nguyện vọng của bản thân và điều kiện thực tiễn
của từng trường.Có thể thực hiện dạy học phân hóa theo hướng tổ chức các nhóm
học tập cùng trình độ (khá - giỏi - trung bình - yếu), hoặc các câu lạc bộ học tập
theo năng khiếu môn học… Ở quy mô quốc gia, việc tổ chức dạy học theo các
ban “tự nhiên”, “xã hội” và “cơ bản” là một hình thức phân hóa vĩ mô.
Tổ chức dạy học phân hóa theo hướng tự chọn: Học sinh chỉ bắt buộc
phải học một số ít môn học và hoạt động chung, còn lại tự chọn các môn học hoặc
chủ đề giáo dục phù hợp với nguyện vọng, sở trường của cá nhân người học. Số
lượng môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc cũng như các môn, các chủ đề tự
chọn thường gắn với đặc điểm môi trường kinh tế - xã hội cụ thể của mỗi địa phương/quốc gia. 71 Downloaded by kim kim
(ngothiphuongvtath4@gmail.com)