Lý thuyết - tài klliệu riêng cho ngành kinh tế tiểu thương vô hại vơi thi trường - Cierre Foro
Lý thuyết - tài klliệu riêng cho ngành kinh tế tiểu thương vô hại vơi thi trường - Cierre Foro và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học.
Môn: Kinh tế chính trị Mác - Lênin
Trường: Đại học Sư Phạm Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH KHOA TÂM LÝ HỌC
BÀI TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: NHẬP MÔN NGHỀ NGHIỆP
CÁC YÊU CẦU ĐỐI VỚI MỘT NHÀ TÂM LÝ HỌC
Ở MỘT SỐ QUỐC GIA PHÁT TRIỂN
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Cát Sương MSSV: 46.01.611.103
Mã lớp học phần: PSYC 148701
Giảng viên hướng dẫn: T S
h NCS Mai Mỹ Hạn h TP. HỒ CHÍ MINH - 01/2023 2 MỤC LỤC I.
Lý do chọn đề tài……………………………………………………………….3 II.
Nội dung………………………………………………………………………..4
1. Các khái niệm liên quan……………………………………………………4
1.1 Nhà Tâm lý học………………………………………………………...4
1.2 Các yêu cầu đối với một nhà Tâm lý học………………………………5
2. Các yêu cầu đối với một nhà Tâm lý học ở một số quốc gia phát
triển…………………………………………………………………………5
2.1 Ở Mỹ……………………………………………………………………6
2.2 Ở Anh…………………………………………………………………...6
2.3 Ở Úc…………………………………………………………………….7
2.4 Ở Singapo………………………………………………………………7
2.5 Các yêu cầu chung về phẩm chất đạo đức………………………….…..8
3. Kết luận và mở rộng……………………………………..............................9 III.
Bài học cho bản thân………………………………………………….………10 IV.
Tài liệu tham khảo…………………………………………………….………12 3 I.
Lý do chọn đề tài
Thuật ngữ Tâm lý học xuất hiện vào khoảng thế kỉ XV-XVI bởi William James,
nhà triết học người Đức Rudlof Goeckel, Marko Marulić , và thuật ngữ đã bắt ầ đ u được
dùng rộng rãi kể từ khi nhà triết học duy tâm người Đức Christian Wolff (1679-1754)
dùng nó trong Psychologia empirica and Psychologia rationalis của ông (1732-1734) -
Sự phân biệt giữa tâm lý học kinh nghiệm (empirical) và lý trí (rational) này được đề cập
trong Encyclodedie của Diderot và được Maine de Biran phổ cập tại Pháp. Từ thời cổ đã
có một số từ ngữ được nhắc đến liên quan đến Tâm lý học. Qua quá trình phát triển lâu
dài, Tâm lý học không ngừng phát triển thành một ngành khoa học đóng vai trò quan
trọng đối với đời sống tinh thần con người.
Người làm nghề Tâm lý học hay còn gọi là các nhà Tâm lý học ban đầu là nghiên
cứu về các hiện tượng tâm lý người, sau đó đúc kết thành kiến thức khoa học để ứng
dụng nó vào trong thực tiễn cuộc sống. Ngày nay có rất rất nhiều người được “chữa lành”
bằng các liệu pháp kết hợp của Tâm lý học. Đó là thành quả của các nhà tâm lý học vĩ đại
của các học thuyết khác nhau ví dụ như: E.L.Thorndike (1874-1949), J.B.J.Watson
(1878:1958), E.C.Tolman (1886-1959), S.Freud (1856-1939), C.Jung (1875-1961), Jean
Piaget (1896-1980), L.X.Vugotxki (1896-1934), X.L Rubinstein(1887-1982), A.N Leonchev (1903-1979),…
Song ngày nay ngành Tâm lý học trở thành một ngành khoa học có ảnh hưởng sâu
rộng đến đời sống tâm lý con người, ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của con người.
Nhưng có không ít các cá nhân mượn danh nghĩa là nhà tâm lý học để đi lừa gạt người
khác. Điều này đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp của một nhà tâm lý học và ảnh hưởng
đến bộ mặt của những nhà làm khoa học nghiên cứu tâm lý học thực thụ. Chính vì lẽ đó
mà càng có nhiều bộ quy chuẩn ra đời, góp phần ngăn chặn tình trạng nói trên. Ở các
nước phát triển bộ quy chuẩn này đã được công bố và thực hiện nghiêm ngặt từ khá lâu nhưng đối với các n ớ
ư c đang phát triển thì nó vẫn còn là một “góc khuất”. Để giới thiệu
đến mọi người các tiêu chuẩn làm nghề tâm lý học nên em quyết ị
đ nh chọn đề tài “ Các 4
yêu cầu đối với một nhà tâm lý học ở các quốc gia phát triển” làm bài tiểu luận cuối kì của em. II. Nội dung
1. Các khái niệm l iên quan
1.1 Nhà Tâm lý học
Hiểu một cách khoa học thì “Tâm lý là toàn bộ những hiện tượng tinh thần nãy
sinh trong não người, gắn liền và điều khiển toàn bộ hoạt động, hành vi của con người.
(Huỳnh Văn Sơn, 2012). Còn thuật ngữ “Tâm lý học” có thể hiểu là ngành khoa học
chuyên nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến tâm lý người.
Nhiệm vụ cơ bản của Tâm lý học là nghiên cứu bản chất của hoạt động tâm lý, các quy luật n
ãy sinh và phát triển tâm lý, cơ chế diễn biến và thể hiện tâm lý, quy luật về
mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lý. Cụ thể là nghiên cứu:
- Những yếu tố khách quan, chủ quan tạo ra tâm lý người
- Cơ chế hình thành, biểu hiện của hoạt động tâm lý
- Tâm lý của con người hoạt động như thế nào
- Chức năng, vai trò của tâm lý đối với hoạt động của con người
Có thể nêu lên các nhiệm vụ cụ thể của tâm lý học như sau:
- Nghiên cứu bản chất của hoạt động tâm lý cả về mặt số lượng và chất lượng
- Phát hiện các quy luật hình thành và phát triển tâm lý người
- Tìm ra cơ chế của các hiện tượng tâm lý
Trên cơ sở các thành tựu nghiên cứu, tâm lí học đưa ra những giải pháp hữu hiệu
cho việc hình thành, phát triển tâm lí, sử dụng tâm lí trong nhân tố con người có hiệu quả
nhất. Để thực hiện các nhiệm vụ nói trên, tâm lí học phải liên kết, phối hợp chặt chẽ với
nhiều khoa học khác. (Lytuong.net, 2021) 5
Một nhà tâm lý học là người thực hiện các nhiệm vụ của tâm lý học. Bao gồm các
công việc: học thuật, nghiên cứu, giảng dạy, ứng dụng tâm lý học vào các lĩnh vực khác
nhau, dùng kiến thức khoa học của tâm lý học để tham vấn, trị liệu giúp chữa lãnh cho
người khác,… Có thể nói rằng ngành Tâm lý học là một ngành khoa học có thể đem lại
nhiều ứng dụng cho tất cả mọi người trên thế giới này và ở tất cả các lĩnh vực khác nhau.
Ngành Tâm lý học được chính thức xuất hiện từ khá lâu nhưng bộ tiêu chuẩn làm nghề này chỉ mới đ ợ
ư c chú ý quan tâm vào một vài thập kỉ trở lại đây. Có thể thấy ngành Tâm
lý học là một ngành khoa học sinh sau đẻ muộn hơn nhưng nó đem lại nhiều đóng góp
cho con người. Chính vì vậy mà vai trò của các nhà khoa học ngày càng được đề cao hơn. Đặc biệt là ở
các quốc gia phát triển.
1.2 Các yêu cầu ố
đ i với một nhà Tâm lý học
Yêu cầu là các tiêu chí, quy chuẩn đòi hỏi phải được đáp ứng cho một vấn đề nào
đó. Dựa trên các đặc điểm của chủ thể của yêu cầu đó mà mỗi chủ thể sẽ có một số yêu cầu khác nhau.
Một nhà Tâm lý học trước hết là một người làm về khoa học. Khoa học là những
thứ chính xác, rõ ràng, được công nhận rộng rãi. Chính vì thế mà một người làm nghề
tâm lý học cũng phải đáp ứng các tiêu chí chính xác, rõ ràng, được công nhận rộng rãi.
Khi xét đến các tiêu chí của một nhà tâm lý học cần xét đến hai khía cạnh như sau:
- Học vấn, bằng cấp, chứng chỉ bắt buộc phải có
- Các phẩm chất, năng lực cần có
Các tiêu chí đó được đáp ứng dựa trên nguyên tắc đạo đức làm nghề cũng như
được pháp luật công nhận.
2. Các yêu cầu ố
đ i với một nhà Tâm lý học ở một số quốc gia phát triển 6
2.1 Ở Mỹ
Về đào tạo, các chương trình đào tạo nhà tâm lý của các quốc gia như Mỹ quy
định phải có các môn học để hình thành 6 nhóm năng lực mà một nhà tâm lý học lâm sàng cần phải ạ
đ t gồm: (a) đánh giá; (b) can thiệp; (c) tư vấn; (d) nghiên cứu; (e) Giám
sát/ giảng dạy và (f) Điều hành/quản lý chuyên môn phù hợp với bối cảnh văn hóa của
từng quốc gia. Tuy nhiên để có thể hành nghề, bằng cấp thấp nhất cần có là trình độ thạc
sỹ, và cá nhân phải trải qua ít nhất 1900 giờ (tương đương với 2 năm thực hành dưới sự
giám sát) và vượt qua một bài kiểm tra đánh giá năng lực để có giấy phép. (Trần Thành Nam, 2020) 2.2 Ở Anh
Ở Anh, để có thể hành nghề can thiệp trị liệu tâm lý, các ứng viên cần phải có
bằng cấp trình độ tiến sỹ hoặc kỹ năng kinh nghiệm tương đương có thể thay thế được
bằng tốt nghiệp trình độ đào tạo tiến sỹ, có đủ tư cách để được công nhận trở thành thành
viên của Hiệp hội Tâm lý Anh, các bằng chứng đã tham gia các khóa học phát triển nghề
một cách liên tục, có minh chứng đã thực hành các nguyên tắc đạo đức của Hiệp hội, thể
hiện có năng lực cao về lý luận và thực hành trong ít nhất hai liệu pháp tâm lý chuyên
biệt và những kiến thức về văn hóa của các nhóm người trong cộng đồng.
Các ứng viên cũng sẽ phải vượt qua những bài kiểm tra kỹ năng thiết yếu bao gồm
i) Kỹ năng phân tích & phán đoán; (ii) Kỹ năng giao tiếp; (iii) Khả năng thể chất; (iv)
Khả năng sử dụng các phương pháp can thiệp và đánh giá tâm lý phức tạp, thường xuyên
đòi hỏi sự tập trung cao độ; (v) Khả năng truyền đạt thông tin hiệu quả, chuyên môn cao
về mặt lâm sàng cho thân chủ, gia đình, người chăm sóc của họ và các đồng nghiệp
chuyên nghiệp; (vi) Kỹ năng phân tích và phán đoán cao với khả năng hiểu được các sự
kiện hoặc tình huống phức tạp cần phân tích, diễn giải, so sánh; (vii) Khả năng cao để
hình thành và duy trì các mối quan hệ cộng tác chuyên nghiệp với đồng nghiệp ở tất cả
các cấp; (viii) Kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức các hoạt động (ví dụ: hoạt động nhóm) & 7
kỹ năng quản lý khối lượng công việc của bản thân; (ix) Khả năng làm việc trong môi
trường phức tạp và thích nghi với sự thay đổi; (x) thể hiện khả năng làm việc dưới áp lực;
(xi) Kỹ năng tư vấn cho các nhóm chuyên viên tâm lý và cả nhóm không chuyên. (Trần Thành Nam, 2020) 2.3 Ở Úc Đối ớ
v i Úc, ứng viên cần đáp ứng các tiêu chuẩn về đào tạo gồm việc tốt ngh ệ i p chương
trình học 4 năm (gồm 3 năm cử nhân và 1 năm sau đại học), theo sau đó là 5 sự lựa chọn
bao gồm kỳ thực tập (i) 2 năm có giám sát hoặc 1 năm thạc sĩ & (ii) 1 năm thực tập có
giám sát), hoặc (iii) bằng thạc sĩ/ (iv) bằng thạc sĩ kết hợp với chương trình đào tạo tiến sĩ
hoặc (v) chương trình tiến sĩ. Tiếp đó, thực hành kết hợp giám sát trong 1 tới 2 năm (tuỳ
thuộc vào quá trình học trước đó) là một yêu cầu cuối cùng trước khi được công nhận là
một nhà tâm lý. (Trần Thành Nam, 2020) 2.4 Ở Singapo
Còn với quốc gia gần chúng ta như Singapore, để trở thành một nhà tâm lý trị liệu
có đăng ký tại Singapore (Singapore Register of Psychologist - SRP), Hiệp hội Tâm lý
Trị liệu và Tham vấn Singapore đưa ra những yêu cầu cần phải đạt được gồm (i) Bằng
Thạc sĩ hoặc Tiến sĩ về tâm lý học lâm sàng các chương trình đào tạo đã được kiểm định
tại các quốc gia như Úc, Canada, New Zealand, Vương quốc Anh hoặc Hoa Kỳ hoặc (ii)
trở thành một thành viên chính thức của SPS (Singapore Psychological Society) và để trở
thành một thành viên chính thức, cần phải có (i) Bằng cử nhân / Thạc sĩ tâm lý học hoặc
tương đương, được xã hội công nhận và 2 năm kinh nghiệm làm việc có liên quan; (ii)
Bằng cử nhân tâm lý học hoặc tương đương được công nhận cùng với trình độ chuyên
môn cao hơn về tâm lý học có thể là Thạc sĩ, Tiến sĩ hoặc tương đương; (iii) Bằng Thạc
sĩ / Tiến sĩ trong lĩnh vực chuyên ngành tâm lý học từ một ổ
t chức giáo dục uy tín đã
được kiểm định. Trong đó yêu cầu đào tạo thực hành có giám sát không ít hơn 400 giờ
trong nhiều môi trường khác nhau. Hoặc là nhà tâm lý học được cấp phép từ các quốc gia 8
như Úc, Canada, New Zealand, Hoa Kỳ, Anh quốc và Bắc Ireland. (Trần Thành Nam, 2020)
2.5 Yêu cầu chung về phẩm chất đạo đức
“Bên cạnh các yêu cầu về đào tạo, năng lực lý luận và thực hành, tất cả các nước
đều đề cập đến các nguyên tắc đạo đức mỗi ngành nghề có thể tập trung phát triển các
nguyên tắc đạo đức theo định hướng khác nhau, nhưng các quốc gia và những ngành
nghề liên quan đến chăm sóc sức khỏe con người đều chia sẻ những giá trị chung cơ bản.
Các giá trị đó được thể hiện trong các nguyên tắc như:
- Thiện tâm và không gây hại. Nhà tâm lý đấu tranh để đem lại quyền lợi và cẩn trọng để
không làm điều gì tổn hại cho thân chủ của họ.
- Tin cậy và trách nhiệm. Nhà tâm lý thiết lập mối quan hệ trung thực và tin cậy với thân
chủ, luôn nhắc nhở mình ý thức về trách nhiệm khoa học và nghề nghiệp với xã hội, với
một cộng đồng cụ thể và với người mình đang làm việc cùng.
- Chính trực. Nhà tâm lý luôn tìm cách để tăng cường sự chính xác, trung thực và tin cậy
trên các lĩnh vực nghiên cứu khoa học, giảng dạy và thực thành tâm lý học.
- Công bằng. Nhà tâm lý phải luôn đảm bảo sự công bằng cho tất cả mọi người r t ong việc
tiếp cận với các lợi ích của công việc tâm lý và phải được hưởng chất lượng phục vụ, quy
trình, thủ tục như nhau từ nhà tâm lý.
- Tôn trọng con người và phẩm giá của họ. Nhà tâm lý tôn trọng các giá trị của mỗi thân
chủ cũng như quyền riêng tư, đảm bảo tính bảo mật và quyền tự quyết của thân chủ.”
(Trần Thành Nam, 2020)
Ngoài những yêu cầu chung về phẩm chất đạo đức của một nhà tâm lý học theo
quy chuẩn APA của Mỹ mà tác giả Trần Thành Nam đã giới thiệu thì theo em nhà tâm lý 9
học cần có sự yêu thương con người sâu sắc, luôn muốn làm việc với con người, muốn
được giúp đỡ và đem lại các giá t ị
r cho người khác và cho xã hội. Hơn ai hết những nhà
tâm lý học là những người hiểu được các quy luật hình thành và phát triển tâm lý người
từ đó có thể cảm thông, và giúp đỡ họ phần nào đó trong cuộc sống. Bên cạnh đó là lòng
yêu nghề tha thiết muốn gắn bó và cống hiến cho sự nghiệp khoa học tâm lý vĩ đại của toàn nhân loại.
3. Kết luận và mở rộn g
Nghề tâm lý học là một nghề đem lại nhiều giá trị cho con người, cho xã hội trên
mọi lĩnh vực đời sống. Nhà tâm lý học là người làm khoa học. Để trở thành một nhà tâm
lý học ở các quốc gia phát triển cần đáp ứng những yêu cầu nhất định theo bộ quy chuẩn
của từng quốc gia. Nhìn chung mỗi quốc gia đều có một hiệp hội tâm lý học để giám sát
và tạo điều kiện cho những nhà tâm lý học được hành nghề một cách đúng quy chuẩn.
Trước hết cần đạt đ ợ
ư c một số chứng chỉ về kiến thức tâm lý cũng như các môn học trau
dồi và rèn luyện các nhóm kỹ năng cần thiết để trở thành một nhà tâm lý học. Bên cạnh
đó người làm nghề tâm lý học còn phải đáp ứng được các phẩm chất đạo đức và quy tắc
hành nghề theo chuẩn đạo đức hành nghề mà hiệp hội khoa học APA của Mỹ đã đưa ra.
Ngoài ra tại Việt Nam, nghề tâm lý học mới được cấp mã nghề (2634) và chức
danh cho nhà tâm lý học phân biệt với bác sĩ tâm thần vào năm 2020. Đây là một sự kiện
bước ngoặt quan trọng đánh dấu cho sự phát triển chỉnh chu theo đúng ý nghĩa khoa học
hơn của một nhà tâm lý ọ
h c. Hiệp hội tâm lý học Việt Nam được thành lập vào năm 2019
cũng là nơi tạo điều kiện phát triển cho các nhà tâm lý học. Tuy nhiên do là quốc gia
đang phát triển nên ngành tâm lý học chưa thật sự là một ngành khoa học được mọi người
đánh giá cao về mặt chuyên môn khoa học. Tại V ệ
i t Nam thì chưa có một bộ quy chuẩn
cụ thể được quy định rõ ràng cho những nhà tâm lý học chấp hành theo. Vẫn có tình trạng
nhiều người tự nhận mình là “bác sĩ tâm lý” hay là “chuyên gia tâm lý” khi chưa từng trải
qua bất kỳ chương trình đào tạo hay sự giám sát của hiệp hội tâm lý học. Điều đó là một
sai lầm gây ảnh hưởng tiêu cực đến những người làm nghề tâm lý học chân chính, Mong 10
rằng trong tương lai không xa sẽ có bộ quy chuẩn quy định rõ ràng về những yêu cầu
phải đạt được để trở thành một nhà tâm lý học. Mong rằng Hiệp hội tâm lý học Việt Nam
sẽ không ngừng phát triển hơn nữa để đưa ngành tâm lý học Việt Nam không ngừng nâng
cao uy tín trên trường quốc tế.
III. Bài học cho bản thân
Sau khi tìm hiểu về quy chuẩn nghề tâm lý học tại các quốc gia phát triển em rút
ra được một số bài học cho bản thân như sau:
- Khi đã mang trên mình cái danh là sinh viên khoa Tâm lý học thì mọi lời nói
mình nói ra về ngành của mình phải mang tính khoa học. Không được phép
phát ngôn lung tung về những kiến thức khoa học.
- Giữ và xây dựng hình ảnh cho bản thân cũng góp phần vào việc xây dựng hình
ảnh cho cộng đồng người làm nghề tâm lý học.
- Cố gắng trau dồi thêm những kiến thức về tâm lý học cũng như rèn luyện
những phẩm chất và năng lực cần có của nhà tâm lý học.
- Tuy Việt Nam chưa có bộ quy chuẩn cụ thể về nghề, mình có thể dựa theo bộ
quy chuẩn của các quốc gia phát triển để tự giác, nghiêm túc thực hiện theo.
- Hiện nay các trường đào tạo cử nhân tâm lý học chưa có chuẩn đầu ra cụ thể,
người làm nghề tâm lý học cần chọn cho mình hướng đi cụ thể để lên kế hoạch
phát triển bản thân được tốt nhất có thể.
- Muốn đi theo định hướng cụ thể nào của ngành tâm lý học cũng cần học lên
cao và học chuyên sâu hơn. Đối với các lĩnh vực ứng dụng tâm lý học thì cần
học thêm các chứng chỉ nghiệp vụ khác để có đầy đủ cơ sở để làm nghề.
- Dù là đi theo hướng nào của tâm lý học thì cũng cần tuân thủ các quy tắc đạo
đức làm nghề tâm lý học để tránh làm hại người khác và hại luôn chính bản thân mình.
- Phải xác định nếu muốn trở thành một nhà tâm lý học thực thụ sẽ phải trải qua
quá trình rất gian nan và khó khăn.