lOMoARcPSD|37682075
NỘI DUNG BÀI THUYẾT Trình BÁO IN (1)
tiếng anh học tập (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2)
lOMoARcPSD|37682075
KHÁI NIỆM BÁO IN:
Hiện nay, có rất nhiều khái niệm khác nhau về “báo in”. Trong cuốn “Từ điển tiếng
Việt” (NXB Phương Đông, 2002), báo in có nghĩa là “xuất bản phẩm định kỳ in trên
giấy khổ lớn, đăng tin, bài, tranh ảnh để thông tin, tuyên truyền tính chất quần
chúng và nội bộ bằng các bài viết, tranh vẽ trực tiếp trên giấy, trên bảng”. Theo đánh
giá trong Luận văn thạc báo chí học của tác giNguyễn Thúc Hoàng Linh, khái
niệm này còn hẹp và lỗi thời, không còn phù hợp với báo in hiện đại.
Theo cuốn “Cơ sở luận báo chí” của PGS.TS. Nguyễn Văn Dững, báo in được
hiểu “một phần của khái niệm báo chí(bên cạnh phát thanh, truyền nh, báo mạng
điện tử) - tức là những kênh truyền thông đại chúng sản xuấtquảng thông tin
thường xuyên liên tục nhất, trên phạm vi rộng nhất, định kỳ (hoặc phi định kỳ) đều
đặn cập nhật nhất, đa dạng phong phú nhất. Theo đó, báo in được định nghĩa
“những ấn phẩm xuất bản định kỳ, bằng hiệu chữ viết, hình ảnh ngôn
ngữ phi văn tự, thông tin vềc sự kiện và vấn đề thời sự, phát hành rộng rãi
định kỳ nhằm phục vụ công chúng nhóm đối tượng nào đó với mục đích nhất
định”.
Từ đó, về bản báo in được hiểu một ấn phẩm xuất bản định kỳ truyền tải
thông tin, nội dung mang tính thời sự được in trên giấy bằng mực đen hoặc mực
xanh.
ĐẶC TRƯNG CỦA BÁO IN
1. Tính đại chúng:
Để ngôn ngữ đạt hiệu quả thông tin cao, ngôn từ báo in phải có tính đại chúng. Đây
đặc điểm đầu tiên của ngành báo in vì báo in hướng tới đại đoàn thể quần chúng,
vậy nên ngôn ngữ của báo in đặc điểm dễ hiểu dành cho số đông người đọc. Ngôn
ngữ phải phù hợp với trình độ văn hoá, nhận thức và phù hợp với tâm lý, vốn thói
quen sử dụng ngôn ngữ của đối tượng tiếp nhận. Vào ngày 17/4/1954, tại Đại hội lần
thứ II Hội Nhà báo Vit Nam, Bác đã từng nói: “Báo chí ta không phải cho một số ít
người xem, mà để phục vụ nhân dân... cho nên, phải tính quần chúng”. Trong đời
sống xã hội, khi viết báo cho nhân dân đọc, Bác thường dùng từ ngữ rất giản dị, đời
thường, dễ hiểu và gần gũi với dân.
Ngoài ra, khi sáng tác các tác phẩm văn học của mình, Bác cũng vận dụng các câu
ca dao, tục ngữ và li ví von dân dã.
Báo in hướng tới nhiều tầng lớp, giai cấp trong xã hội nên việc có tính đại chúng
điều quan trọng và cần thiết. Vì vậy, các nhà báo cần đặc biệt tránh sử dụng từ viết
tắt, từ ngữ địa phương, các thuật ngữ chuyên ngành khó hiểu, những từ có tính chất
lOMoARcPSD|37682075
phức tạp, câu từ chữ nghĩa ri rắm… Đôi khi, để bài báo của mình thu hút được
nhiều sự chú ý, một số nhà báo thường cho thêm yếu tố “giật gân’ hay những yếu
tố mới lạ cho câu chuyện của mình nhưng điều đó lại không thực sự có ích khi độc
giả hài lòng với những gì dễ hiểu, dễ nhớ, dễ nắm bắt nội dung. Vì vậy, ngôn ngữ
báo in cần phải mang tính đại chúng, phù hợp với người đọc, thông tin đơn giản,
ngắn gọn, dễ hiểu và rõ ràng để người đọc có thể bày tỏ sự quan tâm và ghi nhớ
Tính đại chúng không bó buộc nhà báo phải viết theo quy chuẩn, mực thước
thể sử dụng ngôn từ chau chuốt, lối viết giàu trí tưởng tượng và hình ảnh, có tính trí
tuệ thể hiện dấu ấn ngôn ngữ cá nhân của nhà báo. Ngôn ngữ báo in từ đó có thể trở
nên phong phú hơn, vẫn sử dụng câu từ, cấu trúc câu đơn giản nhưng được mài dũa,
có cảm xúc, có sự sáng tạo mà vẫn ngắn gọn, dễ hiểu, dễ tiếp thu đối với người đọc.
Ví dụ 1: Doanh nghiệp Việt Nam vươn ra biển lớn
lOMoARcPSD|37682075
Báo Hànộimới Hằng ngày - Số 19493 ngày 02/06/2023
2. Tính đa dạng
Đứng trước một thế giới hiện thực chứa đầy thông tin, hoạt động nhằm đáp ứng nhu
cầu thông tin - giao tiếp, giải trí và nhận thức của con người, thông tin trên báo in đã,
đang và sẽ phát triển ngày càng phong phú, đa dạng và nhiều chiều hơn. Ngoài việc
truyền tải thông tin bằng chữ viết, báo in còn sử dụng hình ảnh (ảnh, tranh vẽ), biểu
đồ, bảng thống kê. Tính đa dạng của ngôn ngữ báo in còn thể hiện qua các loại nội
dung thông tin được truyền tải dưới nhiều thể loại phục vụ nhiều nhóm công chúng
khác nhau. Đồng thời, đặc điểm này làm sinh động thêm cho tác phẩm báo chí, giúp
tác phẩm không chỉ diễn đạt bằng ngôn tgây nhàm chán mà còn cách thể hiện
thông tin khác ngắn gọn, dễ tiếp thu hơn.
Ví dụ 1: Thăng trầm tranh minh hoạ báo chí.
lOMoARcPSD|37682075
3. Tính chuẩn xác, tính thời sự:
Tính chính xác được coi giá trị cốt lõi nhất không chỉ của báo in còn cả của
ngành báo chí. Vì báo chí có sức ảnh hưởng rộng lớn đến toàn xã hội, có chức năng
định hướng luận hội. Chỉ một suất nhỏ về ngôn ngữ cũng thể làm cho
độc giả khó hiểu hoặc hiểu sai thông tin, dẫn đến những hậu quả hội cùng
nghiêm trọng. Vì vậy, tính chính xác của ngôn ngữ trên báo in đòi hỏi ở mức độ cao
nhất so với các loại hình báo chí khác bởi sai sót trên báo in khó khắc phục, sửa chữa.
Ngoài ngôn ngữ cần chính xác mà hình ảnh đính kèm trên báo cũng phải chuẩn xác
lOMoARcPSD|37682075
để người đọc có thể hình dung dễ hơn về thông tin, sự việc, không hiểu sai lệch lạc.
Bên cạnh đó, c sự kiện, vấn đề trên thế giới không ngừng diễn ra, đòi hỏi báo in
cần phải cập nhật nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu tiếp cận thông tin đang xảy ra
trong đời sống xã hội của người đọc.
Ví dụ 1: Thay đổi phương thức kiểm tra trên thương mại điện tử
Ví dụ 2: Mở rộng không gian giữa Việt Nam và Hàn Quốc
lOMoARcPSD|37682075
4. Tính cụ thể, tính ngắn gọn:
Với xu hướng muốn nắm bắt thông tin nhanh, báo in buộc phải thay đổi lối đặt tít lê
thê, nội dung dài dòng của mình sao cho ngắn gọn, xúc tích nhưng vẫn phải đầy đủ
thông tin, không mất đi ý nghĩa bản chất thông tấn của nó. Đồng thời đảm bảo
tính chuẩn xác của đối tượng được nói đến như tên tuổi, nghề nghiệp, chức vụ,... để
người đọc hình dung và hiểu rõ tình hình một cách nhanh chóng, chính xác nhất.
lOMoARcPSD|37682075
Các tít báo thường đảm bảo 3 yếu tố ngắn gọn, đầy đủ, súc tích trả lời được câu
hỏi Ai, Cái ? Làm gì?... để người đọc cái nhìn tổng quát về sự kiện. Nội dung
bài báo hì được rút gọn, đi vào trọng tâm, trả lời được câu hỏi Ở đâu? Khi nào? Tại
sao? Như thế nào? để khán gikhi đọc báo nắm rõ được thông tin nh mong
lOMoARcPSD|37682075
muốn.Câu chữ được chau chuốt, giản lược giúp người đọc dễ hiểu kiên tđọc hết
bài báo. 5. Tính bình giá:
Tính bình giá là một trong những đặc trưng chỉ có riêng ở báo in. Đây cũng chính là
điểm đặc biệt giữ chân lại độc giả với thể loại báo này bởi những bình luận sắc sảo,
mang đậm tính định hướng và phân tích. Ngôn ngữ bình giá của báo chí có tính chất
nhận xét cao nhưng không hề mang tính chủ quan hay cảm xúc cá nhân xen vào. T
đó đem lại cho người đọc những cái nhìn chân thực nhất, khách quan nhất của vấn
đề. Tính nh giá cũng thể hiện tính chính kiến của quan báo chí đó trước
những hiện tượng đời sống xã hội.
Ví dụ 1: Tránh “tiền mất, tật mang” với “thần y” từ mạng xã hội
Bài viết nêu lên thực trạng các lương y, “thần y” xuất hiện trên mạng hội chia sẻ
các cách chữa bệnh lý, thiếu sở khoa học chỉ nhằm mục đích “câu view” hay
dụ dỗ người bệnh mua các loại thuốc, thực phẩm chức năng,... kém chất lượng, không
nguồn gốc. Những điều này thể dẫn đến những tiềm ẩn, hệ lụy “chết người”,
cho người bệnh.
Bài viết sử dụng những cụm từ như “tiền mất, tật mang”, “thần y”, “vô tội vạ”, “thời
gian vàng”, Để nhận xét tính độc hại nguy hiểm của thực trạng, mang đậm tính
phê phán, mỉa mai nhưng lại đánh giá đúng bản chất vấn đề. Từ đó gây ấn tượng
mạnh với độc giả và họ có thể cảnh giác trước những trường hợp như trên.
lOMoARcPSD|37682075
6.Tính khuôn mẫu:
Khác với báo mạng điện tử hay các hình thức báo chí còn lại, tính khuôn mẫu ở báo
in được thể hiện ở chỗ nó phải tuân thủ rất nghiêm ngặt những nguyên tắc trình bày
của tin: Nguyên tắc 5W1H ( What, Where, When, Who, Why + How?) và một công
thức đưa tin khác cũng khá phổ biến là Nguồn tin - Thời gian - Địa điểm - Sự kiện
Diễn biến - Kết quả. Báo in luôn phải trả lời cụ thể và làm rõ nét những vấn đề trên.
Bởi vậy, báo in hay báo giấy truyền thông nội dung khá chi tiết trình bày
càng, xuyên suốt vấn đề.
Ví dụ: Dubai: Kỳ quan kiến trúc giúp thay đổi nền kinh tế
Bài báo đưa tin về ý tưởng đầy táo bạo của doanh nhân người Canada Michael
Henderson: xây dựng khu nghỉ dưỡng 5 tỷ đô mô phỏng mặt trăng Dubai. Trong
đó, bài viết trả lời vô cùng rõ ràng về ý tưởng chi tiết của dự án, giới thiệu về người
lên ý tưởng - doanh nhân Michael Henderson, lí do ông chọn Dubai là nơi thực hiện.
7.Tính thẩm mỹ
Vì tính chất cụ thể, chi tiết nên mt bài báo in thường dài nhiều nội dung. Điều
này đòi hỏi nhà báo, tòa soạn phải biên tập, xây dựng trang báo sao cho khoa học, dễ
nhìn và đẹp mắt. Trong thời đại kỹ thuật công nghệ phát triển, đạt báo in vào cuộc
đua tranh quyết liệt với các loại hình báo chí khác nên tính thẩm mỹ ngày càng được
chú trọng. Ngôn ngữ của báo in phải đảm bảo về tmặt chọn phông chữ, hình ảnh
sinh động đảm bảo nh thẩm mỹ để truyền tải mt cách hiệu quả thông điệp
của bài báo.
Ví dụ 1: Ấn phẩm bìa báo của Báo Nhân Dân Hàng tháng số 313, 310 và
lOMoARcPSD|37682075
HàNộiMới Cuối tuần số 21
dụ 2: Cách trình bày phân bố ngôn từ, màu sắc của HàNộiMới mang hơi hướng
cổ điện nhưng lại vô cùng rõ ràng, phông chữ được lựa chọn mang sắc thái vừa gần
gũi, vừa trang trọng.
8.Tính định kỳ in
S
lOMoARcPSD|37682075
Ấn phẩm định kỳ truyền tải dung thông tin mang tính thời sự và được phát hình
rộng rãi trong xã hội.Định kỳ của báo in chính là sự xuất hiện theo chu kì đều đặn
cố định của sản phẩm báo. Định kỳ của báo có nhiều loại khác nhau như: hàng ngày,
theo kỳ (2,3,5 ngày =t số), hàng tuần.Chu xuất hiện của báo in ý nghĩa quan
trọng đối vi báo in vì nó quy định thời điểm mà công chúng đón nhận sản phẩm của
báo in.
Ví dụ:
Cứ 6 giờ sáng người ta có thể mua các tờ nhật báo buổi sáng tại bất kj quầy báo nào
trong thành phố.Ngoài ra báo in những đặc điểm ưu việt như: công chúng tiếp
nhận thông tin trên báo thông qua thị giác, nên người đọc hoàn toàn chủ động trong
việc tiếp nhận thông tib báo in. Sự tiếp nhận thông tin chủ động, đòi hỏi người đọc
phải tập trung cao độ, phải huy động khả năng làm việc tích cực của trí não. Việc lưu
trữ báo in rất đơn giản và thuận lợi, phù hợp với thói quen của nhiều người đọc
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA BÁO IN:
1. Giai đoạn đầu: Báo viết tay
Thời kỳ khai: Trước khi máy in ra đời, thông tin chủ yếu được truyền miệng
hoặc ghi chép thủ công trên c chất liệu như da, giấy papyrus. Những bản tin này
thường được giới hạn trong một cộng đồng nhỏ và việc sao chép rất tốn thời gian
và công sức.
2.Trước thế kỷ 15
a) Sự phát triển của báo in trước thể kỷ 15
Trước thế kỷ 15, báo in chưa tồn tại, trước khi biết đến in ấn, nhân loại chỉ
có thể lưu trữ thông tin bằng các ký hiệu và chữ viết tay. Để ghi lại thông tin
người ta cần rất nhiều thời gian, do đó việc lan truyền chúng trở nên hết sức
khó khăn.
thế, sách trở thành một thứ hết sức đắt đỏ, chỉ những người giàu
hoặc may mắn mới có thể sở hữu chúng
b) Sự phát triển của báo in ở thế kỷ 15 ( phát minh của Gutenberg)
Theo các ghi chép để lại, Gutenberg được công nhận người đã phát minh
ra máy in châu Âu vào khoảng những năm 1440. thể, ông đã thu thập
thông tin từ c nhà buôn học giả, từ đó nh dung được những người
phía Đông xa xôi đã in ấn như thế nào, và phát minh ra mẫu máy của mình.
Phát minh của Gutenberg một thiết bị đơn giản, nhưng cho phép con
người xuất bản nhanh hơn cho các nhà tưởng một phương thức sản xuất
hàng loạt để phổ biến thông tin dễ dàng hơn chi phí rẻ n nhiều so với
viết tay
lOMoARcPSD|37682075
Một trong những ấn phẩm báo in đầu tiên xuất hiện “A.diurnal” ( một tờ
báo hằng ngày) được xuất bản tại Đức vào cuối thế kỷ 15 2. Sự ra đời của
báo in (Thế kỷ 15-16)
Phát minh máy in: Johannes Gutenberg (1436) phát minh ra máy in sử dụng
kỹ thuật in bằng bản khắc chữ, tạo bước ngoặt lớn.
Xuất bản báo in đầu tiên: Relation (1605) Đức được xem tờ báo in đầu
tiên trên thế giới. Các tờ báo thương mại chính trị xuất hiện tại châu Âu
như Gazette ở Pháp, Daily Courant (1702) ở Anh.
VD: Sự phát triển của báo in được thể hiện qua nhiều giai đoạn lịch sử với các
ví dụ tiêu biểu trên thế giới và tại Việt Nam:
a) Giai đoạn đầu tiên của báo in thế giới:
- Báo in phát triển mạnh mẽ nhờ phát minh máy in của Johannes Gutenberg vào
thế kỷ 15. Các bản in như Kinh Thánh Gutenberg đã giúp giảm chi phí sản xuất
sách mở rộng khả năng tiếp cận tri thức cho nhiều tầng lớp xã hội. Vào thời
Phục hưng, sách báo in giúp lan tỏa tri thức, góp phần thúc đẩy c cuộc cách
mạng văn hóa và giáo dục .
b) Vai trò của báo in trong cải cách tôn giáo:
- Một dụ nổi bật Martin Luther, người sử dụng báo in để phổ biến 95
luậnđiểm, đẩy mạnh cải cách tôn giáo ở châu Âu. Điều này minh họa sức mạnh
của báo in trong việc lan truyền ý tưởng và thông tin .
c) Tại Việt Nam:
- Năm 1865, Gia Định Báo, tờ báo quốc ng đầu tiên, ra đời, đánh dấu cột
mốcquan trọng trong sự phát triển của báo chí Việt Nam. Đây là công cụ truyền
tri thức, nâng cao dân trí phục vụ các mục tiêu chính trị, văn hóa .Giai
đoạn đầu thế kỷ 20, các tnĐăng Cổ Tùng Báo, Nam Phong Tạp Chí cung
cấp tri thức Đông - Tây, phản ánh sgiao thoa văn hóa trong hội Việt Nam
thời kỳ đổi mới .
- Những giai đoạn dụ trên cho thấy báo in không chỉ công cụ truyền
thôngmà còn là nền tảng phát triển tri thức và văn hóa toàn cầu
3. Thế kỷ 17-19: Sự hình thành của báo in hiện đại
a) Thế kỉ 17
Các tờ báo bắt đầu được phát hành rộng rãi châu Âu, như "Relation" (1605)
của Johann Carolus (Đức) được coi là tờ báo đầu tiên.
Báo in phát triển mạnh mẽ Anh với sự ra đời của các tờ báo như "The London
Gazette" (1665), cũng như các tờ báo ở Pháp, Hà Lan, Ý. b) Thế kỉ 18-19
lOMoARcPSD|37682075
Công nghệ in được cải tiến, như máy in hơi nước, giúp tăng tốc độ và gim chi
phí in ấn. Điều này làm cho báo in trở nên phổ biến hơn dễ tiếp cận với đại
chúng.
Phong trào báo chí của thế kỷ 19: Sự bùng nổ các tờ báo lớn, như "New York
Times" (1851) "Le Figaro" (1826), phản ánh sự phát triển của hội công
nghiệp và nhu cầu thông tin hằng ngày.
4. Thế kỷ 20-21:
a) Báo in hiện đại và sự phát triển mạnh mẽ (Thế kỷ 20)
Thời kỳ vàng son của báo in: Trong thế kỷ 20, báo in đạt đỉnh cao về sự phổ
biến và ảnhởng. Các tờ báo lớn ở Mỹ, Anh, Pháp, Đức, và c quốc gia khác
đều có lượng phát hành khổng lồ.
Báo in chiến tranh: Trong hai cuộc chiến tranh thế giới, báo in đóng vai tquan
trọng trong việc cung cấp thông tin, phát hành các bản tin chiến sự cổ động
tinh thần.
Công nghệ in hiện đại: Sự phát triển của công nghệ in offset (in mực lỏng)
các kỹ thuật in khác giúp giảm chi phí và tăng tốc độ phát hành.
b) Khủng hoảng và chuyển mình trong thế kỷ 21
Vào những năm cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21, sự phát triển mạnh mẽ của
internet và công nghệ số đã tác động lớn đến báo in. Các tờ báo bắt đầu chuyển
mình, đầu vào các phiên bản điện tử, phải đối mặt với sự cạnh tranh của
các trang tin tức trực tuyến.
Nhiều tờ báo lớn chứng kiến sự suy giảm mạnh về lượng phát hành, doanh thu
từ quảng cáo giảm sút, dẫn đến việc đóng cửa hoặc sáp nhập với các tờ báo
khác.
Để đối phó với khủng hoảng, nhiều tờ báo đã chuyển sang mô hình kinh doanh
trực tuyến, phát triển các ứng dụng di động, hoặc cung cấp nội dung có tính phí
(paywall).
VD: Một tác phẩm báo chí thể chứng minh sự phát triển của báo in là bài
"The Evolution of the Press" (Sự phát trin của báo chí) được xuất bản trên
tờ "The New York Times".
Mặc báo in đang đối mặt với sự cạnh tranh mạnh mẽ từ báo điện tcác
nền tảng truyền thông khác, nhưng vẫn có rất nhiều tờ báo trên thế giới, từ các
tờ báo lớn và uy tín đến các tờ báo địa phương, vẫn duy trì bản in để phục vụ
độc giả truyền thống.
SO SÁNH BÁO IN VỚI CÁC LOẠI HÌNH KHÁC:
1.Báo in
Ưu điểm:
lOMoARcPSD|37682075
-Cảm giác trực quan: Đọc báo in mang lại trải nghiệm cụ thể, dễ dàng xem xét và
ghi chú.
-Không cần kết nối Internet: thể đọc bất cứ đâu mà không phụ thuộc vào thiết
bị điện tử hoặc kết nối mạng.
-Chất lượng in ấn: Các hình ảnh và bài viết thường chất lượng in ấn tốt, dễ tiếp
cận và dễ đọc.
Hạn chế của báo in:
-Chi phí sản xuất cao: Định kỳ in ấn và phát hành báo giấy tốn kém về chi phí.
-Cập nhật chậm: Thông tin không thể được cập nhật nhanh chóng như trên các nền
tảng trực tuyến.
-Bảo mật phân phối hạn chế: Báo in thể bị thất lạc trong quá trình vận chuyển,
và bảo mật thông tin kém hơn so với các nền tảng trực tuyến
2. Báo điện tử
Ưu điểm:
o Cập nhật liên tục: Báo điện tthể cập nhật tin tức gần như ngay lập
tức và phản ánh tình hình thực tế một cách nhanh chóng.
o Dễ dàng tiếp cận và phân phối: Người đọc có thể tiếp cận báo điện tử
từ bất kỳ đâu và vào bất kỳ thời điểm nào, chỉ cần có kết nối internet.
o Tính tương tác cao: Báo điện tử cho phép người đọc nh luận, chia sẻ
bài viết, tương tác trực tiếp với nội dung, điều này tạo sự gắn kết
mạnh mẽ hơn giữa báo chí và độc giả.
Hạn chế:
o Độ tin cậy thấp hơn: Do sự dễ dàng trong việc xuất bản và cập nhật tin
tức, báo điện tử thể dễ bị lợi dụng để phát tán tin giả, thiếu kiểm
chứng.
o Cần kết nối internet: Người đọc phải có thiết bvà kết nối internet để
truy cập.
o Mất cảm giác cầm nắm: Không như báo in, báo điện tkhông s
“cảm nhận vật lý” khi đọc, ththiếu sự gần gũi, đặc biệt đối với
các đối tượng độc giả lớn tuổi hoặc những người không quen sử dụng
công nghệ.
3. Báo truyền hình
lOMoARcPSD|37682075
Ưu điểm:
o Truyền tải thông tin đa phương tiện: Báo truyền hình kết hợp hình
ảnh, âm thanh ngôn ngữ để truyền đạt tng tin một cách sinh động
và dễ tiếp cận.
o Phản ánh nhanh chóng tình hình: Thông qua các chương trình thời
sự hoặc bản tin, truyền hình thể đưa ra các thông tin nóng hổi, hình
ảnh trực tiếp về các sự kiện đang diễn ra.
o Tính trực quan cao: Người xem có thdễ ng cảm nhận được sự kiện
qua nh ảnh, video, âm thanh, tạo ra một sự tác động mạnh mẽ về
mặt cảm xúc.
Hạn chế:
o Thời gian hạn chế: Thông tin phải được truyền tải trong một khung
thời gian giới hạn, do đó không thể cung cấp chi tiết như báo in hoặc
báo điện tử.
o Khó tiếp cận với những người không có TV: Mặc dù hiện nay truyền
hình có thể được phát sóng qua internet, nhưng vẫn có những
đối tượng độc giả không tiếp cận được phương tiện này, đặc biệt ở các
vùng sâu vùng xa.
o Chi phí sản xuất cao: Tạo ra các chương tnh truyền hình, đặc biệt là
chương trình tin tức, đòi hỏi cơ sở vật chất và nhân lực lớn.
4. Báo phát thanh
Ưu điểm:
o Tiện lợi khi di chuyển: Người nghe có thể nghe báo phát thanh trong
khi đang làm các công việc khác, như lái xe, đi bộ, hoặc làm việc nhà.
o Cập nhật nhanh chóng: Báo phát thanh thể cung cấp tin tức nóng
hổi một cách nhanh chóng và linh hoạt.
Hạn chế:
o Chỉ âm thanh: Không thể sử dụng hình ảnh hay video, điều này
khiến cho thông tin không thể trực quan như trên báo truyền hình hoặc
báo điện tử.
lOMoARcPSD|37682075
o Khó tiếp cận thông tin chi tiết: Với thời gian hạn chế chỉ sdụng
âm thanh, báo phát thanh thường không thể cung cấp thông tin chi tiết
hoặc phân tích sâu sắc như báo in hoặc báo điện tử. o
Hạn chế:
o Chỉ âm thanh: Không thể sử dụng hình ảnh hay video, điều này
khiến cho thông tin không thể trực quan như trên báo truyền hình hoặc
báo điện tử.
o Khó tiếp cận thông tin chi tiết: Với thời gian hạn chế chỉ sdụng
âm thanh, báo phát thanh thường không thể cung cấp thông tin chi tiết
hoặc phân tích sâu sắc như báo in hoặc báo điện tử.
Đặc
điểm
Báo in
Truyền hình
Phát thanh
Hình
thức
truyền
tải
Trên giấy
Hình ảnh, âm
thanh
Chỉ âm
thanh
Tính
tương
tác
Thấp
Thấp
(chương trình
tương tác)
Thấp
Tốc độ
cập nhật
Chậm
Nhanh
Nhanh
Khả
năng
lưu trữ
Dễ dàng, lâu
dài
Khó, cần ghi
hình
Khó, cần ghi
âm
Chi phí
sản xuất
Cao
Rất cao
Trung bình
Phạm vi
tiếp cận
Rộng nhưng
giới hạn
Rất rộng
Rộng
Độ tin
cậy
Cao, được
kiểm duyệt
kỹ
Tùy kênh,
thể bị dàn
dựng
Tùy đài,
thể bị thiên
lệch
lOMoARcPSD|37682075
lOMoARcPSD|37682075

Preview text:

lOMoARcPSD|37682075
NỘI DUNG BÀI THUYẾT Trình BÁO IN (1)
tiếng anh học tập (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2) lOMoARcPSD|37682075 KHÁI NIỆM BÁO IN:
Hiện nay, có rất nhiều khái niệm khác nhau về “báo in”. Trong cuốn “Từ điển tiếng
Việt” (NXB Phương Đông, 2002), báo in có nghĩa là “xuất bản phẩm định kỳ in trên
giấy khổ lớn, đăng tin, bài, tranh ảnh để thông tin, tuyên truyền có tính chất quần
chúng và nội bộ bằng các bài viết, tranh vẽ trực tiếp trên giấy, trên bảng”. Theo đánh
giá trong Luận văn thạc sĩ báo chí học của tác giả Nguyễn Thúc Hoàng Linh, khái
niệm này còn hẹp và lỗi thời, không còn phù hợp với báo in hiện đại.
Theo cuốn “Cơ sở lý luận báo chí” của PGS.TS. Nguyễn Văn Dững, báo in được
hiểu là “một phần của khái niệm báo chí(bên cạnh phát thanh, truyền hình, báo mạng
điện tử) - tức là những kênh truyền thông đại chúng sản xuất và quảng bá thông tin
thường xuyên liên tục nhất, trên phạm vi rộng nhất, định kỳ (hoặc phi định kỳ) đều
đặn và cập nhật nhất, đa dạng và phong phú nhất. Theo đó, báo in được định nghĩa
“những ấn phẩm xuất bản định kỳ, bằng ký hiệu chữ viết, hình ảnh và ngôn
ngữ phi văn tự, thông tin về các sự kiện và vấn đề thời sự, phát hành rộng rãi và
định kỳ nhằm phục vụ công chúng nhóm đối tượng nào đó với mục đích nhất định”.

Từ đó, về cơ bản báo in được hiểu là một ấn phẩm xuất bản định kỳ truyền tải
thông tin, nội dung mang tính thời sự được in trên giấy bằng mực đen hoặc mực xanh.

ĐẶC TRƯNG CỦA BÁO IN
1. Tính đại chúng:
Để ngôn ngữ đạt hiệu quả thông tin cao, ngôn từ báo in phải có tính đại chúng. Đây
là đặc điểm đầu tiên của ngành báo in vì báo in hướng tới đại đoàn thể quần chúng,
vậy nên ngôn ngữ của báo in có đặc điểm dễ hiểu dành cho số đông người đọc. Ngôn
ngữ phải phù hợp với trình độ văn hoá, nhận thức và phù hợp với tâm lý, vốn và thói
quen sử dụng ngôn ngữ của đối tượng tiếp nhận. Vào ngày 17/4/1954, tại Đại hội lần
thứ II Hội Nhà báo Việt Nam, Bác đã từng nói: “Báo chí ta không phải cho một số ít
người xem, mà để phục vụ nhân dân... cho nên, phải có tính quần chúng”. Trong đời
sống xã hội, khi viết báo cho nhân dân đọc, Bác thường dùng từ ngữ rất giản dị, đời
thường, dễ hiểu và gần gũi với dân.
Ngoài ra, khi sáng tác các tác phẩm văn học của mình, Bác cũng vận dụng các câu
ca dao, tục ngữ và lối ví von dân dã.
Báo in hướng tới nhiều tầng lớp, giai cấp trong xã hội nên việc có tính đại chúng là
điều quan trọng và cần thiết. Vì vậy, các nhà báo cần đặc biệt tránh sử dụng từ viết
tắt, từ ngữ địa phương, các thuật ngữ chuyên ngành khó hiểu, những từ có tính chất lOMoARcPSD|37682075
phức tạp, câu từ chữ nghĩa rối rắm… Đôi khi, để bài báo của mình thu hút được
nhiều sự chú ý, một số nhà báo thường cho thêm yếu tố “giật gân’’ hay những yếu
tố mới lạ cho câu chuyện của mình nhưng điều đó lại không thực sự có ích khi độc
giả hài lòng với những gì dễ hiểu, dễ nhớ, dễ nắm bắt nội dung. Vì vậy, ngôn ngữ
báo in cần phải mang tính đại chúng, phù hợp với người đọc, thông tin đơn giản,
ngắn gọn, dễ hiểu và rõ ràng để người đọc có thể bày tỏ sự quan tâm và ghi nhớ
Tính đại chúng không bó buộc nhà báo phải viết theo quy chuẩn, mực thước mà có
thể sử dụng ngôn từ chau chuốt, lối viết giàu trí tưởng tượng và hình ảnh, có tính trí
tuệ thể hiện dấu ấn ngôn ngữ cá nhân của nhà báo. Ngôn ngữ báo in từ đó có thể trở
nên phong phú hơn, vẫn sử dụng câu từ, cấu trúc câu đơn giản nhưng được mài dũa,
có cảm xúc, có sự sáng tạo mà vẫn ngắn gọn, dễ hiểu, dễ tiếp thu đối với người đọc.
Ví dụ 1: Doanh nghiệp Việt Nam vươn ra biển lớn lOMoARcPSD|37682075
Báo Hànộimới Hằng ngày - Số 19493 ngày 02/06/2023 2. Tính đa dạng
Đứng trước một thế giới hiện thực chứa đầy thông tin, hoạt động nhằm đáp ứng nhu
cầu thông tin - giao tiếp, giải trí và nhận thức của con người, thông tin trên báo in đã,
đang và sẽ phát triển ngày càng phong phú, đa dạng và nhiều chiều hơn. Ngoài việc
truyền tải thông tin bằng chữ viết, báo in còn sử dụng hình ảnh (ảnh, tranh vẽ), biểu
đồ, bảng thống kê. Tính đa dạng của ngôn ngữ báo in còn thể hiện qua các loại nội
dung thông tin được truyền tải dưới nhiều thể loại và phục vụ nhiều nhóm công chúng
khác nhau. Đồng thời, đặc điểm này làm sinh động thêm cho tác phẩm báo chí, giúp
tác phẩm không chỉ diễn đạt bằng ngôn từ gây nhàm chán mà còn có cách thể hiện
thông tin khác ngắn gọn, dễ tiếp thu hơn.
Ví dụ 1: Thăng trầm tranh minh hoạ báo chí. lOMoARcPSD|37682075
3. Tính chuẩn xác, tính thời sự:
Tính chính xác được coi là giá trị cốt lõi nhất không chỉ của báo in mà còn cả của
ngành báo chí. Vì báo chí có sức ảnh hưởng rộng lớn đến toàn xã hội, có chức năng
định hướng dư luận xã hội. Chỉ một sơ suất nhỏ về ngôn ngữ cũng có thể làm cho
độc giả khó hiểu hoặc hiểu sai thông tin, dẫn đến những hậu quả xã hội vô cùng
nghiêm trọng. Vì vậy, tính chính xác của ngôn ngữ trên báo in đòi hỏi ở mức độ cao
nhất so với các loại hình báo chí khác bởi sai sót trên báo in khó khắc phục, sửa chữa.
Ngoài ngôn ngữ cần chính xác mà hình ảnh đính kèm trên báo cũng phải chuẩn xác lOMoARcPSD|37682075
để người đọc có thể hình dung dễ hơn về thông tin, sự việc, không hiểu sai lệch lạc.
Bên cạnh đó, các sự kiện, vấn đề trên thế giới không ngừng diễn ra, đòi hỏi báo in
cần phải cập nhật nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu tiếp cận thông tin đang xảy ra
trong đời sống xã hội của người đọc.
Ví dụ 1: Thay đổi phương thức kiểm tra trên thương mại điện tử
Ví dụ 2: Mở rộng không gian giữa Việt Nam và Hàn Quốc lOMoARcPSD|37682075
4. Tính cụ thể, tính ngắn gọn:
Với xu hướng muốn nắm bắt thông tin nhanh, báo in buộc phải thay đổi lối đặt tít lê
thê, nội dung dài dòng của mình sao cho ngắn gọn, xúc tích nhưng vẫn phải đầy đủ
thông tin, không mất đi ý nghĩa và bản chất thông tấn của nó. Đồng thời đảm bảo
tính chuẩn xác của đối tượng được nói đến như tên tuổi, nghề nghiệp, chức vụ,... để
người đọc hình dung và hiểu rõ tình hình một cách nhanh chóng, chính xác nhất. lOMoARcPSD|37682075
Các tít báo thường đảm bảo 3 yếu tố ngắn gọn, đầy đủ, súc tích và trả lời được câu
hỏi Ai, Cái gì? Làm gì?... để người đọc có cái nhìn tổng quát về sự kiện. Nội dung
bài báo hì được rút gọn, đi vào trọng tâm, trả lời được câu hỏi Ở đâu? Khi nào? Tại
sao? và Như thế nào? để khán giả khi đọc báo nắm rõ được thông tin mình mong lOMoARcPSD|37682075
muốn.Câu chữ được chau chuốt, giản lược giúp người đọc dễ hiểu và kiên trì đọc hết
bài báo. 5. Tính bình giá:
Tính bình giá là một trong những đặc trưng chỉ có riêng ở báo in. Đây cũng chính là
điểm đặc biệt giữ chân lại độc giả với thể loại báo này bởi những bình luận sắc sảo,
mang đậm tính định hướng và phân tích. Ngôn ngữ bình giá của báo chí có tính chất
nhận xét cao nhưng không hề mang tính chủ quan hay cảm xúc cá nhân xen vào. Từ
đó đem lại cho người đọc những cái nhìn chân thực nhất, khách quan nhất của vấn
đề. Tính bình giá cũng thể hiện cá tính và chính kiến của cơ quan báo chí đó trước
những hiện tượng đời sống xã hội.
Ví dụ 1: Tránh “tiền mất, tật mang” với “thần y” từ mạng xã hội
Bài viết nêu lên thực trạng các lương y, “thần y” xuất hiện trên mạng xã hội chia sẻ
các cách chữa bệnh vô lý, thiếu cơ sở khoa học chỉ nhằm mục đích “câu view” hay
dụ dỗ người bệnh mua các loại thuốc, thực phẩm chức năng,... kém chất lượng, không
rõ nguồn gốc. Những điều này có thể dẫn đến những tiềm ẩn, hệ lụy “chết người”, cho người bệnh.
Bài viết sử dụng những cụm từ như “tiền mất, tật mang”, “thần y”, “vô tội vạ”, “thời
gian vàng”, … Để nhận xét tính độc hại nguy hiểm của thực trạng, mang đậm tính
phê phán, mỉa mai nhưng lại đánh giá đúng bản chất vấn đề. Từ đó gây ấn tượng
mạnh với độc giả và họ có thể cảnh giác trước những trường hợp như trên. lOMoARcPSD|37682075 6.Tính khuôn mẫu:
Khác với báo mạng điện tử hay các hình thức báo chí còn lại, tính khuôn mẫu ở báo
in được thể hiện ở chỗ nó phải tuân thủ rất nghiêm ngặt những nguyên tắc trình bày
của tin: Nguyên tắc 5W1H ( What, Where, When, Who, Why + How?) và một công
thức đưa tin khác cũng khá phổ biến là Nguồn tin - Thời gian - Địa điểm - Sự kiện
Diễn biến - Kết quả. Báo in luôn phải trả lời cụ thể và làm rõ nét những vấn đề trên.
Bởi vậy, báo in hay báo giấy truyền thông có nội dung khá chi tiết và trình bày kĩ
càng, xuyên suốt vấn đề.
Ví dụ: Dubai: Kỳ quan kiến trúc giúp thay đổi nền kinh tế
Bài báo đưa tin về ý tưởng đầy táo bạo của doanh nhân người Canada Michael
Henderson: xây dựng khu nghỉ dưỡng 5 tỷ đô mô phỏng mặt trăng ở Dubai. Trong
đó, bài viết trả lời vô cùng rõ ràng về ý tưởng chi tiết của dự án, giới thiệu về người
lên ý tưởng - doanh nhân Michael Henderson, lí do ông chọn Dubai là nơi thực hiện. 7.Tính thẩm mỹ
Vì tính chất cụ thể, chi tiết nên một bài báo in thường dài và nhiều nội dung. Điều
này đòi hỏi nhà báo, tòa soạn phải biên tập, xây dựng trang báo sao cho khoa học, dễ
nhìn và đẹp mắt. Trong thời đại mà kỹ thuật công nghệ phát triển, đạt báo in vào cuộc
đua tranh quyết liệt với các loại hình báo chí khác nên tính thẩm mỹ ngày càng được
chú trọng. Ngôn ngữ của báo in phải đảm bảo về từ mặt chọn phông chữ, hình ảnh
sinh động đảm bảo tính thẩm mỹ để truyền tải một cách hiệu quả thông điệp của bài báo.
Ví dụ 1: Ấn phẩm bìa báo của Báo Nhân Dân Hàng tháng số 313, 310 và lOMoARcPSD|37682075
HàNộiMới Cuối tuần số 21 S
Ví dụ 2: Cách trình bày phân bố ngôn từ, màu sắc của HàNộiMới mang hơi hướng
cổ điện nhưng lại vô cùng rõ ràng, phông chữ được lựa chọn mang sắc thái vừa gần gũi, vừa trang trọng.
8.Tính định kỳ in lOMoARcPSD|37682075
Ấn phẩm định kỳ truyền tải nôị dung thông tin mang tính thời sự và được phát hình
rộng rãi trong xã hội.Định kỳ của báo in chính là sự xuất hiện theo chu kì đều đặn và
cố định của sản phẩm báo. Định kỳ của báo có nhiều loại khác nhau như: hàng ngày,
theo kỳ (2,3,5 ngày mô =t số), hàng tuần.Chu kì xuất hiện của báo in có ý nghĩa quan
trọng đối với báo in vì nó quy định thời điểm mà công chúng đón nhận sản phẩm của báo in. Ví dụ:
Cứ 6 giờ sáng người ta có thể mua các tờ nhật báo buổi sáng tại bất kj quầy báo nào
trong thành phố.Ngoài ra báo in có những đặc điểm ưu việt như: công chúng tiếp
nhận thông tin trên báo thông qua thị giác, nên người đọc hoàn toàn chủ động trong
việc tiếp nhận thông tib báo in. Sự tiếp nhận thông tin là chủ động, đòi hỏi người đọc
phải tập trung cao độ, phải huy động khả năng làm việc tích cực của trí não. Việc lưu
trữ báo in rất đơn giản và thuận lợi, phù hợp với thói quen của nhiều người đọc
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA BÁO IN:
1. Giai đoạn đầu: Báo viết tay
Thời kỳ sơ khai: Trước khi máy in ra đời, thông tin chủ yếu được truyền miệng
hoặc ghi chép thủ công trên các chất liệu như da, giấy papyrus. Những bản tin này
thường được giới hạn trong một cộng đồng nhỏ và việc sao chép rất tốn thời gian và công sức. 2.Trước thế kỷ 15
a) Sự phát triển của báo in trước thể kỷ 15
• Trước thế kỷ 15, báo in chưa tồn tại, trước khi biết đến in ấn, nhân loại chỉ
có thể lưu trữ thông tin bằng các ký hiệu và chữ viết tay. Để ghi lại thông tin
người ta cần rất nhiều thời gian, do đó việc lan truyền chúng trở nên hết sức khó khăn.
• Vì thế, sách trở thành một thứ hết sức đắt đỏ, và chỉ những người giàu có
hoặc may mắn mới có thể sở hữu chúng
b) Sự phát triển của báo in ở thế kỷ 15 ( phát minh của Gutenberg)
• Theo các ghi chép để lại, Gutenberg được công nhận là người đã phát minh
ra máy in ở châu Âu vào khoảng những năm 1440. Có thể, ông đã thu thập
thông tin từ các nhà buôn và học giả, từ đó hình dung được những người ở
phía Đông xa xôi đã in ấn như thế nào, và phát minh ra mẫu máy của mình.
• Phát minh của Gutenberg là một thiết bị đơn giản, nhưng nó cho phép con
người xuất bản nhanh hơn và cho các nhà tư tưởng một phương thức sản xuất
hàng loạt để phổ biến thông tin dễ dàng hơn và chi phí rẻ hơn nhiều so với viết tay lOMoARcPSD|37682075
• Một trong những ấn phẩm báo in đầu tiên xuất hiện là “A.diurnal” ( một tờ
báo hằng ngày) được xuất bản tại Đức vào cuối thế kỷ 15 2. Sự ra đời của báo in (Thế kỷ 15-16)
• Phát minh máy in: Johannes Gutenberg (1436) phát minh ra máy in sử dụng
kỹ thuật in bằng bản khắc chữ, tạo bước ngoặt lớn.
• Xuất bản báo in đầu tiên: Relation (1605) ở Đức được xem là tờ báo in đầu
tiên trên thế giới. Các tờ báo thương mại và chính trị xuất hiện tại châu Âu
như Gazette ở Pháp, Daily Courant (1702) ở Anh.
VD: Sự phát triển của báo in được thể hiện rõ qua nhiều giai đoạn lịch sử với các
ví dụ tiêu biểu trên thế giới và tại Việt Nam:
a) Giai đoạn đầu tiên của báo in thế giới:
- Báo in phát triển mạnh mẽ nhờ phát minh máy in của Johannes Gutenberg vào
thế kỷ 15. Các bản in như Kinh Thánh Gutenberg đã giúp giảm chi phí sản xuất
sách và mở rộng khả năng tiếp cận tri thức cho nhiều tầng lớp xã hội. Vào thời
Phục hưng, sách báo in giúp lan tỏa tri thức, góp phần thúc đẩy các cuộc cách
mạng văn hóa và giáo dục .
b) Vai trò của báo in trong cải cách tôn giáo:
- Một ví dụ nổi bật là Martin Luther, người sử dụng báo in để phổ biến 95
luậnđiểm, đẩy mạnh cải cách tôn giáo ở châu Âu. Điều này minh họa sức mạnh
của báo in trong việc lan truyền ý tưởng và thông tin . c) Tại Việt Nam:
- Năm 1865, Gia Định Báo, tờ báo quốc ngữ đầu tiên, ra đời, đánh dấu cột
mốcquan trọng trong sự phát triển của báo chí Việt Nam. Đây là công cụ truyền
bá tri thức, nâng cao dân trí và phục vụ các mục tiêu chính trị, văn hóa .Giai
đoạn đầu thế kỷ 20, các tờ như Đăng Cổ Tùng Báo, Nam Phong Tạp Chí cung
cấp tri thức Đông - Tây, phản ánh sự giao thoa văn hóa trong xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới .
- Những giai đoạn và ví dụ trên cho thấy báo in không chỉ là công cụ truyền
thôngmà còn là nền tảng phát triển tri thức và văn hóa toàn cầu
3. Thế kỷ 17-19: Sự hình thành của báo in hiện đại a) Thế kỉ 17
• Các tờ báo bắt đầu được phát hành rộng rãi ở châu Âu, như "Relation" (1605)
của Johann Carolus (Đức) được coi là tờ báo đầu tiên.
• Báo in phát triển mạnh mẽ ở Anh với sự ra đời của các tờ báo như "The London
Gazette" (1665), cũng như các tờ báo ở Pháp, Hà Lan, Ý. b) Thế kỉ 18-19 lOMoARcPSD|37682075
• Công nghệ in được cải tiến, như máy in hơi nước, giúp tăng tốc độ và giảm chi
phí in ấn. Điều này làm cho báo in trở nên phổ biến hơn và dễ tiếp cận với đại chúng.
• Phong trào báo chí của thế kỷ 19: Sự bùng nổ các tờ báo lớn, như "New York
Times" (1851) và "Le Figaro" (1826), phản ánh sự phát triển của xã hội công
nghiệp và nhu cầu thông tin hằng ngày. 4. Thế kỷ 20-21:
a) Báo in hiện đại và sự phát triển mạnh mẽ (Thế kỷ 20)
• Thời kỳ vàng son của báo in: Trong thế kỷ 20, báo in đạt đỉnh cao về sự phổ
biến và ảnh hưởng. Các tờ báo lớn ở Mỹ, Anh, Pháp, Đức, và các quốc gia khác
đều có lượng phát hành khổng lồ.
• Báo in chiến tranh: Trong hai cuộc chiến tranh thế giới, báo in đóng vai trò quan
trọng trong việc cung cấp thông tin, phát hành các bản tin chiến sự và cổ động tinh thần.
• Công nghệ in hiện đại: Sự phát triển của công nghệ in offset (in mực lỏng) và
các kỹ thuật in khác giúp giảm chi phí và tăng tốc độ phát hành.
b) Khủng hoảng và chuyển mình trong thế kỷ 21
• Vào những năm cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, sự phát triển mạnh mẽ của
internet và công nghệ số đã tác động lớn đến báo in. Các tờ báo bắt đầu chuyển
mình, đầu tư vào các phiên bản điện tử, và phải đối mặt với sự cạnh tranh của
các trang tin tức trực tuyến.
• Nhiều tờ báo lớn chứng kiến sự suy giảm mạnh về lượng phát hành, doanh thu
từ quảng cáo giảm sút, dẫn đến việc đóng cửa hoặc sáp nhập với các tờ báo khác.
• Để đối phó với khủng hoảng, nhiều tờ báo đã chuyển sang mô hình kinh doanh
trực tuyến, phát triển các ứng dụng di động, hoặc cung cấp nội dung có tính phí (paywall).
VD: Một tác phẩm báo chí có thể chứng minh sự phát triển của báo in là bài
"The Evolution of the Press" (Sự phát triển của báo chí) được xuất bản trên
tờ "The New York Times".
 Mặc dù báo in đang đối mặt với sự cạnh tranh mạnh mẽ từ báo điện tử và các
nền tảng truyền thông khác, nhưng vẫn có rất nhiều tờ báo trên thế giới, từ các
tờ báo lớn và uy tín đến các tờ báo địa phương, vẫn duy trì bản in để phục vụ
độc giả truyền thống.
SO SÁNH BÁO IN VỚI CÁC LOẠI HÌNH KHÁC: 1.Báo in Ưu điểm: lOMoARcPSD|37682075
-Cảm giác trực quan: Đọc báo in mang lại trải nghiệm cụ thể, dễ dàng xem xét và ghi chú.
-Không cần kết nối Internet: Có thể đọc ở bất cứ đâu mà không phụ thuộc vào thiết
bị điện tử hoặc kết nối mạng.
-Chất lượng in ấn: Các hình ảnh và bài viết thường có chất lượng in ấn tốt, dễ tiếp cận và dễ đọc.
Hạn chế của báo in:
-Chi phí sản xuất cao: Định kỳ in ấn và phát hành báo giấy tốn kém về chi phí.
-Cập nhật chậm: Thông tin không thể được cập nhật nhanh chóng như trên các nền tảng trực tuyến.
-Bảo mật và phân phối hạn chế: Báo in có thể bị thất lạc trong quá trình vận chuyển,
và bảo mật thông tin kém hơn so với các nền tảng trực tuyến 2. Báo điện tử Ưu điểm:
o Cập nhật liên tục: Báo điện tử có thể cập nhật tin tức gần như ngay lập
tức và phản ánh tình hình thực tế một cách nhanh chóng.
o Dễ dàng tiếp cận và phân phối: Người đọc có thể tiếp cận báo điện tử
từ bất kỳ đâu và vào bất kỳ thời điểm nào, chỉ cần có kết nối internet.
o Tính tương tác cao: Báo điện tử cho phép người đọc bình luận, chia sẻ
bài viết, và tương tác trực tiếp với nội dung, điều này tạo sự gắn kết
mạnh mẽ hơn giữa báo chí và độc giả. • Hạn chế:
o Độ tin cậy thấp hơn: Do sự dễ dàng trong việc xuất bản và cập nhật tin
tức, báo điện tử có thể dễ bị lợi dụng để phát tán tin giả, thiếu kiểm chứng.
o Cần kết nối internet: Người đọc phải có thiết bị và kết nối internet để truy cập.
o Mất cảm giác cầm nắm: Không như báo in, báo điện tử không có sự
“cảm nhận vật lý” khi đọc, và có thể thiếu sự gần gũi, đặc biệt đối với
các đối tượng độc giả lớn tuổi hoặc những người không quen sử dụng công nghệ. 3. Báo truyền hình lOMoARcPSD|37682075 • Ưu điểm:
o Truyền tải thông tin đa phương tiện: Báo truyền hình kết hợp hình
ảnh, âm thanh và ngôn ngữ để truyền đạt thông tin một cách sinh động và dễ tiếp cận.
o Phản ánh nhanh chóng tình hình: Thông qua các chương trình thời
sự hoặc bản tin, truyền hình có thể đưa ra các thông tin nóng hổi, hình
ảnh trực tiếp về các sự kiện đang diễn ra.
o Tính trực quan cao: Người xem có thể dễ dàng cảm nhận được sự kiện
qua hình ảnh, video, và âm thanh, tạo ra một sự tác động mạnh mẽ về mặt cảm xúc. • Hạn chế:
o Thời gian hạn chế: Thông tin phải được truyền tải trong một khung
thời gian giới hạn, do đó không thể cung cấp chi tiết như báo in hoặc báo điện tử.
o Khó tiếp cận với những người không có TV: Mặc dù hiện nay truyền
hình có thể được phát sóng qua internet, nhưng vẫn có những
đối tượng độc giả không tiếp cận được phương tiện này, đặc biệt ở các vùng sâu vùng xa.
o Chi phí sản xuất cao: Tạo ra các chương trình truyền hình, đặc biệt là
chương trình tin tức, đòi hỏi cơ sở vật chất và nhân lực lớn. 4. Báo phát thanh Ưu điểm:
o Tiện lợi khi di chuyển: Người nghe có thể nghe báo phát thanh trong
khi đang làm các công việc khác, như lái xe, đi bộ, hoặc làm việc nhà.
o Cập nhật nhanh chóng: Báo phát thanh có thể cung cấp tin tức nóng
hổi một cách nhanh chóng và linh hoạt. • Hạn chế:
o Chỉ có âm thanh: Không thể sử dụng hình ảnh hay video, điều này
khiến cho thông tin không thể trực quan như trên báo truyền hình hoặc báo điện tử. lOMoARcPSD|37682075
o Khó tiếp cận thông tin chi tiết: Với thời gian hạn chế và chỉ sử dụng
âm thanh, báo phát thanh thường không thể cung cấp thông tin chi tiết
hoặc phân tích sâu sắc như báo in hoặc báo điện tử. o • Hạn chế:
o Chỉ có âm thanh: Không thể sử dụng hình ảnh hay video, điều này
khiến cho thông tin không thể trực quan như trên báo truyền hình hoặc báo điện tử.
o Khó tiếp cận thông tin chi tiết: Với thời gian hạn chế và chỉ sử dụng
âm thanh, báo phát thanh thường không thể cung cấp thông tin chi tiết
hoặc phân tích sâu sắc như báo in hoặc báo điện tử. lOMoARcPSD|37682075 Báo in
Báo điện tử Truyền hình Phát thanh Đặc điểm Trên giấy Trên
màn Hình ảnh, âm Chỉ âm Hình hình điện tử thanh thanh thức truyền tải Thấp Thấp Tính Cao (bình Thấp tương
luận, chia sẻ) (chương trình tác tương tác) Tốc độ Chậm Rất nhanh Nhanh Nhanh cập nhật Khả
Dễ dàng, lâu Cần thiết bị, Khó, cần ghi Khó, cần ghi năng dài dễ mất hình âm lưu trữ Chi phí Cao Thấp Rất cao Trung bình sản xuất
Phạm vi Rộng nhưng Rất rộng, Rất rộng Rộng
tiếp cận giới hạn toàn cầu Độ tin Cao,
được Tùy nguồn, Tùy kênh, có Tùy đài, có cậy
kiểm duyệt có thể bị sai thể bị dàn thể bị thiên kỹ lệch dựng lệch lOMoARcPSD|37682075 lOMoARcPSD|37682075