-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Kiểm tra điều kiện Môn thi: Pháp luật thị trường chứng khoán - Luật kinh tế | Trường đại học Luật, đại học Huế
Kiểm tra điều kiện Môn thi: Pháp luật thị trường chứng khoán - Luật kinh tế | Trường đại học Luật, đại học Huế được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Luật kinh tế(HDLH) 111 tài liệu
Trường Đại học Luật, Đại học Huế 440 tài liệu
Kiểm tra điều kiện Môn thi: Pháp luật thị trường chứng khoán - Luật kinh tế | Trường đại học Luật, đại học Huế
Kiểm tra điều kiện Môn thi: Pháp luật thị trường chứng khoán - Luật kinh tế | Trường đại học Luật, đại học Huế được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Luật kinh tế(HDLH) 111 tài liệu
Trường: Trường Đại học Luật, Đại học Huế 440 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Trường Đại học Luật, Đại học Huế
Preview text:
ĐẠI HỌC HUẾ
ĐỀ BÀI KIỂM TRA ĐIỀU KIỆN
VIỆN ĐÀO TẠO MỞ Ngành: Luật
VÀ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Môn thi : Pháp luật thị trường chứng khoán
(Sinh viên chọn 1 trong 5 câu để làm bài)
1. Anh/chị hãy nêu, phân tích khái niệm, đối tượng và các nội dung cơ bản của pháp
luật về thị trường chứng khoán?
2. Anh/chị hãy nêu và phân tích địa vị pháp lý của tổ chức phát hành chứng khoán?
3. Anh/chị hãy nêu và phân tích địa vị pháp lý của cơ quan quản lý và giám sát thị trường chứng khoán?
4. Anh/chị hãy nêu, phân tích khái niệm, đặc điểm và xác định các loại vi phạm pháp
luật cơ bản, các hình thức xử lý vi phạm về chứng khoán và thị trường chứng khoán?
5. Anh/chị hãy nêu, phân tích và làm rõ cơ chế giải quyết tranh chấp về chứng khoán
và thị trường chứng khoán? Bài làm
6. Anh/chị hãy nêu, phân tích khái niệm, đặc điểm và xác định các loại vi phạm pháp
luật cơ bản, các hình thức xử lý vi phạm về chứng khoán và thị trường chứng khoán?
Các hoạt động trên thị trường chứng khoán tạo ra tính thanh khoản cho các luồng
vốn được giao dịch trên thị trường, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp cận gần
nhất các nguồn vốn đầu tư cũng như cơ hội cho các nhà đầu tư tìm kiếm lợi nhuận
khi tham gia thị trường. Bên cạnh những ưu điểm, thị trường chứng khoán cũng
chứa đựng rủi ro, những nhân tố tiêu cực và những yếu tố này là nguyên nhân kìm
hãm và ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của thị trường.
Chủ thể tham gia thị trường chứng khoán bao gồm các tổ chức chào bán chứng
khoán, các tổ chức trung gian và các nhà đầu tư. Mỗi chủ thể khi tham gia thị
trường đều hướng tới những mục tiêu khác nhau, cụ thể là tổ chức chào bán tìm
kiếm nguồn vốn đầu tư, các tổ chức trung gian và nhà đầu tư tìm kiếm lợi nhuận.
Để đạt được mục đích của mình, có thể các chủ thể này không tuân thủ các nguyên
tắc thị trường, tuân thủ các quy định của pháp luật chứng khoán, từ đó gây ảnh
hưởng tiêu cực đến quyền và lợi ích của các chủ thể khác và sự bình ổn của thị trường chứng khoán.
Các hành vi xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác và gây mất
ổn định cho các hoạt động của thị trường chứng khoán được xác định là các vị
phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Vi phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán là các hành vi trái
pháp luật của các tổ chức, cá nhân xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật
ghi nhận và bảo vệ. Các tổ chức cá nhân này sẽ chịu trách nhiệm pháp lí theo các
quy định của pháp luật chứng khoán.
Vi phạm pháp luật về chứng khoán là loại vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cụ thể,
do vậy, nó cũng mang những đặc điểm chung của vi phạm pháp luật, đó là: có
hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, được thực hiện dưới dạng hành động hoặc
không hành động, hành vi đó trái pháp luật, chủ thể gây ra hành vi có lỗi (lỗi cố ý
hoặc lỗi vô ý). Chủ thể vi phạm pháp luật có đầy đủ năng lực pháp luật và hành vi dân sự..
Vi phạm pháp luật chứng khoán và thị trường chứng khoán là những hành vi xuất
hiện kể từ khi có sự ra đời, tồn tại, vận hành của thị trường chứng khoán. Do vậy,
loại vi phạm pháp luật này ra đời trong bối cảnh nền kinh tế thị trường phát triển ở
mức độ nhất định. Chứng khoán và thị trường chứng khoán là lĩnh vực kinh tế đặc
thù, có tính nhạy cảm, tính rủi ro cao, do vậy, những vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực này cũng có những dấu hiệu đặc trưng, phân biệt với các loại vi phạm pháp
luật khác. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật là các tổ chức, cá nhân
trực tiếp liên quan đến các hoạt động chứng khoán và hoạt động quản lý thị trường
chứng khoán, phát sinh trên tất cả các bộ phận của thị trường chứng khoán như thị
trường tập trung, phi tập trung, thị trường phát hành, thị trường giao dịch chứng
khoán. Các chủ thể tham gia thị trường đều có nguy cơ vi phạm pháp luật ở những mức độ khác nhau.
Cụ thể là các tổ chức trung gian của thị trường giao dịch tập trung như công ty
chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng
khoán có thể phát sinh những vi phạm về hoạt động kinh doanh chứng khoán như
giao dịch nội gián, các điều kiện hành nghề của tổ chức kinh doanh chứng khoán
(vốn điều lệ thực có chưa bằng vốn pháp định, nhân viên công ti chứng khoán
chưa có chứng chỉ hành nghề…); các tổ chức chào bán vi phạm quy định về công
bố thông tin, đưa ra những thông tin sai lệch trong báo cáo tài chính, các nhà đầu
tư thực hiện hành vi thao túng thị trường….
Thứ hai, hầu hết các vi phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng
khoán đều xuất phát từ việc mưu cầu những lợi ích vật chất. Các quan hệ được
thiết lập trên thị trường chứng khoán đều là các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể
tham gia thị trường) hoặc quan hệ quản lý kinh tế (giữa các chủ thể tham gia thị
trường và các chủ thể quản lý thị trường).
Các mối quan hệ được thiết lập đều nhằm hướng tới việc đạt được những lợi ích
kinh tế nhất định, do vậy, mục đích lợi ích vật chất hay lợi nhuận luôn được đặt
lên hàng đầu. Các chủ thể luôn mong muốn đạt đến mục tiêu cuối cùng là lợi
nhuận và lợi ích vật chất đã thực hiện những hành vi vượt quá ranh giới quy định
pháp luật; từ đó xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên
quan và ảnh hưởng đến sự bình ổn của thị trường.
Thứ ba, hầu hết các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường
chứng khoán đều được thực hiện do lỗi cố ý. Các chủ thể tham gia thị trường khi
thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật đều ý thức được hậu quả của những hành
vi này. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu lợi ích kinh tế, họ có thể vượt qua những
rào cản pháp luật. Do vậy, có thể khẳng định rằng hầu hết các vi phạm pháp luật
phát sinh trong lĩnh vực này đều được thực hiện một cách cố ý.
Thứ tư, xác định được hành vi vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường
chứng khoán rất phức tạp. Có những hành vi vi phạm trực tiếp có thể xác định rất
rõ ràng, cụ thể. Có những hành vi vi phạm gián tiếp, thông qua nhiều hành vi hợp
pháp và thông qua nhiều chủ thể khác nhau, do đó, nhận dạng các hành vi vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực này đòi hỏi sự nhạy bén, tinh tế của các cơ quan có thẩm
quyền hay nói các khác là cần phải có những công cụ, biện pháp mang tính chuyên
môn, nghiệp vụ cao để đưa ra những cách thức xử lí thích hợp, hiệu quả.
Thứ năm, các hành vi vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán có tính đặc thù là phát
sinh nhanh, nằm ngoài sự kiểm soát của các quy định pháp luật, do vậy cần có các
biện pháp giải quyết kịp thời để tránh gây những hậu quả tiêu cực, tác động đến sự
bình ổn của toàn thị trường. Hầu như các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng
khoán và thị trường chứng khoán đều bắt nguồn từ việc lợi dụng những “khe hở
của pháp luật, có những nội dung, những mối quan hệ pháp luật chưa kịp thời điều
chỉnh hoặc chưa đề cập đến sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các vi phạm xuất hiện
mà vẫn né tránh được các quy định của pháp luật.
Phân loại các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán
Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau mà các vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán và
thị trường chứng khoán có thể được phân loại theo những cách khác nhau. Việc
xem xét và định hình một cách rõ nét các hành vi vi phạm sẽ giúp các chủ thể nhận
diện các hành vi đó để phòng ngừa và xử lý các vi phạm sao cho phù hợp nhất.
Nếu căn cứ vào mức độ vi phạm, có thể chia vi phạm pháp luật về chứng khoán và
thị trường chứng khoán thành 3 loại: vị phạm pháp luật hành chính, vi phạm pháp
luật dân sự và vi phạm pháp luật hình sự.
– Vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng
khoán là hành vi do các tổ chức, cá nhân thực hiện do lỗi cố ý hoặc vô ý vi phạm
các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán và thị
trường chứng khoán được xử lý theo các quy phạm pháp luật hành chính, các vi
phạm này chưa đến mức độ nghiêm trọng để truy cứu trách nhiệm hình sự.
– Vi phạm pháp luật dân sự trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán
là những hành vi trái pháp luật, có lỗi, gây thiệt hại về tài sản đối với các chủ thể
là tổ chức, cá nhân tham gia thị trường. Chủ thể vi phạm phải chịu trách nhiệm dân
sự về những hành vi vi phạm của mình.
– Vi phạm pháp luật hình sự trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng
khoán (hay còn gọi là tội phạm chứng khoán) là những hành vi nguy hiểm cho xã
hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực pháp luật hình sự
gây ra, do lỗi cố ý hoặc vô ý gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ thể khác và làm ảnh hưởng đến hoạt động của thị trường chứng khoán. Căn cứ
vào mức độ thiệt hại và hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật chứng khoán gây ra
mà tội phạm chứng khoán phải chịu các hình phạt tương ứng.
Cách phân loại theo mức độ vi phạm được xem là cách phân loại có tính phổ biến nhất.
– Nếu căn cứ vào nội dung và lĩnh vực vi phạm pháp luật chứng khoán, có thể phân loại như sau:
– Vi phạm pháp luật trong giai đoạn chào bán chứng khoán. Đó có thể là hành vi
công bố thông tin sai lệch của tổ chức chào bán nhằm đạt được mục tiêu bán vốn
với lợi ích tối đa, có thể là hành vi lừa đảo của tổ chức trung gian, môi giới khi
thực hiện hoạt động tư vấn chào bán, bảo lãnh chào bán, phân phối chứng khoán cho các nhà đầu tư…
– Vi phạm pháp luật trong các hoạt động kinh doanh chứng khoán trên thị trường
giao dịch chứng khoán. Chủ thể phát sinh những hành vi vi phạm là các thành viên
của thị trường giao dịch chứng khoán, chẳng hạn các công ty chứng khoán vi
phạm quy định về người hành nghề kinh doanh chứng khoán, vi phạm quy định về
giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán; các tổ chức niêm yết vi phạm quy
định về niêm yết chứng khoán, vị phạm chế độ công bố thông tin đầy đủ…
Các hình thức xử lý vi phạm về chứng khoán và thị trường chứng khoán + Xử lí hành chính
Hình thức cảnh cáo được áp dụng đối với tổ chức, cá nhân khi có đủ hai điều kiện
sau: Một là hành vi vi phạm mà tổ chức, cá nhân thực hiện được văn bản pháp luật
về xử phạt hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán quy
định là có thể áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo; Hai là việc áp dụng hình thức
xử phạt cảnh cáo đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính về chứng khoán chỉ
được thực hiện khi đó là vi phạm nhỏ, lần đầu và có tình tiết giảm nhẹ.
Cảnh cáo là hình thức xử phạt chủ yếu mang tính giáo dục đối với cá nhân, tổ
chức vi phạm. Đối tượng áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo không bị coi là có án
tích và không bị ghi vào lí lịch tư pháp.
Phạt tiền là hình thức xử phạt chính được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 6
Nghị định của Chính phủ số 85/2010/NĐ-CP. Các tổ chức, cá nhân thực hiện hành
vi vi phạm hành chính về chứng khoán nếu không thuộc trường hợp bị xử phạt
cảnh cáo thì sẽ bị xử phạt bằng hình thức phạt tiền. Mức phạt tiền cụ thể đối với
một hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng
khoán là mức trung bình của khung phạt tiền đối với hành vi đó. Nếu vi phạm có
tình tiết giảm nhẹ thì mức phạt có thể giảm thấp hơn nhưng không được giảm quá
mức tối thiểu của khung phạt tiền. Nếu vi phạm có tình tiết tăng nặng thì mức phạt
có thể tăng cao hơn nhưng không được tăng quá mức tối đa của khung phạt tiền.
Đối với trường hợp vi phạm hành chính có cả tình tiết tăng nặng lẫn giảm nhẹ thì
tùy theo tính chất, mức độ của các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ mà người có thẩm
quyền quyết định áp dụng mức phạt cao hơn hoặc thấp hơn mức trung bình hoặc
áp dụng mức trung bình của khung hình phạt.
Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm mà mức phạt được áp dụng khác
nhau đối với từng hành vi vi phạm cụ thể.
Ngoài các hình thức xử phạt chính, tùy theo tính chất và mức độ vi phạm, cá nhân,
tổ chức vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng
khoán còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau:
– Tịch thu toàn bộ khoản thu trái pháp luật do thực hiện hành vi vi phạm hành chính;
– Đình chỉ hoặc hủy bỏ đợt chào bán chứng khoán ra công chúng;
– Đình chỉ hoạt động, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận trong lĩnh vực chứng
khoán, chứng chỉ hành nghề chứng khoán.
Những hình thức xử phạt bổ sung trên không được áp dụng một cách độc lập mà
phải áp dụng kèm theo hình thức xử phạt chính. Quyết định xử phạt không nhất
thiết phải do một người có thẩm quyền quyết định áp dụng và ghi nhận trong cùng
một văn bản áp dụng hình thức xử phạt chính mà chúng có thể do các cấp khác
nhau có thẩm quyền quyết định áp dụng và cố nhiên nó có thể được ghi nhận trong
các văn bản áp dụng khác nhau.
Ngoài việc bị áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính như đã nêu trên, tổ chức,
cá nhân vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng
khoán còn có thể bị áp dụng một hoặc các biện pháp khắc phục hậu quả do hành vi
vi phạm gây ra tùy theo tính chất, mức độ vi phạm. Các biện pháp này được quy
định cụ thể tại Chương II Nghị định 85/2010/NĐ-CP cho từng dạng hành vi vi phạm cụ thể.
Về thời hiệu, pháp luật hiện hành quy định thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán là 2 năm, kể từ ngày vi
phạm. Nếu quá thời hạn nêu trên thì không bị xử phạt nhưng vẫn có thể bị áp dụng
các biện pháp khắc phục hậu quả.
Về thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính, Nghị định của Chính phủ số
85/2010/NĐ-CP cũng quy định: Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính,
nếu sau 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hoặc từ ngày hết
thời hiệu thi hành quyết định xử phạt mà không tái phạm thì được coi như chưa bị
xử phạt vi phạm hành chính.
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chúng khoán được trao
cho Chánh Thanh tra UBCKNN và Chủ tịch UBCKNN, cụ thể là chánh Thanh tra
UBCKNN có quyền phạt cảnh cáo; phạt tiền tối đa đến 70 triệu đồng; Chủ tịch
UBCKNN có quyền phạt cảnh cáo; phạt tiền tối đa đến 500 triệu đồng…
Về thủ tục xử phạt, trong quá trình thanh tra, kiểm tra nếu phát hiện có hành vi vi
phạm trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán thì Trưởng đoàn
thanh tra, kiểm tra phải quyết định đình chỉ hành vi vi phạm và báo cáo ngay bằng
văn bản cho Chánh Thanh tra UBCKNN hoặc Chủ tịch UBCKNN.Cơ quan quản
lý nhà nước trong quá trình thanh tra, kiểm tra, điều tra đối với các cá nhân, tổ
chức nếu phát hiện có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán
nhưng không thuộc thẩm quyền xử phạt của mình thì phải chuyển toàn bộ hồ sơ vụ
việc và đề xuất xử lý bằng văn bản tới UBCKNN để giải quyết.
Quyết định xử phạt có hiệu lực kể từ ngày kí, trừ trường hợp trong quyết định có
quy định ngày có hiệu lực khác. Quyết định xử phạt được gửi cho tổ chức, cá nhân
bị xử phạt, cơ quan thu tiền phạt trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày ra quyết định xử
phạt và đăng công khai trên trang điện tử của UBCKNN trong ngày làm việc tiếp
theo, kể từ ngày ra quyết định xử phạt.
Tổ chức, cá nhân bị xử phạt phải tự nguyện thi hành quyết định xử phạt trong thời
hạn 10 ngày kể từ ngày được giao quyết định, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác. Cá nhân, tổ chức bị phạt tiền có thể nộp tiền phạt tại chỗ cho người có
thẩm quyền xử phạt hoặc nộp tại kho bạc nhà nước.
Quy định này nhằm tránh được những khó khăn, phiền hà cho tổ chức, cá nhân bị
xử phạt và người có thẩm quyền xử phạt đồng thời cũng hạn chế được các tiêu cực
có thể xảy ra trong xử phạt vi phạm hành chính.
+ Xử lí vi phạm hình sự
Xử lí vi phạm hình sự trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Khác với quy định của luật hình sự nhiều nước trên thế giới, Bộ luật hình sự Việt
Nam chỉ áp dụng với các cá nhân có hành vi nguy hiểm cho xã hội gây thiệt hại
đến lợi ích của cá nhân, tổ chức và Nhà nước. Luật hình sự Việt Nam không áp
dụng đối với tổ chức vi phạm.
Ở Việt Nam, Bộ luật hình sự được coi là văn bản quy phạm pháp luật duy nhất quy
định về xử lý hình sự và được áp dụng để xử lí bất cứ vi phạm nào nếu gây nguy
hiểm cho xã hội. Bộ luật này cũng được áp dụng để xử lí mọi loại tội phạm hình
sự trong các lĩnh vực khác nhau. Việc quy định xử lí hình sự các tội phạm về
chứng khoán không nằm ngoài thông lệ này. Cụ thể là một hành vi vi phạm trong
lĩnh vực chứng khoán chỉ có thể bị xử lý hình sự nếu hành vi đó được quy định trong Bộ luật hình sự.
Bộ luật hình sự hiện hành đã bổ sung tội phạm về chứng khoán trong đó có 3 tội
danh: một là tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt
động chứng khoán; hai là tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán;
ba là tội thao túng giá chứng khoán. Ba loại tội phạm này đều xâm phạm chế độ
quản lý nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán. Chủ thể
của các loại tội phạm này là cá nhân có năng lực trách nhiệm hình sự và phải đủ 16 tuổi trở lên.
Đối với tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động
chứng khoán, mặt khách quan của tội phạm là người phạm tội có hành vi cố ý
công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật liên quan đến việc chào bán, niêm
yết, giao dịch, hoạt động kinh doanh chứng khoán, tổ chức thị trường, đăng kí, lưu
kí, bù trừ hoặc thanh toán chứng khoán. Đây là tội phạm có cấu thành vật chất. Tội
phạm được coi là hoàn thành khi người phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng. Mặt
chủ quan của tội phạm là lỗi cố ý.
Đối với tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán, mặt khách quan của
tội phạm là người phạm tội có hành vi sử dụng thông tin liên quan đến công ty đại
chúng hoặc quỹ đại chúng chưa được công bố để mua bán chứng khoán hoặc tiết
lộ, cung cấp thông tin này hoặc tư vấn cho người khác mua bán chứng khoán trên
cơ sở thông tin đó thu lợi bất chính lớn. Mặt chủ quan của tội phạm là lỗi cố ý trực tiếp.
Đối với tội thao túng giá chứng khoán, hành vi này có thể thể hiện dưới một trong
hai hình thức sau: (1) thông đồng để thực hiện việc mua bán chứng khoán nhằm
tạo ra cung cầu giả tạo; (2) giao dịch chứng khoán bằng hình thức cấu kết, lôi kéo
người khác liên tục mua bán. Sở dĩ người phạm tội có hành vi thao túng giá chứng
khoán nhằm làm cho các nhà đầu tư khác hiểu sai lệch về thị trường chứng khoán,
từ đó thu lợi bất chính. Thẩm quyền xử lí tội phạm về chứng khoán thuộc về toà án
nhân dân. Toà án sẽ căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội,
các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự từ đó quyết định hình phạt
đối với người phạm tội.
+ Xử lý vi phạm dân sự
Các quan hệ xã hội phát sinh trên thị trường chứng khoán có nguồn gốc từ quan hệ
pháp luật dân sự, cụ thể là quan hệ của các chủ thể trong việc giao kết các hợp
đồng mua bán, chuyển nhượng chứng khoán, các hợp đồng bảo lãnh phát hành, tư
vấn phát hành, hợp đồng mở tài khoản kí kết giữa công ty chứng khoán với khách
hàng, hợp đồng mở tài khoản giữa thành viên lưu kí là ngân hàng và khách hàng…
Các mối quan hệ có nguồn gốc từ quan hệ pháp luật dân sự, xét trong lĩnh vực
chứng khoán rất phong phú, đa dạng và phức tạp.
Để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, pháp luật dân sự đã quy định rất nhiều
biện pháp cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, bảo lãnh, đặt cọc, ký cược, kí quỹ, phạt
vi phạm… Hiện nay, một số biện pháp đã được áp dụng trong hoạt động chứng
khoán như: cầm cố chứng khoán để cho vay tiền của các ngân hàng thương mại, kí
quỹ trong giao dịch chứng khoán.
Các vi phạm pháp luật dân sự trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng
khoán chủ yếu liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Khi bên có nghĩa
vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách
nhiệm dân sự đối với bên có quyền. Trách nhiệm dân sự là hình thức cưỡng chế
của Nhà nước và do toà án áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật.
Hậu quả bất lợi mà người vi phạm nghĩa vụ phải gánh chịu là việc bắt buộc phải
tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hoặc phải bồi thường thiệt hại nhằm thoả mãn quyền
lợi chính đáng của người bị vi phạm, khắc phục những hậu quả vật chất cho người bị vi phạm.