-
Thông tin
-
Quiz
kinh tế học thông tin môn Kinh tế tài nguyên | Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (Sửa đổi, bổ sung năm 2009 và 2019)-Nghị quyết số 72/2018/QH14 ngày 12/11/2018 của Quốc hội phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dươn Nghị định số 22/2018/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan; Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Kinh tế tài nguyên (KTTN) 60 tài liệu
Học viện Nông nghiệp Việt Nam 1.7 K tài liệu
kinh tế học thông tin môn Kinh tế tài nguyên | Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (Sửa đổi, bổ sung năm 2009 và 2019)-Nghị quyết số 72/2018/QH14 ngày 12/11/2018 của Quốc hội phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dươn Nghị định số 22/2018/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan; Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Kinh tế tài nguyên (KTTN) 60 tài liệu
Trường: Học viện Nông nghiệp Việt Nam 1.7 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:











Tài liệu khác của Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Preview text:
lOMoAR cPSD| 47708777 I.
văn bản chính sách pháp luật của Việt Nam về SHTT 1.
số văn bản chính sách của sở hữu trí tuệ
-Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (Sửa đổi, bổ sung năm 2009 và 2019)
- Nghị quyết số 72/2018/QH14 ngày 12/11/2018 của Quốc hội phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn
diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
-Nghị định số 22/2018/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật
Dân sự, Luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan;
- Nghị định số 103/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sở
hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp;
Nghị định số 119/2010/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 105/2006/NĐCP
Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ
-Thông tư liên tịch 02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BVHTT&DL-BKH&CN-BT hướng
dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ 2.
Luật sở hữu trí tuệ 2005(sửa đổi, bổ sung2009 và 2019) có những điều sau:
Điều 3 Đối tượng quyền sở hữu trí tuệ
Đối tượng quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; đối tượng quyền liên
quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín
hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá.
Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí
mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý.
Đối tượng quyền đối với giống cây trồng là vật liệu nhân giống và vật liệu thu hoạch.”
Điều 4 được sửa đổi bổ sung như sau: Quyền tác giả
Theo khoản 2 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009, 2019), quyền tác giả là
quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.
Trong đó, đối tượng quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; đối tượng
quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình
phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.
(Khoản 1 Điều 3 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009, 2019))
Quyền tác giả đối với tác phẩm bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Quyền
liên quan đến quyền tác giả
Quyền liên quan đến quyền tác giả theo giải thích tại khoản 2 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ là quyền
của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín
hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa. lOMoAR cPSD| 47708777
Theo đó, thời điểm phát sinh quyền liên quan là từ thời điểm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi
hình, chương trình phát són, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa, định hình hoặc
thực hiện mà không gây hại đến quyền tác giả. Quyền sở hữu công nghiệp
"Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp,
thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh
do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.''' (khoản 4 Điều 4
Luật sở hữu trí tuệ năm 2005).
Với các quy định trên cho thấy khác với quyền tác giả, đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp
liên quan trực tiếp đến các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại và các đối tượng này có
thể chia thành hai nhóm cơ bản:
+ Các đối tượng mang tính sáng tạo trong lĩnh vực công nghiệp như sáng chế, kiểu dáng, thiết kế
bố trí mạch tích hợp bán dẫn...
+ Các đối tượng là các dấu hiệu mang tính phân biệt trong thương mại, như nhãn hiệu, tên thương
mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh... Quyền đối với giống cây trồng
Tại khoản 2 Điều 1 Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi 2009 quy định:
“Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây trồng mới do
mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu”.
Vậy, quyền đối với giống cây trồng là quyền sở hữu tài sản được hình thành từ kết quả của quá
trình chọn và tạo giống cây trồng, do đó chủ sở hữu có các quyền đối với tài sản của mình. Trên
cơ sở thực hiện quyền của chủ sở hữu phát sinh các quan hệ đối với các chủ thể khác qua việc khai
thác giống cây trồng, pháp luật điều chỉnh quan hệ này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể.
Quyền sở hữu trí tuệ không bao gồm một số đối tượng sau:
Các ý tưởng, phương pháp, quy trình: Quyền sở hữu trí tuệ không bảo vệ các ý tưởng, phương
pháp, hoặc quy trình. Chỉ có cách thể hiện cụ thể của chúng (như một bản vẽ hoặc mô tả chi
tiết) mới có thể được bảo vệ.
Công cụ làm việc, phương tiện vận chuyển : Các công cụ làm việc và phương tiện vận chuyển
không được bảo vệ bởi quyền sở hữu trí tuệ.
Các công thức toán học : Công thức toán học không được bảo vệ bởi quyền sở hữu trí tuệ
Các thông tin công cộng : Thông tin công cộng như lịch, thời gian, và số liệu thống kê không
được bảo vệ bởi quyền sở hữu trí tuệ.
Các thông tin không có tính sáng tạ o: Thông tin không có tính sáng tạo, như danh sách
nguyên liệu trong một công thức nấu ăn, không được bảo vệ bởi quyền sở hữu trí tuệ II.
Tác động của những chính sách, luật sở hữu trí tuệ:
1. Tác động về sự quản lí nhà nước
Điều 10. Nội dung quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ
a. Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
b. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về sở hữu trí tuệ.
c. Tổ chức bộ máy quản lý về sở hữu trí tuệ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về sở hữu trí tuệ. lOMoAR cPSD| 47708777
d. Cấp và thực hiện các thủ tục khác liên quan đến Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả,
Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan, văn bằng bảo hộ các đối tượng sở hữu công
nghiệp, Bằng bảo hộ giống cây trồng.
e. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về sở hữu trí tuệ; giải quyết khiếu nại, tố cáo và
xử lý vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ. f.
Tổ chức hoạt động thông tin, thống kê về sở hữu trí tuệ.
g. Tổ chức, quản lý hoạt động giám định về sở hữu trí tuệ.
h. Giáo dục, tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật về sở hữu trí tuệ. i.
Hợp tác quốc tế về sở hữu trí tuệ.
Điều 11. Trách nhiệm quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ
a) Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ.
b) Bộ Khoa học và Công nghệ chịu trách nhiệm trước Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện quản lý nhà
nước về sở hữu trí tuệ và thực hiện quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp.
c) Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương trong việc quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ.
1 số ví dụ về vi phạm sở hữu trí tuệ
-Bạn thử gõ lên youtube tìm kiếm một bài hát của ca sĩ nổi tiếng, bên cạnh video, bài hát của
chính ca sỹ, thì có hàng loạt các bản cover khác, và thử hỏi xem trong số các video đó có bao
nhiêu bài cover đã xin phép và có được sự đồng ý tác giả?
-một số hình ảnh tư liệu về vụ việc bộ phim “Lật Mặt 3” của ca sỹ Lý Hải bị quay lén và
livestream trên mạng xã hội. Hoặc có thể kể đến một trường hợp phổ biến hiện nay đó là sự vi
phạm bản quyền truyền hình trên Internet thông qua xem các chương trình truyền, phim trên các
trang web không chính thống (Web lậu), khi có bất kỳ một chương trình truyền hình nào ăn
khách hay một bộ phim nào hay, vừa phát sóng xong thì lập tức, trên các mạng xã hội mà phổ
biến như youtube, facebook… có hàng loạt các video được đăng tải ngay sau đó, những đối
tượng tải chương trình đó lên sẽ thu được tiền từ hoạt động quảng cáo mà chính những mạng xã
hội này sẽ trả cho họ. Có thể kể đến bộ phim “Người phán xử” và “Sống chung với mẹ chồng”
hai bộ phim truyền hình rất “ăn khách” được xem rất nhiều trên các website không phải của VTV.
Đây chỉ là một trường hợp nhỏ trong vô vàn các trường hợp bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
về quyền tác giả và các quyền liên quan đến quyền tác giả. Việc xâm phạm không chỉ dừng lại ở
đó mà còn “lan rộng” ra các lĩnh vực khác nhất là trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Hàng năm
có dến hàng ngàn vụ sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có dấu hiệu xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ. Hàng loạt các sản phẩm có nhãn hiệu “na ná” các nhãn hiệu nổi tiếng hoặc “treo đầu
dê bán thịt chó” không rõ nguồn gốc xuất xứ nhưng lại gắn mác xuất tại Việt Nam. Xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ trong giai đoạn hiện nay được thực hiện bằng nhiều phương thức, thủ đoạn
mới như áp dụng công nghệ cao, sử dụng các thiết bị hiện đại để sản xuất hàng hoá làm cho
người tiêu dùng và cơ quan quản lý thị trường khó phát hiện thật/giả. Nhất là hiện nay khi nhu lOMoAR cPSD| 47708777
cầu mua sắm online trên các trang thương mại điện tử như ngày càng nhiều thì việc mua phải các
sản phẩm kém chất lượng, không đúng mẫu cũng là điều dễ thấy. Các hành vi vi phạm này ngày
càng nguy hiểm hơn ở tính chất vi phạm, có tổ chức chặt chẽ không những trong phạm vi lãnh
thổ Việt Nam mà còn mở rộng đối với tổ chức và cá nhân nước ngoài. Thực tế cho thấy việc vi
phạm pháp luật sở hữu trí tuệ luôn tạo ra siêu lợi nhuận nhưng mức xử phạt lại chủ yếu dừng ở
mức xử phạt hành chính và chưa đủ sức răn đe đối với đối tượng vi phạm. Ví dụ mức phạt cao
nhất đối với hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, kiểu
dáng công nghiệp là 250.000.000 đồng ( Theo điều 11 Nghị định 99/2013/ NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính
2. Tác động của luật sở hữu trí tuệ đối với lĩnh vực sở hữu trí tuệ
Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ là yêu cầu tất yếu để thúc đẩy nghiên cứu , sáng tạo , thúc đẩy phát
triển khoa học – công nghệ. Để nghiên cứu ra những công trình khoa học , những sản phẩm trí tuệ,
đòi hỏi các cá nhân, công ty, tổ chức phải bỏ ra không ít công sức và tiền bạc, thời gian, tiêu tốn cả
trí lực và nghị lưc lẫn kinh tế. Chẳng lẽ những kẻ không tạo ra nó lại dễ dàng được sử dụng thành
quả đó để rồi cạnh tranh với chính người tạo ra thành quả đó, thậm trí tận dụng lợi thế sẵn có để
đánh bại người tạo ra thành quả trí tuệ kia; để rồi người tạo ra sản phẩm trí tuệ cùng lắm chỉ được
tôn vinh nhưng thật không đủ để bù đắp những tổn thất bỏ ra khi nghiên cứu. Nếu điều tồi tệ này cứ
tự nhiên xảy ra thì chẳng còn động lực để nghiên cứu, sáng tạo; sẽ không còn ai muốn và đủ sức
nghiên cứu, thậm trí có khi người ta đã nghiên cứu ra nhưng giữ kín không công bố vì sợ bị thiệt
thòi. Vì vậy các chính sách, luật của sở hữu trí tuệ ra đời với sự tác động mạnh mẽ:
-Bảo vệ quyền lợi của người sáng tạo: Luật sở hữu trí tuệ bảo vệ quyền của người sáng tạo đối
với sản phẩm mà họ đã tạo ra. Điều này tạo ra một môi trường an toàn cho người sáng tạo,
khuyến khích họ tiếp tục sáng tạo hay thu được thành quả từ những sản phẩm của bản thân mình. -
Khuyến khích sự sáng tạo và phát triển: Luật sở hữu trí tuệ tạo ra động lực cho sự sáng tạo
và phát triển, thúc đẩy sự tiến bộ trong nhiều lĩnh vực như khoa học, công nghệ, văn học, nghệ
thuật và nhiều lĩnh vực khác. Góp phần phát triển kinh tế- xã hội. -
Giải quyết tranh chấp: Luật sở hữu trí tuệ cung cấp các quy định và quy trình để giải quyết
các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ. Khi quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm thì chủ thể có
quyền bảo vệ bằng các luật pháp mà pháp luật cho phép ngăn ngừa các hành vi xâm pham tối đa,
ngoài ra có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân xâm phạm chấm dứt hay xin lỗi, bồi thường thiệt hại cho chủ sơr hữu đó.
Luật sở hữu trí tuệ là hàng lang pháp lí khuyến khích sự sáng tạo của con người trong xã hội, nên
mọi các nhân đều có quyền sáng tạo ra các sản phẩm và có quyền bình đẳng của chủ thể trong
quan hệ pháp luật. Không có sự phân biệt về địa vị xã hội, giới tính, độ tuổi hay mức độ năng lực
hành vi,... bất cứ ai đều cũng có thể là chủ sở hữu của các sản phẩm trí tuệ, có các quyền và
nghĩa vụ như nhau khi tạo ra hoặc chuyển giao các sản phẩm thuộc quyền sở hữu trí tuệ
3. Xử lí hành vi vi phạm sở hữu trí tuệ
Thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bao gồm: a)
Thiệt hại về vật chất bao gồm các tổn thất về tài sản, mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận,
tổn thất về cơ hội kinh doanh, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục. b)
Thiệt hại về tinh thần bao gồm các tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng và
những tổn thất khác về tinh thần gây ra cho tác giả của tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học;
người biểu diễn; tác giả của sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, giống cây trồng. lOMoAR cPSD| 47708777
Biện pháp dân sự(Theo Điều 202 Luật SHTT) quy định Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm; xin
lỗi, cải chính công khai; thực hiện nghĩa vụ dân sự; bồi thường thiệt hại;tiêu huỷ hoặc buộc phân
phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá, nguyên liệu, vật
liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
Biện pháp hành chính (Điều 211 của Luật Sở hữu trí tuệ 2005, được sửa đổi bởi Luật SHTT sửa
đổi 2009):chấm dứt hành vi xâm phạm và bị áp dụng một trong các hình thức xử phạt chính sau
đây:Cảnh cáo ;Phạt tiền
Biện pháp hình sự (Điều 212 Luật SHTT 2005) áp dụng đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ ở mức nghiêm trọng, hành vi đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội và được quy định trong
Bộ luật Hình sự. Khi hành vi xâm phạm quá mức tới sở hữu trí tuệ làm ảnh hưởng tới doanh thu
của tác giả quá lớn hay đạo nhái thương hiệu giả để buôn bán những sản phẩm giả có hại trực tiếp
tới sức khỏe hay thân thể người tiêu dùng sẽ bị truy tố trách nghiệm hình sự và có thể dẫn đến đi tù.
Trong trường hợp cần thiết, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời, biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính theo quy định.
Ví dụ: vào năm 2015, trên thị trường mì ăn liền lại xuất hiện sản phẩm mang nhãn hiệu “Hảo
Hạng” của công ty thực phẩm Á Châu –Asia Foods. Trên nhãn hiệu sản phẩm này có những dấu
hiệu tương tự về bao bì, hình dáng gây nhầm lẫn với sản phẩm mì hảo hảo của công ty Vina
Acecook. Vì vậy công ty mì hảo hảo gửi công văn yêu cầu xử lý vi phạm đến Cục sở hữu trí tuệ
– Bộ khoa học và công nghệ. Sau khi được xác định mì hảo hàng nhái công ty mì hảo hảo, nên
khởi kiện Hảo Hạng của Asia Foods có hành vi xâm phạm về sở hữu trí tuệ đối với mì Hảo Hảo
của Acecook. Do đó Asia Foods phải chấm dứt vi phạm, đăng báo xin lỗi công khai ba kỳ liên
tiếp. Tòa cũng tuyên Asia Foods bồi thường 80 triệu đồng chi phí luật sư cho Acecook.
III. Luật sở hữu trí tuệ ở singapore
1 . Giới thiệu chung
Hoàn cảnh ra đời luật sở hữu trí tuệ ở Singapore có thể được xem xét theo hai khía cạnh: lịch sử và chiến lược.
Về khía cạnh lịch sử, luật sở hữu trí tuệ ở Singapore được ra đời vào năm 1987, khi Singapore
đang phải đối mặt với những thách thức như tăng trưởng kinh tế thấp, khó khăn về nguyên liệu,
cạnh tranh từ các nước phát triển cũng như từ các nước đang phát triển. Ở thời điểm này, việc sử
dụng công nghệ cao ở Singapore còn hiếm hoi. Chính phủ nước này lúc đó nhận thấy rằng cần
phải coi việc thúc đẩy sử dụng và phát triển công nghệ như một phần chiến lược quốc gia để phát
triển công nghiệp và đa dạng hóa nền kinh tế.
Về khía cạnh chiến lược, luật sở hữu trí tuệ ở Singapore được xây dựng để bảo vệ quyền SHTT
của các doanh nghiệp trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hoá và biến đổi số. Luật SHTT của
Singapore cho phép chủ sở hữu quyền tác giả được khởi kiện những đối tượng mua bán thiết bị
hoặc ứng dụng phần mềm hay người cung cấp dịch vụ cho phép người sử dụng xem trực tiếp tác
phẩm (stream) từ những nguồn bất hợp pháp. 2 . 1 số chính sách, luật của sở hữu trí tuệ singapore
Quan hệ sở hữu trí tuệ ở Singapore được điều chỉnh bởi lOMoAR cPSD| 47708777
Luật về quyền tác giả 1987( sửa đổi bổ sung năm 2021)
Luật về Thương hiệu (theo hình mẫu của Luật về Thương hiệu Anh 1887),
Luật về Nhãn hiệu (theo hình mẫu Luật về Nhãn hiệu Anh 1938), Luật về sáng chế 1994.
Chính sách chứng khoán hóa tài sản trí tuệ giúp các bên liên quan hiểu rõ hơn về giá trị của
TSTT và nâng cao niềm tin của họ trong giao dịch TSTT
Định giá tài sản trí tuệ Văn phòng Sở hữu trí tuệ Singapore (IPOS) xem xét dựa trên nhiều yếu
tố liên quan đến TSTT như: giá trị, vòng đời, khả năng thương mại hóa, sức cạnh tranh, khả
năng thu lợi và hoàn vốn.
Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp IPOS phối hợp với Cơ quan Quản lý doanh nghiệp và Kế toán
Singapore (ACRA), cùng nhiều chuyên gia trong lĩnh vực SHTT phát triển khuôn khổ công
bố thông tin SHTT nhằm giúp các công ty truyền đạt tốt hơn các tài sản vô hình, mục đích là
để khuyến khích nhiều hoạt động tài trợ TSTT hơn.
Luật sở hữu trí tuệ của Singapore có nhiều nội dung quan trọng, bao gồm:
-Thực thi quyền Sở hữu trí tuệ: Bổ sung thêm thủ tục phản đối đơn sở hữu công nghiệp ngoài thủ
tục nộp ý kiến của người thứ ba về việc cấp văn bằng bảo hộ 1 . Các hình thức xử phạt vi phạm
hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã
được sửa đổi và xử lý thống nhất theo các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính 1 .
-Đại diện quyền sở hữu trí tuệ: Sửa đổi yêu cầu đối với Luật sư hành nghề dịch vụ đại diện sở
hữu công nghiệp 1 . Giới hạn các tổ chức có thể kinh doanh dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp 1 .
- Giám định Sở hữu trí tuệ: Bổ sung quy định hướng dẫn về giám định sở hữu trí tuệ 1 . Tổ chức
hành nghề luật sư nước ngoài có thể kinh doanh dịch vụ giám định về quyền đối với giống cây trồng 1 .
-Đăng ký bảo hộ quyền đối với giống cây trồng: Sửa đổi điều kiện bảo hộ đối với giống cây
trồng 1 . Quy định chặt chẽ hơn về việc sử dụng tên giống cây trồng để đăng ký nhãn hiệu 1 .
-Khuyến khích tạo ra, khai thác và phổ biến sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí,
giống cây trồng: Bổ sung quy định về quyền của Nhà nước đối với sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp, thiết kế bố trí là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà
nước 1 .HỮU TRÍ TUỆ Ở VIỆT NAM
-Singapore đã đưa ra ứng dụng đăng ký thương hiệu qua điện thoại di động đầu tiên trên thế giới.
Ứng dụng này với việc sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong quá trình xử lý đăng ký đã giảm 80%
thời gian lập hồ sơ để đăng ký một nhãn hiệu
3. Xử lí vi phạm sở hữu trí tuệ
- Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
- xin lỗi, cải chính công khai
- Buộc thực hiện các nghĩ vụ dân sự theo quy định của pháp luật lOMoAR cPSD| 47708777
-Bồi thường cho chủ sở hữu, hay nhữngthiệt hại mà hình vi gây ra tùy thược theo các mức độ
xâm phạm trí tuệ. Có thể lên tới 100 000usd
- Nếu nghiêm trọng, việc truy cứu hình sự là 1 lựa chọn, có thể phạt đến 5 năm tù.
IV. So sánh giữa Việt Nam và Singapore
Việt Nam và Singapore là hai quốc gia láng giềng trong khu vực Đông Nam Á, có nền kinh tế
phát triển năng động và hội nhập quốc tế sâu rộng. Cả hai quốc gia đều coi sở hữu trí tuệ (
SHTT) là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội.
Giống nhau: Hệ thống pháp luật
Hệ thống pháp luật SHTT của Việt Nam và Singapore đều được xây dựng dựa trên các nguyên
tắc cơ bản của pháp luật SHTT quốc tế, bao gồm: •
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là quyền tự nhiên của con người và pháp nhân, được pháp luật bảo hộ. •
Quyền sở hữu trí tuệ được xác lập trên cơ sở nguyên tắc phân biệt đối xử, nghĩa là quyền
sở hữu trí tuệ của công dân Việt Nam, người nước ngoài, pháp nhân Việt Nam, pháp nhân
nước ngoài đều được pháp luật bảo hộ như nhau. •
Quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ trong một thời hạn nhất định, theo quy định của pháp luật. Khác nhau: Nội dung Việt Nam Singapore Hoàn cảnh ra đời
Năm 1989, Với nhu cầu quan Năm 1987, khi Singapore
hệ kinh tế và thương mại với
đang phải đối mặt với những
các nước trong tổ chức
thách thức như tăng trưởng
thương mại thế giới, quan hệ
kinh tế thấp, cạnh tranh từ các
trong khu vực, quan hệ với nước phát triển
các nước trên thế giới Về nguồn luật
xây dựng dựa trên cơ sở Hiến xây dựng dựa trên cơ sở Đạo pháp
luật Sở hữu trí tuệ (IP Act) và
các văn bản pháp luật liên quan. Về phạm vi bảo hộ
bảo hộ các đối tượng SHTT
bảo hộ các đối tượng SHTT;
sau: sáng chế, kiểu dáng công bí mật kinh doanh, quyền đối
nghiệp, nhãn hiệu, tên thương với cơ sở dữ liệu. bảo hộ sáng
mại, quyền tác giả, quyền liên chế đối với chương trình máy
quan đến quyền tác giả, tính và phương pháp kinh lOMoAR cPSD| 47708777
quyền đối với giống cây
doanh, có quy định về chuyển trồng.
giao quyền sử dụng đối với
sáng chế thiết yếu đối với tiêu
chuẩn kỹ thuật một cách lành mạnh. Thời hạn bảo hộ
Quyền công bố tác phẩm
cho phép tự do sử dụng các
hoặc cho phép người khác
tác phẩm chưa hề được công
công bố tác phẩm và quyền
bố, sau thời hạn 70 năm sau
tài sản có thời hạn từ 50 đến khi tác giả qua đời
100 năm, tùy thuộc vào loại tác phẩm.
Về thủ tục đăng ký SHTT
Thủ tục đăng ký SHTT tại
Thủ tục đăng ký SHTT tại
Việt Nam được thực hiện tại Singapore được thực hiện tại Cục Sở hữu trí tuệ
Cục Sở hữu trí tuệ Singapore ( IPOS ) Cơ quan quản lý
Cơ quan chủ trách là cơ quan Coư quan chủ trách là ở cư
sở hữu trí tuệ Việt Nam quan sở hữu trí tuệ (NOIP) singapore(ipos) Chiến lược
nhấn mạnh rằng sở hữu trí tuệ tăng cường nỗ lực hỗ trợ các
là công cụ quan trọng góp
doanh nghiệp trong việc chủ
phần thúc đẩy hoạt động đổi
động bảo vệ, quản lý và
mới sáng tạo, nâng cao năng
thương mại hóa sở hữu trí tuệ
lực cạnh tranh quốc gia, thúc
của mình khởi động Kế
đẩy phát triển kinh tế, văn hoạch mang tên IP Hub
hóa, xã hội của đất nướ Master, nhằm định vị c 3 .
Singapore là trung tâm toàn
cầu cho các hoạt động sở hữu trí tuệ 2 .
V. Thành tựu luật sở hữu trí tuệ việt nam và singapore Việt Nam
Theo số liệu của Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam, tính đến hết năm 2022, Việt Nam đã có tổng cộng
1,6 triệu đơn đăng ký SHTT, tăng 18% so với năm 2021. Trong đó, số lượng đơn đăng ký sáng lOMoAR cPSD| 47708777
chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu tăng trưởng mạnh mẽ, lần lượt đạt 60.000, 110.000 và 350.000 đơn.
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn một số hạn chế trong việc thực thi pháp luật SHTT, như: •
Tình trạng vi phạm SHTT vẫn còn phổ biến, đặc biệt là trong lĩnh vực nhãn hiệu, quyền
tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả. •
Cơ chế xử lý vi phạm SHTT còn chưa hiệu quả, chưa đủ sức răn đe các đối tượng vi phạm. •
Năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước về SHTT còn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Singapore
Singapore là một trong những quốc gia có hệ thống pháp luật SHTT tiên tiến và hiệu quả nhất
thế giới. Singapore được xếp hạng thứ 1 về chỉ số SHTT toàn cầu năm 2022 do Trung tâm Chính
sách đổi mới toàn cầu thuộc Phòng Thương mại Mỹ (GIPC) công bố.
Thành tựu: Trên toàn cầu, với 129 nước được xếp hạng, Singapore vươn lên vị trí thứ tư, sau Phần
Lan, Thụy Sỹ và New Zealand. Tiếp theo là Australia thứ năm và Nhật Bản xếp hạng sáu. Mỹ tăng
thêm hai bậc lên vị trí thứ 12 và Anh bị tụt xuống vị trí thứ 15.
Các chỉ số được phát triển bởi Liên minh về Quyền sở hữu trí tuệ có trụ sở tại Hoa Kỳ như một
thước đo sức mạnh bảo vệ toàn bộ tài sản vật chất và trí tuệ.
Việc đánh giá xếp hạng được dựa trên các dữ liệu từ các nguồn chính thức của các tổ chức quốc tế
khác nhau cùng với nghiên cứu tình huống của 118 tổ chức tư vấn chiến lược và các tổ chức nghiên
cứu về chính sách ở 72 nước.
Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Thứ nhất, Chính phủ Việt Nam cần tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch TSTT bằng cách
tăng khả năng tiếp cận tài chính. Theo kinh nghiệm từ cơ chế cấp vốn cho TSTT của Singapore,
Chính phủ Việt Nam nên xây dựng chính sách bảo lãnh một phần giá trị của TSTT được sử dụng làm tài sản thế chấp.
Thứ hai, hỗ trợ các hoạt động chứng khoán hóa TSTT. Chính phủ Singapore đã cung cấp một
chương trình bảo lãnh trị giá 100 triệu đô la Mỹ đối với các khoản vay liên quan TSTT được cấp
bởi các ngân hàng địa phương, nhằm giúp các doanh nghiệp phát triển và mở rộng kinh doanh
thông qua việc tiếp cận nguồn vốn từ các tổ chức tài chính.
Việt Nam có thể lập kế hoạch ngân sách phù hợp với tình hình tài chính quốc gia để khuyến
khích các tổ chức tài chính trong nước tham gia cấp vốn cho các khoản vay liên quan đến TSTT.
Ngoài ra, để thu hút các hoạt động quản lý quỹ SHTT, Chính phủ Việt Nam cần tăng cường các
phương thức tài trợ cho TSTT và tạo ra nhu cầu Spin-off(4) trong các lĩnh vực khác.
Thứ ba, về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, chính sách thuế đối với những doanh nghiệp tham gia
về TSTT cần được tạo động lực. Để khuyến khích phát triển và thương mại hóa TSTT, nên có
chính sách miễn thuế hai năm đầu và giảm thuế từ năm thứ 3 trở đi đối với các giao dịch dựa trên TSTT.
Thứ tư, hoàn thiện những quy định liên quan định giá TSTT để thúc đẩy quá trình nghiên cứu và
thực hành định giá nhằm hỗ trợ các giao dịch TSTT trong tương lai. Cùng với đó, xây dựng lOMoAR cPSD| 47708777
khuôn khổ pháp lý về TSTT và dữ liệu SHTT ngành để khuyến khích các hoạt động giao dịch
thương mại và giúp nâng cao tính minh bạch, sự chắc chắn trong các giao dịch TSTT. lOMoAR cPSD| 47708777