Lê Vân và những quan niệm về giới nữ Việt - Môn cơ sở văn hóa Việt Nam | Đại học Sư Phạm Hà Nội

Lê Vân và những quan niệm về giới nữ Việt - Môn cơ sở văn hóa Việt Nam | Đại học Sư Phạm Hà Nội ới những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống

Lê Vân và những quan niệm về giới nữ Việt
Le Van and Notions of Vietnamese Womanhood
John C. Schafer
Source: Journal of Vietnamese Studies, Vol. 5, No. 3 (Fall 2010), pp. 129-191
Nguyễn Trương Quý dịch (với sự hiệu đính của John C. Schafer và Cao Thị Như-Quỳnh)
Bản dịch rút gọn đã đăng trên tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 8-2013, của Viện Văn học (Viện
KHXH VN) với tên gọi: "Những quan niệm đương đại về giới nữ ở Việt Nam (Nhìn từ các văn
bản văn hóa quy chiếu quá trình sáng tạo tiếp nhận tự truyện Vân: Yêu Sống)".
Tác giả John C. Schafer là giáo văn chương, Đại học Humboldt, California, Mỹ. Ông đã viết
nhiều nghiên cứu về Phật giáo, văn học, âm nhạc Việt Nam, như về Trịnh Công Sơn. Năm 2012,
cuốn Trịnh Công Sơn Bob Dylan: Như trăng nguyệt? của ông (Cao Thị Như-Quỳnh dịch,
Cao Huy Thuần giới thiệu) đã in ở NXB Trẻ.
***
TÓM TẮT
Trong bài viết này tôi nghiên cứu các ý niệm về nữ giới ở Việt Nam bằng cách phân tích cuốn tự
truyện của Vân, một diễn viên nổi tiếng. Phương pháp tiếp cận của tôi, từ những nghiên cứu
văn học, liên văn bản: giả định rằng trong việc kể lại chuyện đời họ, các tác giả sẽ chắc
chắn gợi lên các “văn bản,” hay những định chế văn hóa, liên quan đến nam giới và nữ giới. Tôi
nhận diện, phân nhóm thảo luận một số văn bản liên quan đến nữ giới Lê Vân đã gợi lên
trong tự truyện của cô. Tôi tổng kết lại rằng những văn bản ấy ưu tiên cho đàn ông, chúng đã
khiến cho việc bình đẳng giới trở nên khó khăn để đạt được. Tuy vậy, ảnh hưởng của văn hóa
không quyết định đến hành vi, do đó sự tự vận động hành động một cách sáng tạo khả
thi, và tôi tìm thấy bằng chứng của nó trong .Lê Vân: Yêu và Sống
TỪ KHÓA: Lê Vân, nữ giới, tự truyện, bình đẳng giới, tính liên văn bản, nỗ lực
NỘI DUNG
Khi cuốn tự truyện của diễn viên điện ảnh Vân ra đời năm 2006, ngay Vân: Yêu Sống
lập tức trở thành một cuốn sách ăn khách, các quầy sách bán chạy như tôm tươi đến mức
lúc không còn quyển nào để bán.[1] Sau lần in đầu với mười ngàn bản bìa cứng đã bán hết, nhà
xuất bản mau mắn in loại bìa mềm rẻ hơn để chống lại sách lậu.
Điều đã khiến cuốn sách bán chạy đến thế? Một lý do đã lộ cuộc sống riêng của
một gia đình nghệ nổi tiếng. Cha của Vân diễn viên nổi tiếng Trần Tiến, mẹ Mai,
cùng hai người emi của Vân cũng đều những diễn viên được mến mộ.[2] Vân đóng
vai Duyên trong bộ phim , một bộ phim ra đời năm 1984 được đánhBao giờ cho đến tháng mười
giá cao, khuôn mặt u buồn của Duyên đã trở thành biểu tượng cho nỗi buồn hậu chiến của
Việt Nam.[3] Người Việt đã quen với các loại tin đồn về văn nghệ cuộc sống gia đình của
họ, nhưng việc một nghệ nổi tiếng phơi bày những chuyện không hay của mình cũng như gia
đình mình trước công chúng thì thật một chuyện rất mới mẻ gây sốc. Như người Việt vẫn
nói, “vạch áo cho người xem lưng” là một việc không nên làm.[4]
Vân, như chúng ta sẽ thấy, đã phơi ra không chỉ lưng của mình còn lưng của cha mẹ
cô nữa. Cô kể cha mẹ cô đã đối xử tệ với cô, và sự oán hận quyết liệt của cô gây sốc cho độc giả.
Một số chuyện không hay này có thể đã được gây ra do hoàn cảnh kinh tế tồi tệ ở miền Bắc trong
thời chiến và hậu chiến, vì vậy độc giả cũng đã chỉ trích Lê Vân đi ngược lại câu tục ngữ truyền
thống: “Con không chê cha mẹ khó; chó không chê chủ nghèo.”[5] Lại thêm một vấn đề nữa
Lê Vân là một kẻ làm tan cửa nát nhà chuyên nghiệp: cô kể lại ba mối tình, tất cả đều với những
người đàn ông lớn tuổi và đã có vợ con. Cả ba mối tình đều có kết cục khiến họ chia tay vợ và bỏ
gia đình. Như nhà báo Hồng Ny viết, những người đầu óc cởi mở thể hiểu tại sao Lê Vân
lại “bị tiếng sét ái tình một lần. Nhưng những ba lần?”[6] Tự truyện của cô đối với một số người
đã trở thành câu chuyện về việc cô đã cướp chồng của ba người phụ nữ ra sao. Sự thật về việc tất
cả những người yêu của đều đàn ông có vợ càng làm tăng thêm tính giật gân của tác phẩm
của cô.
Tuy nhiên được Nhà xuất bản Hội Nhà văn danh tiếng xuất bản, đã tạo nên một, Yêu Sống
cuộc tranh luận nghiêm túc giữa các nhà văn tên tuổi, trên báo chí và các diễn đàn trên mạng.[7]
Do dám viết ra một cách trung thực đến tàn nhẫn, như một số nhà văn nhận xét, Lê Vân đã cho
độc giả một bài học về lòng dũng cảm mà các nhà văn và quan chức nên noi theo. Mặc dù có vẻ
khai thác chuyện đời tư, những phẩm chất khác nữa: đã kể lại một hành trìnhYêu Sống
giàu cảm xúc trí tuệ đầy lôi cuốn. Đó câu chuyện của một người phụ nữ lớn lên một Hà
Nội trong thời chiến trưởng thành trong một môi trường kinh tế thiếu thốn cùng cực của Việt
Nam hậu chiến. Là một nghệ – đầu tiên là diễn viên múa rồi sau đó là diễn viên điện ảnh –
đã lăn lộn với nghề nghiệp của mình trong sự mất phương hướng trước sự chuyển đổi từ kinh tế
bao cấp sang kinh tế thị trường. Cha mẹ lấy nhau khi còn trẻ sớm sa vào một cuộc hôn
nhân bết bát, thế ngôi nhà của họ không còn nơi trú ngụ bình yên cho nữa. tìm kiếm
tình yêu, sự hiểu biết và lời khuyên bảo từ ba người đàn ông khác nhau, tất cả đều đã có gia đình,
suốt dọc hành trình đóvật lộn để trả lời câu hỏi đã được dùng làm tiêu đề cho chương thứ
nhất của cuốn sách: “Vân ơi, Vân là ai?”
Câu trả lời của Lê Vân trước câu hỏi đó, như dòng cuối cùng của cuốn sách, là “Tôi là tôi, là đàn
bà.” Trong những trang trước đó giải thích mình đã đến kết luận này như thế nào và, trong
quan điểm của mình, việc một người đàn nghĩa thế nào. mọi đất nước, ý thức về giới
nam nữ những ý niệm về giới được tạo nên bởi những hình ảnh, thành ngữ, những câu
chuyện, huyền thoại, thơ ca cả đức tin nữa. Những điều này, tôi sẽ gọi “văn bản” (text),
được dùng để diễn đạt lối hành xử hợp lệ cho cả nam lẫn nữ.[8] Khi một người kể chuyện về đời
mình, họ sẽ dùng những văn bản này để giải thích đôi lúc để đánh bóng hoặc biện minh
cho hành động của họ.[9] Do đó, tôi tin rằng những câu chuyện đời, bao gồm tự truyện hay hồi
được cấu trúc văn vẻ hơn, là những nơi để học hỏi về quan niệm nam nữ trong một nền văn
hóa. Trong bài viết này tôi sẽ phân tích vấn đề nữ giới qua tự truyện của Vân qua những
văn bản văn hóa xung quanh nó.
Dùng truyện đời của một nhân để khám phá cả một nếp sống hội một điều nguy hiểm.
Trong sự hăm hở tìm ra thông tin điển hình về một nền văn hóa, người ta có thể không chú ý
đánh giá cao những khía cạnh khác thường của câu chuyện đời đặc biệt của nhân vật đang được
nghiên cứu.[10] Nói cách khác, một người thể không chú ý đủ tới việc một câu chuyện đời
được dựng lên ra sao. Một điều nguy hiểm nữa là sự tự vận động (agency) bị bỏ quên, mà theo
William H. Sewell, đó một năng lực “để ham muốn, để tạo dựng ý đồ để hoạt động một
cách sáng tạo.”[11] Những nhà phê bình chủ nghĩa hậu cấu trúc những nhà nghiên cứu chịu
ảnh hưởng của họ đôi lúc cho ta cảm tưởng rằng những câu chuyện đời tự viết ra bởi chính
chúng, trong những câu chuyện đó tác giả không lên tiếng mà là ngôn ngữvăn hóa của người
ấy làm ra tác phẩm.[12] Tôi đồng ý với George Rosenwald Richard Ochberg, những người
chấp nhận những câu chuyện đời được “hình thành từ những hình thức mỗi nền văn hóa
sẵn” nhưng cũng những người cảnh báo chống lại việc tin chắc rằng chỉ nền văn hóa đó “lên
tiếng” trong những câu chuyện đời. Nếu tin chỉ tiếng nói của văn hóa thì rất dễ bỏ sót những
chỗ trong câu chuyện đời trong đó “ý chí nhân chống lại hình thức văn hóa.”[13] Trong
việc nghiên cứu , tôi sẽ cố gắng tránh những mối nguy này.Lê Vân: Yêu và Sống
Tôi đề cập đến “phụ nữ Việt Nam” trong bài viết, nhưng Lê Vân là người miền Bắc, một vùng có
một lịch sử khác với miền Nam Việt Nam. Ý thức hệ thực tiễn hội chủ nghĩa đã được phổ
biến miền Bắc sớm hơn miền Nam, nơi chủ nghĩa nhân nhu cầu trao đổi hàng hóa
được nhìn nhận.[14] Trong phạm vi quan hệ gia đình, một số nhà nghiên cứu tin rằng miền Bắc
tính cách Đông Á hơn và phụ hệ hơn, và miền Nam thìtính cách Đông Nam Á hơn và cởi
mở hơn về bình đẳng giới.[15] Mặc khác biệt nam bắc một chủ đề hấp dẫn, bài viết này
không chú trọng đến vấn đề này. Phụ nữ cả hai miền đều chịu ảnh hưởng bởi những văn bản
giống hoặc tương đương nhau và những văn bản này là mục tiêu của bài phân tích của tôi.
Tại sao tôi lại lấy tự truyện của một diễn viên – một diễn viên múa/điện ảnh – làm nguồn tư liệu
chính của mình? Chẳng phải những diễn viên nổi tiếng là những người không điển hình hay sao?
Đúng người Việt trong truyền thống thường coi họ như những thành viên hạ cấp của hội,
hầu như bị đặt ở ngoài thang bậc xã hội. “Xướng ca vô loại” là một câu nói quen thuộc.[16] Nền
khoa cử hành chính ở Việt Nam, chấm dứt từ năm 1919, được mở ra cho tất cả mọi người trừ phụ
nữ con hát.[17] Tuy nhiên, nước Việt Nam hiện đại, diễn viên phục vụ đất nước được tôn
trọng, dầu sao tôi cũng không ý nói Vân biểu tượng cho mọi phụ nữ Việt Nam. Tôi
chỉ muốn nhận định rằng chuyện đời của phản ánh những văn bản người Việt theo đó để
dựng nên quan điểm của họ về nữ giới. Tôi cũng một do khác để chọn cuốn tự truyện này.
Trong những bộ phim được những người đàn ông viết đạo diễn, Vân thường đóng vai
những phụ nữ đại diện cho những giá trị đức hạnh nữ tính truyền thống như chung thủy, chịu
đựng và hi sinh. Cuộc đời của cô do đó trình bày rất rõ ràng cách chúng ta “viết” cũng như “đọc”
những văn bản như thế nào để tạo ra những quan niệm của chúng ta về giới nam và nữ.
Trước tiên tôi sẽ đưa ra một cái nhìn bao quát về cuốn tự truyện của Lê Vân và sau đó sẽ nêu lên
những văn bản liên quan đến vấn đề giới nữ mà cô gợi lên trong khi kể chuyện đời mình. Tôi nói
“gợi lên” thay“trích dẫn” bởitôi phân tích không chỉ những văn bản Lê Vân trích dẫn
dụ một số câu trong Truyện Kiều còn cả những văn bản Roland Barthes gọi “trích dẫn
không có dấu ngoặc kép”: những ám chỉ bằng thành ngữ và châm ngôn và những tập tục văn hóa
không rõ nguồn gốc.[18] Tôi phân nhóm những vấn đề gợi lên trong dưới 5 đầu đề:Yêu và Sống
(1) Những huyền thoại về Mẫu hệNgười nội tướng, (2) Tiết hạnh, (3) Tứ đức, (4) Hi sinh,
(5) Lãng mạn Định mệnh. Luận giải của tôi gồm hai phần. Thứ nhất, tôi đưa ra ý kiến rằng
những văn bản này một hệ thống đan xen duy trì quyền lợi của đàn ông hạn chế quyền lợi
của đàn bà. Nóich khác, những văn bản này ủng hộ một hệ thống phụ hệ. Nhưng tôi cũng
nhận xét rằng tự truyện của Vân cho thấy những hạn chế đó, sự tự vận động của
nhân vẫn chỗ đứng. Việc xóa bỏ chế độ “bao cấp” thay vào đó bằng một nền kinh tế thị
trường tạo ra những khó khăn cho phụ nữ, nhưng cũng đem lại cho họ những hội. Câu
chuyện cuộc đời Lê Vân cho thấy một phụ nữ Việt Nam ở miền Bắc có đủ sức mạnh để tạo dựng
đời mình mà những thế hệ phụ nữ Việt Nam trước đó không có được.
Tổng quan
Vân một tuổi thơ không hạnh phúc. Cha mẹ lấy nhau lúc khoảng 20 tuổi, sau đó ba
đứa con nuôi nấng chúng trong thời gian chiến tranh chống Mỹ. Cả bố lẫn mẹ đều diễn
viên, thế Vân nhiều khi phải trại trẻ, chỉ về nhà vào dịp cuối tuần. Khi Mỹ bắt đầu ném
bom, người già trẻ con phải tán khỏi Nội, Vân em gái Khanh sống một
trại do đoàn kịch của bố mẹ quản lý, cách thành phố khoảng 20 cây số. Khi cô lên chín hay mười
thì bố mẹ đăng vào một trường múa theo hình Xô-viết sống trong túc
trường này. Lê Vân dùng từ “hành xác” để nói về bảy năm khổ luyện học tập để trình diễn các vở
balê cổ điển như Hồ Thiên Nga, Giselle Spartacus.[19]
Lê Vân cho rằng điều thật sự khiến cô buồn không phải là sự vất vả của trường múa mà là những
vụ xô xát của bố mẹcuối cùng là vụ ly dị. Bố mẹ cô, như cô kể, quá mải mê hành hạ nhau và
cố xoay xở kiếm sống mà khôngthời gian để thương yêu cô. Khu vực sinh sống chật hẹp của
họ cả nhà trong một căn phòng trong một biệt thự đến 60 người chỉ có một nhà vệ
sinh – làm trầm trọng thêm tình trạng. Mặc dù buộc tội mẹ đã lạnh nhạt với mình, cô dành sự phê
phán nặng nề nhất cho người cha. Lê Vân đổ tội cho những người tình của ông. “Đặc biệt, bố rất
duyên trong mắt phái đẹp,” kể, “những con thiêu thân lao vào bố không cần tính toán, chỉ
cần dâng hiến. Hết người đàn bà này đến người đàn bà khác.”[20] Cô cũng đổ tội cho sự đạo đức
giả của ông, cách ông tỏ ra lạnh lẽo và xa cách với chị em cô nhà nhưng lại hào hoa phóng
khoáng khi nhiều người ngoài vây quanh.[21]
Khi lớn lên, Vân nhận ra rằng cha mình phải chịu đựng việc “một nghệ tài ba nhưng
không nuôi nổi bản thân mình đừng nói đến nuôi nổi vợ con.”[22] thề mình sẽ không bao
giờ yêu và lấy một nghệ sĩ khổ sở như bố. Thật trớ trêu, người tình đầu của cô lại là một nghệ sĩ
những nét phần nào giống bố cô. Cũng như cha cô, ông ta phải vật lộn để sống bằng đồng
lương chết đói nhà nước trả cho. Ông cũng không thể làm ăn thêm tạo dựng được một
cuộc sống khả dĩ trong nền kinh tế thị trường.
gặp người tình đầu tiên này, một ngườigọi là “Người ấy” vào năm 1979, hai năm sau khi
trở thành một diễn viên múa của Nhà hát Nhạc kịch.[23] Ôngmột công chức nhà nước,
một người giám sát các hoạt động văn hóa. Cô chú ý đến ông nhân một hôm ông đến thăm đoàn
balê của cô. Ông nổi bật giữa những người khác, một người “ở độ tuổi trung niên, với mái tóc đã
điểm bạc, dáng thư sinh nghệ sĩ, nom ông nổi bật một cách khác thường giữa những người xung
quanh.”[24] Vân lúc ấy vừa bước sang tuổi 20. Ông gấp đôi tuổi cô. Ông đến bên tự
giới thiệu, nói rằng ông biết cha cô. Sau đó, ông đề nghị cô gặp ông ở một nơi ven thành phố
họ nói chuyện hay đúng hơn ông nói lắng nghe những ông rót vào tai về khát
vọng của ông về nghệ thuật về gia đình riêng của ông. “Tôi mình như một trang giấy
trắng,” cô kể, “chờ anh, người nghệ sĩ gấp đôi tuổi tôi, viết lên đó những bài học đầu tiên.”[25]
Những cuộc hẹn những nơi vắng vẻ trong bóng tối quanh thành phố tiếp tục, biết
thêm về ông. Lê Vân ấn tượng trước cách ông sắp xếp cuộc sống gia đình, trước người vợ đẹp và
hai đứa con của ông, trước căn hộ được thiết kế tiện nghi trang bị xinh xắn của ông với
phòng ngủ riêng biệt, nhà tắm nhỏ xíu nhưng sạch sẽ, tủ lạnh, đàn dương cầm kệ sách chất
đầy sách – một “thiên đường trí thức” như cô gọi nó.[26] Cô biết về cuộc sống ở nhà của ông do
ông dẫn về giới thiệu với vợ các con. Khi mối quan hệ mười năm trời với Người ấy đã
kéo quá dài, Lê Vân nhận ra rằng ông là một người trí thức, cuộc sống gia đình của ông chính
không phải thiên đường trí thức chút nào. Trí thức không thể nào tồn tại nổi bằng đồng lương
còm cõi nhà nước trả cho họ. Ngoài việc thi thoảng viết một bài báo, ông không biết kiếm
chác hay làm ăn để tăng thêm thu nhập. Lê Vân nhận thấy những vấn đề kinh tế đang tổn hại đến
hôn nhân của ông.[27] “Người vợ quá vất vả phải bươn chải,” kể, “trong khi người chồng
chỉ nghệ thuật hàn lâm đi mây về gió.”[28] Trong khi đó, nhờ vào thu nhập nghề diễn, Lê Vân đã
thành công trong việc “cởi trói” cho bản thân: cô đạt được cả mục tiêu an toàn tài chính lẫn tự do
nghệ thuật tự do trong việc chỉ đóng những phim thích, với những đạo diễn kính trọng.
[29]
Vân gặp người tình tiếp theo vào năm 1988 khi Sài Gòn đợi thị thực đi Paris để đóng
trong một bộ phim, Người ấy Hà Nội đang làm đơn ly dị để thể cưới cô. Người tình thứ
hai này là một Việt kiều Canada. Thực tế thì anh ta là người lai Pháp, và khi Lê Vân gặp anh,
nghĩ anh một ông Tây rồi ngạc nhiên khi thấy anh nói tiếng Việt rất sõi. Anh tổ chức tour
du lịch đưa Việt kiều về thăm quê. Người Việt kiều này mà Lê Vân gọi là “Chàng lãng tử,” đã bố
trí cuộc gặp gỡ. Anh muốn được gặp ngôi sao đã đóng vai Duyên trong phim Bao giờ cho đến
tháng mười và nhờ vợ chồng một người bạn mời cả anh và Lê Vân đến nhà họ ăn tối.
Trong lời kể của Lê Vân về những tuần đầu tiên gặp nhau, thật khó tách rời sức hấp dẫn đặc biệt
của chàng khỏi sự ngưỡng mộ rộng lớn hơn nơi đối với sự tự do của Sài Gòn miền Nam,
nơi mà Chàng lãng tử, vốn có gia đình xuất xứ Quảng Nam, là đại diện. Cô đối chiếu “Kẻ sĩ Bắc
Hà” của mình những cuộc hẹn trong những nơi khuất nẻo của Nội với “Lãng tử Sài
Gòn,” người đưa đi khắp nơi giữa thanh thiên bạch nhật trong bầu không khí tự do hơn hẳn
của miền Nam. “Yêu chàng,” kể, “tôi như , như người đang bị cầm người bị sốc ánh sáng
nơi bóng tối lưu cữu đọng… được sổ lồng tung cánh bay vào một thế giới tự do công
khai.”[30] Trước khi Vân rời Nội, người tình miền Bắc của đã cảnh báo nên cẩn
thận: “Sài Gòn nhiều cám dỗ lắm, nhiều cái dễ làm người ta sa ngã lắm.”[31] Cô – thật ngây thơ,
như thừa nhận đã nhờ Chàng lãng tử giúp đừng để mình sa ngã với anh ta. Tuy vậy kết
cục thì cô không kháng cự nổi sức mê hoặc của Sài Gòn và cô đã “chính thức sa ngã.”[32]
Khi phải lòng Chàng lãng tử, nôn nóng muốn vứt bỏ những rào cản bắt đầu sống độc
lập hơn. Tuy vậy, sau khi cưới anh ta vài năm, cô lại cảm thấy bị bó buộc trở lại – không phải vì
Chàng lãng tử cứ nhắc cô phải có nữ tính hơn và hành xử như một người phụ nữ đúng mực trong
một gia đình văn hóa, như người tình đầu đã làm, anh muốn xử sự như một người
đàn ông![33] Như Vân kể, sự lãng mạn biến mất khỏi quan hệ của họ khi Chàng lãng tử bắt
đầu la quán xá, bỏ mặc làm mọi việctin đó là việc của một người đàn ông những
việc như xử lý quan hệ với công an, vay tiền, trả thuế, sửa chữa nhà cửa – thậm chí đi xin gia hạn
cư trú . Chàng lãng tử rõ ràng không phải là người đàn ông có khả năng làm cho cô trởcho anh ta
thành người phụ nữ như ý cô muốn.
đã tìm ra được người đàn ông này, nhưng anh ta không phải người Việt cũng không phải
Việt kiều. Người tình tiếp theo một người Lan gốc Indonesia làm việc cho một tổ chức
lương thực quốc tế.[34] Abraham, hay “Bram” như gọi, để ý đến khi múa trên nền xi
măng của Bảo tàng Quân đội trong một cuộc triển lãm và tiệc cốc-tai do một quan Hà Lan tổ
chức để cổ động cho mẫu nhà chống lũ. Sau đó anh mời cô tham dự một chương trình quyên tiền
cho một quỹ từ thiện giúp trẻ em họ trở nên gắn bó. Abraham hơn Vân bảy tuổi đã
một vợ cùng hai con ở Hà Lan, cô thì đã ly thân nhưng vẫn còn giá thú với Chàng lãng tử; vì thế
lại rơi vào việc dan díu với chồng của một người khác phản bội người đàn ông yêu mình.
Lần thứ ba nàymột tình yêu đam mê đối với cô, tuyvà Abraham không kết hôn, nhưng họ
vẫn có hai đứa con, đều sinh ra ở Hà Nội – Avi năm 1997 và Adam năm 2001.
Trong những đoạn dẫn đến câu kết cuốn sách, “Tôi tôi, đàn bà,” Vân cắt nghĩa về kiểu
phụ nữ hiện đang hay ít nhất kiểu phụ nữ muốn. Mặc dùng từ “bình
thường” thay từ “truyền thống,” ràng nhận thấy bản thân mình đang quay trở về với
hình mẫu phụ nữ rất rất Á Đông. “Tôi thèm được người đàn bình thường lắm,”
nói. “Trong tâm can lúc nào cũng chỉ muốn làm một người vợ đúng nghĩa: hiền hậu, hết lòng với
gia đình chồng con. Đó những phẩm chất của phụ nữ Á đông tôi đã ‘bị ngấm’ từ khi nào
không rõ.”[35]
Lê Vân nói cô muốn một người đàn “bình thường” chứ không phải là “truyền thống” lẽ
biết việc mình phê phán cha mẹ, ngoại tình với chồng người khác, con ngoài giá thú
với một người nước ngoài không hề lối xử truyền thống. Sự thật rằng những nhân
khác thường như Vân vẫn hướng đến những giá trị nữ tính truyền thống chứng minh sức
mạnh của những giá trị truyền thống này hãy còn ảnh hưởng đến hội đương đại Việt Nam.
Bây giờ chúng ta sẽ chuyển sang một số văn bản văn hóa nằm ẩn bên dưới những quan niệm
truyền thống này.
Huyền thoại về Mẫu hệ và Người nội tướng
Các nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng phụ nữ Đông Nam Á đóng vai trò quan trọng trong hội,
dụ như họ chia sẻ công việc nông nghiệp quan trọng với đàn ông; con gái cũng được thừa kế
gia tài như con trai; sau khi lấy nhau, dâu chú rể không bị bắt buộc phải sống gần hoặc
cùng với bố mẹ chồng. Học giả nào nhắc đến địa vị cao của phụ nữ Đông Nam Á được cho
ủng hộ “thuyết tự chủ” (autonomy hypothesis).[36] Áp dụng thuyết này vào Việt Nam sẽ gây ra
vấn đề bởi vì Việt Nam chịu ảnh hưởng của Khổng giáo, một hệ tư tưởng rất phụ hệ. Nhưng một
số học giả, cả Việt Nam lẫn Tây phương, đều nhận định Việt Nam cổ đại là một xã hội mẫu hệ và
địa vị của người phụ nữ đây cao hơn so với Trung Hoa, điều đó cho thấy sự bền vững của
những đặc tính “Đông Nam Á” hàng thế kỷ Bắc thuộc vẫn không thể tiêu diệt được. Tuyên
bố rằng họ đối xử với phụ nữ tốt hơn một cách để người Việt nhấn mạnh đặc tính Việt của
mình và tạo ra sự độc lập về văn hóa đối với Trung Hoa.
Một đặc tính Đông Nam Á khác tồn tại ở Việt Nam là “sự tương thuận” (complementarity), được
phản ảnh trong phong tục vợ chồng chia sẻ lao động khá đồng đều.[37] Tục ngữ Việt Nam
thường nhắc đến phong tục này: “Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa” “Thuận vợ thuận chồng
tát bể đông cũng cạn”. Một dụ khác về sự tương thuận Việt Nam truyền thống người vợ
hoạt động như một vị nội tướng trong khi ông chồng lo việc quan hệ đối ngoại. Theo truyền
thống này, vì người nội tướng, vợ trở thành người tay hòm chìa khóa ra các quyết định
trong việc quản nhà cửa. Trách nhiệm của người chồng đi làm bên ngoài coi như không
liên quan gì đến công việc tề gia.[38]
Khi sống ở Việt Nam, tôi rất ngạc nhiên vì nhiều lần cánh đàn ông đã dùng từ ẩn dụ “nội tướng”
này để mô tả quyền lực của phụ nữ trong gia đình, thường thường để nói rằng bất bình đẳng giữa
hai giới không phải là một vấn đề ở Việt Nam. Nhiều học giả cũng đề cập đến lối ẩn dụ này, giúp
thêm bằng chứng rằng ẩn dụ này được phổ biến khá rộng rãi ở Việt Nam.[39] Sự phân công hai
trách nhiệm nội tướng ngoại giao này chứng tỏ rằng văn hóa Việt Nam tính cách “tương
thuận” của Đông Nam Á[40] nhưng cũngthể được xem nhưphản ảnh củatưởng Khổng
giáo. Trong gia đình Khổng giáo, phụ nữ được dạy các kỹ năng nội trợ - ví dụ nấu ăn, thêu thùa,
may vậy họ thể điều hành việc nhà; đàn ông được đào tạo theo đuổi các mục tiêu tri
thức để có thể đảm nhiệm các quan hệ hướng ngoại trong cộng đồng và quốc gia.[41]
đúng nhiều người chồng Việt Nam để cho vợ nắm tài chính gia đình quản nhà cửa,
điều quan trọng là ta phải thấy rằng đàn ông được ưu thế trong sự phân công này. Bằng việc san
sẻ một ít quyền lực, đàn ông gặt hái được rất nhiều lợi tức. Khi nói đến việc chăm lo gia đình,
người ta sẽ nói anh ta “vui vẻ đầu hàng” trách nhiệm hơn là nói anh ta “nhượng bộ” trách nhiệm.
Để cho đàn bà làm mọi việc nhà nhàm chán trong khi đàn ông được theo đuổi sự nghiệp có thể là
một kiểu “tương thuận,” nhưng thật khó nói công bằng. Đóng vai trò của một vị “nội
tướng,” như Wendy Duong chỉ ra, “nghĩa việc gì trong gia đình cũng đến tay người vợ để cho
ông chồng tự do theo đòi những điều ‘cao quý’ khác, như thơ phú hay các sở thích văn
hóa.”[42] Stephen O’Harrow viết rằng Việt Nam, “tột đỉnh của người đầy nam tính
(machismo) không phải một thứ đàn ông ưa hành hạ đàn theo kiểu Địa Trung Hải
một thứ đàn ông biếng lười đầy lịch lãm mà đàn bà phải chịu thiệt thòi.”[43]
Cả bố và Chàng lãng tử, chồng Lê Vân, đều thể hiện đặc tính người đầy nam tính kiểu Việt Nam
này. Theo Vân, bố thoải mái với sự biếng nhác cũng không giao tài chính trong nhà
cho vợ. Cô kể rằng mẹ cô không kiểm soát tài chính của gia đình. Mẹ cô phải bảo Lê Vân và các
em gái nhắc bố đưa tiền mua cái ăn.[44] Trong khi đó, Vân kể, khi ông bên bàn nhậu với
bạn bè, ông trở thành trung tâm của những bữa nhậu đó.[45] Với Chàng lãng tử, Vân kể vào
thời kỳ đầu của mối quan hệ, cô ngưỡng mộ anh vì anh đưa hết tiền cho vợ ở Canada bởi vì điều
đó chứng tỏ anh đã đặt niềm tin vào (Lê Vân) một cách điều kiện. kể: “Về kinh tế,
kiếm được chút tiền bạc nào lại đưa hết cho vợ. Khi anh muốn về Việt Nam, anh cứ việc tay
trắng mà ra đi.”[46] Cô coi điều này ở anh là “điều đáng quý nhất.”
Tuy vậy, sau khi Vân cưới Chàng lãng tử, trở nên mệt mỏi sự tâm của anh, về thói
quen la quán xá, bỏ mặc tự xoay xở không những chỉ việc nhà cửa, những việc
hứng thú làm, còn cả những việc giao tiếp bên ngoài hội. không thích mình vừa làm
nội tướng lại vừa lo cả chuyện chủ sự việc bên ngoài. Vì quá quen thuộc với sự phân công nhiệm
vụ giữa đàn ông đàn bà, rất bực mình khi phải cáng đáng những nhiệm vụ “đàn ông” như
việc phải quan hệ với các viên chức chính quyền. Tại sao mình cứ phải làm đàn ông trong khi
đã chồng? Bao giờ mình mới được làm một người đàn thực sự đàn đây? tự hỏi:
(in nghiêng nhấn mạnh trong nguyên bản).[47] Nếu một người chồng khả năng vui
lòng làm “thủ lĩnh”gia đình thì cô sẽ vui lòng từ bỏ sự nghiệp của mình để trở thành một bà nội
trợ: “Giá mình một người đàn ông như thế, mình sẵn sàng buông xuôi hết, giã từ hết để
được làm một người phụ nữ Việt Nam với đúng chức năng nội trợ trong nhà.”[48] Abraham,
người tình Lan gốc Indonesia của cô, đã trở thành “thủ lĩnh” để cho trở thành một nội
trợ Việt Nam như vậy.
Ý niệm về người nội tướng cũng giải thích tại sao Vân cho rằng những thành công của
bên ngoài gia đình trong cương vị một nữ diễn viên, là do tính khí “dương nữ” của cô.[49] Trong
gia đình kiểu Khổng giáo, người đàn ông thường vẫy vùng ngoài hội để mưu cầu danh vọng
mưu sinh để nuôi sống gia đình. Vân đã đạt được danh vọng ấy nhưng rồi đã từ bỏ sự
nghiệp điện ảnh của mình ngay trong lúc đang đỉnh cao. đưa ra các do như thu nhập
thấp, không có mấy đạo diễn giỏi, nghi ngờ về năng lực bản thân, nhưng một lý dolẽ rõ ràng
nhất là để thành công trên phim ảnh phải vận dụng “tính khí đàn ông” quá nhiều trong khi cô
chỉ muốn trở thành một người phụ nữ, một phụ nữ Việt Nam truyền thống chỉ biết quán xuyến
việc nhà.
| 1/58

Preview text:

Lê Vân và những quan niệm về giới nữ Việt
Le Van and Notions of Vietnamese Womanhood John C. Schafer
Source: Journal of Vietnamese Studies, Vol. 5, No. 3 (Fall 2010), pp. 129-191
Nguyễn Trương Quý dịch (với sự hiệu đính của John C. Schafer và Cao Thị Như-Quỳnh)
Bản dịch rút gọn đã đăng trên tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 8-2013, của Viện Văn học (Viện
KHXH VN) với tên gọi: "Những quan niệm đương đại về giới nữ ở Việt Nam (Nhìn từ các văn
bản văn hóa quy chiếu quá trình sáng tạo và tiếp nhận tự truyện Lê Vân: Yêu và Sống)".
Tác giả John C. Schafer là giáo sư văn chương, Đại học Humboldt, California, Mỹ. Ông đã viết
nhiều nghiên cứu về Phật giáo, văn học, âm nhạc Việt Nam, như về Trịnh Công Sơn. Năm 2012,
cuốn Trịnh Công Sơn – Bob Dylan: Như trăng và nguyệt? của ông (Cao Thị Như-Quỳnh dịch,
Cao Huy Thuần giới thiệu) đã in ở NXB Trẻ. *** TÓM TẮT
Trong bài viết này tôi nghiên cứu các ý niệm về nữ giới ở Việt Nam bằng cách phân tích cuốn tự
truyện của Lê Vân, một diễn viên nổi tiếng. Phương pháp tiếp cận của tôi, từ những nghiên cứu
văn học, là liên văn bản: nó giả định rằng trong việc kể lại chuyện đời họ, các tác giả sẽ chắc
chắn gợi lên các “văn bản,” hay những định chế văn hóa, liên quan đến nam giới và nữ giới. Tôi
nhận diện, phân nhóm và thảo luận một số văn bản liên quan đến nữ giới mà Lê Vân đã gợi lên
trong tự truyện của cô. Tôi tổng kết lại rằng những văn bản ấy ưu tiên cho đàn ông, chúng đã
khiến cho việc bình đẳng giới trở nên khó khăn để đạt được. Tuy vậy, ảnh hưởng của văn hóa
không quyết định đến hành vi, và do đó sự tự vận động – hành động một cách sáng tạo – là khả
thi, và tôi tìm thấy bằng chứng của nó trong .
Lê Vân: Yêu và Sống
TỪ KHÓA: Lê Vân, nữ giới, tự truyện, bình đẳng giới, tính liên văn bản, nỗ lực NỘI DUNG
Khi cuốn tự truyện Lê Vân: Yêu và của Sống
diễn viên điện ảnh Lê Vân ra đời năm 2006, ngay
lập tức nó trở thành một cuốn sách ăn khách, các quầy sách bán chạy như tôm tươi đến mức có
lúc không còn quyển nào để bán.[1] Sau lần in đầu với mười ngàn bản bìa cứng đã bán hết, nhà
xuất bản mau mắn in loại bìa mềm rẻ hơn để chống lại sách lậu.
Điều gì đã khiến cuốn sách bán chạy đến thế? Một lý do là nó đã hé lộ cuộc sống riêng tư của
một gia đình nghệ sĩ nổi tiếng. Cha của Lê Vân là diễn viên nổi tiếng Trần Tiến, mẹ là Lê Mai,
cùng hai người em gái của Lê Vân cũng đều là những diễn viên được mến mộ.[2] Lê Vân đóng
vai Duyên trong bộ phim Bao giờ cho đến tháng ,
mười một bộ phim ra đời năm 1984 được đánh
giá cao, và khuôn mặt u buồn của Duyên đã trở thành biểu tượng cho nỗi buồn hậu chiến của
Việt Nam.[3] Người Việt đã quen với các loại tin đồn về văn nghệ sĩ và cuộc sống gia đình của
họ, nhưng việc một nghệ sĩ nổi tiếng phơi bày những chuyện không hay của mình cũng như gia
đình mình trước công chúng thì thật là một chuyện rất mới mẻ và gây sốc. Như người Việt vẫn
nói, “vạch áo cho người xem lưng” là một việc không nên làm.[4]
Và Lê Vân, như chúng ta sẽ thấy, đã phơi ra không chỉ lưng của mình mà còn lưng của cha mẹ
cô nữa. Cô kể cha mẹ cô đã đối xử tệ với cô, và sự oán hận quyết liệt của cô gây sốc cho độc giả.
Một số chuyện không hay này có thể đã được gây ra do hoàn cảnh kinh tế tồi tệ ở miền Bắc trong
thời chiến và hậu chiến, vì vậy độc giả cũng đã chỉ trích Lê Vân đi ngược lại câu tục ngữ truyền
thống: “Con không chê cha mẹ khó; chó không chê chủ nghèo.”[5] Lại thêm một vấn đề nữa là
Lê Vân là một kẻ làm tan cửa nát nhà chuyên nghiệp: cô kể lại ba mối tình, tất cả đều với những
người đàn ông lớn tuổi và đã có vợ con. Cả ba mối tình đều có kết cục khiến họ chia tay vợ và bỏ
gia đình. Như nhà báo Hồng Ny viết, những người có đầu óc cởi mở có thể hiểu tại sao Lê Vân
lại “bị tiếng sét ái tình một lần. Nhưng những ba lần?”[6] Tự truyện của cô đối với một số người
đã trở thành câu chuyện về việc cô đã cướp chồng của ba người phụ nữ ra sao. Sự thật về việc tất
cả những người yêu của cô đều là đàn ông có vợ càng làm tăng thêm tính giật gân của tác phẩm của cô. Tuy nhiên, Yêu và được Sống
Nhà xuất bản Hội Nhà văn danh tiếng xuất bản, đã tạo nên một
cuộc tranh luận nghiêm túc giữa các nhà văn tên tuổi, trên báo chí và các diễn đàn trên mạng.[7]
Do dám viết ra một cách trung thực đến tàn nhẫn, như một số nhà văn nhận xét, Lê Vân đã cho
độc giả một bài học về lòng dũng cảm mà các nhà văn và quan chức nên noi theo. Mặc dù có vẻ
khai thác chuyện đời tư, Yêu và Sống
những phẩm chất khác nữa: nó đã kể lại một hành trình
giàu cảm xúc và trí tuệ đầy lôi cuốn. Đó là câu chuyện của một người phụ nữ lớn lên ở một Hà
Nội trong thời chiến và trưởng thành trong một môi trường kinh tế thiếu thốn cùng cực của Việt
Nam hậu chiến. Là một nghệ sĩ – đầu tiên là diễn viên múa rồi sau đó là diễn viên điện ảnh – cô
đã lăn lộn với nghề nghiệp của mình trong sự mất phương hướng trước sự chuyển đổi từ kinh tế
bao cấp sang kinh tế thị trường. Cha mẹ cô lấy nhau khi còn trẻ và sớm sa vào một cuộc hôn
nhân bết bát, vì thế ngôi nhà của họ không còn là nơi trú ngụ bình yên cho cô nữa. Cô tìm kiếm
tình yêu, sự hiểu biết và lời khuyên bảo từ ba người đàn ông khác nhau, tất cả đều đã có gia đình,
và suốt dọc hành trình đó cô vật lộn để trả lời câu hỏi đã được dùng làm tiêu đề cho chương thứ
nhất của cuốn sách: “Vân ơi, Vân là ai?”
Câu trả lời của Lê Vân trước câu hỏi đó, như dòng cuối cùng của cuốn sách, là “Tôi là tôi, là đàn
bà.” Trong những trang trước đó cô giải thích mình đã đến kết luận này như thế nào và, trong
quan điểm của mình, việc là một người đàn bà nghĩa là thế nào. Ở mọi đất nước, ý thức về giới
nam và nữ – những ý niệm về giới – được tạo nên bởi những hình ảnh, thành ngữ, những câu
chuyện, huyền thoại, thơ ca và cả đức tin nữa. Những điều này, tôi sẽ gọi là “văn bản” (text),
được dùng để diễn đạt lối hành xử hợp lệ cho cả nam lẫn nữ.[8] Khi một người kể chuyện về đời
mình, họ sẽ dùng những văn bản này để giải thích – và đôi lúc để đánh bóng hoặc biện minh –
cho hành động của họ.[9] Do đó, tôi tin rằng những câu chuyện đời, bao gồm tự truyện hay hồi
ký được cấu trúc văn vẻ hơn, là những nơi để học hỏi về quan niệm nam nữ trong một nền văn
hóa. Trong bài viết này tôi sẽ phân tích vấn đề nữ giới qua tự truyện của Lê Vân và qua những
văn bản văn hóa xung quanh nó.
Dùng truyện đời của một cá nhân để khám phá cả một nếp sống xã hội là một điều nguy hiểm.
Trong sự hăm hở tìm ra thông tin điển hình về một nền văn hóa, người ta có thể không chú ý và
đánh giá cao những khía cạnh khác thường của câu chuyện đời đặc biệt của nhân vật đang được
nghiên cứu.[10] Nói cách khác, một người có thể không chú ý đủ tới việc một câu chuyện đời
được dựng lên ra sao. Một điều nguy hiểm nữa là sự tự vận động (agency) bị bỏ quên, mà theo
William H. Sewell, đó là một năng lực “để ham muốn, để tạo dựng ý đồ và để hoạt động một
cách sáng tạo.”[11] Những nhà phê bình chủ nghĩa hậu cấu trúc và những nhà nghiên cứu chịu
ảnh hưởng của họ đôi lúc cho ta cảm tưởng rằng những câu chuyện đời tự viết ra bởi chính
chúng, trong những câu chuyện đó tác giả không lên tiếng mà là ngôn ngữ và văn hóa của người
ấy làm ra tác phẩm.[12] Tôi đồng ý với George Rosenwald và Richard Ochberg, những người
chấp nhận những câu chuyện đời được “hình thành từ những hình thức mà mỗi nền văn hóa có
sẵn” nhưng cũng là những người cảnh báo chống lại việc tin chắc rằng chỉ nền văn hóa đó “lên
tiếng” trong những câu chuyện đời. Nếu tin chỉ có tiếng nói của văn hóa thì rất dễ bỏ sót những
chỗ trong câu chuyện đời mà trong đó “ý chí cá nhân chống lại hình thức văn hóa.”[13] Trong
việc nghiên cứu Lê Vân: Yêu và Sống, tôi sẽ cố gắng tránh những mối nguy này.
Tôi đề cập đến “phụ nữ Việt Nam” trong bài viết, nhưng Lê Vân là người miền Bắc, một vùng có
một lịch sử khác với miền Nam Việt Nam. Ý thức hệ và thực tiễn xã hội chủ nghĩa đã được phổ
biến ở miền Bắc sớm hơn miền Nam, nơi mà chủ nghĩa cá nhân và nhu cầu trao đổi hàng hóa
được nhìn nhận.[14] Trong phạm vi quan hệ gia đình, một số nhà nghiên cứu tin rằng miền Bắc
có tính cách Đông Á hơn và phụ hệ hơn, và miền Nam thì có tính cách Đông Nam Á hơn và cởi
mở hơn về bình đẳng giới.[15] Mặc dù khác biệt nam bắc là một chủ đề hấp dẫn, bài viết này
không chú trọng đến vấn đề này. Phụ nữ ở cả hai miền đều chịu ảnh hưởng bởi những văn bản
giống hoặc tương đương nhau và những văn bản này là mục tiêu của bài phân tích của tôi.
Tại sao tôi lại lấy tự truyện của một diễn viên – một diễn viên múa/điện ảnh – làm nguồn tư liệu
chính của mình? Chẳng phải những diễn viên nổi tiếng là những người không điển hình hay sao?
Đúng là người Việt trong truyền thống thường coi họ như những thành viên hạ cấp của xã hội,
hầu như bị đặt ở ngoài thang bậc xã hội. “Xướng ca vô loại” là một câu nói quen thuộc.[16] Nền
khoa cử hành chính ở Việt Nam, chấm dứt từ năm 1919, được mở ra cho tất cả mọi người trừ phụ
nữ và con hát.[17] Tuy nhiên, ở nước Việt Nam hiện đại, diễn viên phục vụ đất nước được tôn
trọng, và dầu sao tôi cũng không có ý nói Lê Vân là biểu tượng cho mọi phụ nữ Việt Nam. Tôi
chỉ muốn nhận định rằng chuyện đời của cô phản ánh những văn bản mà người Việt theo đó để
dựng nên quan điểm của họ về nữ giới. Tôi cũng có một lý do khác để chọn cuốn tự truyện này.
Trong những bộ phim được những người đàn ông viết và đạo diễn, Lê Vân thường đóng vai
những phụ nữ đại diện cho những giá trị đức hạnh nữ tính truyền thống như chung thủy, chịu
đựng và hi sinh. Cuộc đời của cô do đó trình bày rất rõ ràng cách chúng ta “viết” cũng như “đọc”
những văn bản như thế nào để tạo ra những quan niệm của chúng ta về giới nam và nữ.
Trước tiên tôi sẽ đưa ra một cái nhìn bao quát về cuốn tự truyện của Lê Vân và sau đó sẽ nêu lên
những văn bản liên quan đến vấn đề giới nữ mà cô gợi lên trong khi kể chuyện đời mình. Tôi nói
“gợi lên” thay vì “trích dẫn” bởi vì tôi phân tích không chỉ những văn bản Lê Vân trích dẫn – ví
dụ một số câu trong Truyện Kiều – mà còn cả những văn bản Roland Barthes gọi là “trích dẫn
không có dấu ngoặc kép”: những ám chỉ bằng thành ngữ và châm ngôn và những tập tục văn hóa
không rõ nguồn gốc.[18] Tôi phân nhóm những vấn đề gợi lên trong Yêu và dưới 5 Sống đầu đề:
(1) Những huyền thoại về Mẫu hệ và Người nội tướng, (2) Tiết hạnh, (3) Tứ đức, (4) Hi sinh, và
(5) Lãng mạn và Định mệnh. Luận giải của tôi gồm hai phần. Thứ nhất, tôi đưa ra ý kiến rằng
những văn bản này là một hệ thống đan xen duy trì quyền lợi của đàn ông và hạn chế quyền lợi
của đàn bà. Nói cách khác, những văn bản này ủng hộ một hệ thống phụ hệ. Nhưng tôi cũng
nhận xét rằng tự truyện của Lê Vân cho thấy dù có những hạn chế đó, sự tự vận động của cá
nhân vẫn có chỗ đứng. Việc xóa bỏ chế độ “bao cấp” và thay vào đó bằng một nền kinh tế thị
trường tạo ra những khó khăn cho phụ nữ, nhưng nó cũng đem lại cho họ những cơ hội. Câu
chuyện cuộc đời Lê Vân cho thấy một phụ nữ Việt Nam ở miền Bắc có đủ sức mạnh để tạo dựng
đời mình mà những thế hệ phụ nữ Việt Nam trước đó không có được. Tổng quan
Lê Vân có một tuổi thơ không hạnh phúc. Cha mẹ cô lấy nhau lúc khoảng 20 tuổi, sau đó có ba
đứa con và nuôi nấng chúng trong thời gian chiến tranh chống Mỹ. Cả bố lẫn mẹ đều là diễn
viên, vì thế Lê Vân nhiều khi phải ở trại trẻ, chỉ về nhà vào dịp cuối tuần. Khi Mỹ bắt đầu ném
bom, người già và trẻ con phải sơ tán khỏi Hà Nội, Lê Vân và cô em gái Lê Khanh sống ở một
trại do đoàn kịch của bố mẹ quản lý, cách thành phố khoảng 20 cây số. Khi cô lên chín hay mười
thì bố mẹ đăng ký cô vào một trường múa theo mô hình Xô-viết và cô sống trong ký túc xá
trường này. Lê Vân dùng từ “hành xác” để nói về bảy năm khổ luyện học tập để trình diễn các vở
balê cổ điển như Hồ Thiên Nga, GiselleSpartacus.[19]
Lê Vân cho rằng điều thật sự khiến cô buồn không phải là sự vất vả của trường múa mà là những
vụ xô xát của bố mẹ và cuối cùng là vụ ly dị. Bố mẹ cô, như cô kể, quá mải mê hành hạ nhau và
cố xoay xở kiếm sống mà không có thời gian để thương yêu cô. Khu vực sinh sống chật hẹp của
họ – cả nhà ở trong một căn phòng trong một biệt thự có đến 60 người ở mà chỉ có một nhà vệ
sinh – làm trầm trọng thêm tình trạng. Mặc dù buộc tội mẹ đã lạnh nhạt với mình, cô dành sự phê
phán nặng nề nhất cho người cha. Lê Vân đổ tội cho những người tình của ông. “Đặc biệt, bố rất
có duyên trong mắt phái đẹp,” cô kể, “những con thiêu thân lao vào bố không cần tính toán, chỉ
cần dâng hiến. Hết người đàn bà này đến người đàn bà khác.”[20] Cô cũng đổ tội cho sự đạo đức
giả của ông, cách ông tỏ ra lạnh lẽo và xa cách với chị em cô ở nhà nhưng lại hào hoa và phóng
khoáng khi nhiều người ngoài vây quanh.[21]
Khi lớn lên, Lê Vân nhận ra rằng cha mình phải chịu đựng việc là “một nghệ sĩ tài ba nhưng
không nuôi nổi bản thân mình đừng nói gì đến nuôi nổi vợ con.”[22] Cô thề mình sẽ không bao
giờ yêu và lấy một nghệ sĩ khổ sở như bố. Thật trớ trêu, người tình đầu của cô lại là một nghệ sĩ
có những nét phần nào giống bố cô. Cũng như cha cô, ông ta phải vật lộn để sống bằng đồng
lương chết đói mà nhà nước trả cho. Ông cũng không thể làm ăn thêm và tạo dựng được một
cuộc sống khả dĩ trong nền kinh tế thị trường.
Cô gặp người tình đầu tiên này, một người cô gọi là “Người ấy” vào năm 1979, hai năm sau khi
cô trở thành một diễn viên múa của Nhà hát Nhạc vũ kịch.[23] Ông là một công chức nhà nước,
một người giám sát các hoạt động văn hóa. Cô chú ý đến ông nhân một hôm ông đến thăm đoàn
balê của cô. Ông nổi bật giữa những người khác, một người “ở độ tuổi trung niên, với mái tóc đã
điểm bạc, dáng thư sinh nghệ sĩ, nom ông nổi bật một cách khác thường giữa những người xung
quanh.”[24] Lê Vân lúc ấy vừa bước sang tuổi 20. Ông gấp đôi tuổi cô. Ông đến bên cô và tự
giới thiệu, nói rằng ông biết cha cô. Sau đó, ông đề nghị cô gặp ông ở một nơi ven thành phố và
họ nói chuyện – hay đúng hơn là ông nói và cô lắng nghe những gì ông rót vào tai cô về khát
vọng của ông về nghệ thuật và về gia đình riêng của ông. “Tôi ví mình như một trang giấy
trắng,” cô kể, “chờ anh, người nghệ sĩ gấp đôi tuổi tôi, viết lên đó những bài học đầu tiên.”[25]
Những cuộc hò hẹn ở những nơi vắng vẻ trong bóng tối quanh thành phố tiếp tục, và cô biết
thêm về ông. Lê Vân ấn tượng trước cách ông sắp xếp cuộc sống gia đình, trước người vợ đẹp và
hai đứa con của ông, và trước căn hộ được thiết kế tiện nghi và trang bị xinh xắn của ông với
phòng ngủ riêng biệt, nhà tắm nhỏ xíu nhưng sạch sẽ, tủ lạnh, đàn dương cầm và kệ sách chất
đầy sách – một “thiên đường trí thức” như cô gọi nó.[26] Cô biết về cuộc sống ở nhà của ông do
ông dẫn cô về và giới thiệu với vợ và các con. Khi mối quan hệ mười năm trời với Người ấy đã
kéo quá dài, Lê Vân nhận ra rằng chính vì ông là một người trí thức, cuộc sống gia đình của ông
không phải là thiên đường trí thức chút nào. Trí thức không thể nào tồn tại nổi bằng đồng lương
còm cõi mà nhà nước trả cho họ. Ngoài việc thi thoảng viết một bài báo, ông không biết kiếm
chác hay làm ăn để tăng thêm thu nhập. Lê Vân nhận thấy những vấn đề kinh tế đang tổn hại đến
hôn nhân của ông.[27] “Người vợ quá vất vả vì phải bươn chải,” cô kể, “trong khi người chồng
chỉ nghệ thuật hàn lâm đi mây về gió.”[28] Trong khi đó, nhờ vào thu nhập nghề diễn, Lê Vân đã
thành công trong việc “cởi trói” cho bản thân: cô đạt được cả mục tiêu an toàn tài chính lẫn tự do
nghệ thuật – tự do trong việc chỉ đóng những phim cô thích, với những đạo diễn cô kính trọng. [29]
Lê Vân gặp người tình tiếp theo vào năm 1988 khi cô ở Sài Gòn đợi thị thực đi Paris để đóng
trong một bộ phim, và Người ấy ở Hà Nội đang làm đơn ly dị để có thể cưới cô. Người tình thứ
hai này là một Việt kiều Canada. Thực tế thì anh ta là người lai Pháp, và khi Lê Vân gặp anh, cô
nghĩ anh là một ông Tây và rồi ngạc nhiên khi thấy anh nói tiếng Việt rất sõi. Anh tổ chức tour
du lịch đưa Việt kiều về thăm quê. Người Việt kiều này mà Lê Vân gọi là “Chàng lãng tử,” đã bố
trí cuộc gặp gỡ. Anh muốn được gặp ngôi sao đã đóng vai Duyên trong phim Bao giờ cho đến
tháng mười
và nhờ vợ chồng một người bạn mời cả anh và Lê Vân đến nhà họ ăn tối.
Trong lời kể của Lê Vân về những tuần đầu tiên gặp nhau, thật khó tách rời sức hấp dẫn đặc biệt
của chàng khỏi sự ngưỡng mộ rộng lớn hơn nơi cô đối với sự tự do của Sài Gòn và miền Nam,
nơi mà Chàng lãng tử, vốn có gia đình xuất xứ Quảng Nam, là đại diện. Cô đối chiếu “Kẻ sĩ Bắc
Hà” của mình và những cuộc hò hẹn trong những nơi khuất nẻo của Hà Nội với “Lãng tử Sài
Gòn,” người đưa cô đi khắp nơi giữa thanh thiên bạch nhật trong bầu không khí tự do hơn hẳn
của miền Nam. “Yêu chàng,” cô kể, “tôi như người bị sốc ánh s ,
áng như người đang bị cầm tù
nơi bóng tối lưu cữu tù đọng… được sổ lồng tung cánh bay vào một thế giới tự do công
khai.”[30] Trước khi Lê Vân rời Hà Nội, người tình miền Bắc của cô đã cảnh báo cô nên cẩn
thận: “Sài Gòn nhiều cám dỗ lắm, nhiều cái dễ làm người ta sa ngã lắm.”[31] Cô – thật ngây thơ,
như cô thừa nhận – đã nhờ Chàng lãng tử giúp cô đừng để mình sa ngã với anh ta. Tuy vậy kết
cục thì cô không kháng cự nổi sức mê hoặc của Sài Gòn và cô đã “chính thức sa ngã.”[32]
Khi cô phải lòng Chàng lãng tử, cô nôn nóng muốn vứt bỏ những rào cản và bắt đầu sống độc
lập hơn. Tuy vậy, sau khi cưới anh ta vài năm, cô lại cảm thấy bị bó buộc trở lại – không phải vì
Chàng lãng tử cứ nhắc cô phải có nữ tính hơn và hành xử như một người phụ nữ đúng mực trong
một gia đình có văn hóa, như người tình đầu đã làm, mà vì anh muốn cô xử sự như một người
đàn ông![33] Như Lê Vân kể, sự lãng mạn biến mất khỏi quan hệ của họ khi Chàng lãng tử bắt
đầu la cà quán xá, bỏ mặc cô làm mọi việc mà cô tin đó là việc của một người đàn ông – những
việc như xử lý quan hệ với công an, vay tiền, trả thuế, sửa chữa nhà cửa – thậm chí đi xin gia hạn cư trú
. Chàng lãng tử rõ ràng không phải là người đàn ông có khả năng làm cho cô trở cho anh ta
thành người phụ nữ như ý cô muốn.
Cô đã tìm ra được người đàn ông này, nhưng anh ta không phải người Việt cũng không phải là
Việt kiều. Người tình tiếp theo là một người Hà Lan gốc Indonesia làm việc cho một tổ chức
lương thực quốc tế.[34] Abraham, hay “Bram” như cô gọi, để ý đến cô khi cô múa trên nền xi
măng của Bảo tàng Quân đội trong một cuộc triển lãm và tiệc cốc-tai do một cơ quan Hà Lan tổ
chức để cổ động cho mẫu nhà chống lũ. Sau đó anh mời cô tham dự một chương trình quyên tiền
cho một quỹ từ thiện giúp trẻ em và họ trở nên gắn bó. Abraham hơn Lê Vân bảy tuổi và đã có
một vợ cùng hai con ở Hà Lan, cô thì đã ly thân nhưng vẫn còn giá thú với Chàng lãng tử; vì thế
cô lại rơi vào việc dan díu với chồng của một người khác và phản bội người đàn ông yêu mình.
Lần thứ ba này là một tình yêu đam mê đối với cô, tuy cô và Abraham không kết hôn, nhưng họ
vẫn có hai đứa con, đều sinh ra ở Hà Nội – Avi năm 1997 và Adam năm 2001.
Trong những đoạn dẫn đến câu kết cuốn sách, “Tôi là tôi, là đàn bà,” Lê Vân cắt nghĩa về kiểu
phụ nữ mà hiện cô đang là – hay ít nhất là kiểu phụ nữ cô muốn. Mặc dù cô dùng từ “bình
thường” thay vì từ “truyền thống,” rõ ràng là cô nhận thấy bản thân mình đang quay trở về với
hình mẫu phụ nữ rất cũ và rất Á Đông. “Tôi thèm được là người đàn bà bình thường lắm,” cô
nói. “Trong tâm can lúc nào cũng chỉ muốn làm một người vợ đúng nghĩa: hiền hậu, hết lòng với
gia đình chồng con. Đó là những phẩm chất của phụ nữ Á đông mà tôi đã ‘bị ngấm’ từ khi nào không rõ.”[35]
Lê Vân nói cô muốn là một người đàn bà “bình thường” chứ không phải là “truyền thống” có lẽ
vì cô biết việc mình phê phán cha mẹ, ngoại tình với chồng người khác, và có con ngoài giá thú
với một người nước ngoài không hề là lối cư xử truyền thống. Sự thật rằng có những cá nhân
khác thường như Lê Vân mà vẫn hướng đến những giá trị nữ tính truyền thống chứng minh sức
mạnh của những giá trị truyền thống này hãy còn ảnh hưởng đến xã hội đương đại Việt Nam.
Bây giờ chúng ta sẽ chuyển sang một số văn bản văn hóa nằm ẩn bên dưới những quan niệm truyền thống này.
Huyền thoại về Mẫu hệ và Người nội tướng
Các nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng phụ nữ Đông Nam Á đóng vai trò quan trọng trong xã hội,
ví dụ như họ chia sẻ công việc nông nghiệp quan trọng với đàn ông; con gái cũng được thừa kế
gia tài như con trai; và sau khi lấy nhau, cô dâu chú rể không bị bắt buộc phải sống gần hoặc
cùng với bố mẹ chồng. Học giả nào nhắc đến địa vị cao của phụ nữ Đông Nam Á được cho là
ủng hộ “thuyết tự chủ” (autonomy hypothesis).[36] Áp dụng thuyết này vào Việt Nam sẽ gây ra
vấn đề bởi vì Việt Nam chịu ảnh hưởng của Khổng giáo, một hệ tư tưởng rất phụ hệ. Nhưng một
số học giả, cả Việt Nam lẫn Tây phương, đều nhận định Việt Nam cổ đại là một xã hội mẫu hệ và
địa vị của người phụ nữ ở đây cao hơn so với ở Trung Hoa, điều đó cho thấy sự bền vững của
những đặc tính “Đông Nam Á” mà hàng thế kỷ Bắc thuộc vẫn không thể tiêu diệt được. Tuyên
bố rằng họ đối xử với phụ nữ tốt hơn là một cách để người Việt nhấn mạnh đặc tính Việt của
mình và tạo ra sự độc lập về văn hóa đối với Trung Hoa.
Một đặc tính Đông Nam Á khác tồn tại ở Việt Nam là “sự tương thuận” (complementarity), được
phản ảnh trong phong tục vợ chồng chia sẻ lao động khá đồng đều.[37] Tục ngữ Việt Nam
thường nhắc đến phong tục này: “Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa” và “Thuận vợ thuận chồng
tát bể đông cũng cạn”. Một ví dụ khác về sự tương thuận ở Việt Nam là truyền thống người vợ
hoạt động như một vị nội tướng trong khi ông chồng lo việc quan hệ đối ngoại. Theo truyền
thống này, vì là người nội tướng, bà vợ trở thành người tay hòm chìa khóa và ra các quyết định
trong việc quản lý nhà cửa. Trách nhiệm của người chồng là đi làm bên ngoài và coi như không
liên quan gì đến công việc tề gia.[38]
Khi sống ở Việt Nam, tôi rất ngạc nhiên vì nhiều lần cánh đàn ông đã dùng từ ẩn dụ “nội tướng”
này để mô tả quyền lực của phụ nữ trong gia đình, thường thường để nói rằng bất bình đẳng giữa
hai giới không phải là một vấn đề ở Việt Nam. Nhiều học giả cũng đề cập đến lối ẩn dụ này, giúp
thêm bằng chứng rằng ẩn dụ này được phổ biến khá rộng rãi ở Việt Nam.[39] Sự phân công hai
trách nhiệm nội tướng và ngoại giao này chứng tỏ rằng văn hóa Việt Nam có tính cách “tương
thuận” của Đông Nam Á[40] nhưng cũng có thể được xem như là phản ảnh của tư tưởng Khổng
giáo. Trong gia đình Khổng giáo, phụ nữ được dạy các kỹ năng nội trợ - ví dụ nấu ăn, thêu thùa,
may vá – vì vậy họ có thể điều hành việc nhà; đàn ông được đào tạo theo đuổi các mục tiêu tri
thức để có thể đảm nhiệm các quan hệ hướng ngoại trong cộng đồng và quốc gia.[41]
Dù đúng là nhiều người chồng Việt Nam để cho vợ nắm tài chính gia đình và quản lý nhà cửa,
điều quan trọng là ta phải thấy rằng đàn ông được ưu thế trong sự phân công này. Bằng việc san
sẻ một ít quyền lực, đàn ông gặt hái được rất nhiều lợi tức. Khi nói đến việc chăm lo gia đình,
người ta sẽ nói anh ta “vui vẻ đầu hàng” trách nhiệm hơn là nói anh ta “nhượng bộ” trách nhiệm.
Để cho đàn bà làm mọi việc nhà nhàm chán trong khi đàn ông được theo đuổi sự nghiệp có thể là
một kiểu “tương thuận,” nhưng thật khó mà nói là công bằng. Đóng vai trò của một vị “nội
tướng,” như Wendy Duong chỉ ra, “nghĩa là việc gì trong gia đình cũng đến tay người vợ để cho
ông chồng có tự do theo đòi những điều ‘cao quý’ khác, như thơ phú hay các sở thích văn
hóa.”[42] Stephen O’Harrow viết rằng ở Việt Nam, “tột đỉnh của người đầy nam tính
(machismo) không phải là một thứ đàn ông ưa hành hạ đàn bà theo kiểu Địa Trung Hải mà là
một thứ đàn ông biếng lười đầy lịch lãm mà đàn bà phải chịu thiệt thòi.”[43]
Cả bố và Chàng lãng tử, chồng Lê Vân, đều thể hiện đặc tính người đầy nam tính kiểu Việt Nam
này. Theo Lê Vân, bố cô thoải mái với sự biếng nhác mà cũng không giao tài chính trong nhà
cho vợ. Cô kể rằng mẹ cô không kiểm soát tài chính của gia đình. Mẹ cô phải bảo Lê Vân và các
em gái nhắc bố đưa tiền mua cái ăn.[44] Trong khi đó, Lê Vân kể, khi ông ở bên bàn nhậu với
bạn bè, ông trở thành trung tâm của những bữa nhậu đó.[45] Với Chàng lãng tử, Lê Vân kể vào
thời kỳ đầu của mối quan hệ, cô ngưỡng mộ anh vì anh đưa hết tiền cho vợ ở Canada bởi vì điều
đó chứng tỏ anh đã đặt niềm tin vào cô (Lê Vân) một cách vô điều kiện. Cô kể: “Về kinh tế,
kiếm được chút tiền bạc nào là lại đưa hết cho vợ. Khi anh muốn về Việt Nam, anh cứ việc tay
trắng mà ra đi.”[46] Cô coi điều này ở anh là “điều đáng quý nhất.”
Tuy vậy, sau khi Lê Vân cưới Chàng lãng tử, cô trở nên mệt mỏi vì sự vô tâm của anh, về thói
quen la cà quán xá, bỏ mặc cô tự xoay xở không những chỉ việc nhà cửa, là những việc mà cô
hứng thú làm, mà còn cả những việc giao tiếp bên ngoài xã hội. Cô không thích mình vừa làm
nội tướng lại vừa lo cả chuyện chủ sự việc bên ngoài. Vì quá quen thuộc với sự phân công nhiệm
vụ giữa đàn ông và đàn bà, cô rất bực mình khi phải cáng đáng những nhiệm vụ “đàn ông” như
việc phải quan hệ với các viên chức chính quyền. “Tại sao mình cứ phải làm đàn ông trong khi
đã có chồng?
” cô tự hỏi: “Bao giờ mình mới được làm một người đàn bà thực sự đàn bà đây?
(in nghiêng nhấn mạnh trong nguyên bản).[47] Nếu cô có một người chồng có khả năng và vui
lòng làm “thủ lĩnh”gia đình thì cô sẽ vui lòng từ bỏ sự nghiệp của mình để trở thành một bà nội
trợ: “Giá mà mình có một người đàn ông như thế, mình sẵn sàng buông xuôi hết, giã từ hết để
được làm một người phụ nữ Việt Nam với đúng chức năng nội trợ trong nhà.”[48] Abraham,
người tình Hà Lan gốc Indonesia của cô, đã trở thành “thủ lĩnh” để cho cô trở thành một bà nội trợ Việt Nam như vậy.
Ý niệm về người nội tướng cũng giải thích tại sao Lê Vân cho rằng những thành công của cô ở
bên ngoài gia đình trong cương vị một nữ diễn viên, là do tính khí “dương nữ” của cô.[49] Trong
gia đình kiểu Khổng giáo, người đàn ông thường vẫy vùng ngoài xã hội để mưu cầu danh vọng
và mưu sinh để nuôi sống gia đình. Lê Vân đã đạt được danh vọng ấy nhưng rồi đã từ bỏ sự
nghiệp điện ảnh của mình ngay trong lúc đang ở đỉnh cao. Cô đưa ra các lý do như thu nhập
thấp, không có mấy đạo diễn giỏi, nghi ngờ về năng lực bản thân, nhưng một lý do có lẽ rõ ràng
nhất là để thành công trên phim ảnh cô phải vận dụng “tính khí đàn ông” quá nhiều trong khi cô
chỉ muốn trở thành một người phụ nữ, một phụ nữ Việt Nam truyền thống chỉ biết quán xuyến việc nhà.