Lí luận về tôn giáo trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tôn giáo ở việt nam, chính sách của đảng và nhà nước | Tiểu luận môn chủ nghĩa xã hội khoa học

Cuộc sống con người bên cạnh những giá trị về vật chất, mà còn có những giá trị về tinh thần. Tôn giáo là "cái nôi" để nuôi dưỡng, phát triển, cân bằng giữa lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần vốn quý giá mà con người đôi khi đánh mất. Chính thiên tài Albert Einstein cũng từng nói rằng "Khoa học không tôn giáo như kẻ què quặt, tôn giáo không khoa học như kẻ mù lòa", Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU : ........................................................................................................................ 2
1. Lí do chọn đề tài : ................................................................................................................. 2
2. Mục tiêu nghiên cứu : ............................................................................................................ 2
3. Phương pháp nghiên cứu :...................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TÔN GIÁO TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI .......................................................................................................................... 3
1.1 Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin về tôn giáo .............................................. 3
1.1.1 Khái niệm về tôn giáo : ................................................................................................. 3
1.1.2 Nguồn gốc của tôn giáo : ............................................................................................... 4
1.1.3 Bản chất của tôn giáo : .................................................................................................. 4
1.1.4. Tính chất của tôn giáo : ................................................................................................ 5
1.2. Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội.................... 6
CHƯƠNG 2 : TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC ............... 7
2.1. Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam : .......................................................................................... 7
2.2. Quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước đối với tôn giáo Việt Nam : ........................ 9
2.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước : .............................................................................. 9
2.2.2. Chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề tôn giáo : ................................................ 11
2.2.3. Thực trạng tôn giáo ở Việt Nam : ................................................................................ 12
2.2.4. Giải pháp giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam : ........................................................ 13
PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................................................... 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................... 14
PHẦN MỞ ĐẦU :
1. Lí do chọn đề tài :
Cuộc sống con người bên cạnh những giá trị về vật chất, còn có những giá
trị về tinh thần. Tôn giáo "cái nôi" để nuôi ỡng, phát triển, cân bằng giữa lợi ích
vật chất và lợi ích tinh thần vốn quý giá mà con người đôi khi đánh mất. Chính thiên tài
Albert Einstein cũng từng nói rằng "Khoa học không tôn giáo như kẻ què quặt, tôn giáo
không khoa học như kẻ mù lòa", do đó ta thấy được tầm quan trọng to lớn của tôn giáo
trong mọi mặt của đời sống con người, từ kinh tế, khoa học, giáo dục, chính trị,... Bởi
chính sự du nhập nhanh chóng cũng như tính chất phù hợp với quan điểm sống của
người Việt Nam mà có rất nhiều tôn giáo được truyền bá rộng rãi ở nơi đây, khiến cho
Việt Nam trở thành một Quốc gia giàu văn hóa, đa sắc tộc, đa tôn giáo. Ta thấy rằng
tôn giáo luôn là vấn đề nóng hổi mà Nhà nước cũng như Đảng ta quan tâm từ trước đến
nay, việc có nhiều tôn giáo như thế cũng vô hình đặt nặng áp lực phải thực hiện những
chính sách khéo léo, mềm mỏng, thỏa đáng để hài hòa cân đối giữa các tôn giáo, giữa
tôn giáo đời sống con người, giữa tôn giáo và hệ chính trị của Quốc gia dân tộc. Ngày
nay nhiều Quốc gia nổ ra những cuộc tranh xung đột sắc tộc, xung đột tôn giáo nhằm
chiếm vị trí độc tôn, hậu quả kéo theo là nền kinh tế bị đình trệ, nền chính trị lung lay,
mất đoàn kết, nội bộ chia rẽ, đời sống nhân dân khổ sở triền miên. Lấy đó làm bài học
để Đảng và Nhà nước ta có những biện pháp, những chính sách đối phó, phòng chống
cũng như hài hòa mối quan hệ giữa các tôn giáo, ngăn chặn âm mưu chia rẽ tôn giáo
của các thế lực thù địch chống phá Nhà nước. Các lãnh đạo cùng với nhân dân phải phối
hợp thật tốt, trên dưới đồng lòng thực hiện nghiêm túc và quán triệt những công tác về
tôn giáo để nước ta không xảy ra bất kì tranh chấp nào kéo theo bao hậu quả khôn lường
về sau. Việc tìm hiểu những khía cạnh về tôn giáo là nền tảng lí luận chung nhất để áp
dụng vào thực tiễn cuộc sống trong thời kì đổi mới và hội nhập Quốc tế qua đó sẽ giúp
chúng ta nắm rõ, hiểu biết sâu sắc về để thực hiện tốt hơn những công tác về tôn
giáo. Do đó qua i tiểu luận này, sẽ giúp người đọc nâng cao hiểu biết của mình hơn
về các chính sách, chủ trương của Đảng i chung các chính sách, chủ trương của
Đảng về vấn đề tôn giáo nói riêng.
2. Mục tiêu nghiên cứu :
Giúp người đọc nắm được những kiến thức bản về luận chung nhất của
Chủ nghĩa Mác Lê nin về tôn giáo, từ đó áp dụng vào thực tế tình hình tôn giáo ở Việt -
Nam. Bên cạnh đó còn giúp người đọc biết thêm về công tác tôn giáo của Đảng và Nhà
nước, những chủ trương chính sách mà Đảng ta đã đề ra, nhằm đi tới khẳng định tính
đúng đắn và quán triệt về vấn đề tôn giáo của bộ máy lãnh đạo. Cuối cùng đưa ra những
giải pháp giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam tránh sự mâu thuẫn, xung đột tôn giáo
có thể xảy ra ở nước ta bất kì lúc nào.
Khẳng định sự nhất quán quán triệt của Đảng Nhà nước trong công tác
quản lý tôn giáo và phá tan âm mưu của thế lực thù địch.
3. Phương pháp nghiên cứu :
Kết hợp song song hai phương pháp, phương pháp nghiên cứu lịch sử logic
hóa vấn đề đã nêu. Ngoài ra, còn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu để
làm rõ đề tài. Bên cạnh đó còn đưa ra cái nhìn từ tổng quan đến chi tiết, cụ thể để đánh
giá vấn đề về tôn giáo.
Đưa ra những dẫn chứng cụ thể, đút kết kinh nghiệm, đánh giá để đưa ra phương
pháp, hướng giải quyết phù hợp.
Tra cứu, tìm hiểu các tài liệu liên quan, phân tích so sánh nhằm làm cuối
cùng là đưa ra những nhận xét, đánh giá khách quan nhất về vấn đề.
Vận dụng quan điểm toàn diện hệ thống, kết hợp khái quát tả, phân
tích, tổng hợp.
PHẦN NỘI DUNG :
CHƯƠNG 1 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TÔN GIÁO TRONG THỜI KÌ QUÁ
ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1 Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin về tôn giáo
1.1.1 Khái niệm về tôn giáo :
Nhìn nhận một cách tổng quan ta thấy tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu
nhiên, vô hình được cảm nhận bằng trực giác, có nhiều khái niệm về tôn giáo, tùy vào
mục đích nghiên cứu hay góc nhìn của mỗi người sẽ mỗi khác nhau. Theo Khoản 6
Điều 2 Luật Tín ngưỡng năm 2016, tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với quan
niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lí, giáo luật, lễ nghi tổ chức.
1
Còn đối với riêng bản thân những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, họ cho rằng : "tôn
giáo là sự phản ánh một cách biến dạng, sai lệch, hư ảo về giới tự nhiên và con người,
về các quan hệ xã hội. Hay nói cách khác, tôn giáo là sự nhân cách hóa giới tự nhiên, là
sự “đánh mất bản chất người”. Chính con người đã khoác cho thần thánh những sức
mạnh siêu nhiên khác với bản chất của mình để rồi từ đó con người chỗ dựa, được
chở che, an ủi đó chỉ chỗ dựa “hư ảo” ". Ph.Ăngghen cho rằng: “… tất cả một -
tôn giáo chẳng qua chỉ sự phản ánh ảo vào trong đầu, óc của con người của
những lực lượng ở bên ngoài chi phối sống hàng ngày của họ; chỉ sự phản ánh trong đó
những lực lượng ở trần thế mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”
2
.
Ta thấy rằng, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác thì tôn giáo là một hiện tượng
hoang đường, không có thật, thế nhưng nó lại tồn tại những mặt tích cực đáng được lưu
tâm khai thác triệt để vì giá trị mà tôn giáo mang lại là rất lớn không thể phủ nhận điều
đó. Ta thấy rằng, điều kiện kinh tế xã hội chính là thực tế khách quan, là nguồn gốc chủ
yếu phát sinh ra tôn giáo, đứng trên lập trường chủ nghĩa duy vật lịch sử, Mác
Ăngghen đã lí giải điều ấy từ đôi mắt triết học. Trong lịch sử phát triển của nhân loại,
con người luôn gặp khó khăn, luôn cảm thấy yếu đuối, bất lực trước những thử thách
trong quá trình lao động, trong tiềm thức họ đã gắn cho tự nhiên một sức mạnh tiềm
tàng siêu nhiên, đó cũng chính là cơ sở cho sự thờ cúng sau này. Quan sát quá trình phát
triển của loại người, khi xã hội xuất hiện giai cấp, loài người càng gặp nhiều rắc rối khó
1
Khoản 6 Điề ật Tín Ngưỡng năm 2016, Quố ội ban hành ngày 18 tháng 11 năm 2016 và có u 2 Lu c h
hi u lc k t ngày 26 tháng 12 năm 2016.
2
Tuy n t p Mác - p 1 tr 13, 14 . NXB S t Hà N i 1980. Ăngghen, tậ th
khăn hơn, khi giai cấp bị trị luôn chịu thiệt thòi về vật chất cũng như chất lượng cuộc
sống, còn giai cấp thống trị thì trong tâm thế lo sợ mất của. Hơn thế nữa, những yếu tố
ngẫu nhiên tự phát, những rủi ro bất chợt xuất hiện thể đến bất cứ lúc nào gây cho
họ cảm giác sợ hãi, lo lắng, bất an. Cuối cùng họ quyết định tìm một chỗ dựa, đó chính
là tôn giáo.
1.1.2 Nguồn gốc của tôn giáo :
Kế thừa học thuyết Mác Ăngghen, Lênin đã phát hiện ra 3 nguồn gốc chính của -
tôn giáo. Người đã phân tích, chỉ rõ những quan điểm của mình về chúng, cụ thể như
sau.
Đầu tiên, tôn giáo xuất phát từ tự nhiên, trong kinh tế hội. Theo riêng -
nhân ông thì : " Nguồn gốc sâu xa nhất của các thành kiến tôn giáo là cùng khổ dốt
nát”; ông còn cho rằng : “sự áp bức đối với quần chúng nhân dân lao động về mặt xã
hội, tình trạng vẻ hoàn toàn bất lực của họ trước những thế lực quáng của chủ
nghĩa tư bản đang hàng ngày hàng giờ gây ra cho những người lao động bình thường
những nỗi khổ cực kỳ ghê gớm, những sự đau thương thật khủng khiếp, nhiều gấp
nghìn lần so với những biến cố phi thường như chiến tranh, động đất,... đó là nguồn gốc
sâu xa nhất hiện nay của tôn giáo”
3
.
Kế đó, tôn giáo xuất phát từ nguồn gốc nhận thức của con người. Ông cho rằng
hai khả năng dẫn đến nguồn gốc ấy là do con người chưa hiểu được bản chất, quy luật
vận động của sự vật hiện tượng xung quanh đời sống con người và bên cạnh đó là những
điều khoa học chưa thể giải được phải nhờ những truyền thuyết về tôn giáo giải
thích.
Cuối cùng, quan trọng n hết, nguồn gốc của tôn giáo xuất phát từ nhận thức
của mỗi cá thể, đó chính là nỗi sợ, sự bất an, yếu tố bất ngờ bất như ý, sự ham muốn đạt
được thành côngkhông mất nhiều công sức hay thậm chí là tình cảm đặc biệt như
tình yêu, lòng biết ơn, lòng kính trọng muốn tôn thờ những người có công với nước có
hiếu với dân : thờ thần hoàng, thờ ông bà tổ tiên, thờ các chiến sĩ đã hy sinh,...
1.1.3 Bản chất của tôn giáo :
Chủ nghĩa Mác Lênin coi tín ngưỡng, tôn giáo là một hình thái ý thức hội -
phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Chỉ rõ bản chất của tôn
giáo, chủ nghĩa Mác Lênin về tôn giáo khẳng định rằng: Tôn giáo là một hiện tượng -
xã hội - văn hóa do con người sáng tạo ra chứ không phải tôn giáo sáng tạo ra con người.
muốn tìm chỗ dựa khi gặp khó khăn, thử thách, muốn giáo dục con người ta sống
theo lẽ đạo con người ta sáng tạo ra tôn giáo, do đó ta thấy rằng tôn giáo bức
tường vững chải giúp con người ta rất nhiều về đời sống tinh thần thể hiện được ước
mơ, hoài bão, nguyện vọng của con người. Bên cạnh những tích cực vừa nêu, sáng tạo
ra tôn giáo, con người lại bị lệ thuộc vào nó, tuyệt đối hóaphục tùng tôn giáo vô điều
kiện. Chủ nghĩa Mác Lênin cũng cho rằng, sản xuất vật chất các quan hệ kinh tế, -
xét đến cùng nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của các hình thái ý thức
3
Tuy n t -ghen, T p 1, tr 566, NXB S t Hà N i 1980. ập Mác, Ăng th
hội, trong đó có tôn giáo, nhiều người cứ lo thờ cúng mà không tự tạo ra sản phẩm lao
động, rồi tự lao đầu vào bế tắc. Do đó, mọi quan niệm về tôn giáo, các tổ chức, thiết chế
tôn giáo phải được sinh ra từ những hoạt động sản xuất, từ những điều kiện sống nhất
định trong hội thay đổi theo những thay đổi của sở kinh tế của các Quốc gia
nó ngự trị. Tóm lại, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tôn giáo có nguồn -
gốc từ trong hiện thực phản ánh chính hiện thực đó, một hiện thực cần có tôn giáo
và có điều kiện để tôn giáo xuất hiện và tồn tại.
Tôn giáo là một sản phẩm của lịch sử là một thực thể khách quan của loài
người nhưng lại đa dạng về nội dung cũng như hình thức biểu hiện. Về mặt nội dung,
nội dung cốt lỗi của tôn giáo là niềm tin tác động lên các thực thể, các cộng đồng thực
thể. Tôn giáo thường đưa ra các quy tắc tuyệt đối làm mục tiêu cho con người phấn
đấu vươn tới cuộc sống tốt đẹp hơn và nội dung ấy được thể hiện bằng những nghi
thức, những điều cấm… nó chứa đựng một số nhân tố giá trị văn hóa, phù hợp với đạo
đức con người, phù hợp thuần phong mỹ tục, đạo lý của xã hội, bảo vệ bênh vực
quyền lợi của người nghèo người bị áp bức. Tuy nhiên có những tôn giáo trở thành
công cụ của giai cấp thống trị, chỉ bảo vệ lợi ích của giai cấp ấy, mà chà đạp lên lợi
ích của giai cấp còn lại, đi ngược hoàn toàn với bản chất vốn có của nó.
Thế giới quan duy vật Mác xít và thế giới quan tôn giáo là đối lập nhau, tuy
nhiên, những con người trên lập trường Mác xít không bao giờ có thái độ xem thường,
ganh ghét, phê phán, bài xích những nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo hợp pháp của nhân
dân. Ngược lại hoàn toàn với điều đó, chủ nghĩa Mác Lênin và những con người cộng -
sản, chế độ Xã hội Chủ nghĩa luôn luôn dành sự tôn trọng đối với quyền tự do tín
ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, tôn trọng quyền tự do cá nhân của mỗi
con người, họ không phê phán tôn giáo, mà phê phán hiện thực làm nảy sinh tôn giáo,
tức là phê phán sự tham lam, bất công, bạo lực, áp bức,... trong xã hội loài người.
1.1.4. Tính chất của tôn giáo :
Khi phân tích về tôn giáo, người ta chỉ ra 3 tính chất của nó : tính Lịch sử, tính
Quần chúng và tính Chính trị.
Tính Lịch sử : Tôn giáo chỉ xuất hiện khi con người đạt đến khả năng duy trừu
tượng nhất định, chứ không xuất hiện đồng thời cùng lúc với con người. Tôn giáo là sản
phẩm của lịch sử, tùy vào điều kiện lịch sử cụ thể mà có những tôn giáo riêng, tôn giáo
phải biến đổi cho thích nghi với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội lúc bấy giờ. Đến một
giai đoạn lịch sử nào đó, tri thức của con người dần được nâng cao hơn, họ sẽ hiểu
bản chất quy luận tồn tại và vận động của cuộc sống, kể từ lúc đó tôn giáo sẽ không còn
nữa. Bên cạnh đó ta thấy tôn giáo còn là tấm gương phản chiến lịch sử của dân tộc,
người bạn đồng hành cùng đất nước qua bao ngày tháng thăng trầm. Tùy vào điều kiện
lịch sử cụ thể mà có những tôn giáo riêng phù hợp với điều kiện sống và nhận thức của
con người khi ấy.
Tính Quần chúng : Tôn giáo nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của cả cộng
đồng người. Bản chất của tôn giáo là phản ánh ước mơ huyền ảo của con người nhưng
thể hiện được khát vọng, niềm tin, và hoài bão của họ trong một vấn đề của cuộc sống.
Do đó ta thấy rằng tôn giáo có tính quần chúng, khi mọi thứ đều hướng tới hạnh phúc
chung, niềm vui lớn, hạnh phúc lớn. Làm n vấn đề này, ta thấy rằng tôn giáo
niềm tin của một nhóm người vào sức mạnh thiên nhiên thần bí, được lan rộng ra
khắp Thế giới, các tôn giáo đều một cộng động các nhân theo đạo hệ thống
chức sắc rõ ràng, nói cách khác tôn giáo hay tín ngưỡng là một xã hội tâm linh thu nhỏ
có hệ thống và phân cấp rõ ràng, cụ thể.
Tính Chính trị : Khi hội bắt đầu phân chia giai cấp, cũng lúc một số tôn
giáo bị biến tướng, trở thành công cụ phục vụ cho giai cấp thống trị. Tôn giáo đang lan
rộng ra khắp Thế giới, nhiều tôn giáo trở thành bộ mặt của Quốc gia. Có những cá nhân,
tổ chức tôn giáo để giành lấy lợi ích riêng của mình, gây ra các cuộc chiến tranh về tôn
giáo, ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi mặt của đời sống. Do đó tôn giáo cũng mang
tính Chính trị.
1.2. Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội
Trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội, tôn giáo vẫn còn tồn tại tuy đã biến
đổi vài mặt, do đó các nhà chức trách, các cán bộ lãnh đạo cần những chính sách
mềm mỏng, ôn hòa nhưng phải nghiêm minh thực hiện quán triệt mọi thứ.
Thứ nhất : Tôn trọng đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng không tín ngưỡng
của nhân dân.
Tín ngưỡng tôn giáo niềm tin, sự nhận thức của mỗi nhân vthế lực siêu
nhiên hình, do đó tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mỗi người điều tất yếu
phải có, ta thấy rằng tôn trọng đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng hoặc không tín
ngưỡng là tôn trọng quyền con người của một cá nhân, đây là sự tiến bộ của Nhà nước
Xã hội Chủ nghĩa khi lấy con người làm gốc, tôn trọng một cá nhân là tôn trọng cả cộng
đồng, giúp cả dân tộc có được sự đoàn kết. Nhà nước đảm bảo không can thiệp không
cho ai có quyền can thiệp vào quyền tự do tín ngưỡng của người khác, hỗ trợ xây dựng
các cơ sở thờ tự, cấp phép các hoạt động tôn giáo,... tạo mọi điều kiện thuận lợi nhằm
thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân . Đảng và Nhà nước cũng cần phân biệt rõ,
4
hai mặt chính trị và tư tưởng trong quá trình giải quyết các vấn đề về tôn giáo.
Thứ hai : Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, gắn với quá
trình cải tạo Xã hội cũ, xây dựng Xã hội mới.
Như đã đề cập chủ nghĩa Mác Lênin chỉ phê phán hiện thực làm nảy sinh tôn -
giáo, tức là phê phán sự tham lam, bất công, bạo lực, áp bức,... trong xã hội loài người.
Nguyên tắc này một lần nữa khẳng định sự tôn trọng của chủ nghĩa Mác Lênin đối với -
nội bộ tôn giáo, những người theo tôn giáo và những người không theo tôn giáo. Thay
đổi bản thân tồn tại xã hội dẫn đến thay đổi cả ý thức xã hội, muốn xóa bỏ những quan
điểm sai lầm của con người phải xóa bỏ nguồn gốc sinh ra sai lầm ấy. Cải cách Thế giới
này thành Thế giới không có bất công, áp lực, nghèo đói, tệ nạn, khó khăn,.. là điều vô
cùng khó cũng như một hành trình i, vì vậy không thể xây dựng hoàn toàn Thế giới
mới mà chỉ có phối hợp song song hai việc : cải tạo Xã hội và xây dựng Xã hội mới.
4
Khoản 1,2 Điề ật Tín ngưỡng năm 2016, có hiệ ngày 26 tháng 12 năm 2016.u 3 Lu u lc k t
Thứ ba : Phân biệt chính trị, tưởng; tín ngưỡng, tôn giáo lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo
Mặt tư tưởng biểu hiện mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân thuần túy về tư tưởng.
Trong lúc dựng xây và cải tạo Xã hội Chủ nghĩa mới có thể giải quyết được những vấn
đề phát sinh về mặt này.
Mặt chính trị phản ánh mâu thuẫn đối kháng về lợi ích kinh tế, chính trị giữa các
giai cấp những thế lực lợi dụng tôn giáo chống lại sự nghiệp cách mạng lợi ích
của nhân dân. Nhà cầm quyền phải ban hành luật pháp thật nghiêm minh, kiên quyết
giải quyết triệt để những kẻ lợi dụng tôn giáo mới có thể giải quyết mặt này.
Thứ tư : Phải có quan điểm lịch sử, cụ thể trong giải quyết vấn đề tín ngưỡng,
tôn giáo
Tôn giáo luôn luôn vận động thay đổi để phù hợp với các điều kiện kinh tế chính
trị tại Quốc gia đang ngự trị cùng với thời điểm lịch sử xuất hiện. Các giáo
dân, giáo sĩ, giáo đoàn, giáo hội, những tôn giáo khác nhau, những Quốc gia khác nhau,
những người mục đích khác nhau,.. đều có những quan điểm khác nhau. Khi vấn đề tôn
giáo xảy ra cần phải quan điểm lịch sử khi cân nhắc và phù hợp sao c th ng x
cho giải quyết những vấn đề xung quanh nó một cách ổn thỏa, tránh gây xung đột nội
bộ, dẫn đến đấu tranh tôn giáo.
CHƯƠNG 2 : TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ
NƯỚC
2.1. Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam :
Thứ nhất : Việt Nam là Quốc gia có nhiều tôn giáo
Việt Nam không phải "cái nôi" của tôn giáo, nơi đây lại "cánh đồng"
của tôn giáo nơi du nhập đa dạng các tôn giáo từ lớn tới bé, các tôn giáo thỏa sức phát
triển tại đất nước này. Ở nước ta tổng cộng có 16 tôn giáo chính thức đã được Nhà nước
Cộng Hòa hội Chủ nghĩa Việt Nam công nhận với ch pháp nhân đó : Hồi
giáo, Giáo hội Phật giáo đường Nam Tông, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bà la môn, Minh
Đạo, Công Giáo, Minh Lý đạo Tam Tông miếu, Tin lành, Phật giáo, Baha'i, Tịnh độ
Cư sĩ Phật hội, Bửu Sơn Kỳ Hương, Cao Đài và Phật Giáo Hòa Hảo, Mặc Môn
đốc Phục Lâm vừa được công nhận, Việt Nam có trên 45 tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo
đã được công nhận về mặt tổ chức hoặc đã đăng ký hoạt động với khoảng 26 triệu 500
nghìn tín đồ, với hàng chục ngàn cơ sở thờ tự lớn nhỏ được Đảng Nhà nước ta đặc
biệt quan tâm hỗ trợ các hoạt động. Theo như một số chia sẻ hầu hết người dân đều tín
ngưỡng hoặc nhu cầu tín ngưỡng, từ thờ các chiến sĩ, ông cha mẹ, tổ tiên, đến
người có tín ngưỡng tôn giáo.
Số liệu theo cục Tổng cục Thống kê Việt Nam
Thứ hai : Việt Nam Quốc gia tôn giáo đa dạng, đan xen, chung sống hòa
bình với nhau
Khác với các Quốc gia có tôn giáo độc tôn khác, Việt Nam Quốc gia các
tôn giáo đa dạng, đan xen, chung sống hòa bình với nhau chứ không bài xích, mâu thuẫn
bày trừ lẫn nhau. Điều đó dẫn đến không xảy ra vấn đề nội chiến của Quốc gia, các tôn
giáo tồn tại song song hỗ trợ nhau, dù tất cả có khác nhau về hình thức lẫn nội dung tín
ngưỡng, nhưng nhìn nhận một cách khái quát, các tôn giáo ra đời đều hướng đến Chân,
Thiện, Mỹ, giáo dục con người sống "tốt đời, đẹp đạo", tích cực cống hiến cho cộng
đồng.
Thứ ba : Tín đồ tôn giáo chủ yếu là nhân dân lao động, người yêu nước
Trong quá trình lao động, người lao động luôn luôn gặp những khó khăn, những
yếu tố bất lợi từ ngoại cảnh, họ cảm thấy yếu đuối, bất lực trước những biến cố, những
điều bất như ý ấy, nên họ tìm đến tôn giáo như một chỗ dựa vững chải, giúp tiếp thêm
sức mạnh cho cuộc sống này.
Bên cạnh đó, tôn giáo cũng xuất phát từ yếu tố tình cảm lòng kính trọng đối với
thế lực siêu nhiên, tình cảm đó thể là tình yêu, sự trung thành, lòng biết ơn sâu đậm,...
Trên hết, những con người đã hi sinh, ngã xuống vì đồng bào dân tộc, xứng đáng được
nhận sự tôn trọng, kính yêu từ mọi người. Do đó việc thờ cúng để nhắc nhớ về công ơn,
sự hi sinh của là điều tất yếu cần thiết.
Dù là gì đi nữa thì đa số tín đồ đều có chung đặc điểm là yêu nước, yêu hòa bình,
yêu công lý, luôn hướng đến những điều hay lẽ phải, luôn muốn những điều tích cực
đến với cuộc sống.
Thứ tư : Chức sắc tôn giáo có vai trò và ảnh hưởng đến tín đồ
Tôn giáo cũng hệ thống, quan điểm ràng, được phân cấp để quản lí,
người đứng đầu được gọi là giáo chủ. Họ là những người tự nguyện thường xuyên thực
thiện các quy tắc giáo lý, làm những điều thiện lành, tránh những điều cấm kị của tôn
giáo họ tin theo. Hvai tchính trong việc tổ chức các lễ nghi, tuyên truyền
giáo luật, học tập giáo lý,... Họ còn đóng vai trò là người truyền đạo, người chịu trách
nhiệm phát huy, giữ gìn hướng dẫn tín đồ thực hành đời sống tôn giáo, đôi khi họ
còn chịu trách nhiệm quản sở vật chất tại các nơi thờ tự, các địa điểm tôn giáo.
Nhìn chung, vai trò của họ góp phần không nhỏ trong việc dẫn dắt các tín đồ đi đúng
hướng tôn giáo đã đề ra. Tóm lại, ta thấy rằng chức sắc tôn giáo vai trò ảnh
hưởng đến các tín đồ tín ngưỡng tôn giáo đó.
Thứ năm : Tôn giáo có liên hệ với nước ngoài
Như chúng ta biết, Việt Nam bên cạnh những tôn giáo nội sinh, tự phát như
Cao Đài, thì phần lớn đều ngoại sinh, du nhập từ nước ngoài. Thích hợp với nhu cầu
của các Quốc gia đó, các tôn giáo mở rộng khắp Thế giới. Các tín đồ trong cùng một
tôn giáo có mối liên kết chặt chẽ với nhau thông qua hệ thống giáo pháp, giáo luật, giáo
lý mà các chức sắc tôn giáo đã tuyên truyền giảng dạy. Tất cả đều mối quan hệ
nhân tổ chức chặt chẽ không chỉ riêng ở nội bộ Quốc gia mà còn lan rộng khắp Quốc
tế.
Thứ sáu : Các thế lực thù địch thường lợi dụng các vấn đề tôn giáo
Các thế lực xem tôn giáo là "công cụ" tuyệt vời trong việc chống phá, xuyên tạc
nền chính trị của một Quốc gia, họ tự xưng là người thực hiện giáo lý của chúa để thực
hiện âm mưu chống phá Nhà nước. Với những hành vi khôn ngoan, tinh vi, thâm độc
họ lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, không tín ngưỡng của con người để thực hiện hành
vi của bản thân hòng kích động, gây hoang mang lo sợ, đánh vào nhận thức của con
người để chia rẽ con người. Với mưu đồ tạo ra mâu thuẫn giữa nhân dân bộ máy
chính trị, chúng dần tạo nên khoảng cách giữa người dân và Đảng, làm sụp đổ bộ máy
chính quyền, rồi từ từ nhân hội xây dựng một đế chế riêng, hay chỉ đơn giản
muốn hủy diệt bộ máy Nhà nước, muốn chống phá Cách mạng, muốn gây hoảng loạn
đời sống xã hội, mất đi sự tin tưởng của nhân dân dành cho Đảng và Nhà nước.
2.2. Quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước đối với tôn giáo Việt Nam :
2.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước :
Đại diện Đảng Cộng sản Việt Nam từng nói : “Phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp
của tôn giáo. Động viên, giúp đỡ đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn giáo sống “tốt
đời, đẹp đạo", hay " việc ổn định đời sống tôn giáo tạo thêm điều kiện cho các tôn
giáo cống hiến khả năng xây dựng, phát triển đất nước không ngoài quy luật
tưởng Hồ CMinh đã chỉ ra: luôn luôn duy tphát triển xu hướng tôn giáo đồng
hành với dân tộc CNXH, đoàn kết dân tộc tôn giáo trước hết bằng mục tiêu chung,
điểm tương đồng giữa tưởng tốt đẹp vốn của các tôn giáo với CNXH, khai thác
những giá trị tích cực của các tôn giáo trước hết là các giá trị văn hoá và đạo đức, đồng
thời luôn cảnh giác với những âm mưu lợi dụng các tôn giáo vào mục đích chính trị
phản dân tộc CNXH..."
5
tại Đại hội Đảng lần thứ X cho thấy Nhà nước ta đặc biệt
quan tâm về vấn đề tôn giáo, xem đây là nhu cầu tín ngưỡng cần có của mỗi người.
Tại Đại hội VII, Đảng ta cũng nhấn mạnh về công tác tôn giáo : “Phát huy giá trị văn
hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo , qua đó ta thấy rằng Đảng những động thái
6
nghiêm túc, quan tâm và quản lý chặt chẽ các vấn đề xung quanh tín ngưỡng của người
dân, hỗ trợ, phát huy tối đa những tích cực mà tôn giáo mang lại.
Đến Đại hội Đảng lần thứ XIII (6/2021), Đảng ta nêu rõ: “Phát huy các nhân tố tích
cực, nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng. Phê phán ngăn chặn các biểu hiện tiêu
cực, mê tín, dị đoan . Đảng và Nhà nước coi trọng quyền tín ngưỡng của người dân vì
7
đó là quyền con người, nhưng cũng lên án phê phán những hành vi tiêu cực phát sinh
trong tôn giáo, làm cho người dân kích động, sợ hãi, hay mất niềm tin vào cuộc sống.
Nhà nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của do, do dân và vì dân,
do đó Nhà nước ta luôn tôn trọng cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho người dân Việt
Nam thực hiện quyền tự do tín ngưỡng của mình. Mọi người dân có quyền theo tôn giáo
hoặc không theo tôn giáo, Nnước Việt Nam không phân biệt người theo đạo hay
người không theo đạo. Mọi người theo tôn giáo nào, thậm chí không theo tôn giáo
đều quyền nghĩa vụ của một công dân nước Cộng Hòa hội Chủ nghĩa Việt
Nam. Mọi cá nhân hay tổ chức hoạt động tín ngưỡng đều phải thực hiện đúng công tác
tôn giáo cũng như phải chấp hành Hiến pháp, Pháp luật của Quốc gia. Mọi tôn giáo
được Nhà nước thừa nhận được Nhà nước bảo hộ các hoạt động truyền giáo của riêng
tôn giáo đó, không ai có quyền xâm phạm cũng như bày trừ tôn giáo mà Nhà nước bảo
hộ.
Nhà Nước ta cũng khuyến khích, những tôn giáo chính sách hướng đến cái
thiện, lan tỏa lòng nhân ái, yêu thương con người, Đảng và Nhà nước cũng tri ân những
tổ chức tôn giáo có công trong việc giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn, nâng cao nhận
thức của con người về pháp luật.
5
Vấn đề i h ng l n X, truy c i : tôn giáo trong Văn kiện Đạ ội Đả ập 14h24 ngày 29 tháng 11 năm 2022 tạ
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien- -lieu-ve-dang/gioi-thieu-van-kien-dang/van-tu de-ton-
giao-trong-van-kien- - -lan-thu-x-cua-dang-cai-dai hoi da-co-va-cai-can-co-903 .
6
Vấn đề i h ng l n X, truy c p 14h24 ngày 29 tháng i : tôn giáo trong Văn kiện Đạ ội Đả 11 năm 2022 tạ
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien- -lieu-ve-dang/gioi-thieu-van-kien-dang/van-tu de-ton-
giao-trong-van-kien- - -lan-thu-x-cua-dang-cai-dai hoi da-co-va-cai-can-co-903 .
7
Những điể 11 năm 2022, tạm ni bt v tôn giáo, truy cp 14h44 ngày 29 tháng i
http://mattran.org.vn/dan-toc-ton-giao/nhung-diem-noi- -ve-ton-giao-trong-van-kien- -xiii-cua-bat dai hoi-
dang-40633.html .
2.2.2. Chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề tôn giáo :
Vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa c - Lênin, vào thực tiễn Việt Nam. Đảng và Nhà
nước đã có những chủ trương phù hợp, chính sách hợp lý và quan điểm rõ ràng, hướng
tới mục tiêu chung là tình đoàn kết và sức mạnh dân tộc.
Trước hết, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,
đang sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa hội nước ta.
Mọi người dân đặc biệt là nhân dân lao động, cần có chỗ dựa tinh thần trong cuộc sống,
tôn giáo ra đời nhằm mục đích đó. Do đó Đảng Nhà nước phải xác định phải luôn
đồng hành cũng như phát triển cùng tôn giáo trong quá trình dựng xây đất nước.
Tiếp theo, thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc, không phân biệt
đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận
nhân dân, Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng
của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương giáo và giữa các dân tộc. Khắc phục
mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào đạo, chống những
hành vi vi phạm tự do tín ngưỡng” . Đảng Cộng sản Việt Nam xác định quyền và nghĩa
8
vụ của người tín ngưỡng và không tín ngưỡng là tương đương nhau, đều phải sống
làm vic đúng Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Để tránh sự mt
đoàn kết, chia rẽ, phái Đảng ta nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt người theo tôn
giáo không theo tôn giáo, người giữa tôn giáo này tôn giáo khác. Bên cạnh đó,
Đảng ta cũng lên án và bài xích hành vi lợi dụng tôn giáo để thực hiện âm mưu chia rẽ,
phá hoại sự đoàn kết, cũng như chống phá Nhà nước của các thế lực chống phá.
Sau đó , nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo vận động quần chúng. Nhà
nước ra sức giáo dục tuyên truyền tinh thần yêu nước quý báu, sự đoàn kết thống nhất
của dân tộc Việt Nam xuyên suốt quá trình lịch sử đến nay. Đồng thời, hỗ trợ tích cực
các nhà lãnh đạo tôn giáo trong quá trình giáo dục nhân cách lối sống con người
thông qua giáo lý của tôn giáo.
Thêm vào đó, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị do Đảng
lãnh đạo, trong đó, đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo là lực lượng nòng
cốt. Toàn thể bộ máy lãnh đạo đều ra sức thực hiện triệt để, quán triệt công tác tôn giáo,
thường xuyên kiểm tra đưa ra giải pháp phù hợp với thực trạng tôn giáo của Việt
Nam. Nhà nước ra sức giữ gìn và phát huy truyền thống, giá trị tích cực của tín ngưỡng,
như lòng biết ơn đến các thương binh liệt sĩ, người công với Cách Mạng qua công
tác viếng thăm, vận động mọi người tưởng nhớ đến họ.
Cuối cùng là vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mọi vấn đề về truyền giáo phải thực
hiện đúng theo luật pháp nước Việt Nam, dưới sự giám sát kiểm tra của cơ quan chức
trách. Nnước nghiêm cấm những hành vi lợi dụng tôn giáo để gây nội chiến, lan
truyền mê tín dị đoan, làm sai lệch nhận thức của người dân.
Tóm lại, qua những chính sách của Đảng N nước ta thấy được sự nhất quán,
rõ ràng, bộ máy lãnh đạo luôn quán triệt mọi mặt của đời sống luôn đảm bảo công bằng
8
Ngh t 25- quyế NQ/TƯ ngày 12 ại Đạ ội Đả-3-2003, t i h ng khóa VII.
bình đẳng giữa mọi người, quan tâm mọi mặt của đời sống, trong đó đời sống tín
ngưỡng. Đảng và Nhà nước luôn giúp đỡ hết mình, phối hợp cùng các đơn vị tôn giáo
hỗ trợ những trường hợp bất hạnh, luôn là chỗ dựa vững chắc cho nhân dân, ra sức đảm
bảo quyền sống, quyền tự do tín ngưỡng của mọi người. Những năm gần đây, bộ máy
lãnh đạo luôn kiểm tra, theo dõi, điều chỉnh c chính sách sao cho phù hợp với đời
sống tôn giáo của nhân dân, gìn giữ khối đại đoàn kết dân tộc, tránh gây xung đột nội
chiến, hơn hếtra sức phát hiện và xử lý những hành vi lợi dụng tôn giáo để trục lợi
cá nhân, chống phá Nhà nước gây ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống con người.
2.2.3. Thực trạng tôn giáo ở Việt Nam :
Việt Nam, đa phần các tôn giáo được du nhập từ nước ngoài, thể nói nước ta
"cánh đồng bất tận", tạo điều kiện thuận lợi cho các tôn giáo phát triển mạnh mẽ, đa
dạng và phong phú. Trong quá trình tiến lên Xã hội Chủ nghĩa, con người đặc biệt là -
nhân dân lao động luôn gặp những khó khăn, trúc trắc, bất lợi trong cuộc sống. Do đó
họ cần niềm tin, chỗ dựa tinh thần vững chắc, của thế lực siêu nhiên nhằm xua tan những
gian khổ nhọc nhằn, xoa dịu đời sống tinh thần, nâng cao nhận thức về thế giới quan,...
Do đó tín ngưỡng là điều vô cùng cần thiết với đời sống của con người Việt Nam.
Các tôn giáo Việt Nam hòa đồng, không đấu tranh giành sự độc tôn. Tín ngưỡng,
tôn giáo của người Việt Nam tuy có tính phổ biến cao, nhưng chủ yếu ở cấp độ tâm lý
: Việt Nam một Quốc gia đa văn hóa, đa dân tộc thế nhưng lại không xảy ra tranh
chấp giữa các tôn giáo. Khác với các nước khác, có tính độc thần chỉ phổ biến duy nhất
một tôn giáo, tôn giáo này trở nên độc tôn và phổ biến khắp Đất nước, đa số người dân
Việt Nam xem tín ngưỡng là nơi xoa dịu những khó khăn, những thiếu hụt về tinh thần,
tôn giáo ở Việt Nam mang tính hòa đồng, người Việt Nam sáng suốt không cuồng tín,
không có tâm lý kiến thành.
Mặt tích cực : Các tôn giáo bên cạnh việc truyền giảng đạo lí, mà còn hỗ trợ Nhà
nước rất nhiều, chung tay giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn, những mảnh đời cơ nhỡ,
giúp sức đồng bào miền Trung từ lương thực đến các nhu yếu phẩm trong lúc thiên tai
: bão, lũ,... Các tôn giáo còn giảng dạy những điều hay, lẽ phải, hướng tới nhân đạo, bác
ái, từ bi, lẽ phải, giá trị nhân bản... qua đó đời sống vật chất cũng như tinh thần của con
người ngày càng nâng cao.
Mặt tiêu cực : Như đã nói Việt Nam là một Quốc gia đa tôn giáo, nhiều tôn giáo
hội nhập từ ngoài Thế giới, và cụ thể trong từng tôn giáo cũng rt phức tạp, từ hệ thống
giáo lý, hệ thống chức sắc cũng như quan niệm về Thế giới quan của con người là khác
nhau do đó rất khó kiểm soát hết các tôn giáo, từ đó làm cho việc lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo của các thế lực thù địch ở Việt Nam càng nguy hiểm và là hồi chuông cảnh báo
cho Đảng và Nhà nước. Chủ nghĩa Đế quốc, với chiến lược "diễn biến hòa bình" xem
tôn giáo là công cụ để truyền bá những tưởng sai lệch khiến niềm tin của nhân dân
lung lay, hoảng loạn từ đó làm suy yếu bộ máy Nhà nước ta, thấy rõ nhất là đạo Vàng
Chứ của người Mông ở Tây Bắc, cái gọi là “Tin lành Đề ga” ở Tây Nguyên, cái gọi
Thánh Đức Chúa Trời truyền phổ biến những năm gần đây những trung tâm lớn
Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội,..
9
2.2.4. Giải pháp giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam :
Một là, ra sức tuyên truyền, vận động quán triệt nhất quán các nhận thức, quan
điểm, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước. Đảng Nhà nước cần thực hiện nghiêm
túc và có hiệu quả các chính sách tôn giáo, thường xuyên kiểm tra các nơi thờ tự, điều
tra các hành vi lợi dụng tôn giáo trục lợi gây ảnh hưởng đến cá nhân và Nhà nước.
Hai là, phát huy triệt để những giá trcốt lõi, những văn hóa tốt đẹp muôn đời
của dân tộc Việt Nam. Nhà Nước ra sức giữ vững khối đại đoàn kết, tuyên truyền những
bài học về sự đoàn kết, tinh thần "uống nước nhớ nguồn" của nhân dân ta qua bao đời,
từ đó củng cố niềm tin của dân tộc Việt Nam về bộ máy Nhà nước.
Ba là, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của các cư sĩ, hỗ trợ các tôn giáo về
mọi mặt. Khi đời sống được nâng cao, phát triển, sẽ tạo ra mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng và các cơ quan tôn giáo, từ đó làm tăng sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc,
nhân dân sẽ tin vào Đảng, Nhà nước hơn, thực hiện đúng nghĩa vụ của một công dân.
Bốn là, phát huy vai trò của bộ máy Nhà nước, nhà lãnh đạo và cả hệ thống chính
trị nước Việt Nam. Thường xuyên đào tạo bồi dưỡng cán bộ, viên chức kể cả những
người chức sắc tôn giáo, tạo mối quan hgiữa Nhà nước các nhà lãnh đạo tôn
giáo.
Năm là, tích cực rèn luyện đạo đức phẩm chất chuyên môn, bồi dưỡng các kiến
thức về lí luận chính trị, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Chủ nghĩa Mác - Lênin.
Sáu là, chủ động đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, giải quyết triệt để những vấn
đề phát sinh của tôn giáo, phát hiện âm mưu của các lực lượng chống phá Nhà nước lợi
dụng tôn giáo để truyền bá những tưởng tín dị đoan, lạc hậu, gây mất đoàn kết
chia rẽ nội bộ, xung đột giữa tôn giáo này với tôn giáo khác. Đảng Nhà nước phải
quyết liệt đề ra phương hướng chính sách ràng và quyết liệt để xóa tan âm mưu
của những kẻ chống phá, những thế lực thù địch.
Bảy là, mọi nhân phải sống hòa đồng, không phân biệt vùng miền tôn giáo,
hay kì thị sắc tộc vì tất cả đều là con người, đều quyền con người, và đều được tôn
trọng như nhau, tránh gây xung đột mất hòa khí.
Tám là, tăng cường mối quan hệ tốt đẹp giữa tôn giáo và dân tộc. Mỗi giai đoạn
lịch sử cụ thể đều gắn liền với một tôn giáo nhất định, có thể nói tôn giáo là tấm gương
phản chiếu của lịch sử nhân loại Việt Nam, là người bạn đồng hành cùng dân tộc Việt
qua mọi thăng trầm lịch sử. Hiện nay, sự đổi mới toàn diện đất nước theo hướng Chủ
9
Đấu tranh ngăn chặn tà đạ 2p ngày 29 tháng 11 năm 2022 tạo nước ta, truy cp 15h i
https://www.qdnd.vn/chong-dien-bien- -binh/thanh-tuu- -quyen-viet-nam/dau-tranh-ngan-chan-hoa nhan
cac- -dao-o-nuoc- -hien- -ta ta nay
572902#:~:text=%E1%BB%9E%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%2C%20nh%E1%BB%AFng%20n%C4
%83m%20qua%2C%20t%C3%A0%20%C4%91%E1%BA%A1o,nh%C6%B0%3A%20Tin%20l%C3%
A0nh%20%C4%90%E1%BB%81%20Ga%2C%20H%C3%A0%20M%C3%B2n%2C%20 .
nghĩa Xã hội cần rất sự nhiều sự đoàn kết từ khối đại đoàn kết dân tộc và khối đoàn kết
tôn giáo, tất cả để hướng tới một xã hội bền vững, tự do, hạnh phúc.
PHẦN KẾT LUẬN
Vấn đề tôn giáo lúc nào cũng là nỗi trăn lớn với Đảng và Nhà nước ta, đặt ra
số vấn đề về chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục,... cần giải quyết triệt để, đúng đắn để
tránh gây mất đoàn kết dân tộc. Chúng ta không thể dùng lực để đàn áp, giải quyết
các vấn đề xung quanh tôn giáo cần chiến lược, công tác cụ thể, phải vừa mềm
mỏng vừa kiên quyết mà cốt lõi là công tác vận động quần chúng, Các nước Chủ nghĩa
Xã hội, dựa trên tinh thần của Chủ nghĩa Mác xít không thủ tiêu, bài trừ- tôn giáo
chỉ thực hiện các chính sách, biện pháp ngăn chặn và chống lại những kẻ lợi dụng tôn
giáo hòng trục lời, chống phá Nhà nước. Quán triệt sâu sắc và toàn diện nội dung quan
điểm đồng thời vận dụng các khoa học luận của Chủ nghĩa Mác một cách - Lênin,
mềm dẻo, linh hoạt, thông minh vào cuộc đấu tranh chống các hoạt động lợi dụng
tôn giáo xâm phạm đến an ninh Quốc gia, giữ vững độc lập bền vững của nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tràng An (7/2021) Quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với
tôn giáo [Trực tuyến]. Truy cập 0h22p ngày 27 tháng 11 năm 2022 tại
https://thanhtravietnam.vn/dan-toc-ton-giao/quan-diem-chinh-sach-cua-
dang-nha-nuoc-doi-voi-ton-giao-
196640.html#:~:text=%28ThanhtraVietNam%29%20%E2%80%93%20
Quan%20%C4%91i%E1%BB%83m%2C%20ch%C3%ADnh%20s%C3
%A1ch%20c%E1%BB%A7a%20%C4%90%E1%BA%A3ng%2C,gi%
C3%A1o%20trong%20kh%E1%BB%91i%20%C4%91%E1%BA%A1i
%20%C4%91o%C3%A0n%20k%E1%BA%BFt%20to%C3%A0n%20d
%C3%A2n .
2. Các tôn giáo được công nhận tại Việt Nam (2022) [Trực tuyến]. Truy cập
14h59p ngày 27 tháng 11 năm 2022 tại https://vanhoatamlinh.com/cac-
ton-giao-duoc-cong-nhan-o-viet-
nam/#:~:text=%E1%BB%9E%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20c%C3
%B3%2016%20t%C3%B4n%20gi%C3%A1o%20%C4%91%C6%B0%
E1%BB%A3c,Hi%E1%BA%BFu%20Ngh%C4%A9a%20T%C3%A0%
20L%C6%A1n%2C%20B%E1%BB%ADu%20S%C6%A1n%20K%E1
%BB%B3%20H%C6%B0%C6%A1ng%3B .
3. Hoàng Mạnh Tưởng (2019), Tập bài giảng môn học Lý luận tín ngưỡng,
tôn giáo và chính sách của Đảng, Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, NXB
ĐH Quốc gia TP.Hồ Chí Minh, TP.HCM.
4. Tôn giáo là gì ? Bản chất, tính chất, nguồn gốc, chức năng của tôn giáo
[Trực tuyến] Truy cập 13h45p ngày 22 tháng 11 năm 2022 tại.
https://lytuong.net/ton-giao- -gi/la .
5. Tân Long (2019), Đấu tranh ngăn chặn đạo nước ta [Trực tuyến].
Truy cập 15h2p ngày 29 tháng 11 năm 2022 tại
https://www.qdnd.vn/chong-dien-bien-hoa-binh/thanh-tuu-nhan-quyen-
viet-nam/canh-giac-voi-nhung-ban-tay-den-loi-dung- -do-ton-giao-tu
641998 .
6. Trung tá, ThS. Nguyễn Ngọc Khương (2021), Những điểm nổi bật về tôn
giáo trong văn kiện đại hội XIII của Đảng [Trực tuyến]. Truy cập 14h44
ngày 29 tháng 11 năm 2022, tại http://mattran.org.vn/dan-toc-ton-
giao/nhung-diem-noi-bat-ve-ton-giao-trong-van-kien-dai-hoi-xiii-cua-
dang-40633.html .
7. TS. Lê Văn Lợi (2014), Vấn đề tôn giáo trong Đại hội Đảng lần thứ VII,
truy cập 14h12 ngày 29 tháng 11 năm 2022, tại
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu- -luan/item/562-ly
bao-ton-phat-huy-nhung-gia-tri-van-hoa-dao-duc-tot-dep-cua-ton-giao-
trong-cong-cuoc-doi-moi-
dat.html#:~:text=V%E1%BB%9Bi%20ch%E1%BB%A9c%20n%C4%8
3ng%20b%E1%BA%A3o%20t%E1%BB%93n%20v%C4%83n%20h%
C3%B3a%2C%20c%C3%A1c,c%C3%B3%20c%C3%B4ng%20v%E1
%BB%9Bi%20c%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BB%93ng%2C%
20v%E1%BB%9Bi%20d%C3%A2n%20t%E1%BB%99c .
8. Đỗ Quang Hưng (2015) trong Tạp chí thông tin công tác tư tưởng lý luận
8/2006, Vấn đề tôn giáo trong Văn kiện Đại hội Đảng lần X [Trực tuyến].
Truy cập 14h24 ngày 29 tháng 11 năm 2022 tại
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien- -lieu-ve-dang/gioi-tu
thieu-van-kien-dang/van-de-ton-giao-trong-van-kien-dai-hoi-lan-thu-x-
cua-dang- -da- -va-cai- - -903cai co can co .
9. TS. Vũ Trung Kiên Học viện Chính trị Khu vực 3 (2021) và tổ Công nghệ
thông tin, Quan điểm và Chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam là
nhất quán [Trực tuyến]. Truy cập 21h25p ngày 26 tháng 11 năm 2022 tại
http://thanhtratinh.hatinh.gov.vn/quan-diemchinh-sach-ve-ton-giao-cua-
dang-va-nha-nuoc-viet-nam- -nhat-quan-la
1638256148.html#:~:text=%C4%90%E1%BA%A3ng%20v%C3%A0%
20Nh%C3%A0%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%
20Nam%20th%E1%BB%B1c%20hi%E1%BB%87n,th%C6%B0%E1%
BB%9Dng%20theo%20%C4%91%C3%BAng%20ph%C3%A1p%20lu
%E1%BA%ADt%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c%20b%E1%B
A%A3o%20%C4%91%E1%BA%A3m.
| 1/15

Preview text:

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU : ........................................................................................................................ 2
1. Lí do chọn đề tài : ................................................................................................................. 2 2. Mục tiêu nghiên c
ứu : ............................................................................................................ 2
3. Phương pháp nghiên cứu :...................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TÔN GIÁO TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI .......................................................................................................................... 3
1.1 Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin về tôn giáo .............................................. 3
1.1.1 Khái niệm về tôn giáo : ................................................................................................. 3
1.1.2 Nguồn gốc của tôn giáo : ............................................................................................... 4
1.1.3 Bản chất của tôn giáo : .................................................................................................. 4
1.1.4. Tính chất của tôn giáo : ................................................................................................ 5
1.2. Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội.................... 6
CHƯƠNG 2 : TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC ............... 7
2.1. Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam : .......................................................................................... 7
2.2. Quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước đối với tôn giáo Việt Nam : ........................ 9
2.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước : .............................................................................. 9
2.2.2. Chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề tôn giáo : ................................................ 11
2.2.3. Thực trạng tôn giáo ở Việt Nam : ................................................................................ 12
2.2.4. Giải pháp giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam : ........................................................ 13
PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................................................... 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................... 14 PHẦN MỞ ĐẦU : 1. Lí do chọn đề tài :
Cuộc sống con người bên cạnh những giá trị về vật chất, mà còn có những giá
trị về tinh thần. Tôn giáo là "cái nôi" để nuôi dưỡng, phát triển, cân bằng giữa lợi ích
vật chất và lợi ích tinh thần vốn quý giá mà con người đôi khi đánh mất. Chính thiên tài
Albert Einstein cũng từng nói rằng "Khoa học không tôn giáo như kẻ què quặt, tôn giáo
không khoa học như kẻ mù lòa", do đó ta thấy được tầm quan trọng to lớn của tôn giáo
trong mọi mặt của đời sống con người, từ kinh tế, khoa học, giáo dục, chính trị,... Bởi
chính sự du nhập nhanh chóng cũng như tính chất phù hợp với quan điểm sống của
người Việt Nam mà có rất nhiều tôn giáo được truyền bá rộng rãi ở nơi đây, khiến cho
Việt Nam trở thành một Quốc gia giàu văn hóa, đa sắc tộc, đa tôn giáo. Ta thấy rằng
tôn giáo luôn là vấn đề nóng hổi mà Nhà nước cũng như Đảng ta quan tâm từ trước đến
nay, việc có nhiều tôn giáo như thế cũng vô hình đặt nặng áp lực phải thực hiện những
chính sách khéo léo, mềm mỏng, thỏa đáng để hài hòa cân đối giữa các tôn giáo, giữa
tôn giáo và đời sống con người, giữa tôn giáo và hệ chính trị của Quốc gia dân tộc. Ngày
nay nhiều Quốc gia nổ ra những cuộc tranh xung đột sắc tộc, xung đột tôn giáo nhằm
chiếm vị trí độc tôn, hậu quả kéo theo là nền kinh tế bị đình trệ, nền chính trị lung lay,
mất đoàn kết, nội bộ chia rẽ, đời sống nhân dân khổ sở triền miên. Lấy đó làm bài học
để Đảng và Nhà nước ta có những biện pháp, những chính sách đối phó, phòng chống
cũng như hài hòa mối quan hệ giữa các tôn giáo, ngăn chặn âm mưu chia rẽ tôn giáo
của các thế lực thù địch chống phá Nhà nước. Các lãnh đạo cùng với nhân dân phải phối
hợp thật tốt, trên dưới đồng lòng thực hiện nghiêm túc và quán triệt những công tác về
tôn giáo để nước ta không xảy ra bất kì tranh chấp nào kéo theo bao hậu quả khôn lường
về sau. Việc tìm hiểu những khía cạnh về tôn giáo là nền tảng lí luận chung nhất để áp
dụng vào thực tiễn cuộc sống trong thời kì đổi mới và hội nhập Quốc tế qua đó sẽ giúp
chúng ta nắm rõ, hiểu biết sâu sắc về nó để thực hiện tốt hơn những công tác về tôn
giáo. Do đó qua bài tiểu luận này, sẽ giúp người đọc nâng cao hiểu biết của mình hơn
về các chính sách, chủ trương của Đảng nói chung và các chính sách, chủ trương của
Đảng về vấn đề tôn giáo nói riêng.
2. Mục tiêu nghiên cứu :
Giúp người đọc nắm được những kiến thức cơ bản về lý luận chung nhất của
Chủ nghĩa Mác Lê-nin về tôn giáo, từ đó áp dụng vào thực tế tình hình tôn giáo ở Việt
Nam. Bên cạnh đó còn giúp người đọc biết thêm về công tác tôn giáo của Đảng và Nhà
nước, những chủ trương chính sách mà Đảng ta đã đề ra, nhằm đi tới khẳng định tính
đúng đắn và quán triệt về vấn đề tôn giáo của bộ máy lãnh đạo. Cuối cùng đưa ra những
giải pháp giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam tránh sự mâu thuẫn, xung đột tôn giáo
có thể xảy ra ở nước ta bất kì lúc nào.
Khẳng định sự nhất quán và quán triệt của Đảng và Nhà nước trong công tác
quản lý tôn giáo và phá tan âm mưu của thế lực thù địch.
3. Phương pháp nghiên cứu :
Kết hợp song song hai phương pháp, phương pháp nghiên cứu lịch sử và logic
hóa vấn đề đã nêu. Ngoài ra, còn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu để
làm rõ đề tài. Bên cạnh đó còn đưa ra cái nhìn từ tổng quan đến chi tiết, cụ thể để đánh
giá vấn đề về tôn giáo.
Đưa ra những dẫn chứng cụ thể, đút kết kinh nghiệm, đánh giá để đưa ra phương
pháp, hướng giải quyết phù hợp.
Tra cứu, tìm hiểu các tài liệu liên quan, phân tích so sánh nhằm làm rõ và cuối
cùng là đưa ra những nhận xét, đánh giá khách quan nhất về vấn đề.
Vận dụng quan điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp khái quát và mô tả, phân tích, tổng hợp. PHẦN NỘI DUNG :
CHƯƠNG 1 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TÔN GIÁO TRONG THỜI KÌ QUÁ
ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1 Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin về tôn giáo
1.1.1 Khái niệm về tôn giáo :
Nhìn nhận một cách tổng quan ta thấy tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu
nhiên, vô hình được cảm nhận bằng trực giác, có nhiều khái niệm về tôn giáo, tùy vào
mục đích nghiên cứu hay góc nhìn của mỗi người sẽ mỗi khác nhau. Theo Khoản 6
Điều 2 Luật Tín ngưỡng năm 2016, tôn giáo là niềm tin của con ng ười tồn tại với quan
niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lí, giáo luật, lễ nghi và tổ chức.1
Còn đối với riêng bản thân những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, họ cho rằng : "tôn
giáo là sự phản ánh một cách biến dạng, sai lệch, hư ảo về giới tự nhiên và con người,
về các quan hệ xã hội. Hay nói cách khác, tôn giáo là sự nhân cách hóa giới tự nhiên, là
sự “đánh mất bản chất người”. Chính con người đã khoác cho thần thánh những sức
mạnh siêu nhiên khác với bản chất của mình để rồi từ đó con người có chỗ dựa, được
chở che, an ủi - dù đó chỉ là chỗ dựa “hư ảo” ". Ph.Ăngghen cho rằng: “… tất cả một
tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu, óc của con người – của
những lực lượng ở bên ngoài chi phối sống hàng ngày của họ; chỉ sự phản ánh trong đó
những lực lượng ở trần thế mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”2.
Ta thấy rằng, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác thì tôn giáo là một hiện tượng
hoang đường, không có thật, thế nhưng nó lại tồn tại những mặt tích cực đáng được lưu
tâm khai thác triệt để vì giá trị mà tôn giáo mang lại là rất lớn không thể phủ nhận điều
đó. Ta thấy rằng, điều kiện kinh tế xã hội chính là thực tế khách quan, là nguồn gốc chủ
yếu phát sinh ra tôn giáo, đứng trên lập trường chủ nghĩa duy vật lịch sử, Mác và
Ăngghen đã lí giải điều ấy từ đôi mắt triết học. Trong lịch sử phát triển của nhân loại,
con người luôn gặp khó khăn, luôn cảm thấy yếu đuối, bất lực trước những thử thách
trong quá trình lao động, trong tiềm thức họ đã gắn cho tự nhiên một sức mạnh tiềm
tàng siêu nhiên, đó cũng chính là cơ sở cho sự thờ cúng sau này. Quan sát quá trình phát
triển của loại người, khi xã hội xuất hiện giai cấp, loài người càng gặp nhiều rắc rối khó
1 Khoản 6 Điều 2 Luật Tín Ngưỡng năm 2016, Quốc hội ban hành ngày 18 tháng 11 năm 2016 và có
hiệu lực kể từ ngày 26 tháng 12 năm 2016.
2 Tuyển tập Mác - Ăngghen, tập 1 tr 13, 14 . NXB Sự thật Hà Nội 1980.
khăn hơn, khi giai cấp bị trị luôn chịu thiệt thòi về vật chất cũng như chất lượng cuộc
sống, còn giai cấp thống trị thì trong tâm thế lo sợ mất của. Hơn thế nữa, những yếu tố
ngẫu nhiên tự phát, những rủi ro bất chợt xuất hiện có thể đến bất cứ lúc nào gây cho
họ cảm giác sợ hãi, lo lắng, bất an. Cuối cùng họ quyết định tìm một chỗ dự a, đó chính là tôn giáo.
1.1.2 Nguồn gốc của tôn giáo :
Kế thừa học thuyết Mác-Ăngghen, Lênin đã phát hiện ra 3 nguồn gốc chính của
tôn giáo. Người đã phân tích, chỉ rõ những quan điểm của mình về chúng, cụ thể như sau.
Đầu tiên, tôn giáo xuất phát từ tự nhiên, trong kinh tế - xã hội. Theo riêng cá
nhân ông thì : " Nguồn gốc sâu xa nhất của các thành kiến tôn giáo là cùng khổ và dốt
nát”; ông còn cho rằng : “sự áp bức đối với quần chúng nhân dân lao động về mặt xã
hội, tình trạng có vẻ hoàn toàn bất lực của họ trước những thế lực mù quáng của chủ
nghĩa tư bản đang hàng ngày hàng giờ gây ra cho những người lao động bình thường
những nỗi khổ cực kỳ ghê gớm, những sự đau thương thật là khủng khiếp, nhiều gấp
nghìn lần so với những biến cố phi thường như chiến tranh, động đất,... đó là nguồn gốc
sâu xa nhất hiện nay của tôn giáo”3.
Kế đó, tôn giáo xuất phát từ nguồn gốc nhận thức của con người. Ông cho rằng
hai khả năng dẫn đến nguồn gốc ấy là do con người chưa hiểu được bản chất, quy luật
vận động của sự vật hiện tượng xung quanh đời sống con người và bên cạnh đó là những
điều khoa học chưa thể lý giải được mà phải nhờ những truyền thuyết về tôn giáo giải thích.
Cuối cùng, quan trọng hơn hết, nguồn gốc của tôn giáo xuất phát từ nhận thức
của mỗi cá thể, đó chính là nỗi sợ, sự bất an, yếu tố bất ngờ bất như ý, sự ham muốn đạt
được thành công mà không mất nhiều công sức hay thậm chí là tình cảm đặc biệt như
tình yêu, lòng biết ơn, lòng kính trọng muốn tôn thờ những người có công với nước có
hiếu với dân : thờ thần hoàng, thờ ông bà tổ tiên, thờ các chiến sĩ đã hy sinh,...
1.1.3 Bản chất của tôn giáo :
Chủ nghĩa Mác - Lênin coi tín ngưỡng, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội
phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Chỉ rõ bản chất của tôn
giáo, chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo khẳng định rằng: Tôn giáo là một hiện tượng
xã hội - văn hóa do con người sáng tạo ra chứ không phải tôn giáo sáng tạo ra con người.
Vì muốn tìm chỗ dựa khi gặp khó khăn, thử thách, muốn giáo dục con người ta sống
theo lẽ đạo mà con người ta sáng tạo ra tôn giáo, do đó ta thấy rằng tôn giáo là bức
tường vững chải giúp con người ta rất nhiều về đời sống tinh thần thể hiện được ước
mơ, hoài bão, nguyện vọng của con người. Bên cạnh những tích cực vừa nêu, sáng tạo
ra tôn giáo, con người lại bị lệ thuộc vào nó, tuyệt đối hóa và phục tùng tôn giáo vô điều
kiện. Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng cho rằng, sản xuất vật chất và các quan hệ kinh tế,
xét đến cùng là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của các hình thái ý thức xã
3 Tuyển tập Mác, Ăng-ghen, Tập 1, tr 566, NXB Sự thật Hà Nội 1980.
hội, trong đó có tôn giáo, nhiều người cứ lo thờ cúng mà không tự tạo ra sản phẩm lao
động, rồi tự lao đầu vào bế tắc. Do đó, mọi quan niệm về tôn giáo, các tổ chức, thiết chế
tôn giáo phải được sinh ra từ những hoạt động sản xuất, từ những điều kiện sống nhất
định trong xã hội và thay đổi theo những thay đổi của cơ sở kinh tế của các Quốc gia
mà nó ngự trị. Tóm lại, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tôn giáo có nguồn
gốc từ trong hiện thực và phản ánh chính hiện thực đó, một hiện thực cần có tôn giáo
và có điều kiện để tôn giáo xuất hiện và tồn tại.
Tôn giáo là một sản phẩm của lịch sử là một thực thể khách quan của loài
người nhưng lại đa dạng về nội dung cũng như hình thức biểu hiện. Về mặt nội dung,
nội dung cốt lỗi của tôn giáo là niềm tin tác động lên các thực thể, các cộng đồng thực
thể. Tôn giáo thường đưa ra các quy tắc tuyệt đối làm mục tiêu cho con người phấn
đấu vươn tới cuộc sống tốt đẹp hơn và nội dung ấy được thể hiện bằng những nghi
thức, những điều cấm… nó chứa đựng một số nhân tố giá trị văn hóa, phù hợp với đạo
đức con người, phù hợp thuần phong mỹ tục, đạo lý của xã hội, bảo vệ bênh vực
quyền lợi của người nghèo người bị áp bức. Tuy nhiên có những tôn giáo trở thành
công cụ của giai cấp thống trị, chỉ bảo vệ lợi ích của giai cấp ấy, mà chà đạp lên lợi
ích của giai cấp còn lại, đi ngược hoàn toàn với bản chất vốn có của nó.
Thế giới quan duy vật Mác xít và thế giới quan tôn giáo là đối lập nhau, tuy
nhiên, những con người trên lập trường Mác xít không bao giờ có thái độ xem thường,
ganh ghét, phê phán, bài xích những nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo hợp pháp của nhân
dân. Ngược lại hoàn toàn với điều đó, chủ nghĩa Mác-Lênin và những con người cộng
sản, chế độ Xã hội Chủ nghĩa luôn luôn dành sự tôn trọng đối với quyền tự do tín
ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, tôn trọng quyền tự do cá nhân của mỗi
con người, họ không phê phán tôn giáo, mà phê phán hiện thực làm nảy sinh tôn giáo,
tức là phê phán sự tham lam, bất công, bạo lực, áp bức,... trong xã hội loài người.
1.1.4. Tính chất của tôn giáo :
Khi phân tích về tôn giáo, người ta chỉ ra 3 tính chất của nó : tính Lịch sử, tính
Quần chúng và tính Chính trị.
Tính Lịch sử : Tôn giáo chỉ xuất hiện khi con người đạt đến khả năng tư duy trừu
tượng nhất định, chứ không xuất hiện đồng thời cùng lúc với con người. Tôn giáo là sản
phẩm của lịch sử, tùy vào điều kiện lịch sử cụ thể mà có những tôn giáo riêng, tôn giáo
phải biến đổi cho thích nghi với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội lúc bấy giờ. Đến một
giai đoạn lịch sử nào đó, tri thức của con người dần được nâng cao hơn, họ sẽ hiểu rõ
bản chất quy luận tồn tại và vận động của cuộc sống, kể từ lúc đó tôn giáo sẽ không còn
nữa. Bên cạnh đó ta thấy tôn giáo còn là tấm gương phản chiến lịch sử của dân tộc, là
người bạn đồng hành cùng đất nước qua bao ngày tháng thăng trầm. Tùy vào điều kiện
lịch sử cụ thể mà có những tôn giáo riêng phù hợp với điều kiện sống và nhận thức của con người khi ấy.
Tính Quần chúng : Tôn giáo là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của cả cộng
đồng người. Bản chất của tôn giáo là phản ánh ước mơ huyền ảo của con người nhưng
thể hiện được khát vọng, niềm tin, và hoài bão của họ trong một vấn đề của cuộc sống.
Do đó ta thấy rằng tôn giáo có tính quần chúng, khi mọi thứ đều hướng tới hạnh phúc
chung, niềm vui lớn, hạnh phúc lớn. Làm rõ hơn vấn đề này, ta thấy rằng tôn giáo là
niềm tin của một nhóm người vào sức mạnh thiên nhiên thần bí, nó được lan rộng ra
khắp Thế giới, các tôn giáo đều có một cộng động các cá nhân theo đạo và hệ thống
chức sắc rõ ràng, nói cách khác tôn giáo hay tín ngưỡng là một xã hội tâm linh thu nhỏ
có hệ thống và phân cấp rõ ràng, cụ thể.
Tính Chính trị : Khi xã hội bắt đầu phân chia giai cấp, cũng là lúc một số tôn
giáo bị biến tướng, trở thành công cụ phục vụ cho giai cấp thống trị. Tôn giáo đang lan
rộng ra khắp Thế giới, nhiều tôn giáo trở thành bộ mặt của Quốc gia. Có những cá nhân,
tổ chức tôn giáo để giành lấy lợi ích riêng của mình, gây ra các cuộc chiến tranh về tôn
giáo, ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi mặt của đời sống. Do đó tôn giáo cũng mang tính Chính trị.
1.2. Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội
Trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội, tôn giáo vẫn còn tồn tại tuy đã biến
đổi vài mặt, do đó các nhà chức trách, các cán bộ lãnh đạo cần có những chính sách
mềm mỏng, ôn hòa nhưng phải nghiêm minh thực hiện quán triệt mọi thứ.
Thứ nhất : Tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
Tín ngưỡng tôn giáo là niềm tin, sự nhận thức của mỗi cá nhân về thế lực siêu
nhiên vô hình, do đó tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mỗi người là điều tất yếu
phải có, ta thấy rằng tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng hoặc không tín
ngưỡng là tôn trọng quyền con người của một cá nhân, đây là sự tiến bộ của Nhà nước
Xã hội Chủ nghĩa khi lấy con người làm gốc, tôn trọng một cá nhân là tôn trọng cả cộng
đồng, giúp cả dân tộc có được sự đoàn kết. Nhà nước đảm bảo không can thiệp và không
cho ai có quyền can thiệp vào quyền tự do tín ngưỡng của người khác, hỗ trợ xây dựng
các cơ sở thờ tự, cấp phép các hoạt động tôn giáo,... tạo mọi điều kiện thuận lợi nhằm
thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân . Đảng 4
và Nhà nước cũng cần phân biệt rõ,
hai mặt chính trị và tư tưởng trong quá trình giải quyết các vấn đề về tôn giáo.
Thứ hai : Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, gắn với quá
trình cải tạo Xã hội cũ, xây dựng Xã hội mới.
Như đã đề cập chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ phê phán hiện thực làm nảy sinh tôn
giáo, tức là phê phán sự tham lam, bất công, bạo lực, áp bức,... trong xã hội loài người.
Nguyên tắc này một lần nữa khẳng định sự tôn trọng của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với
nội bộ tôn giáo, những người theo tôn giáo và những người không theo tôn giáo. Thay
đổi bản thân tồn tại xã hội dẫn đến thay đổi cả ý thức xã hội, muốn xóa bỏ những quan
điểm sai lầm của con người phải xóa bỏ nguồn gốc sinh ra sai lầm ấy. Cải cách Thế giới
này thành Thế giới không có bất công, áp lực, nghèo đói, tệ nạn, khó khăn,.. là điều vô
cùng khó cũng như một hành trình dài, vì vậy không thể xây dựng hoàn toàn Thế giới
mới mà chỉ có phối hợp song song hai việc : cải tạo Xã hội cũ và xây dựng Xã hội mới.
4 Khoản 1,2 Điều 3 Luật Tín ngưỡng năm 2016, có hiệu lực kể từ ngày 26 tháng 12 năm 2016.
Thứ ba : Phân biệt chính trị, tư tưởng; tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo
Mặt tư tưởng là biểu hiện mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân thuần túy về tư tưởng.
Trong lúc dựng xây và cải tạo Xã hội Chủ nghĩa mới có thể giải quyết được những vấn
đề phát sinh về mặt này.
Mặt chính trị phản ánh mâu thuẫn đối kháng về lợi ích kinh tế, chính trị giữa các
giai cấp và những thế lực lợi dụng tôn giáo chống lại sự nghiệp cách mạng và lợi ích
của nhân dân. Nhà cầm quyền phải ban hành luật pháp thật nghiêm minh, kiên quyết
giải quyết triệt để những kẻ lợi dụng tôn giáo mới có thể giải quyết mặt này.
Thứ tư : Phải có quan điểm lịch sử, cụ thể trong giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo
Tôn giáo luôn luôn vận động thay đổi để phù hợp với các điều kiện kinh tế chính
trị tại Quốc gia nó đang ngự trị cùng với thời điểm lịch sử mà nó xuất hiện. Các giáo
dân, giáo sĩ, giáo đoàn, giáo hội, những tôn giáo khác nhau, những Quốc gia khác nhau,
những người mục đích khác nhau,.. đều có những quan điểm khác nhau. Khi vấn đề tôn
giáo xảy ra cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi cân nhắc và ứng xử phù hợp sao
cho giải quyết những vấn đề xung quanh nó một cách ổn thỏa, tránh gây xung đột nội
bộ, dẫn đến đấu tranh tôn giáo.
CHƯƠNG 2 : TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC
2.1. Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam :
Thứ nhất : Việt Nam là Quốc gia có nhiều tôn giáo
Việt Nam không phải là "cái nôi" của tôn giáo, mà nơi đây lại là "cánh đồng"
của tôn giáo nơi du nhập đa dạng các tôn giáo từ lớn tới bé, các tôn giáo thỏa sức phát
triển tại đất nước này. Ở nước ta tổng cộng có 16 tôn giáo chính thức đã được Nhà nước
Cộng Hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam công nhận với tư cách pháp nhân đó là : Hồi
giáo, Giáo hội Phật giáo đường Nam Tông, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bà la môn, Minh Sư
Đạo, Công Giáo, Minh Lý đạo – Tam Tông miếu, Tin lành, Phật giáo, Baha'i, Tịnh độ
Cư sĩ Phật hội, Bửu Sơn Kỳ Hương, Cao Đài và Phật Giáo Hòa Hảo, Mặc Môn và cơ
đốc Phục Lâm vừa được công nhận, Việt Nam có trên 45 tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo
đã được công nhận về mặt tổ chức hoặc đã đăng ký hoạt động với khoảng 26 triệu 500
nghìn tín đồ, với hàng chục ngàn cơ sở thờ tự lớn nhỏ được Đảng và Nhà nước ta đặc
biệt quan tâm hỗ trợ các hoạt động. Theo như một số chia sẻ hầu hết người dân đều tín
ngưỡng hoặc có nhu cầu tín ngưỡng, từ thờ các chiến sĩ, ông bà cha mẹ, tổ tiên, đến
người có tín ngưỡng tôn giáo.
Số liệu theo cục Tổng cục Thống kê Việt Nam
Thứ hai : Việt Nam là Quốc gia có tôn giáo đa dạng, đan xen, chung sống hòa bình với nhau
Khác với các Quốc gia có tôn giáo độc tôn khác, Việt Nam là Quốc gia có các
tôn giáo đa dạng, đan xen, chung sống hòa bình với nhau chứ không bài xích, mâu thuẫn
bày trừ lẫn nhau. Điều đó dẫn đến không xảy ra vấn đề nội chiến của Quốc gia, các tôn
giáo tồn tại song song hỗ trợ nhau, dù tất cả có khác nhau về hình thức lẫn nội dung tín
ngưỡng, nhưng nhìn nhận một cách khái quát, các tôn giáo ra đời đều hướng đến Chân,
Thiện, Mỹ, giáo dục con người sống "tốt đời, đẹp đạo", tích cực cống hiến cho cộng đồng.
Thứ ba : Tín đồ tôn giáo chủ yếu là nhân dân lao động, người yêu nước
Trong quá trình lao động, người lao động luôn luôn gặp những khó khăn, những
yếu tố bất lợi từ ngoại cảnh, họ cảm thấy yếu đuối, bất lực trước những biến cố, những
điều bất như ý ấy, nên họ tìm đến tôn giáo như một chỗ dựa vững chải, giúp tiếp thêm
sức mạnh cho cuộc sống này.
Bên cạnh đó, tôn giáo cũng xuất phát từ yếu tố tình cảm lòng kính trọng đối với
thế lực siêu nhiên, tình cảm đó có thể là tình yêu, sự trung thành, lòng biết ơn sâu đậm,...
Trên hết, những con người đã hi sinh, ngã xuống vì đồng bào dân tộc, xứng đáng được
nhận sự tôn trọng, kính yêu từ mọi người. Do đó việc thờ cúng để nhắc nhớ về công ơn,
sự hi sinh của là điều tất yếu cần thiết.
Dù là gì đi nữa thì đa số tín đồ đều có chung đặc điểm là yêu nước, yêu hòa bình,
yêu công lý, luôn hướng đến những điều hay lẽ phải, luôn muốn những điều tích cực đến với cuộc sống.
Thứ tư : Chức sắc tôn giáo có vai trò và ảnh hưởng đến tín đồ
Tôn giáo cũng có hệ thống, quan điểm rõ ràng, được phân cấp để quản lí, mà
người đứng đầu được gọi là giáo chủ. Họ là những người tự nguyện thường xuyên thực
thiện các quy tắc giáo lý, làm những điều thiện lành, tránh những điều cấm kị của tôn
giáo mà họ tin theo. Họ có vai trò chính trong việc tổ chức các lễ nghi, tuyên truyền
giáo luật, học tập giáo lý,... Họ còn đóng vai trò là người truyền đạo, người chịu trách
nhiệm phát huy, giữ gìn và hướng dẫn tín đồ thực hành đời sống tôn giáo, đôi khi họ
còn chịu trách nhiệm quản lý cơ sở vật chất tại các nơi thờ tự, các địa điểm tôn giáo.
Nhìn chung, vai trò của họ góp phần không nhỏ trong việc dẫn dắt các tín đồ đi đúng
hướng mà tôn giáo đã đề ra. Tóm lại, ta thấy rằng chức sắc tôn giáo có vai trò và ảnh
hưởng đến các tín đồ tín ngưỡng tôn giáo đó.
Thứ năm : Tôn giáo có liên hệ với nước ngoài
Như chúng ta biết, ở Việt Nam bên cạnh những tôn giáo nội sinh, tự phát như
Cao Đài, thì phần lớn đều ngoại sinh, du nhập từ nước ngoài. Thích hợp với nhu cầu
của các Quốc gia đó, các tôn giáo mở rộng khắp Thế giới. Các tín đồ trong cùng một
tôn giáo có mối liên kết chặt chẽ với nhau thông qua hệ thống giáo pháp, giáo luật, giáo
lý mà các chức sắc tôn giáo đã tuyên truyền giảng dạy. Tất cả đều có mối quan hệ cá
nhân tổ chức chặt chẽ không chỉ riêng ở nội bộ Quốc gia mà còn lan rộng khắp Quốc tế.
Thứ sáu : Các thế lực thù địch thường lợi dụng các vấn đề tôn giáo
Các thế lực xem tôn giáo là "công cụ" tuyệt vời trong việc chống phá, xuyên tạc
nền chính trị của một Quốc gia, họ tự xưng là người thực hiện giáo lý của chúa để thực
hiện âm mưu chống phá Nhà nước. Với những hành vi khôn ngoan, tinh vi, thâm độc
họ lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, không tí
n ngưỡng của con người để thực hiện hành
vi của bản thân hòng kích động, gây hoang mang lo sợ, đánh vào nhận thức của con
người để chia rẽ con người. Với mưu đồ tạo ra mâu thuẫn giữa nhân dân và bộ máy
chính trị, chúng dần tạo nên khoảng cách giữa người dân và Đảng, làm sụp đổ bộ máy
chính quyền, rồi từ từ nhân cơ hội xây dựng một đế chế riêng, hay chỉ đơn giản là vì
muốn hủy diệt bộ máy Nhà nước, muốn chống phá Cách mạng, muốn gây hoảng loạn
đời sống xã hội, mất đi sự tin tưởng của nhân dân dành cho Đảng và Nhà nước.
2.2. Quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước đối với tôn giáo Việt Nam :
2.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước :
Đại diện Đảng Cộng sản Việt Nam từng nói : “Phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp
của tôn giáo. Động viên, giúp đỡ đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn giáo sống “tốt
đời, đẹp đạo", hay " việc ổn định đời sống tôn giáo và tạo thêm điều kiện cho các tôn
giáo cống hiến khả năng xây dựng, phát triển đất nước là không ngoài quy luật mà tư
tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ ra: luôn luôn duy trì và phát triển xu hướng tôn giáo đồng
hành với dân tộc và CNXH, đoàn kết dân tộc tôn giáo trước hết bằng mục tiêu chung,
điểm tương đồng giữa lý tưởng tốt đẹp vốn có của các tôn giáo với CNXH, khai thác
những giá trị tích cực của các tôn giáo trước hết là các giá trị văn hoá và đạo đức, đồng
thời luôn cảnh giác với những âm mưu lợi dụng các tôn giáo vào mục đích chính trị
phản dân tộc và CNXH..."5 tại Đại hội Đảng lần thứ X cho thấy Nhà nước ta đặc biệt
quan tâm về vấn đề tôn giáo, xem đây là nhu cầu tín ngưỡng cần có của mỗi người.
Tại Đại hội VII, Đảng ta cũng nhấn mạnh về công tác tôn giáo : “Phát huy giá trị văn
hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo” ,
6 qua đó ta thấy rằng Đảng có những động thái
nghiêm túc, quan tâm và quản lý chặt chẽ các vấn đề
xung quanh tín ngưỡng của người
dân, hỗ trợ, phát huy tối đa những tích cực mà tôn giáo mang lại.
Đến Đại hội Đảng lần thứ XIII (6/2021), Đảng ta nêu rõ: “Phát huy các nhân tố tích
cực, nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng. Phê phán và ngăn chặn các bi ểu hiện tiêu
cực, mê tín, dị đoan”7. Đảng và Nhà nước coi trọng quyền tín ngưỡng của người dân vì
đó là quyền con người, nhưng cũng lên án phê phán những hành vi tiêu cực phát sinh
trong tôn giáo, làm cho người dân kích động, sợ hãi, hay mất niềm tin vào cuộc sống.
Nhà nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của do, do dân và vì dân,
do đó Nhà nước ta luôn tôn trọng cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho người dân Việt
Nam thực hiện quyền tự do tín ngưỡng của mình. Mọi người dân có quyền theo tôn giáo
hoặc không theo tôn giáo, Nhà nước Việt Nam không phân biệt người theo đạo hay
người không theo đạo. Mọi người dù theo tôn giáo nào, thậm chí không theo tôn giáo
đều có quyền và nghĩa vụ của một công dân nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam. Mọi cá nhân hay tổ chức hoạt động tín ngưỡng đều phải thực hiện đúng công tác
tôn giáo cũng như phải chấp hành Hiến pháp, Pháp luật của Quốc gia. Mọi tôn giáo
được Nhà nước thừa nhận được Nhà nước bảo hộ các hoạt động truyền giáo của riêng
tôn giáo đó, không ai có quyền xâm phạm cũng như bày trừ tôn giáo mà Nhà nước bảo hộ.
Nhà Nước ta cũng khuyến khích, những tôn giáo có chính sách hướng đến cái
thiện, lan tỏa lòng nhân ái, yêu thương con người, Đảng và Nhà nước cũng tri ân những
tổ chức tôn giáo có công trong việc giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn, nâng cao nhận
thức của con người về pháp luật.
5 Vấn đề tôn giáo trong Văn kiện Đại hội Đảng lần X, truy cập 14h24 ngày 29 tháng 11 năm 2022 tại :
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-t -
u lieu-ve-dang/gioi-thieu-van-kien-dang/van-de-ton- giao-trong-van-kien-dai-ho -
i lan-thu-x-cua-dang-cai-da-co-va-cai-can-co-903 .
6 Vấn đề tôn giáo trong Văn kiện Đại hội Đảng lần X, truy cập 14h24 ngày 29 tháng 11 năm 2022 tại :
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-t -
u lieu-ve-dang/gioi-thieu-van-kien-dang/van-de-ton- giao-trong-van-kien-dai-ho -
i lan-thu-x-cua-dang-cai-da-co-va-cai-can-co-903 .
7 Những điểm nổi bật về tôn giáo, truy cập 14h44 ngày 29 tháng 11 năm 2022, tại
http://mattran.org.vn/dan-toc-ton-giao/nhung-diem-noi-bat-ve-ton-giao-trong-van-kien-dai-ho - i xiii-cua- dang-40633.html .
2.2.2. Chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề tôn giáo :
Vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, vào thực tiễn Việt Nam. Đảng và Nhà
nước đã có những chủ trương phù hợp, chính sách hợp lý và quan điểm rõ ràng, hướng
tới mục tiêu chung là tình đoàn kết và sức mạnh dân tộc.
Trước hết, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Mọi người dân đặc biệt là nhân dân lao động, cần có chỗ dựa tinh thần trong cuộc sống,
tôn giáo ra đời nhằm mục đích đó. Do đó Đảng và Nhà nước phải xác định phải luôn
đồng hành cũng như phát triển cùng tôn giáo trong quá trình dựng xây đất nước.
Tiếp theo, thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc, không phân biệt
đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận
nhân dân, Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng
của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương giáo và giữa các dân tộc. Khắc phục
mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những
hành vi vi phạm tự do tín ngưỡng” . Đảng Cộng 8
sản Việt Nam xác định quyền và nghĩa
vụ của người tín ngưỡng và không tín ngưỡng là tương đương nhau, đều phải sống và
làm việc đúng Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Để tránh sự mất
đoàn kết, chia rẽ, bè phái Đảng ta nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt người theo tôn
giáo và không theo tôn giáo, người giữa tôn giáo này và tôn giáo khác. Bên cạnh đó,
Đảng ta cũng lên án và bài xích hành vi lợi dụng tôn giáo để thực hiện âm mưu chia rẽ,
phá hoại sự đoàn kết, cũng như chống phá Nhà nước của các thế lực chống phá.
Sau đó , nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là vận động quần chúng. Nhà
nước ra sức giáo dục tuyên truyền tinh thần yêu nước quý báu, sự đoàn kết thống nhất
của dân tộc Việt Nam xuyên suốt quá trình lịch sử đến nay. Đồng thời, hỗ trợ tích cực
các nhà lãnh đạo tôn giáo trong quá trình giáo dục nhân cách và lối sống con người
thông qua giáo lý của tôn giáo.
Thêm vào đó, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị do Đảng
lãnh đạo, trong đó, đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo l à lực lượng nòng
cốt. Toàn thể bộ máy lãnh đạo đều ra sức thực hiện triệt để, quán triệt công tác tôn giáo,
thường xuyên kiểm tra và đưa ra giải pháp phù hợp với thực trạng tôn giáo của Việt
Nam. Nhà nước ra sức giữ gìn và phát huy truyền thống, giá trị tích cực của tín ngưỡng,
như lòng biết ơn đến các thương binh liệt sĩ, người có công với Cách Mạng qua công
tác viếng thăm, vận động mọi người tưởng nhớ đến họ.
Cuối cùng là vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mọi vấn đề về truyền giáo phải thực
hiện đúng theo luật pháp nước Việt Nam, dưới sự giám sát kiểm tra của cơ quan chức
trách. Nhà nước nghiêm cấm những hành vi lợi dụng tôn giáo để gây nội chiến, lan
truyền mê tín dị đoan, làm sai lệch nhận thức của người dân.
Tóm lại, qua những chính sách của Đảng và Nhà nước ta thấy được sự nhất quán,
rõ ràng, bộ máy lãnh đạo luôn quán triệt mọi mặt của đời sống luôn đảm bảo công bằng
8 Nghị quyết 25-NQ/TƯ ngày 12-3-2003, tại Đại hội Đảng khóa VII.
bình đẳng giữa mọi người, quan tâm mọi mặt của đời sống, trong đó có đời sống tín
ngưỡng. Đảng và Nhà nước luôn giúp đỡ hết mình, phối hợp cùng các đơn vị tôn giáo
hỗ trợ những trường hợp bất hạnh, luôn là chỗ dựa vững chắc cho nhân dân, ra sức đảm
bảo quyền sống, quyền tự do tín ngưỡng của mọi người. Những năm gần đây, bộ máy
lãnh đạo luôn kiểm tra, theo dõi, điều chỉnh các chính sách sao cho phù hợp với đời
sống tôn giáo của nhân dân, gìn giữ khối đại đoàn kết dân tộc, tránh gây xung đột nội
chiến, hơn hết là ra sức phát hiện và xử lý những hành vi lợi dụng tôn giáo để trục lợi
cá nhân, chống phá Nhà nước gây ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống con người.
2.2.3. Thực trạng tôn giáo ở Việt Nam :
Ở Việt Nam, đa phần các tôn giáo được du nhập từ nước ngoài, có thể nói nước ta là
"cánh đồng bất tận", tạo điều kiện thuận lợi cho các tôn giáo phát triển mạnh mẽ, đa
dạng và phong phú. Trong quá trình tiến lên Xã hội Chủ nghĩa, con người - đặc biệt là
nhân dân lao động luôn gặp những khó khăn, trúc trắc, bất lợi trong cuộc sống. Do đó
họ cần niềm tin, chỗ dựa tinh thần vững chắc, của thế lực siêu nhiên nhằm xua tan những
gian khổ nhọc nhằn, xoa dịu đời sống tinh thần, nâng cao nhận thức về thế giới quan,...
Do đó tín ngưỡng là điều vô cùng cần thiết với đời sống của con người Việt Nam.
Các tôn giáo Việt Nam hòa đồng, không đấu tranh giành sự độc tôn. Tín ngưỡng,
tôn giáo của người Việt Nam tuy có tính phổ biến cao, nhưng chủ yếu ở cấp độ tâm lý
: Việt Nam là một Quốc gia đa văn hóa, đa dân tộc thế nhưng lại không xảy ra tranh
chấp giữa các tôn giáo. Khác với các nước khác, có tính độc thần chỉ phổ biến duy nhất
một tôn giáo, tôn giáo này trở nên độc tôn và phổ biến khắp Đất nước, đa số người dân
Việt Nam xem tín ngưỡng là nơi xoa dịu những khó khăn, những thiếu hụt về tinh thần,
tôn giáo ở Việt Nam mang tính hòa đồng, người Việt Nam sáng suốt không cuồng tín,
không có tâm lý kiến thành.
Mặt tích cực : Các tôn giáo bên cạnh việc truyền giảng đạo lí, mà còn hỗ trợ Nhà
nước rất nhiều, chung tay giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn, những mảnh đời cơ nhỡ,
giúp sức đồng bào miền Trung từ lương thực đến các nhu yếu phẩm trong lúc thiên tai
: bão, lũ,... Các tôn giáo còn giảng dạy những điều hay, lẽ phải, hướng tới nhân đạo, bác
ái, từ bi, lẽ phải, giá trị nhân bản... qua đó đời sống vật chất cũng như tinh thần của con
người ngày càng nâng cao.
Mặt tiêu cực : Như đã nói Việt Nam là một Quốc gia đa tôn giáo, nhiều tôn giáo
hội nhập từ ngoài Thế giới, và cụ thể trong từng tôn giáo cũng rất phức tạp, từ hệ thống
giáo lý, hệ thống chức sắc cũng như quan niệm về Thế giới quan của con người là khác
nhau do đó rất khó kiểm soát hết các tôn giáo, từ đó làm cho việc lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo của các thế lực thù địch ở Việt Nam càng nguy hiểm và là hồi chuông cảnh báo
cho Đảng và Nhà nước. Chủ nghĩa Đế quốc, với chiến lược "diễn biến hòa bình" xem
tôn giáo là công cụ để truyền bá những tư tưởng sai lệch khiến niềm tin của nhân dân
lung lay, hoảng loạn từ đó làm suy yếu bộ máy Nhà nước ta, thấy rõ nhất là đạo Vàng
Chứ của người Mông ở Tây Bắc, cái gọi là “Tin lành Đề ga” ở Tây Nguyên, cái gọi là
Thánh Đức Chúa Trời truyền bá phổ biến những năm gần đây ở những trung tâm lớn
Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội,..9
2.2.4. Giải pháp giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam :
Một là, ra sức tuyên truyền, vận động quán triệt nhất quán các nhận thức, quan
điểm, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước. Đảng và Nhà nước cần thực hiện nghiêm
túc và có hiệu quả các chính sách tôn giáo, thường xuyên kiểm tra các nơi thờ tự, điều
tra các hành vi lợi dụng tôn giáo trục lợi gây ảnh hưởng đến cá nhân và Nhà nước.
Hai là, phát huy triệt để những giá trị cốt lõi, những văn hóa tốt đẹp muôn đời
của dân tộc Việt Nam. Nhà Nước ra sức giữ vững khối đại đoàn kết, tuyên truyền những
bài học về sự đoàn kết, tinh thần "uống nước nhớ nguồn" của nhân dân ta qua bao đời,
từ đó củng cố niềm tin của dân tộc Việt Nam về bộ máy Nhà nước.
Ba là, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của các cư sĩ, hỗ trợ các tôn giáo về
mọi mặt. Khi đời sống được nâng cao, phát triển, sẽ tạo ra mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng và các cơ quan tôn giáo, từ đó làm tăng sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc,
nhân dân sẽ tin vào Đảng, Nhà nước hơn, thực hiện đúng nghĩa vụ của một công dân.
Bốn là, phát huy vai trò của bộ máy Nhà nước, nhà lãnh đạo và cả hệ thống chính
trị nước Việt Nam. Thường xuyên đào tạo bồi dưỡng cán bộ, viên chức kể cả những
người có chức sắc tôn giáo, tạo mối quan hệ giữa Nhà nước và các nhà lãnh đạo tôn giáo.
Năm là, tích cực rèn luyện đạo đức phẩm chất chuyên môn, bồi dưỡng các kiến
thức về lí luận chính trị, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Chủ nghĩa Mác - Lênin.
Sáu là, chủ động đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, giải quyết triệt để những vấn
đề phát sinh của tôn giáo, phát hiện âm mưu của các lực lượng chống phá Nhà nước lợi
dụng tôn giáo để truyền bá những tư tưởng mê tín dị đoan, lạc hậu, gây mất đoàn kết
chia rẽ nội bộ, xung đột giữa tôn giáo này với tôn giáo khác. Đảng và Nhà nước phải
quyết liệt và đề ra phương hướng chính sách rõ ràng và quyết liệt để xóa tan âm mưu
của những kẻ chống phá, những thế lực thù địch.
Bảy là, mọi cá nhân phải sống hòa đồng, không phân biệt vùng miền tôn giáo,
hay kì thị sắc tộc vì tất cả đều là con người, đều có quyền con người, và đều được tôn
trọng như nhau, tránh gây xung đột mất hòa khí.
Tám là, tăng cường mối quan hệ tốt đẹp giữa tôn giáo và dân tộc. Mỗi giai đoạn
lịch sử cụ thể đều gắn liền với một tôn giáo nhất định, có thể nói tôn giáo là tấm gương
phản chiếu của lịch sử nhân loại Việt Nam, là người bạn đồng hành cùng dân tộc Việt
qua mọi thăng trầm lịch sử. Hiện nay, sự đổi mới toàn diện đất nước theo hướng Chủ
9 Đấu tranh ngăn chặn tà đạo ở nước ta, truy cập 15h2p ngày 29 tháng 11 năm 2022 tại
https://www.qdnd.vn/chong-dien-bien-hoa-binh/thanh-tuu-nha -
n quyen-viet-nam/dau-tranh-ngan-chan- cac-t - a dao-o-nuoc-t - a hien-na - y
572902#:~:text=%E1%BB%9E%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%2C%20nh%E1%BB%AFng%20n%C4
%83m%20qua%2C%20t%C3%A0%20%C4%91%E1%BA%A1o,nh%C6%B0%3A%20Tin%20l%C3%
A0nh%20%C4%90%E1%BB%81%20Ga%2C%20H%C3%A0%20M%C3%B2n%2C%20 .
nghĩa Xã hội cần rất sự nhiều sự đoàn kết từ khối đại đoàn kết dân tộc và khối đoàn kết
tôn giáo, tất cả để hướng tới một xã hội bền vững, tự do, hạnh phúc. PHẦN KẾT LUẬN
Vấn đề tôn giáo lúc nào cũng là nỗi trăn lớn với Đảng và Nhà nước ta, đặt ra vô
số vấn đề về chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục,... cần giải quyết triệt để, đúng đắn để
tránh gây mất đoàn kết dân tộc. Chúng ta không thể dùng vũ lực để đàn áp, giải quyết
các vấn đề xung quanh tôn giáo mà cần có chiến lược, công tác cụ thể, phải vừa mềm
mỏng vừa kiên quyết mà cốt lõi là công tác vận động quần chúng, Các nước Chủ nghĩa
Xã hội, dựa trên tinh thần của Chủ nghĩa Mác - xít không thủ tiêu, bài trừ tôn giáo mà
chỉ thực hiện các chính sách, biện pháp ngăn chặn và chống lại những kẻ lợi dụng tôn
giáo hòng trục lời, chống phá Nhà nước. Quán triệt sâu sắc và toàn diện nội dung quan
điểm đồng thời vận dụng các khoa học lí luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, một cách
mềm dẻo, linh hoạt, và thông minh vào cuộc đấu tranh chống các hoạt động lợi dụng
tôn giáo xâm phạm đến an ninh Quốc gia, giữ vững độc lập bền vững của nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tràng An (7/2021) Quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với
tôn giáo [Trực tuyến]. Truy cập 0h22p ngày 27 tháng 11 năm 2022 tại
https://thanhtravietnam.vn/dan-toc-ton-giao/quan-diem-chinh-sach-cua-
dang-nha-nuoc-doi-voi-ton-giao-
196640.html#:~:text=%28ThanhtraVietNam%29%20%E2%80%93%20
Quan%20%C4%91i%E1%BB%83m%2C%20ch%C3%ADnh%20s%C3
%A1ch%20c%E1%BB%A7a%20%C4%90%E1%BA%A3ng%2C,gi%
C3%A1o%20trong%20kh%E1%BB%91i%20%C4%91%E1%BA%A1i
%20%C4%91o%C3%A0n%20k%E1%BA%BFt%20to%C3%A0n%20d %C3%A2n .
2. Các tôn giáo được công nhận tại Việt Nam (2022) [Trực tuyến]. Truy cập
14h59p ngày 27 tháng 11 năm 2022 tại https://vanhoatamlinh.com/cac-
ton-giao-duoc-cong-nhan-o-viet-
nam/#:~:text=%E1%BB%9E%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20c%C3
%B3%2016%20t%C3%B4n%20gi%C3%A1o%20%C4%91%C6%B0%
E1%BB%A3c,Hi%E1%BA%BFu%20Ngh%C4%A9a%20T%C3%A0%
20L%C6%A1n%2C%20B%E1%BB%ADu%20S%C6%A1n%20K%E1 %BB%B3%20H%C6%B0%C6%A1ng%3B .
3. Hoàng Mạnh Tưởng (2019), Tập bài giảng môn học Lý luận tín ngưỡng,
tôn giáo và chính sách của Đảng, Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, NXB
ĐH Quốc gia TP.Hồ Chí Minh, TP.HCM.
4. Tôn giáo là gì ? Bản chất, tính chất, nguồn gốc, chức năng của tôn giáo
[Trực tuyến]. Truy cập 13h45p ngày 22 tháng 11 năm 2022 tại
https://lytuong.net/ton-giao-l - a gi/ .
5. Tân Long (2019), Đấu tranh ngăn chặn tà đạo ở nước ta [Trực tuyến]. Truy cập 15h2p ngày 29 tháng 11 năm 2022 tại
https://www.qdnd.vn/chong-dien-bien-hoa-binh/thanh-tuu-nhan-quyen-
viet-nam/canh-giac-voi-nhung-ban-tay-den-loi-dung-t - u do-ton-giao- 641998 .
6. Trung tá, ThS. Nguyễn Ngọc Khương (2021), Những điểm nổi bật về tôn
giáo trong văn kiện đại hội XIII của Đảng [Trực tuyến]. Truy cập 14h44
ngày 29 tháng 11 năm 2022, tại http://mattran.org.vn/dan-toc-ton-
giao/nhung-diem-noi-bat-ve-ton-giao-trong-van-kien-dai-hoi-xiii-cua- dang-40633.html .
7. TS. Lê Văn Lợi (2014), Vấn đề tôn giáo trong Đại hội Đảng lần thứ VII, truy cập 14h12 ngày 29 tháng 11 năm 2022, tại
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-l - y luan/item/562-
bao-ton-phat-huy-nhung-gia-tri-van-hoa-dao-duc-tot-dep-cua-ton-giao- trong-cong-cuoc-doi-moi-
dat.html#:~:text=V%E1%BB%9Bi%20ch%E1%BB%A9c%20n%C4%8
3ng%20b%E1%BA%A3o%20t%E1%BB%93n%20v%C4%83n%20h%
C3%B3a%2C%20c%C3%A1c,c%C3%B3%20c%C3%B4ng%20v%E1
%BB%9Bi%20c%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BB%93ng%2C%
20v%E1%BB%9Bi%20d%C3%A2n%20t%E1%BB%99c .
8. Đỗ Quang Hưng (2015) trong Tạp chí thông tin công tác tư tưởng lý luận
8/2006, Vấn đề tôn giáo trong Văn kiện Đại hội Đảng lần X [Trực tuyến]. Truy cập 14h24 ngày 29 tháng 11 năm 2022 tại
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/gioi-
thieu-van-kien-dang/van-de-ton-giao-trong-van-kien-dai-hoi-lan-thu-x- cua-dang-ca - i da-c - o va-cai-ca - n c - o 903 .
9. TS. Vũ Trung Kiên Học viện Chính trị Khu vực 3 (2021) và tổ Công nghệ
thông tin, Quan điểm và Chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam là
nhất quán [Trực tuyến]. Truy cập 21h25p ngày 26 tháng 11 năm 2022 tại
http://thanhtratinh.hatinh.gov.vn/quan-diemchinh-sach-ve-ton-giao-cua-
dang-va-nha-nuoc-viet-nam-la-nhat-quan-
1638256148.html#:~:text=%C4%90%E1%BA%A3ng%20v%C3%A0%
20Nh%C3%A0%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%
20Nam%20th%E1%BB%B1c%20hi%E1%BB%87n,th%C6%B0%E1%
BB%9Dng%20theo%20%C4%91%C3%BAng%20ph%C3%A1p%20lu
%E1%BA%ADt%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c%20b%E1%B A%A3o%20%C4%91%E1%BA%A3m.