Lịch sử học thuyết kinh tế | Trường Đại học Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

Theo lý thuyết giá trị lao động, giá trị của một hàng hóa được xác định bằng lượng laođộngcầnthiếtđểsảnxuấtranó,baogồmcả laođộngtrựctiếpvàlaođộnggiántiếp.Laođộngtrực tiếplà laođộngcủangườilaođộngtrực tiếpthamgiavàoquátrìnhsảnxuất. Laođộnggiántiếplà laođộngcủanhữngngườilaođộngtạora cáctưliệusảnxuấtcầnthiếtchoquátrìnhsảnxuất. Tài liệu giúp bạn tham khảo và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

lOMoARcPSD| 45470709
1. Trình bày thuyết giá trị của học thuyết kinh tế chính trị cổ điển.
Học thuyết kinh tế chính trị cổ điển cho rằng giá trị của một hàng hóa được quyết định
bởi một số yếu tố, trong đó yếu tố quan trọng nhất là lượng lao động cần thiết để sản xuất
ra nó. Lý thuyết này được gọi thuyết giá trị lao động.
Theo lý thuyết giá trị lao động, giá trị của một hàng hóa được xác định bằng lượng lao
động cần thiết để sản xuất ra nó, bao gồm cả lao động trực tiếplao động gián tiếp. Lao
động trực tiếp là lao động của người lao động trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất.
Lao động gián tiếp là lao động của những người lao động tạo ra các liệu sản xuất cần
thiết cho quá trình sản xuất.
Ví dụ, để sản xuất ra một chiếc áo, cần có lao động của người thợ may, người thợ dệt,
người thợ nhuộm,... Laực động của những người thợ này lao động trực tiếp. Ngoài ra,
còn cần có lao động của những người lao động tạo ra các máy móc, thiết bị, nguyên
liệu,... cần thiết cho quá trình sản xuất. Lao động của những người lao động này là lao
động gián tiếp.
Lượng lao động cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa có thể được đo bằng thời gian lao
động. Thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa càng nhiều thì giá trị của
hàng hóa đó càng cao.
thuyết giá trị lao động đã những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của kinh tế
học. Lý thuyết này đã giải thích một cách hợp lý mối quan hệ giữa giá trị và lao động,
góp phần vào việc phát triển lý luận về giá trị của kinh tế học.
Tuy nhiên, lý thuyết giá trị lao động cũng có những hạn chế nhất định. Lý thuyết này
không giải thích được giá trị của những hàng hóa không cần lao động để sản xuất ra,
chẳng hạn như đất đai, tài nguyên thiên nhiên,... Ngoài ra, thuyết này cũng không giải
thích được giá trị của những hàng hóa độc quyền.
Ngoài thuyết giá trị lao động, học thuyết kinh tế chính trị cổ điển còn có một số
thuyết giá trị khác, chẳng hạn như:
thuyết giá trị sử dụng: thuyết này cho rằng giá trị của một hàng hóa được quyết
định bởi giá trị sử dụng của nó, nghĩa khả năng thỏa mãn nhu cầu của con người.
Lý thuyết giá trị trao đổi: Lý thuyết này cho rằng giá trị của một hàng hóa được quyết
định bởi giá trị trao đổi của nó, nghĩa tỷ lệ trao đổi giữa hàng hóa đó với các hàng hóa
khác.
Các lý thuyết giá trị này đã có những đóng góp nhất định cho sự phát triển của kinh tế
học. Tuy nhiên, chúng đều những hạn chế nhất định, không thể giải thích đầy đủ bản
chất của giá trị.
lOMoARcPSD| 45470709
1. Học thuyết kinh tế cổ điển nước Anh
1.1 thuyết về giá trị lao động của William.Petty (1623 - 1687).
William.Petty một trong những người sáng lập ra học thuyết kinh tế cổ điển
Anh. Ông sinh ra trong một gia đình thợ thủ công, trình độ tiến vật lý, nhạc
trưởng, người phát minh ra máy móc, bác trong quân đội và một đại địa chủ.
Ông đã viết nhiều tác phẩm về kinh tế như “Điều ước về thuế và thu thuế” “Số học chính
trị”, “Bàn về tiền tệ”, ... Trong tác phẩm “Bàn về thuế khoá lệ phí” Ông đã nêu ra
nguyên giá trị lao động và 3 phạm trù về giá cả. Đó giá cả tự nhiên, giá cả nhân tạo
và giá cả chính trị.
Thế nào giá cả tự nhiên? Ông viết “Một người nào đó, trong thời gian lao động
khai thác được 1 ounce bạc cùng thời gian đó sản xuất được 1 Barrel lúa mì, thì 1
ounce bạc là giá cả tự nhiên của 1 Barrel lúa mì. Nếu nhờ những mỏ mới giàu quặng hơn,
nên cùng một thời gian lao động đó, bây giờ khai thác được 2 ounce bạc thì 2 ounce bạc
giá cả tự nhiên của 1 Barrel lúa mì”.
Như vậy, giá cả tự nhiên giá trị hàng hoá. do lao động của người sản xuất
tạo ra. Lượng của giá cả tự nhiên, hay giá trị, tỷ lệ nghịch với năng suất lao động khai
thác bạc.
Nếu như gcả tự nhiên giá trị hàng hoá, thì giá cả nhân tạo giá cả thị trường
của hàng hoá. Ông viết “Tỷ lệ giữa lúa mì và bạc chỉ là giá cả nhân tạo chứ không phải là
giá cả tự nhiên”.
Theo ông, giá cả nhân tạo thay đổi phụ thuộc vào giá cả tự nhiên và quan hệ cung
cầu hàng hoá trên thị trường.
Về giá cả chính trị, W.Petty cho rằng, loại đặc biệt của giá cả tự nhiên.
cũng chi phí lao động để sản xuất hàng hoá, nhưng trong những điều kiện chính trị
không thuận lợi. Vì vậy, chi phí lao động trong giá cả chính trị thường cao hơn so với chi
phí lao động trong giá cả tự nhiên bình thường.
Đối với W.Petty, thì việc phân biệt giá cả tự nhiên, tức hao phí lao động trong
điều kiện bình thường với giá cả chính trị lao động chi phí trong điều kiện chính trị
không thuận lợi ý nghĩa to lớn. Ông người đầu tiên trong lịch sử đặt nền móng cho
thuyết giá trị lao động.
Tuy nhiên, lý thuyết giá trị lao động của W.Petty còn chịu ảnh hưởng tư tưởng chủ
nghĩa trọng thương. Ông chỉ thừa nhận lao động khai thác bạc nguồn gốc của giá trị,
còn giá trị của các hàng hoá khác chỉ được xác định nhờ quá trình trao đổi với bạc. Mặt
khác, Ông luận điểm nổi tiếng là: “Lao động cha còn đất mẹ của mọi của cải ”.
Về phương diện của cải vật chất, đó công lao to lớn của ông. Nhưng Ông lại xa rời
tưởng giá trị lao động khi kết luận “Lao độngđất đai là cơ sở tự nhiên của giá cả mọi
lOMoARcPSD| 45470709
vật phẩm” tức cả lao động đất đai nguồn gốc của giá trị. Điều này mầm mống
của lý thuyết các vấn đề sản xuất tạo ra giá trị sau này.
1.2 thuyết về giá trị lao động của A.Đam.Simith (1723 - 1790).
So với W.Petty, thuyết giá trị lao động của A.Smith bước tiến đáng kể.
Trước hết, ông chỉ ra rằng tất cả các loại lao động sản xuất đều tạo ra giá trị, lao động
thước đo cuối cùng của giá trị. Ông phân biệt sự khác nhau giữa giá trị sử dụng giá trị
trao đổi khẳng định giá trị sử dụng quyết định giá trị trao đổi. Khi phân ch giá trị
hàng hoá, ông còn cho rằng, giá trị được biểu hiện giá trị trao đổi của hàng hoá, trong
quan hệ số lượng với hàng hoá khác, còn trong nền sản xuất hàng hoá phát triển, nó được
biểu hiện tiền. Ông chỉ ra lượng giá trị hàng hoá do hao phí lao động trung bình cần
thiết quyết định đưa ra 2 định nghĩa về giá cả giá cả tự nhiên giá cả thị trường.
Về bản chất, giá cả thị trường là biểu hiện tiền tệ của giá trị.
Ông viết: “Nếu giá cả của một loại hàng hoá nào đó phù hợp với những cần
thiết cho thanh toán về địa tô, trả lương cho công nhân lợi nhuận cho bản được chi
phí cho khai thác, chế biến đưa ra thị trường thì thể nói hàng hoá đó được bán theo
giá cả tự nhiên. Còn giá cả thực tế qua đó hàng hoá được bán gọi giá cả. thể
cao hơn, thấp hơn hay trùng hợp với giá cả tự nhiên”.
Theo ông, giá cả tự nhiện tính khách quan, còn giá cả thị trường phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác như; giá cả tự nhiên, quan hệ cung cầu...
Tuy nhiên, thuyết giá trị lao động của A.Smith còn hạn chế. Ông nêu lên 2
định nghĩa: Thứ nhất, giá trị do lao động hao phí để sản xuất hàng hoá quyết định. Lao
động thước đo thực tế của mọi giá trị. Với định nghĩa này, ông người đứng vững trên
cơ sở thuyết giá trị–lao động. Thứ hai, ông cho rằng, giá trị là do lao động người ta
thể mua được bằng hàng hoá này quyết định. Từ định nghĩa này, ông suy ra giá trị do
lao động tạo ra chỉ đúng trong nền kinh tế hàng hoá giản đơn. Còn trong nền kinh tế
TBCN, giá trị do các nguồn thu nhập tạo thành, bằng tiền lương cộng với lợi nhuận
địa tô.. Ông cho rằng “Tiền lương, lợi nhuận, địa 3 nguồn gốc đầu tiên của mọi
thu nhập cũng như của bất kỳ giá trị trao đổi nào”. tưởng này xa rời thuyết giá trị
lao động “Giá trị do lao động hao phí để sản xuất hàng hoá quyết định, lao động
thước đo thực tế của mọi giá trị”.
1.3 thuyết giá trị lao động của David Ricardo (1772 - 1823).
Trong thuyết giá trị lao động, D.Ricardo dựa vào thuyết của A.Smith kế
thừa, phát triển tưởng của A.Smith. Ông phân biệt 2 thuộc tính của hàng hoá giá
trị sử dụng và giá trị trao đổi và chỉ rõ giá trị sử dụng là điều kiện cần thiết cho giá trị trao
đổi, nhưng không phải thước đo của nó.
Vì giá trị trao đổi giá trị tương đối được biểu hiện một số lượng nhất định của
hàng hoá khác (thay tiền tệ) nên Ricardo đặt vấn đề bên cạnh giá trị tương đối, còn tồn
lOMoARcPSD| 45470709
tại giá trị tuyệt đối. Đó thực thể của giá trị, số lượng lao động kết tinh, giá trị trao đổi
hình thức cần thiết và có khả năng duy nhất để biểu hiện giá trị tuyệt đối.
D.Ricardo soát sét lại luận giá trị của A.Smith, gạt bỏ những thừa mâu
thuẫn trong thuyết kinh tế của A.Smith. Chẳng hạn, trong định nghĩa về giá trị của
A.Smith, D.Ricardo chỉ ra định nghĩa “Giá trị lao động hao phí quyết địnhđúng,
còn định nghĩa “Giá trị lao động người ta thể mua được bằng hàng hoá y quyết
định” là không đúng. Theo ông, không phải chỉ trong nền sản xuất ng hoá giản đơn mà
ngay cả trong nền sản xuất lớn TBCN, giá trị vẫn do lao động quyết định.
D.Ricardo cũng khẳng định “Giá trị do lao động hao phí quyết định” cấu tạo
giá trị hàng hoá bao gồm 3 bộ phận là: c+v+m, nhưng ông cũng chưa phân tích được sự
dịch chuyển “c” vào sản phẩm mới diễn ra như thế nào. Ông có ý định phân tích lao động
giản đơn và lao động phức tạp, qui lao động phức tạp thành lao động giản đơn trung bình.
Ông cho rằng, lao động hội cần thiết quyết định lượng giá trị hàng hoá, song lại cho
rằng, lao độnghội cần thiết do điều kiện sản xuất sấu nhất quyết định.
Phương pháp nghiên cứu của ông còn có tính siêu hình. Ông coi giá trị là phạm trù
vĩnh viễn. Đó thuộc tính của mọi vật, Ông chưa phân biệt được giá trị hàng hoá g
cả sản xuất, chưa thấy được mâu thuẩn giữa giá trị giá trị sử dụng chưa được
thuyết tính hai mặt của lao động.
Tóm lại, Học thuyết kinh tế của D.Ricardo đạt tới đỉnh cao của kinh tế chính trị Tư
sản cổ điển. Ông đứng vững trên sở thuyết giá trị lao động để giải thích các vấn
đề thuyết kinh tế. Nếu A.Smith đã công lao trong việc đưa tất cả các quan điểm kinh
tế từ trước đó cấu kết lại thành một hệ thống. Thì D.Ricardo xây dựng hệ thống đó trên
một nguyên tắc thống nhất, là thời gian lao động quyết định giá trịng hoá.
2. Học thuyết kinh tế của Karl Marx hai thuyết giá trị bản, đó thuyết
giá trị lao độnglý thuyết giá trị thặng dư.
2.1. thuyết về giá trị lao động.
thuyết giá trị lao động cho rằng giá trị của hàng hóa là do lượng lao động cần
thiết để sản xuất ra hàng hóa đó quyết định.
Căn cứ của học thuyết giá trị lao động bao gồm:
Hàng hóa sản phẩm của lao động: Hàng hóa là sản phẩm của lao động của
con người. Lao động hoạt động mục đích, ích, kết quả.
Lao động thước đo giá trị của hàng hóa: Giá trị của hàng hóa là do lượng lao
động cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó quyết định. Lượng lao động cần thiết là
lượng lao động trung bình của xã hội cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa
lOMoARcPSD| 45470709
tương tự trong điều kiện bình thường, với trình độ kỹ thuật, tay nghề trung bình,
trong thời gian trung bình.
Ý nghĩa của học thuyết giá trị lao động bao gồm:
Học thuyết giá trị lao động là cơ sở để phân tích các quy luật vận động của
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa: Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, giá trị của
hàng hóa không phải do nhu cầu của con người quyết định, do lượng lao động
cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó quyết định. Điều này dẫn đến sự bóc lột sức
lao động của người công nhân bởi nhà bản.
Học thuyết giá trị lao động sở để xây dựng luận giá trị thặng của
Karl Marx: Giá trị thặng dư là giá trị do công nhân tạo ra nhưng bị nhà tư bản
chiếm đoạt
2.2 thuyết giá trị thặng
thuyết giá trị thặng cho rằng giá trị thặng là giá trị do công nhân tạo ra
nhưng bị nhà bản chiếm đoạt.
Căn cứ của thuyết giá trị thặng dư bao gồm:
Lương một phần giá trị của hàng hóa sức lao động: ơng khoản tiền
nhà tư bản trả cho công nhân để mua sức lao động của họ. Sức lao động là khả
năng lao động của con người.
Thời gian lao động cần thiết là thời gian lao động để sản xuất ra giá trị của
hàng hóa sức lao động: Thời gian lao động cần thiết là lượng thời gian lao động
trung bình của xã hội cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa sức lao động
tương tự trong điều kiện bình thường, với trình độ kỹ thuật, tay nghề trung bình,
trong thời gian trung bình.
Thời gian lao động quá mức thời gian lao động vượt quá thời gian lao động
cần thiết: Thời gian lao động quá mức là lượng thời gian lao động mà công nhân
lao động nhưng không được trả lương.
Ý nghĩa của thuyết giá trị thặng bao gồm:
Lý thuyết giá trị thặng dư chỉ ra bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản: Nhà
bản bóc lột công nhân bằng cách chiếm đoạt giá trị thặng dư do công nhân tạo
ra.
thuyết giá trị thặng dư sở để xây dựng học thuyết chủ nghĩa Mác:
Học thuyết chủ nghĩa Mác là học thuyết về cách mạng sản và xây dựng chủ
nghĩahội.
Ngoài ra, học thuyết kinh tế của Karl Marx còn một số thuyết giá trị khác,
như:
thuyết giá trị sử dụng: Giá trị sử dụng thuộc tính của hàng hóa thể thỏa
mãn nhu cầu nào đó của con người.
lOMoARcPSD| 45470709
thuyết giá trị trao đổi: Giá trị trao đổi thuộc tính của hàng hóa có thể trao đổi
được với các hàng hóa khác.
thuyết giá trị thị trường: Giá trị thị trường giá trị của hàng hóa được xác định
bởi quan hệ cung - cầu trên thị trường.
Ý nghĩa của học thuyết giá trị - lao động của Karl Marx
Thứ nhất, đối với phương thúc sản xuất tư bản chủ nghĩa, nếu cả lao động được
tích lũy (tư bản) cũng tham gia vào việc tạo ra giá trị (chứ nó không chỉ giản đơn
mang giá trị phần hao mòn vô hình của người công nhân trong quá trình sản xuất
hàng hóa mới được tạo ra), thì rang tồn tại “phần lợi nhuận hợp pháp” có nguồn
gốc từ lao động sống tự thân, từ hoạt động của sức công nhân, mà tư liệu sản xuất
thuộc về nhà bản. Về thuyết, rất phức tạp để xác định “phần hợp pháp” đó.
Điều đó cũng cho thấy vẻ bề ngoài của tư bản sẽ không thểhiện ra sự bóc lột giá trị
thặng dư. Đối với người công nhân, họ được tư bản trả tiền lương thứ mà họ cảm
tưởng là toàn bộ thành quả do sức lao động họ làm ra, nhưng nhà tư bản có quyền
định đoạt hoàn toàn sản phẩm của họ, trong đó có cả sản phẩm thặng dư. Xác định
được “phần hợp pháp” đó lại có ý nghĩa then chốt giúp nhà nước mới có thể thực
hiện sự điều tiết hạn mức lợi nhuận. Ngoài ra còn hướng tới việc chống lại chính
sách tự do kinh tế mà trên thực tế chỉ kích thích sự hỗn loạn của sở hữu nhân.
Thứ hai, sự tồn tại của sản phẩm thặng dư và giá trị thặng dư đối với Marx là
không thể tranh cãi, hay Marx thẳng thắn thừa nhận sự tồn tại của chúng. Nếu
những suy ngẫm về giá trị thặng dư là đúng, thì ngoài lao động sống là nguồn gốc
của giá trị thặng dư, còn phải kể thêm các phương tiện sử dụng trong quá trình sản
xuất ra nó. Như vậy, không phải toàn bộ giá trị thặng đều thuộc về người chủ
sở hữu phương tiện sản xuất. Một phần của nó, dưới dạng thuế khóa, sẽ được chi
dung để thỏa mãn nhu cầu chung của xã hội. Một phần nữa, dành đểtrả cho những
yếu tố có thể coi là nguồn bổ sung thêm cho giá trị tạo ra ( như lợi tức từ những
khoản vay ngân hàng). Phần nữa buộc phải dành để mở rộng sản xuất. Một phần
dành cho quỹ bảo hiểm hay dự trữ. Một phần chi phí cho quản sản xuất, nếu nhà
tư bản không trự tiếp là doanh nhân, đây là phần trả cho kao động quản lý phức
tạp.
3. trình bày các thuyết giá trị của học thuyết kinh tế tân cổ điển
Học thuyết kinh tế tân cổ điển là một trường phái kinh tế học ra đời vào cuối thế kỷ 19
đầu thế kỷ 20, dựa trên những thành tựu của kinh tế học cổ điển và các nghiên cứu của
các nhà kinh tế học như Alfred Marshall, Leon Walras, Vilfredo Pareto,...
Một trong những điểm khác biệt bản giữa học thuyết kinh tế tân cổ điển học thuyết
kinh tế cổ điển là học thuyết kinh tế tân cổ điển bác bỏ học thuyết giá trị lao động của
Karl Marx.
lOMoARcPSD| 45470709
Theo học thuyết giá trị lao động, giá tr của hàng hóa là do lượng lao động cần thiết để
sản xuất ra hàng hóa đó quyết định. Tuy nhiên, học thuyết kinh tế tân cổ điển cho rằng
giá trị của hàng hóa không phải do lao động quyết định, mà do sự khan hiếm của hàng
hóa đó quyết định.
thuyết giá trị cận biên
thuyết giá trị cận biên là lý thuyết giá trị của học thuyết kinh tế tân cổ điển. thuyết
này cho rằng giá trị của hàng hóa là do giá trị của đơn vị hàng hóa cuối cùng, hay đơn vị
hàng hóa cận biên, quyết định.
Theo lý thuyết này, giá trị của hàng hóa là do nhu cầu của người tiêu dùng quyết định.
Người tiêu dùng sẽ sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho một đơn vị hàng hóa đầu tiên, ít tiền
hơn cho một đơn vị hàng hóa thứ hai, và ít tiền hơn nữa cho một đơn vị hàng hóa thứ ba.
Đơn vị hàng hóa cuối cùng, hay đơn vị hàng hóa cận biên, là đơn vị hàng hóa mà người
tiêu dùng sẵn sàng trả ít tiền nhất.
Ý nghĩa của thuyết giá trị cận biên
thuyết giá trị cận biên một số ý nghĩa quan trọng, như:
Giải thích được giá trị của các hàng hóa có chất lượng khác nhau: Theo lý thuyết giá
trị cận biên, giá trị của các hàng hóa có chất lượng khác nhau do nhu cầu của người
tiêu dùng quyết định. Người tiêu dùng sẽ sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho một hàng hóa
chất lượng cao hơn.
Giải thích được giá trcủa các hàng hóa khan hiếm: Theo lý thuyết giá trị cận biên,
giá trị của các hàng hóa khan hiếm do sự khan hiếm của các hàng hóa đó quyết định.
Người tiêu dùng sẽ sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho một hàng hóa khan hiếm.
sở để xây dựng các chính sách kinh tế: thuyết giá trị cận biên được sử dụng
để xây dựng các chính sách kinh tế như chính sách thuế, chính sách tiền tệ,...
Đặc điểm
Học thuyết kinh tế cổ điển
HTKT tân cổ điển
sở
Lao động
Sự khan hiếm
Giá trị của hàng
hóa
Do lượng lao động cần thiết để
sản xuất ra hàng hóa đó quyết
định
Do sự khan hiếm của hàng hóa đó quyết định
Ý nghĩa
Chỉ ra bản chất bóc lột của chủ
nghĩa bản
Giải thích được giá trị của các hàng hóa có chất
lượng khác nhau, các hàng hóa khan hiếm
sở để xây dựng các chính sách kinh tế
So sánh thuyết giá trị của học thuyết kinh tế cổ điểnhọc thuyết kinh tế tân cổ điển
lOMoARcPSD| 45470709
Có thể thấy, học thuyết giá trị của học thuyết kinh tế tân cổ điển có nhiều điểm khác biệt
so với học thuyết giá trị của học thuyết kinh tế cổ điển. Học thuyết giá trị của học thuyết
kinh tế tân cổ điển đã những đóng góp quan trọng trong việc phát triển học thuyết kinh
tế, đặc biệt là trong việc giải thích giá trị của các hàng hóa có chất lượng khác nhau và
các hàng hóa khan hiếm.
So sánh thuyết giá trị cận biên với thuyết giá trị lao động
thuyết giá trị cận biên và thuyết giá trị lao động là hai thuyết giá trị bản của
kinh tế học. Hai lý thuyết này có những điểm khác biệt bản sau:
Đặc điểm
thuyết giá trị cận biên
thuyết giá trị lao động
Yếu tố quyết định giá trị
Mức độ thỏa dụng cận biên
Lượng lao động cần thiết
Đo lường giá trị
Thỏa dụng
Thời gian lao động
Vai trò của tỉ lệ của giá trị
lao động
Không
yếu tố điều chỉnh giá cả
4. trình bày các thuyết giá trị của học thuyết kinh tế trọng thương
Học thuyết kinh tế trọng thương một trường phái kinh tế học ra đời vào thế kỷ 16
châu Âu, chủ trương tích lũy vàng và bạc để làm giàu cho quốc gia. Học thuyết này
dựa trên những lý thuyết giá trị sau:
thuyết giá trị tiền tệ: thuyết giá trị tiền tệ cho rằng giá trị của hàng hóa
do lượng tiền tệ cần thiết để mua hàng hóa đó quyết định. Theo thuyết
này, vàng và bạc là những hàng hóa giá trị cao nhất,vậy quốc gia nào
tích lũy được nhiều vàng và bạc thì càng giàu có.
o thuyết về giá trị tiền tệ một thuyết kinh tế giải thích bản chất
của giá trị tiền tệ, tức những yếu tố quyết định giá trị của tiền tệ.
o hai thuyết chính về giá trị tiền tệ:
thuyết giá trị nội tại: thuyết này cho rằng giá trị của tiền tệ được
quyết định bởi nội tại của tiền tệ.
thuyết giá trị ngoại tại: thuyết này cho rằng giá trị của tiền tệ
được quyết định bởi các yếu tố bên ngoài tiền tệ.
lOMoARcPSD| 45470709
o thuyết giá trị nội tại: thuyết giá trị nội tại cho rằng giá trị của
tiền tệ được quyết định bởi nội tại của tiền tệ, tức là bởi những thuộc
tính vật chất của tiền tệ.
hai loại thuyết giá trị nội tại:
thuyết giá trị kim loại: thuyết này cho rằng giá trị của tiền tệ
được quyết định bởi giá trị của kim loại được dùng làm tiền.
thuyết giá trị lao động: thuyết này cho rằng giá trị của tiền tệ
được quyết định bởi lượng lao động cần thiết để sản xuất ra tiền.
thuyết giá trị nội tại đã những đóng góp quan trọng cho sự
phát triển của kinh tế học. Lý thuyết này đã giải thích được bản
chất của tiền tệ, đồng thời sở để xây dựng các thuyết kinh
tế khác, như lý thuyết cung và cầu tiền tệ, lý thuyết tỷ giá hối
đoái,...Tuy nhiên, lý thuyết giá trị nội tại cũng có những hạn chế
nhất định. Lý thuyết này không giải thích được tại sao giá trị của
tiền tệ thể thay đổi, trong khi nội tại của tiền tệ không thay
đổi.
o thuyết giá trị ngoại tại: thuyết giá trị ngoại tại cho rằng giá trị
của tiền tệ được quyết định bởi các yếu tố bên ngoài tiền tệ, tức là bởi
những thuộc tính chức năng của tiền tệ.
thuyết giá trị ngoại tại dựa trên một số giả định sau:
Tiền tệ là phương tiện trao đổi: Tiền tệ thể được sử dụng để trao
đổi hàng hóa và dịch vụ.
Tiền tệ thước đo giá trị: Tiền tệ được sử dụng để đo lường giá trị
của hàng hóadịch vụ.
Tiền tệ phương tiện thanh toán: Tiền tệ được sử dụng để thanh toán
cho hàng hóa và dịch vụ.
o Theo thuyết giá trị ngoại tại, giá trị của tiền tệ được quyết định bởi
nhu cầu của người tiêu dùng doanh nghiệp đối với tiền tệ. Nhu cầu
của người tiêu dùng và doanh nghiệp đối với tiền tệ phụ thuộco các
yếu tố như:
Mức độ phát triển của nền kinh tế: Nền kinh tế càng phát triển thì nhu
cầu đối với tiền tệ càng lớn.
Mức độ ổn định của nền kinh tế: Nền kinh tế càng ổn định thì nhu cầu
đối với tiền tệ càng lớn.
Sự biến động của giá cả: Giá cả càng biến động thì nhu cầu đối với tiền
tệ càng lớn.
thuyết giá trị ngoại tại đã được áp dụng rộng rãi trong thực
tiễn, góp phần giải thích được những biến động của giá trị tiền tệ.
lOMoARcPSD| 45470709
o So sánh thuyết giá trị nội tại thuyết giá trị ngoại tại
Lý thuyết giá trị nội tại và lý thuyết giá trị ngoại tại là hai lý thuyết
chính về giá trị tiền tệ. Hai thuyết này những điểm khác biệt
bản sau:
Đặc điểm
thuyết giá trị nội tại
Yếu tố quyết định giá trị
Nội tại của tiền tệ
Đo lường giá trị
Giá trị của kim loại
Hạn chế
Không giải thích được sự
biến động của giá trị tiền tệ
Lý thuyết giá trị thương mại: Lý thuyết giá trị thương mại cho rằng giá trị
của hàng hóa là do sự chênh lệch giữa giá mua và giá bán quyết định. Theo lý
thuyết này, các quốc gia nên xuất khẩu hàng hóa có giá trị cao hơn giá mua và
nhập khẩu hàng hóa có giá trị thấp hơn giá bán. Điều này sẽ giúp quốc gia đó
tích lũy được vàng và bạc, và làm giàu cho quốc gia.
Lý thuyết giá trị cân bằng thương mại: Lý thuyết giá trị cân bằng thương
mại cho rằng giá trị của hàng hóa trong thương mại quốc tế phải được duy trì
mức cân bằng. Theo thuyết này, nếu một quốc gia xuất khẩu nhiều hơn nhập
khẩu, thì quốc gia đó sẽ bị thâm hụt cán cân thương mại. Điều này sẽ dẫn đến
sự mất giá của đồng tiền quốc gia, và làm suy giảm sức mạnh kinh tế của quốc
gia đó.
Ý nghĩa của các thuyết giá trị của học thuyết kinh tế trọng thương:
Các lý thuyết giá trị của học thuyết kinh tế trọng thương có ý nghĩa quan trọng trong
việc phát triển kinh tế của các quốc gia châu Âu trong thế kỷ 16 và 17. Các lý thuyết
này đã thúc đẩy các quốc gia châu Âu tham gia vào thương mại quốc tế, và góp phần
làm tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này.
Các thuyết giá trị của học thuyết kinh tế trọng thương một số ý nghĩa quan
trọng, như:
Giải thích được giá trị của các hàng hóa có chất lượng khác nhau: Theo lý thuyết
giá trị tiền tệ, giá trị của các hàng hóa có chất lượng khác nhau do giá trị của tiền tệ
quyết định. Tiền tệ là thước đo giá trị của hàng hóa. Một hàng hóa có chất lượng cao
hơn sẽ có giá trị cao hơn.
Giải thích được giá trị của các hàng hóa khan hiếm: Theo thuyết giá trị tích lũy,
giá trị của các hàng hóa khan hiếm là do giá trị của tư liệu sản xuất quyết định.
liệu sản xuất là những thứ cần thiết để sản xuất ra hàng hóa, bao gồm lao động, vốn,
tài nguyên thiên nhiên,... Một hàng hóa khan hiếm sẽ có giá trị cao n.
lOMoARcPSD| 45470709
Là cơ sở để xây dựng các chính sách kinh tế: Các lý thuyết giá trị của học thuyết
kinh tế trọng thương được sử dụng để xây dựng các chính sách kinh tế như chính sách
thương mại, chính sách tiền tệ,...
Tuy nhiên, các lý thuyết giá trị của học thuyết kinh tế trọng thương cũng có một số
hạn chế. Lý thuyết giá trị tiền tệ chỉ dựa trên một tiêu chí duy nhất là lượng tiền tệ đ
xác định giá trị của hàng hóa. Điều này là không hợp lý, vì giá trị của hàng hóa còn
phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như lao động, sự khan hiếm,... Lý thuyết giá trị
thương mại cũng chỉ dựa trên một tiêu chí duy nhất là sự chênh lệch giữa giá mua và
giá bán để xác định giá trị của hàng hóa. Điều này cũng không hợp lý, vì giá trị của
hàng hóa còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như nhu cầu, cung cầu,...
5. trình bày các thuyết giá trị của học thuyết kinh tế keynes
Học thuyết kinh tế Keynes một trường phái kinh tế học ra đời vào thế kỷ 20,
dựa trên những quan điểm của John Maynard Keynes. Học thuyết kinh tế
Keynes không có một lý thuyết giá trị cụ thể, mà chỉ tập trung vào phân tích
các quy luật vận động của nền kinh tế tổng thể, đặc biệt là các quy luật vận
động của tổng cầu và tổng cung.
Theo học thuyết kinh tế Keynes, giá trị của hàng hóa được xác định bởi quan
hệ cung - cầu trên thị trường. Giá trị của hàng hóa có thể thay đổi theo sự thay
đổi của cung cầu.
Giá trị của hàng hóatổng cầu:
Tổng cầu là tổng số lượng hàng hóa và dịch vụ mà người tiêu dùng, doanh nghiệp
và chính phủ sẵn sàng mua với các mức giá khác nhau trong một thời kỳ nhất
định.
Giá trị của hàng hóa thể thay đổi theo sự thay đổi của tổng cầu. Nếu tổng cầu
tăng, giá trị của hàng hóa sẽ tăng lên. Ngược lại, nếu tổng cầu giảm, giá trị của
hàng hóa sẽ giảm xuống.
Giá trị của hàng hóa và tổng cung:
Tổng cung tổng số lượng hàng hóa và dịch vụ các doanh nghiệp sẵn sàng
cung cấp với các mức giá khác nhau trong một thời kỳ nhất định.
Giá trị của hàng hóa cũng thể thay đổi theo sự thay đổi của tổng cung. Nếu tổng
cung giảm, giá trị của hàng hóa sẽ tăng lên. Ngược lại, nếu tổng cung tăng, giá trị
của hàng hóa sẽ giảm xuống.
Ý nghĩa của các thuyết giá trị của học thuyết kinh tế Keynes
Các thuyết giá trị của học thuyết kinh tế Keynes có một số ý nghĩa quan trọng, như:
lOMoARcPSD| 45470709
Giải thích được sự biến động của giá trị của hàng hóa: Theo học thuyết kinh tế
Keynes, giá trị của hàng hóa có thể thay đổi theo sự thay đổi của cung cầu. Điều
này giải thích được sự biến động của giá trị của hàng hóa trong thực tế.
Là cơ sở để xây dựng các chính sách kinh tế: Các lý thuyết giá trị của học thuyết
kinh tế Keynes được sử dụng để xây dựng các chính sách kinh tế như chính sách tiền
tệ, chính sách tài khóa,...
Có thể thấy, học thuyết kinh tế Keynes không có một lý thuyết giá trị cụ thể, nhưng
những quan điểm của học thuyết này đã có những đóng góp quan trọng trong việc giải
thích sự biến động của giá trị của hàng hóa và sở để xây dựng các chính sách kinh
tế.
6. Trình bày thuyết giá trị của học thuyết chủ nghĩa tự do mới
Học thuyết chủ nghĩa tự do mới một trường phái kinh tế học ra đời vào cuối thế kỷ
20, dựa trên những quan điểm của các nhà kinh tế học như Milton Friedman, Robert
Mundell, Friedrich Hayek,...
Học thuyết chủ nghĩa tự do mới bác bỏ học thuyết giá trị lao động của Karl Marx và
học thuyết giá trị cận biên của các nhà kinh tế học tân cổ điển. Học thuyết chủ nghĩa
tự do mới cho rằng giá trị của hàng hóa được xác định bởi cungcầu trên thị trường.
Lý thuyết giá trị thị trường: Lý thuyết giá trị thị trường là lý thuyết giá trị của học
thuyết chủ nghĩa tự do mới. Lý thuyết này cho rằng giá trị của hàng hóa là do quan hệ
cung - cầu trên thị trường quyết định.
Theo thuyết này, giá trị của hàng hóa là do nhu cầu và khả năng cung ứng của hàng
hóa đó quyết định. Nhu cầu của người tiêu dùng càng lớn, khả năng cung ứng của
hàng hóa càng ít thì giá trị của hàng hóa càng cao.
Ý nghĩa của thuyết giá trị thị trường
thuyết giá trị thị trường một số ý nghĩa quan trọng, như:
Giải thích được sự biến động của giá trị của hàng hóa: Theo học thuyết giá trị thị
trường, giá trị của hàng hóa có thể thay đổi theo sự thay đổi của cung và cầu. Điều
này giải thích được sự biến động của giá trị của hàng hóa trong thực tế.
Là cơ sở để xây dựng các chính sách kinh tế: Lý thuyết giá trị thị trường được sử
dụng để xây dựng các chính sách kinh tế như chính sách thương mại, chính sách tiền
tệ,...
So sánh thuyết giá trị của học thuyết chủ nghĩa tự do mới với các học thuyết
giá trị khác
lOMoARcPSD| 45470709
Đặc điểm
Học thuyết chủ
nghĩa tự do mới
Học thuyết kinh tế
trọng thương
Học thuyết kinh
tế cổ điển
Học thuyết kinh tế tân
cổ điển
sở
Cungcầu
Tiền tệ, liệu sản xuất
Lao động
Sự khan hiếm
Giá trị của
hàng hóa
Do quan hệ cung -
cầu trên thị trường
quyết định
Do lượng tiền tệ được
trao đổi hoặc tích lũy
để sản xuất ra hàng hóa
đó quyết định
Do lượng lao
động cần thiết
để sản xuất ra
hàng hóa đó
quyết định
Do sự khan hiếm của
hàng hóa đó quyết
định
Ý nghĩa
Giải thích được sự
biến động của giá
trị của hàng hóa
và là cơ sở để xây
dựng các chính
sách kinh tế
Giải thích được giá trị
của các hàng hóa có
chất lượng khác nhau,
các hàng hóa khan
hiếm sở để xây
dựng các chính sách
kinh tế
Chỉ ra bản chất
bóc lột của chủ
nghĩa bản
Giải thích được giá
trị của các hàng hóa
có chất lượng khác
nhau, các hàng hóa
khan hiếm và là cơ
sở để xây dựng các
chính sách kinh tế
7. thuyết về vai trò nhà nước trọng thương
Học thuyết kinh tế trọng thương đề cao vai trò của nhà nước trong điều tiết nền kinh
tế, đặc biệt là trong thương mại quốc tế. Nhà nước trọng thương có vai trò quan trọng
trong việc thúc đẩy xuất khẩu hạn chế nhập khẩu, nhằm đạt được mục tiêu tích lu
vàng bạc cho quốc gia.
Cụ thể, nhà nước trọng thương thể thực hiện những biện pháp sau:
Áp dụng chế độ bảo hộ thương mại: Chế độ bảo hộ thương mại bao gồm các biện
pháp như thuế quan, hạn ngạch,... nhằm bảo vệ các ngành sản xuất trong nước khỏi sự
cạnh tranh từ nước ngoài.
Tích luỹ vàng bạc: Nhà nước trọng thương coi vàng bạc là thước đo của của cải và
sức mạnh quốc gia. Do đó, nhà nước sẽ thực hiện các chính sách nhằm tích luỹ vàng
bạc cho quốc gia.
Tăng cường sản xuất công nghiệp: Nhà nước trọng thương cho rằng, công nghiệp là
ngành sản xuất quan trọng nhất, có khả năng tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho quốc gia.
Do đó, nhà ớc sẽ thực hiện các chính sách nhằm thúc đẩy phát triển công nghiệp.
Vai trò của nhà nước trọng thương đã những tác động quan trọng đến sự phát triển
của nền kinh tế thế giới.
Thúc đẩy sự phát triển của thương mại quốc tế: Chính sách bảo hộ thương mại của
các quốc gia trọng thương đã thúc đẩy sự phát triển của thương mại quốc tế, bởi các
quốc gia cần phải tìm kiếm thị trường mới để xuất khẩu hàng hóa.
Thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp: Chính sách thúc đẩy sản xuất công nghiệp
của các quốc gia trọng thương đã thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp, đặc biệt
các nước châu Âu.
lOMoARcPSD| 45470709
Gây ra những xung đột thương mại giữa các quốc gia: Chính sách bảo hộ thương
mại của các quốc gia trọng thương đã gây ra những xung đột thương mại giữa các
quốc gia, bởi các quốc gia cạnh tranh với nhau trong việc xuất khẩu hàng hóa.
Ngày nay, học thuyết kinh tế trọng thương đã không còn được áp dụng phổ biến. Tuy
nhiên, vai trò của nhà nước trong điều tiết nền kinh tế vẫn được coi trọng
Vai trò của nhà nước trọng thương trong thực tiễn
Nhà nước trọng thương đã có những vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền
kinh tế châu Âu trong thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII. Các chính sách của nhà nước
trọng thương đã góp phần thúc đẩy thương mại quốc tế, phát triển sản xuấttăng
cường sức mạnh quân sự của các quốc gia châu Âu.
Tuy nhiên, các chính sách của nhà nước trọng thương cũng có những hạn chế nhất
định. Chế độ bảo hộ thương mại thể dẫn đến tăng giá hàng hóa và giảm tính cạnh
tranh của các ngành sản xuất trong nước. Ngoài ra, các chính sách tài chính của n
nước trọng thương có thể gây ra lạm phát và bất ổn kinh tế.
Kết luận
Nhà nước trọng thương là một nhà nước theo đuổi các chính sách kinh tế nhằm tích
luỹ vàng bạc cho quốc gia. Các chính sách này đã có những vai trò quan trọng trong
sự phát triển của nền kinh tế châu Âu trong thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII. Tuy nhiên,
các chính sách này cũng những hạn chế nhất định cần được lưu ý.
8. Vai trò của nhà nước cổ điển
Lý thuyết về vai trò của nhà nước cổ điển là một trong những lý thuyết quan trọng
nhất của học thuyết kinh tế cổ điển. thuyết này cho rằng vai trò của nhà nước trong
nền kinh tế là rất hạn chế, nhà nước chỉ nên can thiệp vào nền kinh tế trong một số
trường hợp nhất định.
thuyết về vai trò của nhà nước cổ điển dựa trên những quan điểm sau:
Thị trường một chế tự điều chỉnh: Trong học thuyết kinh tế cổ điển, thị trường
được coi là một cơ chế tự điều chỉnh, có thể tự cân bằng cung và cầu, giá cả và lợi
nhuận. Nhà nước không cần phải can thiệpo nền kinh tế để điều chỉnh thị trường.
Sự can thiệp của nhà nước có thể gây hại: Trong học thuyết kinh tế cổ điển, sự can
thiệp của nhà nước có thể gây hại cho nền kinh tế, làm giảm hiệu quả của thị trường.
Nhà nước chỉ nên can thiệp vào nền kinh tế trong một số trường hợp nhất định, khi thị
trường không thể tự điều chỉnh được.
Cụ thể, học thuyết về vai trò của nhà nước cổ điển đề xuất những quan điểm sau:
lOMoARcPSD| 45470709
Nhà nước cần phải đảm bảo trật tự và an ninh: Nhà nước cần phải đảm bảo trật tự
và an ninh trong xã hội để thị trường có thể hoạt động bình thường.
Nhà nước cần phải bảo vệ quyền sở hữu tư nhân: Quyền sở hữu tư nhân là cơ s
của nền kinh tế thị trường, nhà nước cần phải bảo vệ quyền sở hữu nhân để khuyến
khích đầu sản xuất.
Nhà nước cần phải cung cấp một số dịch vụ công cộng: Một số dịch vụ công cộng
như giáo dục, y tế, an sinh xã hội,... cần thiết cho sự phát triển của xã hội, nhà nước
cần phải cung cấp các dịch vụ này.
thuyết về vai trò của nhà nước cổ điển đã những đóngp quan trọng trong
việc phát triển học thuyết kinh tế, đặc biệt trong việc giải thích vai trò của nhà nước
trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, lý thuyết này cũng có những hạn chế, như:
Không phù hợp với thực tế: Trong thực tế, nhà nước thường phải can thiệp vào nền
kinh tế nhiều hơn so với những gì học thuyết kinh tế cổ điển đề xuất.
Không giải thích được sự phát triển của các quốc gia: Trong thực tế, các quốc gia
có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, điều này không được lý
thuyết kinh tế cổ điển giải thích.
9. Vai trò nhà nước tân cổ điển
| 1/15

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45470709
1. Trình bày lý thuyết giá trị của học thuyết kinh tế chính trị cổ điển.
Học thuyết kinh tế chính trị cổ điển cho rằng giá trị của một hàng hóa được quyết định
bởi một số yếu tố, trong đó yếu tố quan trọng nhất là lượng lao động cần thiết để sản xuất
ra nó. Lý thuyết này được gọi là lý thuyết giá trị lao động.
Theo lý thuyết giá trị lao động, giá trị của một hàng hóa được xác định bằng lượng lao
động cần thiết để sản xuất ra nó, bao gồm cả lao động trực tiếp và lao động gián tiếp. Lao
động trực tiếp là lao động của người lao động trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất.
Lao động gián tiếp là lao động của những người lao động tạo ra các tư liệu sản xuất cần
thiết cho quá trình sản xuất.
Ví dụ, để sản xuất ra một chiếc áo, cần có lao động của người thợ may, người thợ dệt,
người thợ nhuộm,... Laực động của những người thợ này là lao động trực tiếp. Ngoài ra,
còn cần có lao động của những người lao động tạo ra các máy móc, thiết bị, nguyên
liệu,... cần thiết cho quá trình sản xuất. Lao động của những người lao động này là lao động gián tiếp.
Lượng lao động cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa có thể được đo bằng thời gian lao
động. Thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa càng nhiều thì giá trị của hàng hóa đó càng cao.
Lý thuyết giá trị lao động đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của kinh tế
học. Lý thuyết này đã giải thích một cách hợp lý mối quan hệ giữa giá trị và lao động,
góp phần vào việc phát triển lý luận về giá trị của kinh tế học.
Tuy nhiên, lý thuyết giá trị lao động cũng có những hạn chế nhất định. Lý thuyết này
không giải thích được giá trị của những hàng hóa không cần lao động để sản xuất ra,
chẳng hạn như đất đai, tài nguyên thiên nhiên,... Ngoài ra, lý thuyết này cũng không giải
thích được giá trị của những hàng hóa độc quyền.
Ngoài lý thuyết giá trị lao động, học thuyết kinh tế chính trị cổ điển còn có một số lý
thuyết giá trị khác, chẳng hạn như:
Lý thuyết giá trị sử dụng: Lý thuyết này cho rằng giá trị của một hàng hóa được quyết
định bởi giá trị sử dụng của nó, nghĩa là khả năng thỏa mãn nhu cầu của con người.
Lý thuyết giá trị trao đổi: Lý thuyết này cho rằng giá trị của một hàng hóa được quyết
định bởi giá trị trao đổi của nó, nghĩa là tỷ lệ trao đổi giữa hàng hóa đó với các hàng hóa khác.
Các lý thuyết giá trị này đã có những đóng góp nhất định cho sự phát triển của kinh tế
học. Tuy nhiên, chúng đều có những hạn chế nhất định, không thể giải thích đầy đủ bản chất của giá trị. lOMoAR cPSD| 45470709
1. Học thuyết kinh tế cổ điển ở nước Anh
1.1 Lý thuyết về giá trị – lao động của William.Petty (1623 - 1687).
William.Petty là một trong những người sáng lập ra học thuyết kinh tế cổ điển ở
Anh. Ông sinh ra trong một gia đình thợ thủ công, có trình độ tiến sĩ vật lý, là nhạc
trưởng, là người phát minh ra máy móc, là bác sĩ trong quân đội và là một đại địa chủ.
Ông đã viết nhiều tác phẩm về kinh tế như “Điều ước về thuế và thu thuế” “Số học chính
trị”, “Bàn về tiền tệ”, ... Trong tác phẩm “Bàn về thuế khoá và lệ phí” Ông đã nêu ra
nguyên lý giá trị – lao động và 3 phạm trù về giá cả. Đó là giá cả tự nhiên, giá cả nhân tạo và giá cả chính trị.
Thế nào là giá cả tự nhiên? Ông viết “Một người nào đó, trong thời gian lao động
khai thác được 1 ounce bạc và cùng thời gian đó sản xuất được 1 Barrel lúa mì, thì 1
ounce bạc là giá cả tự nhiên của 1 Barrel lúa mì. Nếu nhờ những mỏ mới giàu quặng hơn,
nên cùng một thời gian lao động đó, bây giờ khai thác được 2 ounce bạc thì 2 ounce bạc
là giá cả tự nhiên của 1 Barrel lúa mì”.
Như vậy, giá cả tự nhiên là giá trị hàng hoá. Nó do lao động của người sản xuất
tạo ra. Lượng của giá cả tự nhiên, hay giá trị, tỷ lệ nghịch với năng suất lao động khai thác bạc.
Nếu như giá cả tự nhiên là giá trị hàng hoá, thì giá cả nhân tạo là giá cả thị trường
của hàng hoá. Ông viết “Tỷ lệ giữa lúa mì và bạc chỉ là giá cả nhân tạo chứ không phải là giá cả tự nhiên”.
Theo ông, giá cả nhân tạo thay đổi phụ thuộc vào giá cả tự nhiên và quan hệ cung
– cầu hàng hoá trên thị trường.
Về giá cả chính trị, W.Petty cho rằng, nó là loại đặc biệt của giá cả tự nhiên. Nó
cũng là chi phí lao động để sản xuất hàng hoá, nhưng trong những điều kiện chính trị
không thuận lợi. Vì vậy, chi phí lao động trong giá cả chính trị thường cao hơn so với chi
phí lao động trong giá cả tự nhiên bình thường.
Đối với W.Petty, thì việc phân biệt giá cả tự nhiên, tức là hao phí lao động trong
điều kiện bình thường với giá cả chính trị – là lao động chi phí trong điều kiện chính trị
không thuận lợi có ý nghĩa to lớn. Ông là người đầu tiên trong lịch sử đặt nền móng cho
lý thuyết giá trị lao động.
Tuy nhiên, lý thuyết giá trị lao động của W.Petty còn chịu ảnh hưởng tư tưởng chủ
nghĩa trọng thương. Ông chỉ thừa nhận lao động khai thác bạc là nguồn gốc của giá trị,
còn giá trị của các hàng hoá khác chỉ được xác định nhờ quá trình trao đổi với bạc. Mặt
khác, Ông có luận điểm nổi tiếng là: “Lao động là cha còn đất là mẹ của mọi của cải ”.
Về phương diện của cải vật chất, đó là công lao to lớn của ông. Nhưng Ông lại xa rời tư
tưởng giá trị – lao động khi kết luận “Lao động và đất đai là cơ sở tự nhiên của giá cả mọi lOMoAR cPSD| 45470709
vật phẩm” tức là cả lao động và đất đai là nguồn gốc của giá trị. Điều này là mầm mống
của lý thuyết các vấn đề sản xuất tạo ra giá trị sau này.
1.2 Lý thuyết về giá trị lao động của A.Đam.Simith (1723 - 1790).
So với W.Petty, lý thuyết giá trị – lao động của A.Smith có bước tiến đáng kể.
Trước hết, ông chỉ ra rằng tất cả các loại lao động sản xuất đều tạo ra giá trị, lao động là
thước đo cuối cùng của giá trị. Ông phân biệt sự khác nhau giữa giá trị sử dụng và giá trị
trao đổi và khẳng định giá trị sử dụng quyết định giá trị trao đổi. Khi phân tích giá trị
hàng hoá, ông còn cho rằng, giá trị được biểu hiện ở giá trị trao đổi của hàng hoá, trong
quan hệ số lượng với hàng hoá khác, còn trong nền sản xuất hàng hoá phát triển, nó được
biểu hiện ở tiền. Ông chỉ ra lượng giá trị hàng hoá là do hao phí lao động trung bình cần
thiết quyết định và đưa ra 2 định nghĩa về giá cả là giá cả tự nhiên và giá cả thị trường.
Về bản chất, giá cả thị trường là biểu hiện tiền tệ của giá trị.
Ông viết: “Nếu giá cả của một loại hàng hoá nào đó phù hợp với những gì cần
thiết cho thanh toán về địa tô, trả lương cho công nhân và lợi nhuận cho tư bản được chi
phí cho khai thác, chế biến và đưa ra thị trường thì có thể nói hàng hoá đó được bán theo
giá cả tự nhiên. Còn giá cả thực tế mà qua đó hàng hoá được bán gọi là giá cả. Nó có thể
cao hơn, thấp hơn hay trùng hợp với giá cả tự nhiên”.
Theo ông, giá cả tự nhiện có tính khách quan, còn giá cả thị trường phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác như; giá cả tự nhiên, quan hệ cung cầu...
Tuy nhiên, lý thuyết giá trị – lao động của A.Smith còn có hạn chế. Ông nêu lên 2
định nghĩa: Thứ nhất, giá trị do lao động hao phí để sản xuất hàng hoá quyết định. Lao
động là thước đo thực tế của mọi giá trị. Với định nghĩa này, ông là người đứng vững trên
cơ sở lý thuyết giá trị–lao động. Thứ hai, ông cho rằng, giá trị là do lao động mà người ta
có thể mua được bằng hàng hoá này quyết định. Từ định nghĩa này, ông suy ra giá trị do
lao động tạo ra chỉ đúng trong nền kinh tế hàng hoá giản đơn. Còn trong nền kinh tế
TBCN, giá trị do các nguồn thu nhập tạo thành, nó bằng tiền lương cộng với lợi nhuận
và địa tô.. Ông cho rằng “Tiền lương, lợi nhuận, địa tô là 3 nguồn gốc đầu tiên của mọi
thu nhập cũng như là của bất kỳ giá trị trao đổi nào”. Tư tưởng này xa rời lý thuyết giá trị
– lao động “Giá trị là do lao động hao phí để sản xuất hàng hoá quyết định, lao động là
thước đo thực tế của mọi giá trị”.
1.3 Lý thuyết giá trị – lao động của David Ricardo (1772 - 1823).
Trong lý thuyết giá trị – lao động, D.Ricardo dựa vào lý thuyết của A.Smith và kế
thừa, phát triển tư tưởng của A.Smith. Ông phân biệt rõ 2 thuộc tính của hàng hoá là giá
trị sử dụng và giá trị trao đổi và chỉ rõ giá trị sử dụng là điều kiện cần thiết cho giá trị trao
đổi, nhưng không phải là thước đo của nó.
Vì giá trị trao đổi là giá trị tương đối được biểu hiện ở một số lượng nhất định của
hàng hoá khác (thay tiền tệ) nên Ricardo đặt vấn đề là bên cạnh giá trị tương đối, còn tồn lOMoAR cPSD| 45470709
tại giá trị tuyệt đối. Đó là thực thể của giá trị, là số lượng lao động kết tinh, giá trị trao đổi
là hình thức cần thiết và có khả năng duy nhất để biểu hiện giá trị tuyệt đối.
D.Ricardo soát sét lại lý luận giá trị của A.Smith, gạt bỏ những dư thừa và mâu
thuẫn trong lý thuyết kinh tế của A.Smith. Chẳng hạn, trong định nghĩa về giá trị của
A.Smith, D.Ricardo chỉ ra là định nghĩa “Giá trị lao động hao phí quyết định” là đúng,
còn định nghĩa “Giá trị lao động mà người ta có thể mua được bằng hàng hoá này quyết
định” là không đúng. Theo ông, không phải chỉ trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn mà
ngay cả trong nền sản xuất lớn TBCN, giá trị vẫn do lao động quyết định.
D.Ricardo cũng khẳng định “Giá trị là do lao động hao phí quyết định” và cấu tạo
giá trị hàng hoá bao gồm 3 bộ phận là: c+v+m, nhưng ông cũng chưa phân tích được sự
dịch chuyển “c” vào sản phẩm mới diễn ra như thế nào. Ông có ý định phân tích lao động
giản đơn và lao động phức tạp, qui lao động phức tạp thành lao động giản đơn trung bình.
Ông cho rằng, lao động xã hội cần thiết quyết định lượng giá trị hàng hoá, song lại cho
rằng, lao động xã hội cần thiết do điều kiện sản xuất sấu nhất quyết định.
Phương pháp nghiên cứu của ông còn có tính siêu hình. Ông coi giá trị là phạm trù
vĩnh viễn. Đó là thuộc tính của mọi vật, Ông chưa phân biệt được giá trị hàng hoá và giá
cả sản xuất, chưa thấy được mâu thuẩn giữa giá trị và giá trị sử dụng vì chưa có được lý
thuyết tính hai mặt của lao động.
Tóm lại, Học thuyết kinh tế của D.Ricardo đạt tới đỉnh cao của kinh tế chính trị Tư
sản cổ điển. Ông đứng vững trên cơ sở lý thuyết giá trị – lao động để giải thích các vấn
đề lý thuyết kinh tế. Nếu A.Smith đã có công lao trong việc đưa tất cả các quan điểm kinh
tế từ trước đó cấu kết lại thành một hệ thống. Thì D.Ricardo xây dựng hệ thống đó trên
một nguyên tắc thống nhất, là thời gian lao động quyết định giá trị hàng hoá.
2. Học thuyết kinh tế của Karl Marx có hai lý thuyết giá trị cơ bản, đó là lý thuyết
giá trị lao động và lý thuyết giá trị thặng dư. 2.1.
Lý thuyết về giá trị lao động.
Lý thuyết giá trị lao động cho rằng giá trị của hàng hóa là do lượng lao động cần
thiết để sản xuất ra hàng hóa đó quyết định.
Căn cứ của học thuyết giá trị lao động bao gồm:
Hàng hóa là sản phẩm của lao động: Hàng hóa là sản phẩm của lao động của
con người. Lao động là hoạt động có mục đích, có ích, có kết quả.
Lao động là thước đo giá trị của hàng hóa: Giá trị của hàng hóa là do lượng lao
động cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó quyết định. Lượng lao động cần thiết là
lượng lao động trung bình của xã hội cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa lOMoAR cPSD| 45470709
tương tự trong điều kiện bình thường, với trình độ kỹ thuật, tay nghề trung bình,
trong thời gian trung bình.
Ý nghĩa của học thuyết giá trị lao động bao gồm:
Học thuyết giá trị lao động là cơ sở để phân tích các quy luật vận động của
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
: Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, giá trị của
hàng hóa không phải do nhu cầu của con người quyết định, mà do lượng lao động
cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó quyết định. Điều này dẫn đến sự bóc lột sức
lao động của người công nhân bởi nhà tư bản.
Học thuyết giá trị lao động là cơ sở để xây dựng lý luận giá trị thặng dư của
Karl Marx
: Giá trị thặng dư là giá trị do công nhân tạo ra nhưng bị nhà tư bản chiếm đoạt
2.2 Lý thuyết giá trị thặng dư
Lý thuyết giá trị thặng dư cho rằng giá trị thặng dư là giá trị do công nhân tạo ra
nhưng bị nhà tư bản chiếm đoạt.
Căn cứ của lý thuyết giá trị thặng dư bao gồm:
Lương là một phần giá trị của hàng hóa sức lao động:
Lương là khoản tiền mà
nhà tư bản trả cho công nhân để mua sức lao động của họ. Sức lao động là khả
năng lao động của con người.
Thời gian lao động cần thiết là thời gian lao động để sản xuất ra giá trị của
hàng hóa sức lao động
: Thời gian lao động cần thiết là lượng thời gian lao động
trung bình của xã hội cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa sức lao động
tương tự trong điều kiện bình thường, với trình độ kỹ thuật, tay nghề trung bình,
trong thời gian trung bình.
Thời gian lao động quá mức là thời gian lao động vượt quá thời gian lao động
cần thiết:
Thời gian lao động quá mức là lượng thời gian lao động mà công nhân
lao động nhưng không được trả lương.
Ý nghĩa của lý thuyết giá trị thặng dư bao gồm:
Lý thuyết giá trị thặng dư chỉ ra bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản
: Nhà
tư bản bóc lột công nhân bằng cách chiếm đoạt giá trị thặng dư do công nhân tạo ra.
Lý thuyết giá trị thặng dư là cơ sở để xây dựng học thuyết chủ nghĩa Mác:
Học thuyết chủ nghĩa Mác là học thuyết về cách mạng vô sản và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ngoài ra, học thuyết kinh tế của Karl Marx còn có một số lý thuyết giá trị khác, như:
Lý thuyết giá trị sử dụng: Giá trị sử dụng là thuộc tính của hàng hóa có thể thỏa
mãn nhu cầu nào đó của con người. lOMoAR cPSD| 45470709
Lý thuyết giá trị trao đổi: Giá trị trao đổi là thuộc tính của hàng hóa có thể trao đổi
được với các hàng hóa khác.
Lý thuyết giá trị thị trường: Giá trị thị trường là giá trị của hàng hóa được xác định
bởi quan hệ cung - cầu trên thị trường.
Ý nghĩa của học thuyết giá trị - lao động của Karl Marx
Thứ nhất, đối với phương thúc sản xuất tư bản chủ nghĩa, nếu cả lao động được
tích lũy (tư bản) cũng tham gia vào việc tạo ra giá trị (chứ nó không chỉ giản đơn
mang giá trị phần hao mòn vô hình của người công nhân trong quá trình sản xuất
hàng hóa mới được tạo ra), thì rõ rang tồn tại “phần lợi nhuận hợp pháp” có nguồn
gốc từ lao động sống tự thân, từ hoạt động của sức công nhân, mà tư liệu sản xuất
thuộc về nhà tư bản. Về lý thuyết, rất phức tạp để xác định “phần hợp pháp” đó.
Điều đó cũng cho thấy vẻ bề ngoài của tư bản sẽ không thểhiện ra sự bóc lột giá trị
thặng dư. Đối với người công nhân, họ được tư bản trả tiền lương – thứ mà họ cảm
tưởng là toàn bộ thành quả do sức lao động họ làm ra, nhưng nhà tư bản có quyền
định đoạt hoàn toàn sản phẩm của họ, trong đó có cả sản phẩm thặng dư. Xác định
được “phần hợp pháp” đó lại có ý nghĩa then chốt giúp nhà nước mới có thể thực
hiện sự điều tiết hạn mức lợi nhuận. Ngoài ra còn hướng tới việc chống lại chính
sách tự do kinh tế mà trên thực tế chỉ kích thích sự hỗn loạn của sở hữu tư nhân.
Thứ hai, sự tồn tại của sản phẩm thặng dư và giá trị thặng dư đối với Marx là
không thể tranh cãi, hay Marx thẳng thắn thừa nhận sự tồn tại của chúng. Nếu
những suy ngẫm về giá trị thặng dư là đúng, thì ngoài lao động sống là nguồn gốc
của giá trị thặng dư, còn phải kể thêm các phương tiện sử dụng trong quá trình sản
xuất ra nó. Như vậy, không phải toàn bộ giá trị thặng dư đều thuộc về người chủ
sở hữu phương tiện sản xuất. Một phần của nó, dưới dạng thuế khóa, sẽ được chi
dung để thỏa mãn nhu cầu chung của xã hội. Một phần nữa, dành đểtrả cho những
yếu tố có thể coi là nguồn bổ sung thêm cho giá trị tạo ra ( như lợi tức từ những
khoản vay ngân hàng). Phần nữa buộc phải dành để mở rộng sản xuất. Một phần
dành cho quỹ bảo hiểm hay dự trữ. Một phần chi phí cho quản lý sản xuất, nếu nhà
tư bản không trự tiếp là doanh nhân, đây là phần trả cho kao động quản lý phức tạp.
3. trình bày các lý thuyết giá trị của học thuyết kinh tế tân cổ điển
Học thuyết kinh tế tân cổ điển là một trường phái kinh tế học ra đời vào cuối thế kỷ 19 và
đầu thế kỷ 20, dựa trên những thành tựu của kinh tế học cổ điển và các nghiên cứu của
các nhà kinh tế học như Alfred Marshall, Leon Walras, Vilfredo Pareto,...
Một trong những điểm khác biệt cơ bản giữa học thuyết kinh tế tân cổ điển và học thuyết
kinh tế cổ điển là học thuyết kinh tế tân cổ điển bác bỏ học thuyết giá trị lao động của Karl Marx. lOMoAR cPSD| 45470709
Theo học thuyết giá trị lao động, giá trị của hàng hóa là do lượng lao động cần thiết để
sản xuất ra hàng hóa đó quyết định. Tuy nhiên, học thuyết kinh tế tân cổ điển cho rằng
giá trị của hàng hóa không phải do lao động quyết định, mà do sự khan hiếm của hàng hóa đó quyết định.
Lý thuyết giá trị cận biên
Lý thuyết giá trị cận biên là lý thuyết giá trị của học thuyết kinh tế tân cổ điển. Lý thuyết
này cho rằng giá trị của hàng hóa là do giá trị của đơn vị hàng hóa cuối cùng, hay đơn vị
hàng hóa cận biên, quyết định.
Theo lý thuyết này, giá trị của hàng hóa là do nhu cầu của người tiêu dùng quyết định.
Người tiêu dùng sẽ sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho một đơn vị hàng hóa đầu tiên, ít tiền
hơn cho một đơn vị hàng hóa thứ hai, và ít tiền hơn nữa cho một đơn vị hàng hóa thứ ba.
Đơn vị hàng hóa cuối cùng, hay đơn vị hàng hóa cận biên, là đơn vị hàng hóa mà người
tiêu dùng sẵn sàng trả ít tiền nhất.
Ý nghĩa của lý thuyết giá trị cận biên
Lý thuyết giá trị cận biên có một số ý nghĩa quan trọng, như:
Giải thích được giá trị của các hàng hóa có chất lượng khác nhau: Theo lý thuyết giá
trị cận biên, giá trị của các hàng hóa có chất lượng khác nhau là do nhu cầu của người
tiêu dùng quyết định. Người tiêu dùng sẽ sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho một hàng hóa có chất lượng cao hơn.
Giải thích được giá trị của các hàng hóa khan hiếm: Theo lý thuyết giá trị cận biên,
giá trị của các hàng hóa khan hiếm là do sự khan hiếm của các hàng hóa đó quyết định.
Người tiêu dùng sẽ sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho một hàng hóa khan hiếm.
Là cơ sở để xây dựng các chính sách kinh tế: Lý thuyết giá trị cận biên được sử dụng
để xây dựng các chính sách kinh tế như chính sách thuế, chính sách tiền tệ,... Đặc điểm
Học thuyết kinh tế cổ điển HTKT tân cổ điển Cơ sở Lao động Sự khan hiếm
Giá trị của hàng Do lượng lao động cần thiết để
Do sự khan hiếm của hàng hóa đó quyết định hóa
sản xuất ra hàng hóa đó quyết định Ý nghĩa
Chỉ ra bản chất bóc lột của chủ
Giải thích được giá trị của các hàng hóa có chất nghĩa tư bản
lượng khác nhau, các hàng hóa khan hiếm và là cơ
sở để xây dựng các chính sách kinh tế
So sánh lý thuyết giá trị của học thuyết kinh tế cổ điển và học thuyết kinh tế tân cổ điển lOMoAR cPSD| 45470709
Có thể thấy, học thuyết giá trị của học thuyết kinh tế tân cổ điển có nhiều điểm khác biệt
so với học thuyết giá trị của học thuyết kinh tế cổ điển. Học thuyết giá trị của học thuyết
kinh tế tân cổ điển đã có những đóng góp quan trọng trong việc phát triển học thuyết kinh
tế, đặc biệt là trong việc giải thích giá trị của các hàng hóa có chất lượng khác nhau và các hàng hóa khan hiếm.
So sánh lý thuyết giá trị cận biên với lý thuyết giá trị lao động
Lý thuyết giá trị cận biên và lý thuyết giá trị lao động là hai lý thuyết giá trị cơ bản của
kinh tế học. Hai lý thuyết này có những điểm khác biệt cơ bản sau: Đặc điểm
Lý thuyết giá trị cận biên
Lý thuyết giá trị lao động
Yếu tố quyết định giá trị
Mức độ thỏa dụng cận biên Lượng lao động cần thiết Đo lường giá trị Thỏa dụng Thời gian lao động
Vai trò của tỉ lệ của giá trị Không có
Là yếu tố điều chỉnh giá cả lao động
4. trình bày các lý thuyết giá trị của học thuyết kinh tế trọng thương
Học thuyết kinh tế trọng thương là một trường phái kinh tế học ra đời vào thế kỷ 16 ở
châu Âu, chủ trương tích lũy vàng và bạc để làm giàu cho quốc gia. Học thuyết này
dựa trên những lý thuyết giá trị sau:
Lý thuyết giá trị tiền tệ: Lý thuyết giá trị tiền tệ cho rằng giá trị của hàng hóa
là do lượng tiền tệ cần thiết để mua hàng hóa đó quyết định. Theo lý thuyết
này, vàng và bạc là những hàng hóa có giá trị cao nhất, vì vậy quốc gia nào
tích lũy được nhiều vàng và bạc thì càng giàu có.
o Lý thuyết về giá trị tiền tệ là một lý thuyết kinh tế giải thích bản chất
của giá trị tiền tệ, tức là những yếu tố quyết định giá trị của tiền tệ.
o Có hai lý thuyết chính về giá trị tiền tệ:
Lý thuyết giá trị nội tại: Lý thuyết này cho rằng giá trị của tiền tệ được
quyết định bởi nội tại của tiền tệ.
Lý thuyết giá trị ngoại tại: Lý thuyết này cho rằng giá trị của tiền tệ
được quyết định bởi các yếu tố bên ngoài tiền tệ. lOMoAR cPSD| 45470709
o Lý thuyết giá trị nội tại: Lý thuyết giá trị nội tại cho rằng giá trị của
tiền tệ được quyết định bởi nội tại của tiền tệ, tức là bởi những thuộc
tính vật chất của tiền tệ.
Có hai loại lý thuyết giá trị nội tại:
Lý thuyết giá trị kim loại
: Lý thuyết này cho rằng giá trị của tiền tệ
được quyết định bởi giá trị của kim loại được dùng làm tiền.
Lý thuyết giá trị lao động: Lý thuyết này cho rằng giá trị của tiền tệ
được quyết định bởi lượng lao động cần thiết để sản xuất ra tiền.
➢ Lý thuyết giá trị nội tại đã có những đóng góp quan trọng cho sự
phát triển của kinh tế học. Lý thuyết này đã giải thích được bản
chất của tiền tệ, đồng thời là cơ sở để xây dựng các lý thuyết kinh
tế khác, như lý thuyết cung và cầu tiền tệ, lý thuyết tỷ giá hối
đoái,...Tuy nhiên, lý thuyết giá trị nội tại cũng có những hạn chế
nhất định. Lý thuyết này không giải thích được tại sao giá trị của
tiền tệ có thể thay đổi, trong khi nội tại của tiền tệ không thay đổi.
o Lý thuyết giá trị ngoại tại: Lý thuyết giá trị ngoại tại cho rằng giá trị
của tiền tệ được quyết định bởi các yếu tố bên ngoài tiền tệ, tức là bởi
những thuộc tính chức năng của tiền tệ.
Lý thuyết giá trị ngoại tại dựa trên một số giả định sau:
Tiền tệ là phương tiện trao đổi: Tiền tệ có thể được sử dụng để trao
đổi hàng hóa và dịch vụ.
Tiền tệ là thước đo giá trị: Tiền tệ được sử dụng để đo lường giá trị
của hàng hóa và dịch vụ.
Tiền tệ là phương tiện thanh toán: Tiền tệ được sử dụng để thanh toán
cho hàng hóa và dịch vụ.
o Theo lý thuyết giá trị ngoại tại, giá trị của tiền tệ được quyết định bởi
nhu cầu của người tiêu dùng và doanh nghiệp đối với tiền tệ. Nhu cầu
của người tiêu dùng và doanh nghiệp đối với tiền tệ phụ thuộc vào các yếu tố như:
Mức độ phát triển của nền kinh tế: Nền kinh tế càng phát triển thì nhu
cầu đối với tiền tệ càng lớn.
Mức độ ổn định của nền kinh tế: Nền kinh tế càng ổn định thì nhu cầu
đối với tiền tệ càng lớn.
Sự biến động của giá cả: Giá cả càng biến động thì nhu cầu đối với tiền tệ càng lớn.
➢ Lý thuyết giá trị ngoại tại đã được áp dụng rộng rãi trong thực
tiễn, góp phần giải thích được những biến động của giá trị tiền tệ. lOMoAR cPSD| 45470709
o So sánh lý thuyết giá trị nội tại và lý thuyết giá trị ngoại tại
Lý thuyết giá trị nội tại và lý thuyết giá trị ngoại tại là hai lý thuyết
chính về giá trị tiền tệ. Hai lý thuyết này có những điểm khác biệt cơ bản sau: Đặc điểm
Lý thuyết giá trị nội tại
Lý thuyết giá trị ngoại tại
Yếu tố quyết định giá trị Nội tại của tiền tệ
Các yếu tố bên ngoài tiền tệ Đo lường giá trị Giá trị của kim loại
Nhu cầu của người tiêu dùng và doanh nghiệp Hạn chế
Không giải thích được sự
Không giải thích được bản chất của tiền tệ
biến động của giá trị tiền tệ
Lý thuyết giá trị thương mại: Lý thuyết giá trị thương mại cho rằng giá trị
của hàng hóa là do sự chênh lệch giữa giá mua và giá bán quyết định. Theo lý
thuyết này, các quốc gia nên xuất khẩu hàng hóa có giá trị cao hơn giá mua và
nhập khẩu hàng hóa có giá trị thấp hơn giá bán. Điều này sẽ giúp quốc gia đó
tích lũy được vàng và bạc, và làm giàu cho quốc gia.
Lý thuyết giá trị cân bằng thương mại: Lý thuyết giá trị cân bằng thương
mại cho rằng giá trị của hàng hóa trong thương mại quốc tế phải được duy trì ở
mức cân bằng. Theo lý thuyết này, nếu một quốc gia xuất khẩu nhiều hơn nhập
khẩu, thì quốc gia đó sẽ bị thâm hụt cán cân thương mại. Điều này sẽ dẫn đến
sự mất giá của đồng tiền quốc gia, và làm suy giảm sức mạnh kinh tế của quốc gia đó.
Ý nghĩa của các lý thuyết giá trị của học thuyết kinh tế trọng thương:
Các lý thuyết giá trị của học thuyết kinh tế trọng thương có ý nghĩa quan trọng trong
việc phát triển kinh tế của các quốc gia châu Âu trong thế kỷ 16 và 17. Các lý thuyết
này đã thúc đẩy các quốc gia châu Âu tham gia vào thương mại quốc tế, và góp phần
làm tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này.
Các lý thuyết giá trị của học thuyết kinh tế trọng thương có một số ý nghĩa quan trọng, như:
Giải thích được giá trị của các hàng hóa có chất lượng khác nhau: Theo lý thuyết
giá trị tiền tệ, giá trị của các hàng hóa có chất lượng khác nhau là do giá trị của tiền tệ
quyết định. Tiền tệ là thước đo giá trị của hàng hóa. Một hàng hóa có chất lượng cao
hơn sẽ có giá trị cao hơn.
Giải thích được giá trị của các hàng hóa khan hiếm: Theo lý thuyết giá trị tích lũy,
giá trị của các hàng hóa khan hiếm là do giá trị của tư liệu sản xuất quyết định. Tư
liệu sản xuất là những thứ cần thiết để sản xuất ra hàng hóa, bao gồm lao động, vốn,
tài nguyên thiên nhiên,... Một hàng hóa khan hiếm sẽ có giá trị cao hơn. lOMoAR cPSD| 45470709
Là cơ sở để xây dựng các chính sách kinh tế: Các lý thuyết giá trị của học thuyết
kinh tế trọng thương được sử dụng để xây dựng các chính sách kinh tế như chính sách
thương mại, chính sách tiền tệ,...
Tuy nhiên, các lý thuyết giá trị của học thuyết kinh tế trọng thương cũng có một số
hạn chế. Lý thuyết giá trị tiền tệ chỉ dựa trên một tiêu chí duy nhất là lượng tiền tệ để
xác định giá trị của hàng hóa. Điều này là không hợp lý, vì giá trị của hàng hóa còn
phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như lao động, sự khan hiếm,... Lý thuyết giá trị
thương mại cũng chỉ dựa trên một tiêu chí duy nhất là sự chênh lệch giữa giá mua và
giá bán để xác định giá trị của hàng hóa. Điều này cũng là không hợp lý, vì giá trị của
hàng hóa còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như nhu cầu, cung cầu,...
5. trình bày các lý thuyết giá trị của học thuyết kinh tế keynes
• Học thuyết kinh tế Keynes là một trường phái kinh tế học ra đời vào thế kỷ 20,
dựa trên những quan điểm của John Maynard Keynes. Học thuyết kinh tế
Keynes không có một lý thuyết giá trị cụ thể, mà chỉ tập trung vào phân tích
các quy luật vận động của nền kinh tế tổng thể, đặc biệt là các quy luật vận
động của tổng cầu và tổng cung.
• Theo học thuyết kinh tế Keynes, giá trị của hàng hóa được xác định bởi quan
hệ cung - cầu trên thị trường. Giá trị của hàng hóa có thể thay đổi theo sự thay đổi của cung và cầu.
Giá trị của hàng hóa và tổng cầu:
Tổng cầu là tổng số lượng hàng hóa và dịch vụ mà người tiêu dùng, doanh nghiệp
và chính phủ sẵn sàng mua với các mức giá khác nhau trong một thời kỳ nhất định.
Giá trị của hàng hóa có thể thay đổi theo sự thay đổi của tổng cầu. Nếu tổng cầu
tăng, giá trị của hàng hóa sẽ tăng lên. Ngược lại, nếu tổng cầu giảm, giá trị của
hàng hóa sẽ giảm xuống.
Giá trị của hàng hóa và tổng cung:
Tổng cung là tổng số lượng hàng hóa và dịch vụ mà các doanh nghiệp sẵn sàng
cung cấp với các mức giá khác nhau trong một thời kỳ nhất định.
Giá trị của hàng hóa cũng có thể thay đổi theo sự thay đổi của tổng cung. Nếu tổng
cung giảm, giá trị của hàng hóa sẽ tăng lên. Ngược lại, nếu tổng cung tăng, giá trị
của hàng hóa sẽ giảm xuống.
Ý nghĩa của các lý thuyết giá trị của học thuyết kinh tế Keynes
Các lý thuyết giá trị của học thuyết kinh tế Keynes có một số ý nghĩa quan trọng, như: lOMoAR cPSD| 45470709
Giải thích được sự biến động của giá trị của hàng hóa: Theo học thuyết kinh tế
Keynes, giá trị của hàng hóa có thể thay đổi theo sự thay đổi của cung và cầu. Điều
này giải thích được sự biến động của giá trị của hàng hóa trong thực tế.
Là cơ sở để xây dựng các chính sách kinh tế: Các lý thuyết giá trị của học thuyết
kinh tế Keynes được sử dụng để xây dựng các chính sách kinh tế như chính sách tiền
tệ, chính sách tài khóa,...
Có thể thấy, học thuyết kinh tế Keynes không có một lý thuyết giá trị cụ thể, nhưng
những quan điểm của học thuyết này đã có những đóng góp quan trọng trong việc giải
thích sự biến động của giá trị của hàng hóa và là cơ sở để xây dựng các chính sách kinh tế.
6. Trình bày lý thuyết giá trị của học thuyết chủ nghĩa tự do mới
Học thuyết chủ nghĩa tự do mới là một trường phái kinh tế học ra đời vào cuối thế kỷ
20, dựa trên những quan điểm của các nhà kinh tế học như Milton Friedman, Robert Mundell, Friedrich Hayek,...
Học thuyết chủ nghĩa tự do mới bác bỏ học thuyết giá trị lao động của Karl Marx và
học thuyết giá trị cận biên của các nhà kinh tế học tân cổ điển. Học thuyết chủ nghĩa
tự do mới cho rằng giá trị của hàng hóa được xác định bởi cung và cầu trên thị trường.
Lý thuyết giá trị thị trường: Lý thuyết giá trị thị trường là lý thuyết giá trị của học
thuyết chủ nghĩa tự do mới. Lý thuyết này cho rằng giá trị của hàng hóa là do quan hệ
cung - cầu trên thị trường quyết định.
Theo lý thuyết này, giá trị của hàng hóa là do nhu cầu và khả năng cung ứng của hàng
hóa đó quyết định. Nhu cầu của người tiêu dùng càng lớn, khả năng cung ứng của
hàng hóa càng ít thì giá trị của hàng hóa càng cao.
Ý nghĩa của lý thuyết giá trị thị trường
Lý thuyết giá trị thị trường có một số ý nghĩa quan trọng, như:
Giải thích được sự biến động của giá trị của hàng hóa: Theo học thuyết giá trị thị
trường, giá trị của hàng hóa có thể thay đổi theo sự thay đổi của cung và cầu. Điều
này giải thích được sự biến động của giá trị của hàng hóa trong thực tế.
Là cơ sở để xây dựng các chính sách kinh tế: Lý thuyết giá trị thị trường được sử
dụng để xây dựng các chính sách kinh tế như chính sách thương mại, chính sách tiền tệ,...
So sánh lý thuyết giá trị của học thuyết chủ nghĩa tự do mới với các học thuyết giá trị khác lOMoAR cPSD| 45470709
Đặc điểm Học thuyết chủ Học thuyết kinh tế
Học thuyết kinh Học thuyết kinh tế tân nghĩa tự do mới trọng thương tế cổ điển cổ điển Cơ sở Cung và cầu
Tiền tệ, tư liệu sản xuất Lao động Sự khan hiếm
Giá trị của Do quan hệ cung - Do lượng tiền tệ được Do lượng lao Do sự khan hiếm của hàng hóa
cầu trên thị trường trao đổi hoặc tích lũy động cần thiết hàng hóa đó quyết quyết định
để sản xuất ra hàng hóa để sản xuất ra định đó quyết định hàng hóa đó quyết định Ý nghĩa
Giải thích được sự Giải thích được giá trị Chỉ ra bản chất Giải thích được giá
biến động của giá của các hàng hóa có bóc lột của chủ trị của các hàng hóa trị của hàng hóa chất lượng khác nhau, nghĩa tư bản có chất lượng khác
và là cơ sở để xây các hàng hóa khan nhau, các hàng hóa dựng các chính
hiếm và là cơ sở để xây khan hiếm và là cơ sách kinh tế dựng các chính sách sở để xây dựng các kinh tế chính sách kinh tế 7.
Lý thuyết về vai trò nhà nước trọng thương
Học thuyết kinh tế trọng thương đề cao vai trò của nhà nước trong điều tiết nền kinh
tế, đặc biệt là trong thương mại quốc tế. Nhà nước trọng thương có vai trò quan trọng
trong việc thúc đẩy xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, nhằm đạt được mục tiêu tích luỹ vàng bạc cho quốc gia.
Cụ thể, nhà nước trọng thương có thể thực hiện những biện pháp sau:
Áp dụng chế độ bảo hộ thương mại: Chế độ bảo hộ thương mại bao gồm các biện
pháp như thuế quan, hạn ngạch,... nhằm bảo vệ các ngành sản xuất trong nước khỏi sự
cạnh tranh từ nước ngoài.
Tích luỹ vàng bạc: Nhà nước trọng thương coi vàng bạc là thước đo của của cải và
sức mạnh quốc gia. Do đó, nhà nước sẽ thực hiện các chính sách nhằm tích luỹ vàng bạc cho quốc gia.
Tăng cường sản xuất công nghiệp: Nhà nước trọng thương cho rằng, công nghiệp là
ngành sản xuất quan trọng nhất, có khả năng tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho quốc gia.
Do đó, nhà nước sẽ thực hiện các chính sách nhằm thúc đẩy phát triển công nghiệp.
Vai trò của nhà nước trọng thương đã có những tác động quan trọng đến sự phát triển
của nền kinh tế thế giới.
Thúc đẩy sự phát triển của thương mại quốc tế: Chính sách bảo hộ thương mại của
các quốc gia trọng thương đã thúc đẩy sự phát triển của thương mại quốc tế, bởi các
quốc gia cần phải tìm kiếm thị trường mới để xuất khẩu hàng hóa.
Thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp: Chính sách thúc đẩy sản xuất công nghiệp
của các quốc gia trọng thương đã thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp, đặc biệt là ở các nước châu Âu. lOMoAR cPSD| 45470709
Gây ra những xung đột thương mại giữa các quốc gia: Chính sách bảo hộ thương
mại của các quốc gia trọng thương đã gây ra những xung đột thương mại giữa các
quốc gia, bởi các quốc gia cạnh tranh với nhau trong việc xuất khẩu hàng hóa.
Ngày nay, học thuyết kinh tế trọng thương đã không còn được áp dụng phổ biến. Tuy
nhiên, vai trò của nhà nước trong điều tiết nền kinh tế vẫn được coi trọng
Vai trò của nhà nước trọng thương trong thực tiễn
Nhà nước trọng thương đã có những vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền
kinh tế châu Âu trong thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII. Các chính sách của nhà nước
trọng thương đã góp phần thúc đẩy thương mại quốc tế, phát triển sản xuất và tăng
cường sức mạnh quân sự của các quốc gia châu Âu.
Tuy nhiên, các chính sách của nhà nước trọng thương cũng có những hạn chế nhất
định. Chế độ bảo hộ thương mại có thể dẫn đến tăng giá hàng hóa và giảm tính cạnh
tranh của các ngành sản xuất trong nước. Ngoài ra, các chính sách tài chính của nhà
nước trọng thương có thể gây ra lạm phát và bất ổn kinh tế. Kết luận
Nhà nước trọng thương là một nhà nước theo đuổi các chính sách kinh tế nhằm tích
luỹ vàng bạc cho quốc gia. Các chính sách này đã có những vai trò quan trọng trong
sự phát triển của nền kinh tế châu Âu trong thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII. Tuy nhiên,
các chính sách này cũng có những hạn chế nhất định cần được lưu ý.
8. Vai trò của nhà nước cổ điển
Lý thuyết về vai trò của nhà nước cổ điển là một trong những lý thuyết quan trọng
nhất của học thuyết kinh tế cổ điển. Lý thuyết này cho rằng vai trò của nhà nước trong
nền kinh tế là rất hạn chế, nhà nước chỉ nên can thiệp vào nền kinh tế trong một số
trường hợp nhất định.
Lý thuyết về vai trò của nhà nước cổ điển dựa trên những quan điểm sau:
Thị trường là một cơ chế tự điều chỉnh: Trong học thuyết kinh tế cổ điển, thị trường
được coi là một cơ chế tự điều chỉnh, có thể tự cân bằng cung và cầu, giá cả và lợi
nhuận. Nhà nước không cần phải can thiệp vào nền kinh tế để điều chỉnh thị trường.
Sự can thiệp của nhà nước có thể gây hại: Trong học thuyết kinh tế cổ điển, sự can
thiệp của nhà nước có thể gây hại cho nền kinh tế, làm giảm hiệu quả của thị trường.
Nhà nước chỉ nên can thiệp vào nền kinh tế trong một số trường hợp nhất định, khi thị
trường không thể tự điều chỉnh được.
Cụ thể, học thuyết về vai trò của nhà nước cổ điển đề xuất những quan điểm sau: lOMoAR cPSD| 45470709
Nhà nước cần phải đảm bảo trật tự và an ninh: Nhà nước cần phải đảm bảo trật tự
và an ninh trong xã hội để thị trường có thể hoạt động bình thường.
Nhà nước cần phải bảo vệ quyền sở hữu tư nhân: Quyền sở hữu tư nhân là cơ sở
của nền kinh tế thị trường, nhà nước cần phải bảo vệ quyền sở hữu tư nhân để khuyến
khích đầu tư và sản xuất.
Nhà nước cần phải cung cấp một số dịch vụ công cộng: Một số dịch vụ công cộng
như giáo dục, y tế, an sinh xã hội,... là cần thiết cho sự phát triển của xã hội, nhà nước
cần phải cung cấp các dịch vụ này.
Lý thuyết về vai trò của nhà nước cổ điển đã có những đóng góp quan trọng trong
việc phát triển học thuyết kinh tế, đặc biệt là trong việc giải thích vai trò của nhà nước
trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, lý thuyết này cũng có những hạn chế, như:
Không phù hợp với thực tế: Trong thực tế, nhà nước thường phải can thiệp vào nền
kinh tế nhiều hơn so với những gì học thuyết kinh tế cổ điển đề xuất.
Không giải thích được sự phát triển của các quốc gia: Trong thực tế, các quốc gia
có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, điều này không được lý
thuyết kinh tế cổ điển giải thích.
9. Vai trò nhà nước tân cổ điển