Lịch sử mỹ thuật thời Nguyễn môn Lý luận và lịch sử mỹ thuật | Trường Đại học Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh

Sau khi lật đổ triều đình Tây Sơn vào năm 1802, Nguyễn ánh lập ra vương triều Nguyễn, đặt niên hiệu là Gia Long, đóng đô ở Phú Xuân. Vua nắm mọi quyền hành một cách độc đoán. , không đặt tể tướng, không lấy trạng nguyên, không lập Hoàng Hậu và không phong tước vương cho người ngoài họ Vua. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

lOMoARcPSD| 49981208
8
Mỹ thuật Thời Nguyễn
Sau khi lật đổ triều đình Tây Sơn vào năm 1802, Nguyễn ánh lập ra
vương triều Nguyễn, đặt niên hiệu là Gia Long, đóng đô ở Phú Xuân.
Vua nắm mọi quyền hành một cách độc đoán. , không ặt tể tướng,
không lấy trạng nguyên, không lập Hoàng Hậu và không phong tước
vương cho người ngoài họ Vua.
Nhà nước ban hành " Luật Gia Long " Để tăng cường chuyên chế. B
luật này gần như sao chép của Luật nhà Thanh. Vua củng cố sự ộc tôn
của Nho giáo, ặt " Thập iều" giao các làng xã giảng giải cho dân, củng
cố việc thi cử ể chọn người tài. Để hạn chế sự nhũng lạm, nhà nước cấp
lương bằng tiền và gạo cho quan lại, còn ruộng thì hưởng theo phép
quân iền. Nhưng chính sách ó vẫn chưa ủ vắn, nạn tham nhũng ngày
càng gia tăng, ến nỗi nhân dân thời bấy giờ có câu ca dao:
" Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp êm là giặc, cướp ngày là quan "
Nạn tham nhũng ngày càng trầm trọng, dù vua ã xử phạt rất nặng hàng
hoạt quan to nhưng vẫn không ngăn chặn ược.
Bên cạnh việc tham nhũng của quan lại thì vấn ề bóc lột của cường hào
và hương lý ở nông thôn cũng không kém phần trắng trợn. Ruộng tư
tăng lên rất nhiều trong khi ruộng công còn lại quá ít. Cường hào và
hương lý bao chiếm hết những chỗ màu mỡ còn dân thì chỉ còn lại
lOMoARcPSD| 49981208
)
những chỗ xương xẩu. Đã thế lại vỡ ê liên tục do Nhà nước thiếu quy
hoạch chung trong việc ắp ê iều. Vậy nên nhân dân lại càng khốn khó,
ói kém triền miên, nhiều nơi phải bỏ ruộng hoang i phiêu tán. Từ tình
trạng khốn ốn ó, dân ã dẫy lên những cuộc khởi nghĩa liên tục ở Bắc và
Nam, lan lên cả dân tộc ít người và miền núi xã xôi. Do nho giáo khủng
hoảng, những nho sỹ thức thời (như Cao Bá Quát) cũng tham gia khởi
nghĩa và trở thành lãnh tụ nghĩa quân. ở ời Gia Long, những cuộc khởi
nghĩa lớn nhỏ có khoảng 90 cuộc, ời Minh Mạng có khoảng 250 cuộc,
ời Thiệu Trị khoảng 50 cuộc. Từ những nhìn nhận ó ã thấy nhân dân lao
ộng thủa bấy giờ ã phải khốn khổ và bất mãn với triều ình như thế nào.
Về mặt công nghiệp, do ất nước thống nhất, hệ thống giao thông ược
quan tâm và do tiép xúc với phương Tây mà công nghiệp ã có bước tiến
rõ rệt, tay nghề của thợ ược nâng cao. Các làng nghề thủ công vẫn gắn
liền với nông nghiệp nhưng vẫn phát triển hơn hẳn trước. Nhà nước ộc
quyền mua những sản phẩm và ộc quyền ngoại thương, có mở rộng
buôn bán với các nước trong khu vực nhưng lại óng cửa với phương
Tây.
Nhà Nguyễn cầm quyền khi phương Đông ang trì trệ ở cuối mùa phong
kiến, còn phương Tây ã bước vào CNTB và nhiều nước Châu á ã rơi
vào ách thống trị của thực dân. Và nước ta cũng không phải là
ngoại lệ, do mặt ngoại giao kém khéo léo, năm 1858 Pháp chính thức
xâm lược nước ta. Với vũ khí thô sơ và chiến thuật lạc hậu, nhà
Nguyễn ã từng bước nhượng bộ và ến năm 1885 thì chính thức ký hàng
ước chấp nhận sự ô hộ của Pháp trên toàn bộ lãnh thổ nước ta, kể từ
lOMoARcPSD| 49981208
1885 chế ộ quân chủ nhà Nguyễn ã chấm dứt về chính trị. Nhưng do
Pháp cai trị nước ta theo chế ộ phong kiến nửa thuộc ịa nên dưới tính
chất bù nhìn các vua nhà Nguyễn vẫn tồn tại ến tận cách mạng tháng
tám năm 1945.
Tình hình xã hội trên ã ảnh hưởng rất nhiều ến sự phát triển văn hoá
nghệ thuật thời Nguyễn. Kinh ô Huế ược xây dựng àng hoàng to ẹp,
nhưng việc xây dựng ở các làng quê có mở ra nhiều mà không lớn,
không rầm rộ, ược cái lan xa toả rộng. Bên cạnh ó văn hoá nghệ thuật
truyền thống vẫn duy trì ở các làng xã, di duệ của mỹ thuật thời
Nguyễn vẫn phát triển ngay ở Huế ến tận ầu thế kỷ XX. Một trong
những mặt ặc sắc của mỹ thuật thời Nguyễn là mỹ thuật cung ình Huế.
Thời Nguyễn là vương triều gần dân nhất nên cung ình Huế vẫn còn
tồn tại ến ngày nay. Mỹ thuật cung ình Huế có rất
nhiều nét ặc sắc nổi trội rất ặc biệt. Trước hết, chúng ta dần i vào tìm
hiểu kiến trúc kinh thành Huế.
Gia Long lập vương mới và cũng xác ịnh là lập kinh ô ở Huế cơ sở
thành Phú Xuân ngày xưa và xê dịch mở rộng ra nhiều hơn. Kinh ô
Huế có hoàng thành của triều ình và phố xá của nhân dân, ồng thời lại
có các lăng tẩm của Vua và Hoàng Hậu ở vùng ồi thượng nguông sông
Hương. Đây là nét mới khác với các kinh ô trước ó. Và ây cũng là ngh
thuật cung ình duy nhất của Việt Nam còn lại ến nay.
Kinh thành Huế có vị trí rất lý tưởng cả về phong thuỷ và khí hậu.
Được bắt ầu xây dựng từ năm 1804 do Gia Long iều hành khởi công,
nhưng vẫn giản ơn và chưa bề thế về quy mô. Đến ời Minh Mạng ã quy
lOMoARcPSD| 49981208
)
hoạch lại rất nhiều trong hoàng thành, sửa sang cung iện. Kinh thành
Huế mang nặng tính quân sự, gồm 3 vòng thành gần vuông lồng vào
nhau lệch về phía trước, cùng trên một trục chính từ núi Ngự Bình v
vuông góc với sông Hương. ng ngoài là Phòng Thành, chu vi chừng
10km, mặt trước trên ường trục dựng kỳ ài, xung quanh tr
10 cửa, có hào sâu bao quanh, bên trong có trụ sở các cơ quan của triều
ình. Vòng giữa là Hoàng Thành trên ường trục có cửa chính Ngọ
Môn, chu vi chừng 2500m, sát chân thành phía ngoài có hào sâu, ứng
với các cửa có cac cầu xây gạch ể ra vào, ây là nơi làm việc và sinh
hoạt của triều ình và Hoàng Gia, ồng thời là nơi thờ phụng tôn nghiêm,
có nhiều iện, nhiều miếu dành riêng cho Hoàng Gia. Khi thịnh nhất,
trong hoàng thành có trên 100 công trình kiến trúc. Mỗi quần thể kiến
trúc là một sự kết hợp hài hoà giữa nhà cửa với vườn cây cảnh tạo ra cả
một phong cảnh kiến trúc, nó dàn ra trải rộng, chỉ có một vài iểm ột
khởi như cửa Ngọ Môn và Hiển Lâm Các, song cũng chỉ cao vừa ộ,
không tách mình ra khỏi xung quanh mà luôn gắn bó với toàn cảnh.
Ngọ Môn là cửa chính ở phía Nam của Hoàng Thành ược xây dựng quy
mô vào năm 1833, kiến trúc Ngọ Môn ồ sộ, hình khối vững chãi (dài
57,95m, cao 14,80m), phần dưới xây á chắc, có 5 cửa lớn, bên trên
lầu Ngũ Phụng (5 con rồng), có 100 cột lớn ỡ bộ mái ồ sộ ược tạo hình
như " năm con phượng xoè cánh ". Mặt trước Ngọ môn là hồ nước,
phía sau là hồ Thái Dịch cũng có một cầu lớn dẫn vào trong, gọi là cầu
Trung Đạo. Hồ ược thả sen, tạo nên một phong cảnh ẹp và hoành tráng.
lOMoARcPSD| 49981208
Bên cạnh ó còn có các ền miếu, là nơi thờ các vua cha, ược bố trí thành
hai khu vực ở phía trước (tức là mặt phía Nam) của Hoàng Thành: Khu
phía Đông có Triệu Miếu, Thái Miếu và khu phía Tây có Hương Miếu,
Thế Miếu và Hiển Lâm Các.
Hiển Lâm Các là toà nhà duy nhất có cầu trúc 3 tầng, mang biểu tượng:
Thiên, Địa, Nhân (Trời, ất, người) là một công trình rất ặc sắc trong
tổng thể kiến trúc Huế. Cao 17 m là công trình cao nhất ở ây. Được tạo
nên trên cơ sở bộ khung gỗ rất ẹp ể ỡ các sàn và mái, 4 trục ở giữa
vươn cao qua các tầng ược liên kết với các hàng cột khác nhau bằng
các xà ngang xà dọc các tầng ều có bộ mái dốc về 4 phía, xoè ra như
một bông hoa. Được xây dựng vào năm 1821 ến nay ã trên 180 năm.
Hiển Lâm Các vẫn ứng vững với dáng vẻ tao nhã, cân ối, nhịp nhàng,
trở thành niềm kiêu hãnh của truyền thống kiến trúc Việt Nam.
Ngoài Phòng Thành là khu sinh hoạt của nhân dân, có phố xá và làng
mạc, chủ yếu là hai bên bờ sông Hương, cũng có một số công trình Nhà
nước như Nghinh lương ình, Văn miếu, Phu Văn Lâu, Đàn Nam Giao
và ặc biệt nhất là Hổ Quyền, mang ậm tính dân tộc của kiến trúc thời
Nguyễn.
Hổ Quyền ược vua Minh Mạng cho xây vào năm 1830 ở chân ồi Long
Thọ phía Nam bờ sông Hương, là nơi tổ chức các cuộc giao ấu giữa voi
lOMoARcPSD| 49981208
)
và hổ với chủ ích cho voi thắng hổ (voi ược coi là con vật có ích, hổ là
ác thú). Công trình ược tạo dựng thấp sâu dưới mặt ất ể người xem ứng
trên bờ cao tránh nguy hiểm. Có khán ài dành cho Vua ngồi xem còn
nhân dân ứng xem trên mặt tường bao quanh. Công trình ã 160 năm mà
nay vẫn ứng vững.
Kiến trúc của cả kinh thành Huế nói chung cũng như từng công trình c
thể nói riêng ều là những tác phẩm nghệ thuậ. Tất cả dàn ra, cân ối
không lặp lại, gắn bó với nhau và hoà nhập với cảnh quan ể nâng lên
chân giá, chỗ thì trang trọng thâm nghiêm, chỗ thì thanh toát thơ
mộng… tuỳ theo từng công trình và tính chất, yêu cầu của nó. Dù to
lớn vẫn không ồ sộ ể nạt nộ, mà giữ tỷ lệ vừa phải với con người -
những nét ó rất phù hợp với iều kiện tâm lý và kinh tế của con người
Việt Nam.
Từng ơn nguyên kiến trúc chỉ nhấp nhỉnh các ình, ền, chùa, ở các ịa
phương, nhưng - như iện Thái Hoà và Thế Miếu do kết cấu theo lối "
trùng thiềm iệp ốc ", hai nhà song hành kề sát ược gắn lại bởi dãy " trần
mai cua " mà tạo ra một không gian thống nhất rộng cả hai chiều ngang
và dọc. Hai toà nhà này, toà trong là chính iện có trần ván gỗ treo èn kết
hoa, toà ngoài là tiền iện thông lên tận mái ể lộ ra cac bộ vì giả thủ như
cánh tay giơ lên ỡ hoành và các ván liền ba ố bản chia ra các ô trang trí
thi và hoạ xen nhau. Giá trị của nghệ thuật kiến trúc ở ây cho thấy một
trình ộ cao trong việc tạo dựng những bộ khung nhà ầy sáng tạo, những
tỷ lệ và hình khối của các kiến trúc cung ình vừa hoành tráng vừa gần
gũi.
lOMoARcPSD| 49981208
Kiến trúc Huế có thân cao, mái ngắn hơn so với ình chùa ngoài Bắc nên
có cảm giác nhẹ, không cần ến các hoa ao ở góc mái nữa. Mặt trước
thường lắp thêm kẻ cổ ngỗng ể kéo dài mái ra cái hiên làm không gian
chuyển tiếp, khi không cần có thể bỏ mà không ảnh hưởng gì ến cấu
trúc chung.
Những kiến trúc ấy bên cạnh khối hình còn ược nghệ thuật trang trí bổ
trcả màu hình. Các cung iện ều lợp ngói ống hoặc ngói ng âm
dương tạo thành những làn sóng an xen nhau chạy dài từ bên này ến bên
kia. Những mái ngói ấy ều ược tráng men ngọc màu vàng hoặc xanh gọi
" hoàng lưu ly " hay " thanh lưu ly " làm cho cả bộ mái rực rỡ trong
ngần, thanh tao, quý phái.
Các mảng tường cổ diềm và bớ nóc ắp cao lại ược chia ra những ô hộc
vuông và chữ nhật an xen nhau. Trên các bờ nóc, bờ dải ắp và ghép các
mảng sứ thành con dao, con rồng, con lân, con phượng… Với việc tạo
hình những con vật linh ấy và kỹ thuật ghép mảnh, ghép gốm, các ngh
nhân xưa ã ưa nghệ thuật trang trí kiến trúc ạt tới trình ộ cao, iêu luyện
và tinh xảo. Men Pháp Lam cũng ược ưa vào trang trí và nhất là ể làm
ám mây ngũ sắc ỡ mặt trời hoặc một bầu to có hình như nâm rượu ở
giữa bờ nóc. Nội thất kiến trúc chính cũng phần nhiều ược sơn son với
nhiều hình trang trí thếp vàng, sang trọng và vui mắt. Và cùng với kiến
trúc, nghệ thuật iêu khắc với các tượng tròn và các bức chạm nổi, chạm
lông bằng á, bằng gỗ… phân bổ rải rác trong các cungd diện, các lăng
mộ ều là những tác phẩm ạt tới các giá trị nghệ thuật cao.
lOMoARcPSD| 49981208
)
Kiến trúc cung ình Huê, ngoài kiến trúc kinh thành còn có lăng tẩm của
các vua nhà Nguyễn cũng rất ặc sắc. Theo truyền thống các vua
Lý, Trần, Lê khi mất ều ược ưa về vùng quê cũ ể an táng và xây lăng
tẩm. Với các vua nhà Nguyễn, quê gốc là Thanh Hoá, nhưng Huế
cũng vừa là kinh ô vừa là quê hương nhà Nguyễn. Các vua ược an táng
ở Huế cũng là trở về với quê cha ất tổ. ở thời Nguyễn mỗi vua có một
lăng mộ và tẩm thờ riêng, kết hợp với nhau thành lăng tẩm chiếm một
khuôn viên lớn, trong ó dựng bia " Thánh ức thần công " rất lớn ể biểu
dương công trạng.
Kinh ô Huế nằm ở Hạ Lưu sông Hương, cũng là ở phía mặt trời mọc,
dành cho người sống. Thế thì thượng nguồn sông Hương nơi mặt trời
lặn, sẽ là nơi dành cho người chết và lăng mộ ược xây ở ó. Dựa theo
thuyết phong thuỷ, mỗi lăng chiếm một quả ồi, nhưng thật ra chiếm cả
một quần thể ồi núi xung quanh: có núi án ở trước mặt làm bình phong,
có núi chắn ở hai bên làm tay ngai, và ngay sát trước khu lăng phải có
ngòi lạch chảy lượn " chi huyền thuỷ " từ trái sang phải. Chẳng hạn
lăng Gia Long có 36 ngọn núi châu vào, gồm núi Đại Thiên Thọ ở phía
trước làm tiền án, mỗi bên sườn có 14 ngọn núi dăng hàng làm tay ngai
" tả Thanh Long - hữu Bạch Hổ ", ằng sau có 4 ngọn núi làm hậu án.
Cả vùng rộng lớn trong mỗi lăng ược gọi là " quan phòng " coi như
rừng cấm.
Lăng Gia Long rộng tới 28km2, chiếm một vùng ồi rộng với bố cục rõ
ràng và ý nghĩa sâu sắc. Điển hình cho các lăng tẩm ở Huế là 4 lăng của
4 vua ầu khi ất nước còn ộc lập, tự chủ: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu
lOMoARcPSD| 49981208
Trị, Tự Đức và tàn dư nghệ thuật Nguyễn là lăng Khải Định ở ầu thế kỷ
XX. Dựa trên mặt bằng khuôn viên lăng có thể chia ra 3 dạng khác
nhau.
Dạng thứ nhất là lăng Gia Long (1814 - 1820) và lăng Thiệu Trị (1848):
hai khu lăng và tẩm tách riêng ra ặt sóng ôi, cùng nhìn một hướng. Mỗi
khu lăng hoặc tẩm có một ường trục riêng, các kiến trúc cân ối với
nhau ở hai bên trục, chạy hút về sau với ộ sâu vừa phải.
Bên lăng có Bái ình và các hàng tượng á voi - ngựa - quan võ - quan
văn ở hai bên chầu vào giữa, cao to bằng người và thú thật tận cùng là
bửu thành với mộ vua, ngoài ra còn Bi ình và hai trụ biểu ể biểu dương
công ức và uy lực của vua. Bên tẩm chủ yếu là iện thờ, gồm hai nhà
gắn nhau theo kiểu " Trùng thiềm iệp ốc ", trong ó bài vị, án thờ và ồ
ngự dung lúc bình sinh. Trên tổng thể chung ấy, phần cụ thể ở mỗi lăng
giải quyết theo một cách: lăng Gia Long ở bên trái, tẩm ở bên phải,
Bửu thành vuông có 2 mộ á vua và Hoàng Hậu song hành. Lăng Thiệu
Trị thì ở bên phải, tẩm ở bên trái, Bửu thành tròn quây lấy núi ất có mộ
ngầm bên trong. ở lăng Gia Long, Bi ình xây bên cạnh lăng, hai trụ
biểu xây mái xà ở trên quả ồi bên kia hồ nước. Trái lại, ở lăng Thiệu Tr
cả Bi ình và hai trụ biểu ều ở trước Bửu thành. Dạng thứ hai là lăng
Minh Mạng (1840 - 1843) và lăng Khải Định
(1920 - 1931): Cả lăng và tẩm ều trên một trục, tạo ộ sâu hun hút phần
tẩm chen vào giữa, các kiến trúc ăng ối hai bên trục. ở lăng Minh
Mạng, dọc theo ường trục, các ộ cao thấp uốn lượn nhịp nhàng, tất cả
trên 30 công trình, cứ hiện ra bất ngờ, luôn ổi mới. Ngay từ ầu, sau
lOMoARcPSD| 49981208
)
cổng lăng là Bái ình mênh mông với hai hàng tựơng trang nghiêm, tiếp
ến Bi ình - trên nền cao ột khởi. Từng phần cứ ngắt ra, iẻm cao và khu
trũng an xen ể tôn nhau, cuối cùng vượt ra hồ nước sang khu Bửu thành
tròn chứa phần mộ là cấm ịa. Cùng với kiến trúc, cây cao bóng cả và
gương nước cứ hoà quyện, ấm cúng mà thiêng liêng.
Còn ở lăng Khải Định, tất cả cứ trườn lên sườn núi xa dần, lớp lang
ngắt quãng dứt khoát, không hồ nước, không cây xanh, lớp sân trên
cùng dàn ra những 4 hàng tượng, hai trụ biểu và Bi ình, ể rồi chế ngự là
iện Khải Thánh vừa là tẩm thờ, vừa là lăng mộ, còn ặt tượng ồng ngay
phía trên lăng phần mộ, khu lăng này sùng bái chát liệu xi măng, trang
trí ngoại thất ắp nổi nhiều hình xa lạ, nhưng các mảng tường nội thất
ược gắn kính sứ thành tranh phong cảnh tinh tế như vẽ và có ộ mát dịu.
Dạng thứ ba là lăng Tự Đức (1864 - 1867): ở ây có gò i cao thấp lô
nhô ở về một phía và hồ nước uốn lượn rộng hẹp ở về một bên, tất cả
như một viên lớn có sự công bằng mà không ăng ối, các ường i vòng
vèo mở ra những bất ngờ liên tiếp. Hai phần chính là tẩm và lăng ặt
cạnh nhau nhưng so le, và xen kẽ nhiều công trình dành cho người sống
dạo chơi, xem hát, làm việc, nhà ăn, vườn nuôi hươu… Đặc biệt khu
lăng quan tâm ến thế ăng ối ể tạo thành không khí nghiêm túc, có
những kiến trúc bất ngờ quá cớ như hai trụ biểu, như toà Bi ình với 8
bia cao nhất nước (cao 4m, rộng 2m). ở ây toàn cảnh quy mô, tổng th
phong phú có nhiều cây cối các loại cũng hoà với kiến trúc. Nhiều
người ã nhận ra lăng Tự Đức có nhiều chất thơ, là sự thể nghiệm thành
lOMoARcPSD| 49981208
công một kiểu mô hình lăng tẩm mà cái sống với cái chết hoà hợp,
thanh thản.
Trong sân Bái Đình của khu lăng mộ luôn nổi bật những tượng quan
văn, quan võ, ngựa, voi và lăng Khải Định còn có nhiều tượng lính hầu.
Trừ tượng ở lăng Đồng Khánh (1889) ắp bằng vôi vữa có dáng mảnh
gầy, còn ở các lăng khác ều bằng á là chất liệu iêu khắc ngoài trời, ược
làm theo quy ịnh chặt chẽ, dáng nghiêm túc, chú ý nghiên cứu ến từng
chi tiết, có tỷ lệ hợp lý giữa các bộ phận. Phần dưới bụng thú ược cậy
ục càng làm cho con vật rất thực. Tượng ở những lăng ầu (Gia Long,
Minh Mạng) ược tạo trau chuốt, hình chuẩn mực hoá rất sống ộng, sang
giai oạn muộn (Tự Đức) do không câu nệ vào tỷ lệ lại có vẻ vui lòng.
ở một số lăng, nhất là lăng Minh Mạng và lăng Tự Đức, trong tẩm thờ
còn treo nhiều tranh vẽ trên mặt sau của kính. Có tranh ặt hoạ dỹ Trung
Quốc vẽ theo tứ thơ của vua nhà Nguyễn, ược vẽ tỷ mỉ, hoặc mua của
dân gian Trung Quốc cũng có phần chi li, nhưng những tranh do người
Việt Nam vẽ ã mang theo sự phóng túng với những mảng màu chân
chất gần với tranh sình, tranh Đông Hồ, riêng ở vách gỗ ệm Ngưng Hy
của lăng Đồng Khánh có 24 bức vẽ gộp lại thành bộ " Nhị thập tứ hiếu
", nhiều nhóm hình ược sắp xếp theo kiểu ồng hiện, nét vẽ thanh toát lại
gợi ến tranh Hàng Trống, có thể thuộc lần tu sửa năm
1916 - 1917.
Những thành tựu của nghệ thuật cung ình ở Huế ã ược phát triển, nâng
cao từ nghệ thuật truyền thống, nó quen thuộc nhưng tinh tế, gắn với
lOMoARcPSD| 49981208
)
triều ình nhưng cũng gần gũi với nhân dân, là trí tuệ của nghệ sỹ Việt
Nam. Góp vào di sản văn hoá thế giới như ã ược UNESCO xán nhận.
Bên cạnh mảng mỹ thuật cung ình ở kinh ô, mỹ thuạt thời Nguyễn còn
phổ biến ở các làng xã - nhất là trên ịa bàn văn hoá truyền thống miền
Bắc ã có quy củ, và vẫn ược duy trì ngay cả trong thời Pháp thuộc. ở ây
có di tích do chính quyền ịa phương chủ trương. Nhưng phần lớn là do
nhân dân xây dựng, có một số làm mới, làm thêm, nhưng phần lớn là
làm bổ sung vào công trình cũ.
Nhân dân ta với tín ngưỡng thờ tổ tiên trong gia ình, mở rộng ra cả
nước với các anh hùng dựng nước và giữ nước, từ các thời Lý - Trần -
Lê ã dựng nhiều ền thờ. Nhưng rồi với những biến ộng lịch sử, với s
tàn phá của thời gian ến thời Nguyễn nhiều di tích ã bị hư hỏng nặng,
cần phải sửa, thậm chí phải làm lại hoàn toàn. Nếu ền vua Đinh và ền
vua Lê ở Ninh Bình dựng lại ở nửa sau thế kỷ XVII ầu thế kỷ XIX ch
phải sửa chữa, bổ sung một số ơn nguyên vào các năm 1837 và 1843,
thì ền vua Hùng (Phú Thọ), ền Hai Bà Trưng (Hà Nội, Hà Tây, Vĩnh
Phúc), ề Bà Triệu (Thanh Hoá), ền Đức THánh Trần
Hưng Đạo (Hải Dương)… cả phủ thờ Mẫu Liễu Hạnh mà iển hình là
Phủ Giày (Nam Định) ều ược xây lại hoàn toàn, có quy mô lớn, lớp
lang rõ ràng, chú ý tiểu cảnh, gắn bó mật thiết với môi trường.
Cùng với ền miếu là lăng mộ các bậc ế vương ược triều ình Huế cho iều
tra, xác minh và sửa sang, ặc biệt là sựng bia mộ. Theo sứ cũ thì từ thời
Trần về trước chưa có lệ dựng bia ở lăng mộ, do ó qua thời gian dễ bị
lOMoARcPSD| 49981208
thất lạc. Trong ống bãi ổ nát, nhà Nguyễn sau khi tìm hiểu ã ắp mộ
dựng bia, có khi còn trồng cây xây nhà cho thuỷ tổ Kinh
Dương Vương (Bắc Ninh), cho các ế vương xưa từ Phùng Vương và
Ngô Quyền (Hà Tây), Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành (Ninh Bình)
ến tập thể các vua nhà Lý (Bắc Ninh) và từng vua nhà Trần (Quảng
Ninh). Tư thời Lý mộ vua ược dựng bia cao to, nhưng rồi bị mưa nắng
bào mòn như ở lăng Lê Uy Mục (Bắc Ninh) cũng ược nhà Nguyễn cho
khắc thêm ể ịnh vị. Những lăng mộ trên tuy thuộc vào hàng ế vương
song rất ơn giản , còn cả sự hoang vu tự nhiên, thực sự là nghthuật
dân gian.
Làng qcho ến thời Nguyễn phần nhiều ã diện mạo văn hrồi, song
do các hoạt ộng cúng tế, hội lễ và cả chè chén nên ình làng ược mở rộng
mà thường ược xây thêm một số ơn nguyên nữa:
Trong mặt bằng khuôn viên ình làng, nếu Đại Đình (và nhiều nơi cả
Hậu cung) ã có từ thế kỷ XVIII về trước, thì ở thời Nguyễn thường
dựng thêm các toà Tiền tế và T- Hữu vu, do ó làm cho quần thể trở
nên ông ặc, ăng ối. Một số làng hoặc chưa có ình, hoặc ình cũ hư hỏng
nặng, thời Nguyễn ã làm lại hoàn toàn, như các ình Tam Tảo (Bắc
Ninh), ình Mông Phụ (Hà Tây), ình Yên Đông (Quảng Ninh)… Rất
nhiều chùa cũng ược sửa chữa lại, ặc biệt làm mới hoàn toàn như chùa
Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang). Nhiều ền thần như ền Quán Thánh và ền
Ngọc Sơn (Hà Nội) ều là thành tựu kiến trúc thời Nguyễn dựng trên
nền kiến trúc xưa.
lOMoARcPSD| 49981208
)
Những kiến trúc ược dựng ở thời Nguyễn do thuộc những làng phát ạt,
nên quy mô khá lớn và rất lớn như ình Tam Tảo và ình Yên Đông ít nơi
sáng kịp. Những kiến trúc ấy nói chung bộ khung thường dùng những
bô phận gỗ thon thả hơn trước, các hoành thường xe vuông, hay dùng
cốn mê ván mỏng do ó trang trí chủ yếu chạm nổi, các bộ phận muốn
nhô cao (như ầu rồng, lân, phượng ều làm ngoài rồi mới chắp vào vẫn
gây ấn tượng như chạm lông mà không tốn gỗ. Đề tài này bây giờ ở cả
ình - ền - chùa tghường thu vào các bộ Tlinh (rồng, phượng, lâm,
rùa), Tứ quý (bốn mùa) hay bát bửu (tám vật quý), ôi khi theo tích
chuyện như cờ lau tập trận, cầu hiền, trích oạn
Tây du ký… Tất cả ược diễn tả bằng những nét mảnh mai với nhiều
chi tiết vụn, gần với ồ mỹ nghệ, òi hỏi một sự tinh khéo. Mỹ thuật
dân gian bên cạnh kiến trúc còn có mảng tượng thờ không kém phần
ặc sắc. Nếu ở giai oạn trước tượng thờ thường chỉ ở các chùa, quán,
hạn hữu mới có ở ền, thì sang thời Nguyễn tượng thờ ở các chùa ược
bổ sung, ở ền tăng cường và ôi khi có cảình nữa.
Trong chùa thời Nguyễn, phật iện ông úc hẳn lên. Các ề tài vốn ã ổn ịnh
từ trước nay càng ược khẳng ịnh như các bộ Tam Thế, Di Đà tam tôn,
Hoa Nghiêm tam thánh… Tượng Tuyết Sơn và tượng Di Lặc thời trước
còn rất hiếm thì nay ã phổ biến và thường ược bày thành một hàng
ngang (chứ không phải ở chùa Tây Phương thờ Tây Sơn bày theo hàng
dọc). Tượng Thích Ca sơ sinh bây giờ không chỉ làm pho tượng chính,
còn làm thêm 9 con rồng chầu quanh ể có tên mới là tượng Cửu Long,
tên ó lại có rất nhiều tượng nhỏ bày thành một phật iện hoàn chỉnh nhất
lOMoARcPSD| 49981208
nhưng lại cũng mang ậm tính mỹ nghệ hơn là mỹ thuật. Tượng Ngọc
Hoàng cón thấy ã có từ thời Mạc, nhưng cũng thật hiếm hoi, thì ến thời
Nguyễn lại ược làm rất nhiều và còn có cNam Tào - Bắc Đẩu thành
cả bộ ầy ủ. Tượng Quan Âm toạ sơn ược làm thêm nhiều. Các tượng
Đức Ông và Thánh Tăng cũng ở thời Nguyễn thường có khoá áo ở vai
bên trái. Trong các ền xưa, các anh hùng thường chỉ ược thờ bằng bài v
thì nay nhiều nơi ã tạo tượng ể thờ. Một loạt tượng ở ền Gióng, ền Hai
Trưng, ền Vua Đinh, ền Vua Lê, èn Đức Thánh Trần… ều ược làm
thêm ở thời Nguyễn. Với xu hướng hiện thực, các nghệ sỹ thời Nguyễn
làm tượng thường lớn bằng người thực, còn gắn mắt kính và cắm râu
làm bằng cước hoặc sợi ồng trông như thực. Thêm vào ó là những hình
trang trí vụn vặt, những hoạ tiết rậm rối, những ường nét cỏ lả.
Trong các Phủ và iện Mẫu trong nhiều chùa, ến thời Nguyễn ặc biệt phát
triển, thể trong hoàn cảnh cuối thế kỷ XIX ầu thế kỷ XX phải cao
tín ngưỡng dân tộc làm ối trọng với Thiên Chúa Giáo ang nguy
bành trướng, thì các bộ tượng Tam Toà Thánh Mẫu, Tứ Phủ, rồi cả các
bộ tượng Ông Hoàng, Bà Chúa, các tượng Cậu, tượng
Cô ều không thể thiếu, nhưng thường làm theo công thức, ít sáng tạo.
Tất cả các tượng thờ trên ây, do một lối quan niệm hiện thực là hiện
trạng tự nhiên nên tượng ở thời Nguyễn thường " giống như thật " làm
cho tượng cứng theo công thức, rối như tự nhiên. Có chăng chỉ tượng
các tổ chùa ở thời Nguyễn rất phổ biến, xuất phát từ mẫu người thực
nên yêu cầu " giống " làm cho tượng mang chất chân dung, có ặc iểm
nhận dạng và cá tính nữa, lại khiến cho nhiều tượng rất sinh ộng. M
lOMoARcPSD| 49981208
)
thuật thời Nguyễn còn một mảng nữa cũng rất ặc sắc về nghệ thuật, ó là
mảng tranh cổ. Tranh thờ và tranh dân gian ã có từ nhiều thế kỷ trước,
nhưng do bị thời gian huỷ hoại nên ít có bản cổ còn lại. Tranh thờ sớm
nhất hiện còn có thể thuộc cuối thế kỷ XVIII, nhưng chắc chắn hơn là ở
thế kỷ XIX. Nếu ở ền Độc Lôi (Nghệ An) có 14 bức trong ó ược nhắc
nhiều là " Ngoại quốc ồ ", " Học hiệu ồ ", "
Văn quan vinh quy ồ ", " Võ quan vinh quy ồ "… là những tranh truyện
có nội dung, ược diễn tả theo sách vở, gắn nhiều hơn với thời Lê Trung
Hưng, thì các bộ tranh thập iện Diêm Vương có ở một số chùa, vẽ
riêng mỗi iện thành một bức trên giấy, vải, hay vẽ gôph 5 iện vào một
bức trên ván gỗ lại có nhiều khả năng thuộc thời Nguyễn ược vẽ theo
lối ồng hiện vừa cảnh Diêm Vương cùng phán quan xét
công luận tội ở phía trên, vừa cảnh các tội nhân bị quỷ sứ tra tấn dã
man ở phía dưới. Các nhân vật ược diễn tả theo quan hệ xã hội chứ
không theo khoảng cách xa gần, người có vai vế ược vẽ to ở chính
giữa, ở hai bên, sau ó nhỏ dần, chuyển sang hai bên, các tội nhân ở
dưới cùng và bé tý. Một số tranh Phật, tranh Bồ Tát cũng ược vẽ, có lẽ
dùng ể thờ thay tượng ở các iện hoặc chùa nhỏ hẹp mang tính tư nhân.
Tranh ược vẽ ở trên ván cũng còn ở ôi nơi, trong ó thường nhắc ến B
Tát tiên ở Đình Lỗ Hạnh (Bắc Giang) gồm hai bức, mỗi bức 8 cô ang
ứng trên mây biểu diễn các nhạc cụ khác nhau, dàn ra hàng ngang, song
hành, không che khuất nhau, có thể liên tưởng ến tranh tố nữ của Hàng
Trống.
lOMoARcPSD| 49981208
Mỹ thuậ thời Nguyễn là mỹ thuật của giai oạn cuối mùa quân chủ, từng
có lúc bị bỏ qua và bị bỏ quên. Nhưng nghệ thuật cung ình Việt
Nam chỉ ến thời Nguyễn và chỉ ở Huế mới còn, là tinh hoa sáng tạo của
trí tuệ một thời. Là cung ình nhưng không xa dân, có ảnh hưởng
phương Bắc nhưng ã dân tộc hoá, lại i lên từ vốn truyền thống dân gian,
ể mang vẻ ẹp Việt Nam ích thực. Trong khi ó, ở các làng quê dòng dân
gian ã có sức sống vẫn cứ tồn tại và phát triển, tiếp tục xây dựng diện
mạo văn hoá truyền thống, không sắc sảo như giai oạn trước, nhưng
bình dị và do ó càng bình dân./.
| 1/17

Preview text:

lOMoAR cPSD| 49981208 8
Mỹ thuật Thời Nguyễn
Sau khi lật đổ triều đình Tây Sơn vào năm 1802, Nguyễn ánh lập ra
vương triều Nguyễn, đặt niên hiệu là Gia Long, đóng đô ở Phú Xuân.
Vua nắm mọi quyền hành một cách độc đoán. , không ặt tể tướng,
không lấy trạng nguyên, không lập Hoàng Hậu và không phong tước
vương cho người ngoài họ Vua.
Nhà nước ban hành " Luật Gia Long " Để tăng cường chuyên chế. Bộ
luật này gần như sao chép của Luật nhà Thanh. Vua củng cố sự ộc tôn
của Nho giáo, ặt " Thập iều" giao các làng xã giảng giải cho dân, củng
cố việc thi cử ể chọn người tài. Để hạn chế sự nhũng lạm, nhà nước cấp
lương bằng tiền và gạo cho quan lại, còn ruộng thì hưởng theo phép
quân iền. Nhưng chính sách ó vẫn chưa ủ vắn, nạn tham nhũng ngày
càng gia tăng, ến nỗi nhân dân thời bấy giờ có câu ca dao:
" Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp êm là giặc, cướp ngày là quan "
Nạn tham nhũng ngày càng trầm trọng, dù vua ã xử phạt rất nặng hàng
hoạt quan to nhưng vẫn không ngăn chặn ược.
Bên cạnh việc tham nhũng của quan lại thì vấn ề bóc lột của cường hào
và hương lý ở nông thôn cũng không kém phần trắng trợn. Ruộng tư
tăng lên rất nhiều trong khi ruộng công còn lại quá ít. Cường hào và
hương lý bao chiếm hết những chỗ màu mỡ còn dân thì chỉ còn lại lOMoAR cPSD| 49981208
những chỗ xương xẩu. Đã thế lại vỡ ê liên tục do Nhà nước thiếu quy
hoạch chung trong việc ắp ê iều. Vậy nên nhân dân lại càng khốn khó,
ói kém triền miên, nhiều nơi phải bỏ ruộng hoang i phiêu tán. Từ tình
trạng khốn ốn ó, dân ã dẫy lên những cuộc khởi nghĩa liên tục ở Bắc và
Nam, lan lên cả dân tộc ít người và miền núi xã xôi. Do nho giáo khủng
hoảng, những nho sỹ thức thời (như Cao Bá Quát) cũng tham gia khởi
nghĩa và trở thành lãnh tụ nghĩa quân. ở ời Gia Long, những cuộc khởi
nghĩa lớn nhỏ có khoảng 90 cuộc, ời Minh Mạng có khoảng 250 cuộc,
ời Thiệu Trị khoảng 50 cuộc. Từ những nhìn nhận ó ã thấy nhân dân lao
ộng thủa bấy giờ ã phải khốn khổ và bất mãn với triều ình như thế nào.
Về mặt công nghiệp, do ất nước thống nhất, hệ thống giao thông ược
quan tâm và do tiép xúc với phương Tây mà công nghiệp ã có bước tiến
rõ rệt, tay nghề của thợ ược nâng cao. Các làng nghề thủ công vẫn gắn
liền với nông nghiệp nhưng vẫn phát triển hơn hẳn trước. Nhà nước ộc
quyền mua những sản phẩm và ộc quyền ngoại thương, có mở rộng
buôn bán với các nước trong khu vực nhưng lại óng cửa với phương Tây.
Nhà Nguyễn cầm quyền khi phương Đông ang trì trệ ở cuối mùa phong
kiến, còn phương Tây ã bước vào CNTB và nhiều nước Châu á ã rơi
vào ách thống trị của thực dân. Và nước ta cũng không phải là
ngoại lệ, do mặt ngoại giao kém khéo léo, năm 1858 Pháp chính thức
xâm lược nước ta. Với vũ khí thô sơ và chiến thuật lạc hậu, nhà
Nguyễn ã từng bước nhượng bộ và ến năm 1885 thì chính thức ký hàng
ước chấp nhận sự ô hộ của Pháp trên toàn bộ lãnh thổ nước ta, kể từ ) lOMoAR cPSD| 49981208
1885 chế ộ quân chủ nhà Nguyễn ã chấm dứt về chính trị. Nhưng do
Pháp cai trị nước ta theo chế ộ phong kiến nửa thuộc ịa nên dưới tính
chất bù nhìn các vua nhà Nguyễn vẫn tồn tại ến tận cách mạng tháng tám năm 1945.
Tình hình xã hội trên ã ảnh hưởng rất nhiều ến sự phát triển văn hoá
nghệ thuật thời Nguyễn. Kinh ô Huế ược xây dựng àng hoàng to ẹp,
nhưng việc xây dựng ở các làng quê có mở ra nhiều mà không lớn,
không rầm rộ, ược cái lan xa toả rộng. Bên cạnh ó văn hoá nghệ thuật
truyền thống vẫn duy trì ở các làng xã, di duệ của mỹ thuật thời
Nguyễn vẫn phát triển ngay ở Huế ến tận ầu thế kỷ XX. Một trong
những mặt ặc sắc của mỹ thuật thời Nguyễn là mỹ thuật cung ình Huế.
Thời Nguyễn là vương triều gần dân nhất nên cung ình Huế vẫn còn
tồn tại ến ngày nay. Mỹ thuật cung ình Huế có rất
nhiều nét ặc sắc nổi trội rất ặc biệt. Trước hết, chúng ta dần i vào tìm
hiểu kiến trúc kinh thành Huế.
Gia Long lập vương mới và cũng xác ịnh là lập kinh ô ở Huế cơ sở
thành Phú Xuân ngày xưa và xê dịch mở rộng ra nhiều hơn. Kinh ô
Huế có hoàng thành của triều ình và phố xá của nhân dân, ồng thời lại
có các lăng tẩm của Vua và Hoàng Hậu ở vùng ồi thượng nguông sông
Hương. Đây là nét mới khác với các kinh ô trước ó. Và ây cũng là nghệ
thuật cung ình duy nhất của Việt Nam còn lại ến nay.
Kinh thành Huế có vị trí rất lý tưởng cả về phong thuỷ và khí hậu.
Được bắt ầu xây dựng từ năm 1804 do Gia Long iều hành khởi công,
nhưng vẫn giản ơn và chưa bề thế về quy mô. Đến ời Minh Mạng ã quy lOMoAR cPSD| 49981208
hoạch lại rất nhiều trong hoàng thành, sửa sang cung iện. Kinh thành
Huế mang nặng tính quân sự, gồm 3 vòng thành gần vuông lồng vào
nhau lệch về phía trước, cùng trên một trục chính từ núi Ngự Bình về
vuông góc với sông Hương. Vòng ngoài là Phòng Thành, chu vi chừng
10km, mặt trước trên ường trục dựng kỳ ài, xung quanh trổ
10 cửa, có hào sâu bao quanh, bên trong có trụ sở các cơ quan của triều
ình. Vòng giữa là Hoàng Thành trên ường trục có cửa chính Ngọ
Môn, chu vi chừng 2500m, sát chân thành phía ngoài có hào sâu, ứng
với các cửa có cac cầu xây gạch ể ra vào, ây là nơi làm việc và sinh
hoạt của triều ình và Hoàng Gia, ồng thời là nơi thờ phụng tôn nghiêm,
có nhiều iện, nhiều miếu dành riêng cho Hoàng Gia. Khi thịnh nhất,
trong hoàng thành có trên 100 công trình kiến trúc. Mỗi quần thể kiến
trúc là một sự kết hợp hài hoà giữa nhà cửa với vườn cây cảnh tạo ra cả
một phong cảnh kiến trúc, nó dàn ra trải rộng, chỉ có một vài iểm ột
khởi như cửa Ngọ Môn và Hiển Lâm Các, song cũng chỉ cao vừa ộ,
không tách mình ra khỏi xung quanh mà luôn gắn bó với toàn cảnh.
Ngọ Môn là cửa chính ở phía Nam của Hoàng Thành ược xây dựng quy
mô vào năm 1833, kiến trúc Ngọ Môn ồ sộ, hình khối vững chãi (dài
57,95m, cao 14,80m), phần dưới xây á chắc, có 5 cửa lớn, bên trên là
lầu Ngũ Phụng (5 con rồng), có 100 cột lớn ỡ bộ mái ồ sộ ược tạo hình
như " năm con phượng xoè cánh ". Mặt trước Ngọ môn là hồ nước,
phía sau là hồ Thái Dịch cũng có một cầu lớn dẫn vào trong, gọi là cầu
Trung Đạo. Hồ ược thả sen, tạo nên một phong cảnh ẹp và hoành tráng. ) lOMoAR cPSD| 49981208
Bên cạnh ó còn có các ền miếu, là nơi thờ các vua cha, ược bố trí thành
hai khu vực ở phía trước (tức là mặt phía Nam) của Hoàng Thành: Khu
phía Đông có Triệu Miếu, Thái Miếu và khu phía Tây có Hương Miếu,
Thế Miếu và Hiển Lâm Các.
Hiển Lâm Các là toà nhà duy nhất có cầu trúc 3 tầng, mang biểu tượng:
Thiên, Địa, Nhân (Trời, ất, người) là một công trình rất ặc sắc trong
tổng thể kiến trúc Huế. Cao 17 m là công trình cao nhất ở ây. Được tạo
nên trên cơ sở bộ khung gỗ rất ẹp ể ỡ các sàn và mái, 4 trục ở giữa
vươn cao qua các tầng ược liên kết với các hàng cột khác nhau bằng
các xà ngang xà dọc các tầng ều có bộ mái dốc về 4 phía, xoè ra như
một bông hoa. Được xây dựng vào năm 1821 ến nay ã trên 180 năm.
Hiển Lâm Các vẫn ứng vững với dáng vẻ tao nhã, cân ối, nhịp nhàng,
trở thành niềm kiêu hãnh của truyền thống kiến trúc Việt Nam.
Ngoài Phòng Thành là khu sinh hoạt của nhân dân, có phố xá và làng
mạc, chủ yếu là hai bên bờ sông Hương, cũng có một số công trình Nhà
nước như Nghinh lương ình, Văn miếu, Phu Văn Lâu, Đàn Nam Giao
và ặc biệt nhất là Hổ Quyền, mang ậm tính dân tộc của kiến trúc thời Nguyễn.
Hổ Quyền ược vua Minh Mạng cho xây vào năm 1830 ở chân ồi Long
Thọ phía Nam bờ sông Hương, là nơi tổ chức các cuộc giao ấu giữa voi lOMoAR cPSD| 49981208
và hổ với chủ ích cho voi thắng hổ (voi ược coi là con vật có ích, hổ là
ác thú). Công trình ược tạo dựng thấp sâu dưới mặt ất ể người xem ứng
trên bờ cao tránh nguy hiểm. Có khán ài dành cho Vua ngồi xem còn
nhân dân ứng xem trên mặt tường bao quanh. Công trình ã 160 năm mà nay vẫn ứng vững.
Kiến trúc của cả kinh thành Huế nói chung cũng như từng công trình cụ
thể nói riêng ều là những tác phẩm nghệ thuậ. Tất cả dàn ra, cân ối mà
không lặp lại, gắn bó với nhau và hoà nhập với cảnh quan ể nâng lên
chân giá, chỗ thì trang trọng thâm nghiêm, chỗ thì thanh toát thơ
mộng… tuỳ theo từng công trình và tính chất, yêu cầu của nó. Dù to
lớn vẫn không ồ sộ ể nạt nộ, mà giữ tỷ lệ vừa phải với con người -
những nét ó rất phù hợp với iều kiện tâm lý và kinh tế của con người Việt Nam.
Từng ơn nguyên kiến trúc chỉ nhấp nhỉnh các ình, ền, chùa, ở các ịa
phương, nhưng - như iện Thái Hoà và Thế Miếu do kết cấu theo lối "
trùng thiềm iệp ốc ", hai nhà song hành kề sát ược gắn lại bởi dãy " trần
mai cua " mà tạo ra một không gian thống nhất rộng cả hai chiều ngang
và dọc. Hai toà nhà này, toà trong là chính iện có trần ván gỗ treo èn kết
hoa, toà ngoài là tiền iện thông lên tận mái ể lộ ra cac bộ vì giả thủ như
cánh tay giơ lên ỡ hoành và các ván liền ba ố bản chia ra các ô trang trí
thi và hoạ xen nhau. Giá trị của nghệ thuật kiến trúc ở ây cho thấy một
trình ộ cao trong việc tạo dựng những bộ khung nhà ầy sáng tạo, những
tỷ lệ và hình khối của các kiến trúc cung ình vừa hoành tráng vừa gần gũi. ) lOMoAR cPSD| 49981208
Kiến trúc Huế có thân cao, mái ngắn hơn so với ình chùa ngoài Bắc nên
có cảm giác nhẹ, không cần ến các hoa ao ở góc mái nữa. Mặt trước
thường lắp thêm kẻ cổ ngỗng ể kéo dài mái ra cái hiên làm không gian
chuyển tiếp, khi không cần có thể bỏ mà không ảnh hưởng gì ến cấu trúc chung.
Những kiến trúc ấy bên cạnh khối hình còn ược nghệ thuật trang trí bổ
trợ cả màu và hình. Các cung iện ều lợp ngói ống hoặc ngói máng âm
dương tạo thành những làn sóng an xen nhau chạy dài từ bên này ến bên
kia. Những mái ngói ấy ều ược tráng men ngọc màu vàng hoặc xanh gọi
là " hoàng lưu ly " hay " thanh lưu ly " làm cho cả bộ mái rực rỡ trong
ngần, thanh tao, quý phái.
Các mảng tường cổ diềm và bớ nóc ắp cao lại ược chia ra những ô hộc
vuông và chữ nhật an xen nhau. Trên các bờ nóc, bờ dải ắp và ghép các
mảng sứ thành con dao, con rồng, con lân, con phượng… Với việc tạo
hình những con vật linh ấy và kỹ thuật ghép mảnh, ghép gốm, các nghệ
nhân xưa ã ưa nghệ thuật trang trí kiến trúc ạt tới trình ộ cao, iêu luyện
và tinh xảo. Men Pháp Lam cũng ược ưa vào trang trí và nhất là ể làm
ám mây ngũ sắc ỡ mặt trời hoặc một bầu to có hình như nâm rượu ở
giữa bờ nóc. Nội thất kiến trúc chính cũng phần nhiều ược sơn son với
nhiều hình trang trí thếp vàng, sang trọng và vui mắt. Và cùng với kiến
trúc, nghệ thuật iêu khắc với các tượng tròn và các bức chạm nổi, chạm
lông bằng á, bằng gỗ… phân bổ rải rác trong các cungd diện, các lăng
mộ ều là những tác phẩm ạt tới các giá trị nghệ thuật cao. lOMoAR cPSD| 49981208
Kiến trúc cung ình Huê, ngoài kiến trúc kinh thành còn có lăng tẩm của
các vua nhà Nguyễn cũng rất ặc sắc. Theo truyền thống các vua
Lý, Trần, Lê khi mất ều ược ưa về vùng quê cũ ể an táng và xây lăng
tẩm. Với các vua nhà Nguyễn, quê gốc là ở Thanh Hoá, nhưng Huế
cũng vừa là kinh ô vừa là quê hương nhà Nguyễn. Các vua ược an táng
ở Huế cũng là trở về với quê cha ất tổ. ở thời Nguyễn mỗi vua có một
lăng mộ và tẩm thờ riêng, kết hợp với nhau thành lăng tẩm chiếm một
khuôn viên lớn, trong ó dựng bia " Thánh ức thần công " rất lớn ể biểu dương công trạng.
Kinh ô Huế nằm ở Hạ Lưu sông Hương, cũng là ở phía mặt trời mọc,
dành cho người sống. Thế thì thượng nguồn sông Hương nơi mặt trời
lặn, sẽ là nơi dành cho người chết và lăng mộ ược xây ở ó. Dựa theo
thuyết phong thuỷ, mỗi lăng chiếm một quả ồi, nhưng thật ra chiếm cả
một quần thể ồi núi xung quanh: có núi án ở trước mặt làm bình phong,
có núi chắn ở hai bên làm tay ngai, và ngay sát trước khu lăng phải có
ngòi lạch chảy lượn " chi huyền thuỷ " từ trái sang phải. Chẳng hạn
lăng Gia Long có 36 ngọn núi châu vào, gồm núi Đại Thiên Thọ ở phía
trước làm tiền án, mỗi bên sườn có 14 ngọn núi dăng hàng làm tay ngai
" tả Thanh Long - hữu Bạch Hổ ", ằng sau có 4 ngọn núi làm hậu án.
Cả vùng rộng lớn trong mỗi lăng ược gọi là " quan phòng " coi như rừng cấm.
Lăng Gia Long rộng tới 28km2, chiếm một vùng ồi rộng với bố cục rõ
ràng và ý nghĩa sâu sắc. Điển hình cho các lăng tẩm ở Huế là 4 lăng của
4 vua ầu khi ất nước còn ộc lập, tự chủ: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu ) lOMoAR cPSD| 49981208
Trị, Tự Đức và tàn dư nghệ thuật Nguyễn là lăng Khải Định ở ầu thế kỷ
XX. Dựa trên mặt bằng khuôn viên lăng có thể chia ra 3 dạng khác nhau.
Dạng thứ nhất là lăng Gia Long (1814 - 1820) và lăng Thiệu Trị (1848):
hai khu lăng và tẩm tách riêng ra ặt sóng ôi, cùng nhìn một hướng. Mỗi
khu lăng hoặc tẩm có một ường trục riêng, các kiến trúc cân ối với
nhau ở hai bên trục, chạy hút về sau với ộ sâu vừa phải.
Bên lăng có Bái ình và các hàng tượng á voi - ngựa - quan võ - quan
văn ở hai bên chầu vào giữa, cao to bằng người và thú thật tận cùng là
bửu thành với mộ vua, ngoài ra còn Bi ình và hai trụ biểu ể biểu dương
công ức và uy lực của vua. Bên tẩm chủ yếu là iện thờ, gồm hai nhà
gắn nhau theo kiểu " Trùng thiềm iệp ốc ", trong ó bài vị, án thờ và ồ
ngự dung lúc bình sinh. Trên tổng thể chung ấy, phần cụ thể ở mỗi lăng
giải quyết theo một cách: lăng Gia Long ở bên trái, tẩm ở bên phải,
Bửu thành vuông có 2 mộ á vua và Hoàng Hậu song hành. Lăng Thiệu
Trị thì ở bên phải, tẩm ở bên trái, Bửu thành tròn quây lấy núi ất có mộ
ngầm bên trong. ở lăng Gia Long, Bi ình xây bên cạnh lăng, hai trụ
biểu xây mái xà ở trên quả ồi bên kia hồ nước. Trái lại, ở lăng Thiệu Trị
cả Bi ình và hai trụ biểu ều ở trước Bửu thành. Dạng thứ hai là lăng
Minh Mạng (1840 - 1843) và lăng Khải Định
(1920 - 1931): Cả lăng và tẩm ều trên một trục, tạo ộ sâu hun hút phần
tẩm chen vào giữa, các kiến trúc ăng ối hai bên trục. ở lăng Minh
Mạng, dọc theo ường trục, các ộ cao thấp uốn lượn nhịp nhàng, tất cả
trên 30 công trình, cứ hiện ra bất ngờ, luôn ổi mới. Ngay từ ầu, sau lOMoAR cPSD| 49981208
cổng lăng là Bái ình mênh mông với hai hàng tựơng trang nghiêm, tiếp
ến Bi ình - trên nền cao ột khởi. Từng phần cứ ngắt ra, iẻm cao và khu
trũng an xen ể tôn nhau, cuối cùng vượt ra hồ nước sang khu Bửu thành
tròn chứa phần mộ là cấm ịa. Cùng với kiến trúc, cây cao bóng cả và
gương nước cứ hoà quyện, ấm cúng mà thiêng liêng.
Còn ở lăng Khải Định, tất cả cứ trườn lên sườn núi xa dần, lớp lang
ngắt quãng dứt khoát, không hồ nước, không cây xanh, lớp sân trên
cùng dàn ra những 4 hàng tượng, hai trụ biểu và Bi ình, ể rồi chế ngự là
iện Khải Thánh vừa là tẩm thờ, vừa là lăng mộ, còn ặt tượng ồng ngay
phía trên lăng phần mộ, khu lăng này sùng bái chát liệu xi măng, trang
trí ngoại thất ắp nổi nhiều hình xa lạ, nhưng các mảng tường nội thất
ược gắn kính sứ thành tranh phong cảnh tinh tế như vẽ và có ộ mát dịu.
Dạng thứ ba là lăng Tự Đức (1864 - 1867): ở ây có gò ồi cao thấp lô
nhô ở về một phía và hồ nước uốn lượn rộng hẹp ở về một bên, tất cả
như một viên lớn có sự công bằng mà không ăng ối, các ường i vòng
vèo mở ra những bất ngờ liên tiếp. Hai phần chính là tẩm và lăng ặt
cạnh nhau nhưng so le, và xen kẽ nhiều công trình dành cho người sống
dạo chơi, xem hát, làm việc, nhà ăn, vườn nuôi hươu… Đặc biệt khu
lăng quan tâm ến thế ăng ối ể tạo thành không khí nghiêm túc, có
những kiến trúc bất ngờ quá cớ như hai trụ biểu, như toà Bi ình với 8
bia cao nhất nước (cao 4m, rộng 2m). ở ây toàn cảnh quy mô, tổng thể
phong phú có nhiều cây cối các loại cũng hoà với kiến trúc. Nhiều
người ã nhận ra lăng Tự Đức có nhiều chất thơ, là sự thể nghiệm thành ) lOMoAR cPSD| 49981208
công một kiểu mô hình lăng tẩm mà cái sống với cái chết hoà hợp, thanh thản.
Trong sân Bái Đình của khu lăng mộ luôn nổi bật những tượng quan
văn, quan võ, ngựa, voi và lăng Khải Định còn có nhiều tượng lính hầu.
Trừ tượng ở lăng Đồng Khánh (1889) ắp bằng vôi vữa có dáng mảnh
gầy, còn ở các lăng khác ều bằng á là chất liệu iêu khắc ngoài trời, ược
làm theo quy ịnh chặt chẽ, dáng nghiêm túc, chú ý nghiên cứu ến từng
chi tiết, có tỷ lệ hợp lý giữa các bộ phận. Phần dưới bụng thú ược cậy
ục càng làm cho con vật rất thực. Tượng ở những lăng ầu (Gia Long,
Minh Mạng) ược tạo trau chuốt, hình chuẩn mực hoá rất sống ộng, sang
giai oạn muộn (Tự Đức) do không câu nệ vào tỷ lệ lại có vẻ vui lòng.
ở một số lăng, nhất là lăng Minh Mạng và lăng Tự Đức, trong tẩm thờ
còn treo nhiều tranh vẽ trên mặt sau của kính. Có tranh ặt hoạ dỹ Trung
Quốc vẽ theo tứ thơ của vua nhà Nguyễn, ược vẽ tỷ mỉ, hoặc mua của
dân gian Trung Quốc cũng có phần chi li, nhưng những tranh do người
Việt Nam vẽ ã mang theo sự phóng túng với những mảng màu chân
chất gần với tranh sình, tranh Đông Hồ, riêng ở vách gỗ ệm Ngưng Hy
của lăng Đồng Khánh có 24 bức vẽ gộp lại thành bộ " Nhị thập tứ hiếu
", nhiều nhóm hình ược sắp xếp theo kiểu ồng hiện, nét vẽ thanh toát lại
gợi ến tranh Hàng Trống, có thể thuộc lần tu sửa năm 1916 - 1917.
Những thành tựu của nghệ thuật cung ình ở Huế ã ược phát triển, nâng
cao từ nghệ thuật truyền thống, nó quen thuộc nhưng tinh tế, gắn với lOMoAR cPSD| 49981208
triều ình nhưng cũng gần gũi với nhân dân, là trí tuệ của nghệ sỹ Việt
Nam. Góp vào di sản văn hoá thế giới như ã ược UNESCO xán nhận.
Bên cạnh mảng mỹ thuật cung ình ở kinh ô, mỹ thuạt thời Nguyễn còn
phổ biến ở các làng xã - nhất là trên ịa bàn văn hoá truyền thống miền
Bắc ã có quy củ, và vẫn ược duy trì ngay cả trong thời Pháp thuộc. ở ây
có di tích do chính quyền ịa phương chủ trương. Nhưng phần lớn là do
nhân dân xây dựng, có một số làm mới, làm thêm, nhưng phần lớn là
làm bổ sung vào công trình cũ.
Nhân dân ta với tín ngưỡng thờ tổ tiên trong gia ình, mở rộng ra cả
nước với các anh hùng dựng nước và giữ nước, từ các thời Lý - Trần -
Lê ã dựng nhiều ền thờ. Nhưng rồi với những biến ộng lịch sử, với sự
tàn phá của thời gian ến thời Nguyễn nhiều di tích ã bị hư hỏng nặng,
cần phải sửa, thậm chí phải làm lại hoàn toàn. Nếu ền vua Đinh và ền
vua Lê ở Ninh Bình dựng lại ở nửa sau thế kỷ XVII ầu thế kỷ XIX chỉ
phải sửa chữa, bổ sung một số ơn nguyên vào các năm 1837 và 1843,
thì ền vua Hùng (Phú Thọ), ền Hai Bà Trưng (Hà Nội, Hà Tây, Vĩnh
Phúc), ề Bà Triệu (Thanh Hoá), ền Đức THánh Trần
Hưng Đạo (Hải Dương)… cả phủ thờ Mẫu Liễu Hạnh mà iển hình là
Phủ Giày (Nam Định) ều ược xây lại hoàn toàn, có quy mô lớn, lớp
lang rõ ràng, chú ý tiểu cảnh, gắn bó mật thiết với môi trường.
Cùng với ền miếu là lăng mộ các bậc ế vương ược triều ình Huế cho iều
tra, xác minh và sửa sang, ặc biệt là sựng bia mộ. Theo sứ cũ thì từ thời
Trần về trước chưa có lệ dựng bia ở lăng mộ, do ó qua thời gian dễ bị ) lOMoAR cPSD| 49981208
thất lạc. Trong ống bãi ổ nát, nhà Nguyễn sau khi tìm hiểu ã ắp mộ
dựng bia, có khi còn trồng cây xây nhà cho thuỷ tổ Kinh
Dương Vương (Bắc Ninh), cho các ế vương xưa từ Phùng Vương và
Ngô Quyền (Hà Tây), Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành (Ninh Bình)
ến tập thể các vua nhà Lý (Bắc Ninh) và từng vua nhà Trần (Quảng
Ninh). Tư thời Lý mộ vua ược dựng bia cao to, nhưng rồi bị mưa nắng
bào mòn như ở lăng Lê Uy Mục (Bắc Ninh) cũng ược nhà Nguyễn cho
khắc thêm ể ịnh vị. Những lăng mộ trên tuy thuộc vào hàng ế vương
song rất ơn giản , còn cả sự hoang vu tự nhiên, thực sự là nghệ thuật dân gian.
Làng quê cho ến thời Nguyễn phần nhiều ã có diện mạo văn hoá rồi, song
do các hoạt ộng cúng tế, hội lễ và cả chè chén nên ình làng ược mở rộng
mà thường ược xây thêm một số ơn nguyên nữa:
Trong mặt bằng khuôn viên ình làng, nếu Đại Đình (và nhiều nơi cả
Hậu cung) ã có từ thế kỷ XVIII về trước, thì ở thời Nguyễn thường
dựng thêm các toà Tiền tế và Tả - Hữu vu, do ó làm cho quần thể trở
nên ông ặc, ăng ối. Một số làng hoặc chưa có ình, hoặc ình cũ hư hỏng
nặng, thời Nguyễn ã làm lại hoàn toàn, như các ình Tam Tảo (Bắc
Ninh), ình Mông Phụ (Hà Tây), ình Yên Đông (Quảng Ninh)… Rất
nhiều chùa cũng ược sửa chữa lại, ặc biệt làm mới hoàn toàn như chùa
Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang). Nhiều ền thần như ền Quán Thánh và ền
Ngọc Sơn (Hà Nội) ều là thành tựu kiến trúc thời Nguyễn dựng trên nền kiến trúc xưa. lOMoAR cPSD| 49981208
Những kiến trúc ược dựng ở thời Nguyễn do thuộc những làng phát ạt,
nên quy mô khá lớn và rất lớn như ình Tam Tảo và ình Yên Đông ít nơi
sáng kịp. Những kiến trúc ấy nói chung bộ khung thường dùng những
bô phận gỗ thon thả hơn trước, các hoành thường xe vuông, hay dùng
cốn mê ván mỏng do ó trang trí chủ yếu chạm nổi, các bộ phận muốn
nhô cao (như ầu rồng, lân, phượng ều làm ngoài rồi mới chắp vào vẫn
gây ấn tượng như chạm lông mà không tốn gỗ. Đề tài này bây giờ ở cả
ình - ền - chùa tghường thu vào các bộ Tứ linh (rồng, phượng, lâm,
rùa), Tứ quý (bốn mùa) hay bát bửu (tám vật quý), ôi khi theo tích
chuyện như cờ lau tập trận, cầu hiền, trích oạn
Tây du ký… Tất cả ược diễn tả bằng những nét mảnh mai với nhiều
chi tiết vụn, gần với ồ mỹ nghệ, òi hỏi một sự tinh khéo. Mỹ thuật
dân gian bên cạnh kiến trúc còn có mảng tượng thờ không kém phần
ặc sắc. Nếu ở giai oạn trước tượng thờ thường chỉ ở các chùa, quán,
hạn hữu mới có ở ền, thì sang thời Nguyễn tượng thờ ở các chùa ược
bổ sung, ở ền tăng cường và ôi khi có cả ở ình nữa.
Trong chùa thời Nguyễn, phật iện ông úc hẳn lên. Các ề tài vốn ã ổn ịnh
từ trước nay càng ược khẳng ịnh như các bộ Tam Thế, Di Đà tam tôn,
Hoa Nghiêm tam thánh… Tượng Tuyết Sơn và tượng Di Lặc thời trước
còn rất hiếm thì nay ã phổ biến và thường ược bày thành một hàng
ngang (chứ không phải ở chùa Tây Phương thờ Tây Sơn bày theo hàng
dọc). Tượng Thích Ca sơ sinh bây giờ không chỉ làm pho tượng chính,
còn làm thêm 9 con rồng chầu quanh ể có tên mới là tượng Cửu Long,
tên ó lại có rất nhiều tượng nhỏ bày thành một phật iện hoàn chỉnh nhất ) lOMoAR cPSD| 49981208
nhưng lại cũng mang ậm tính mỹ nghệ hơn là mỹ thuật. Tượng Ngọc
Hoàng cón thấy ã có từ thời Mạc, nhưng cũng thật hiếm hoi, thì ến thời
Nguyễn lại ược làm rất nhiều và còn có cả Nam Tào - Bắc Đẩu thành
cả bộ ầy ủ. Tượng Quan Âm toạ sơn ược làm thêm nhiều. Các tượng
Đức Ông và Thánh Tăng cũng ở thời Nguyễn thường có khoá áo ở vai
bên trái. Trong các ền xưa, các anh hùng thường chỉ ược thờ bằng bài vị
thì nay nhiều nơi ã tạo tượng ể thờ. Một loạt tượng ở ền Gióng, ền Hai
Bà Trưng, ền Vua Đinh, ền Vua Lê, èn Đức Thánh Trần… ều ược làm
thêm ở thời Nguyễn. Với xu hướng hiện thực, các nghệ sỹ thời Nguyễn
làm tượng thường lớn bằng người thực, còn gắn mắt kính và cắm râu
làm bằng cước hoặc sợi ồng trông như thực. Thêm vào ó là những hình
trang trí vụn vặt, những hoạ tiết rậm rối, những ường nét cỏ lả.
Trong các Phủ và iện Mẫu trong nhiều chùa, ến thời Nguyễn ặc biệt phát
triển, có thể trong hoàn cảnh cuối thế kỷ XIX ầu thế kỷ XX phải ề cao
tín ngưỡng dân tộc ể làm ối trọng với Thiên Chúa Giáo ang có nguy cơ
bành trướng, thì các bộ tượng Tam Toà Thánh Mẫu, Tứ Phủ, rồi cả các
bộ tượng Ông Hoàng, Bà Chúa, các tượng Cậu, tượng
Cô ều không thể thiếu, nhưng thường làm theo công thức, ít sáng tạo.
Tất cả các tượng thờ trên ây, do một lối quan niệm hiện thực là hiện
trạng tự nhiên nên tượng ở thời Nguyễn thường " giống như thật " làm
cho tượng cứng theo công thức, rối như tự nhiên. Có chăng chỉ tượng
các tổ chùa ở thời Nguyễn rất phổ biến, xuất phát từ mẫu người thực
nên yêu cầu " giống " làm cho tượng mang chất chân dung, có ặc iểm
nhận dạng và cá tính nữa, lại khiến cho nhiều tượng rất sinh ộng. Mỹ lOMoAR cPSD| 49981208
thuật thời Nguyễn còn một mảng nữa cũng rất ặc sắc về nghệ thuật, ó là
mảng tranh cổ. Tranh thờ và tranh dân gian ã có từ nhiều thế kỷ trước,
nhưng do bị thời gian huỷ hoại nên ít có bản cổ còn lại. Tranh thờ sớm
nhất hiện còn có thể thuộc cuối thế kỷ XVIII, nhưng chắc chắn hơn là ở
thế kỷ XIX. Nếu ở ền Độc Lôi (Nghệ An) có 14 bức trong ó ược nhắc
nhiều là " Ngoại quốc ồ ", " Học hiệu ồ ", "
Văn quan vinh quy ồ ", " Võ quan vinh quy ồ "… là những tranh truyện
có nội dung, ược diễn tả theo sách vở, gắn nhiều hơn với thời Lê Trung
Hưng, thì các bộ tranh thập iện Diêm Vương có ở một số chùa, vẽ
riêng mỗi iện thành một bức trên giấy, vải, hay vẽ gôph 5 iện vào một
bức trên ván gỗ lại có nhiều khả năng thuộc thời Nguyễn ược vẽ theo
lối ồng hiện vừa cảnh Diêm Vương cùng phán quan xét
công luận tội ở phía trên, vừa cảnh các tội nhân bị quỷ sứ tra tấn dã
man ở phía dưới. Các nhân vật ược diễn tả theo quan hệ xã hội chứ
không theo khoảng cách xa gần, người có vai vế ược vẽ to ở chính
giữa, ở hai bên, sau ó nhỏ dần, chuyển sang hai bên, các tội nhân ở
dưới cùng và bé tý. Một số tranh Phật, tranh Bồ Tát cũng ược vẽ, có lẽ
dùng ể thờ thay tượng ở các iện hoặc chùa nhỏ hẹp mang tính tư nhân.
Tranh ược vẽ ở trên ván cũng còn ở ôi nơi, trong ó thường nhắc ến Bồ
Tát tiên ở Đình Lỗ Hạnh (Bắc Giang) gồm hai bức, mỗi bức 8 cô ang
ứng trên mây biểu diễn các nhạc cụ khác nhau, dàn ra hàng ngang, song
hành, không che khuất nhau, có thể liên tưởng ến tranh tố nữ của Hàng Trống. ) lOMoAR cPSD| 49981208
Mỹ thuậ thời Nguyễn là mỹ thuật của giai oạn cuối mùa quân chủ, từng
có lúc bị bỏ qua và bị bỏ quên. Nhưng nghệ thuật cung ình Việt
Nam chỉ ến thời Nguyễn và chỉ ở Huế mới còn, là tinh hoa sáng tạo của
trí tuệ một thời. Là cung ình nhưng không xa dân, có ảnh hưởng
phương Bắc nhưng ã dân tộc hoá, lại i lên từ vốn truyền thống dân gian,
ể mang vẻ ẹp Việt Nam ích thực. Trong khi ó, ở các làng quê dòng dân
gian ã có sức sống vẫn cứ tồn tại và phát triển, tiếp tục xây dựng diện
mạo văn hoá truyền thống, không sắc sảo như giai oạn trước, nhưng
bình dị và do ó càng bình dân./.