lOMoARcPSD| 57874556
QLDD thời Hậu Lê
lOMoARcPSD| 57874556
4.4. Nhà Hậu Lê:
4.4.1. Lê sơ : Nhà Lê sơ (1428-1527): kéo dài 100 năm, bắt đầu từ
khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi gạt bỏ vua bù nhìn
Trần Cảo, tự làm vua, lập ra triều đại mới và kết thúc khi
quyền thần Mạc Đăng Dung phế bỏ vua Lê Cung Hoàng lập
ra nhà Mạc
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1417-1427) thắng lợi đã mở ra một trang mới
trong lịch sử phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam, thời kỳ xây dựng
nhà nước phong kiến tập quyền cao độ. Với thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống quân Minh, nền độc lập dân tộc được khôi phục và giữ vững, nạn ngoại
xâm phương Bắc bị đánh bại hoàn toàn. Tình hình đó đã tạo ra những điều
kiện hết sức thuận lợi để củng cố nền chính trị và đẩy mạnh công cuộc xây
dựng đất nước. Nhân dân Jai Việt tích cực sản xuất trong không khí hồ hởi
của một nền hoà bình vừa được giành lại. Nền nông nghiệp lâu đời tiếp tục
được coi trọng, trong đó ruộng đất được nhà nước phong kiến quan tâm hàng
đầu. Nhà Lê thời kỳ này rất chăm lo đến sự phát triển kinh tế, thi hành một số
biện pháp tích cực thúc đẩy nông nghiệp phát triển.
Tất cả ruộng đất dưới thời vua Lê Thái Tổ được chia làm 3 loại: Ruộng đất
thuộc sở hữu nhà nước, của làng xã và tư hữu ruộng đất.
- Ruộng đất thuốc sở hữu Nhà nước: Nhà Lê tịch thu ruộng đất trong tay
quân Minh và bọn tay sai, tịch thu điền trang thái ấp của quý tộc trước
đây, cộng với ruộng hoang hoá; tất cả sung làm ruộng đất công.
- Ruộng đất làng xã: có nguồn gốc xa xưa, được duy trì đến thế kỷ XV
các làng xã với tỉ lệ khác nhau.
- Ruộng đất tư hữu: là hình thức sở hữu tồn tại từ trước và đến thời Hậu
Lê vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển, dưới thời Lê Sơ được hình thành
chủ yếu do: giao dịch dân sự(mua bán, tặng cho giữa các cá nhân),
ruộng đất thế nghiệp, ruộng đất được nhà nước cấp cho trong phần khai
hoang.
Với quỹ đất công lớn, nhà Lê đã sử dụng một phần ban cho quý tộc tôn
thất và quan lại cao cấp (lộc điền), phần lớn bổ sung cho công xã để chia
cho dân cày cấy (quân điền).
Quân điền: được Lê Lợi ban hành năm 1429 và hoàn thiện vào thời Lê Thánh
Tông; bộ 'luật quân điền' được chép trong Thiên Nam dư hạ tập năm 1481. Từ
thời vua Lê Thái Tổ, nhà nước đã đặt vấn đề phân chia ruộng đất công làng xã
cho dân làng ít hoặc không có ruộng đất, quân lính. Để thống nhất việc phân
chia ruộng đất trong phạm vi cả nước, Lê Thánh Tông thực hiện chính sách
quân điền- ban hành phép quân điền.
Chế độ quân điền nghĩa là: thực hiện việc lấy đất công và ruộng bỏ hoang
đem chia cho nông dân.
lOMoARcPSD| 57874556
Nội dung chính của chế độ quân điền là:
- Nhà nước đem ruộng đất do mình trực tiếp quản lý chia cho nông dân
cày cấy, cứ 6 năm ruộng công lầng xã được chia lại 1 lần cho các thành
viên trong xã bao gồm các quan chức cấp thấp( từ ngũ phẩm trở
xuống), chức dịch của làng, quân lính, dân đinh, vợ các quan, phụ nữ
góa chồng, trẻ m côi,...
- Các quan lại, tuỳ theo chức vụ cao thấp, được cấp ruộng đất làm bổng
lộc.
- Ruộng trồng lúa, người làm thuê đến 60 tuổi phải trả lại cho nhà nước;
ruộng trồng dâu được cha truyền con nối.
Dưới thời vu Lê Thánh Tông
'Chế độ lộc điền' xuất hiện nhằm bảo vệ quyền lợi cho quý tộc, tông thất và
những quan lại cao cấp, đẩy mạnh sự phát triển của giai cấp địa chủ - tầng lớp
thống trị mới trong xã hội phong kiến lúc đó.Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, “lộc
điền” vẫn là phần thưởng quý giá, tiếp tục được phong thưởng cho các công
thần và cho các vương tôn, quý tộc, quan lại (cho đến cửu phẩm).
Lộc điền bao gồm hai loại ruộng:
- Một phần cấp vĩnh viễn gọi là ruộng thế nghiệp chủ yếu dành cho các
vương hầu, công chúa. Loại cấp 1 đời gọi là ruông ân tứ (15-130 mẫu
cho quan từ nhất phẩm đến tứ phẩm)
- Một phần cấp sử dụng không vĩnh viễn . Sau ba năm chủ đất chết, phần
không vĩnh viễn phải trả lại cho nhà nước.
Ví dụ một thân vương nhất phẩm được ban cấp 218 mẫu, trong đó có 18
mẫu cấp vĩnh viễn, số còn lại là cấp không vĩnh viễn.
Chế độ “Lộc điền” coi như lương bổng nhà nước cấp cho quan lại. Ging
như nhà Lý, nhà Lê cũng qui định người được hưởng “Lộc điền” không được
biến nông dân thành nông nô nhằm chống lại việc phát sinh lãnh địa thế tập
phong kiến cát cứ, bảo đảm quyền lực vĩnh viễn của trung ương, buộc tầng
lớp địa chủ mới này phải lệ thuộc vào nhà nước, bảo vệ nông dân, bảo vệ lực
lương sản xuất ca xã hội.
Năm 1483, nhà Lê ban hành Quốc triều Hình luật (còn gọi là Bộ luật
Hồng Đức), đây là bộ luật đầu tiên của Việt Nam. Trong đó, Chương Điền
sản: gồm 59 điều, trong đó 32 điều ban đầu và 27 điều bổ sung sau (14 điều
về điền sản mới tăng thêm, 4 điều về luật hương hỏa, 9 điều về châm chước
bổ sung luật hương hỏa) quy định về ruộng đất, thừa kế, hương hỏa và các tội
phạm trong lĩnh vực này. Do đã có chế độ lộc điền-công điền tương đối toàn
diện về vấn đề ruộng đất công nên trong bộ luật này quyền sở hữu nhà nước
về ruộng đất chỉ được thể hiện thành các chế tài áp dụng đối với các hành vi
lOMoARcPSD| 57874556
vi phạm chế độ sử dụng ruộng đất công như: không được bán ruộng đất công
(điều 342), không được chiếm ruộng đất công quá hạn mức (điều 343), không
được nhận bậy ruộng đất công đã giao cho người khác (điều 344), cấm làm
sai quy định phân cấp ruộng đất công (điều 347), không để bỏ hoang ruộng
đất công (điều 350), cấm biến ruộng đất công thành tư (điều 353), không được
ẩn lậu để trốn thuế (điều 345)...
Thánh Tông còn lập các chức quan Hà đê, khuyến nông để chăm lo
việc nông trang, thủy lợi đê điều. Ông còn ra lệnh cho Hộ bộ và các quan địa
phương báo cho ông biết nơi nào có đất hoang, rồi ông dụ phủ huyện đôn đốc
dân đi khai hoang, mở ruộng. Ông cũng đặt ra những quy định về quyền tư
hữu ruộng đất, nghiêm trị những người cưỡng đoạt, lấn chiếm ruộng của
người khác, hoặc chặt cây và tre trong ruộng của người khác. Triều đình Lê
Thánh Tông quan tâm đến đời sống làng xã hơn bất kỳ một triều vua nào
trước. Điều này xuất phát từ sự gia tăng số lượng quan chức ở làng xã và từ
cách cai trị sâu sát của hoàng đế.
4.4.2. Nhà Lê trung hưng(1533-1789): kéo dài 256 năm, bắt đầu từ khi
Thượng tướng quân Nguyễn Kim lập tông thất Lê Duy Ninh lên
ngôi, tức Lê Trang Tông tại Ai Lao để khôi phục nhà Hậu Lê; kết
thúc khi Lê Chiêu Thống chạy sang lưu vong tại Trung Quốc
dưới thời Thanh Cao Tông.
Đây là Thời kỳ vua lê- chúa trịnh – chúa nguyễn
Do nước Đại Việt bị chia cắt từ đầu thế kỷ 17, quản lý đất đai Đại Việt
thời Lê Trung Hưng bao gồm 2 phía: Đàng Ngoài và Đàng Trong.
Đàng ngoài:
Nông nghiệp Đàng Ngoài phản ánh tình hình ruộng đất và sản xuất nông
nghiệp của miền bắc nước Đại Việt thời Lê trung hưng, dưới quyền cai quản
thực sự của chúa Trịnh, trong khoảng thời gian từ 1592 đến 1786.
- Chế độ ưu đãi binh lính: Từ thời nhà Mạc, do chiến tranh, triều đình
phải ưu tiên quân sĩ khi thực hiện chính sách quân điền (chia ruộng
công ở làng xã). Ruộng còn lại để chia cho dân đinh không được bao
nhiêu. Sang thời Lê trung hưng, các chúa Trịnh vẫn tiếp tục phải ưu đãi
binh lính vì các cuộc nội chiến trong nước còn tiếp diễn.
- Lộc điền : Đối với các công thần có công lao trung hưng nhà Lê, triều
đình cũng áp dụng ban lộc điền như thời Lê Sơ nhưng quy mô ít hơn,
mỗi lần cấp chỉ được khoảng 50 mẫu; hoặc thay vào đó là thưởng công
bằng tiền hoặc bằng thóc.
*Ruộng đất bị tư hữu hóa: Nhiều quý tộc và quan lại sau khi được cấp
ruộng, khi chết không trả lại cho triều đình. Năm 1670, Trịnh Tạc ban hành
lOMoARcPSD| 57874556
mức thuế cho loại ruộng "miễn hoàn" (tha không phải trả lại cho triều đình
khi người được cấp chết), chính thức thừa nhận sở hữu ruộng đất công của
những người này.
Để bảo đảm thu nhập của triều đình, trừ các ruộng công thần, ruộng binh
lính, chúa Trịnh cho thu thuế tất cả các loại ruộng khác, kể cả ruộng thế
nghiệp, ruộng công, ruộng cấp tứ... Năm 1664, theo đề nghị của Phạm Công
Trứ, nhà Lê ban hành phép "bình lệ". Theo đó, khi thống kê chỉ kê số dân
đinh, số ruộng ở các xã rồi từ đó tính toán và ấn định số thuế phải nộp của xã
đó. Số lượng thu đó được duy trì trong các năm tiếp theo, không cần tính tới
sự thay đổi về số đinh hay thay đổi về ruộng đất của xã. Cách thu này dẫn đến
sự thao túng, gian lận ruộng đất và các dân đinh của chức dịch ở làng xã,
đồng thời xảy ra nạn bất công trầm trọng, đời sống nhân dân càng khó khăn.
- Phép quân điền : Từ thế kỷ 17 sang thế kỷ 18, tình trạng tư hữu hóa
ruộng đất càng nhiều, các quan lại, địa chủ nắm giữ phần lớn ruộng tư.
Họ thường ép giá những người dân nghèo khổ phải bán ruộng đất để
thôn tính đất đai. Năm 1711, theo đề nghị của Nguyễn Quý Đức, triều
đình ban hành lại phép quân điền của thời Lê Sơ để ngăn chặn tình
trạng này. Theo chính sách đó, người đã được cấp đủ ruộng tư hoặc
ruộng lộc thì thôi không được cấp nữa. Dân đinh từ 18 tuổi trở lên được
ban ruộng khẩu phần, đến 60 tuổi thì trả lại cho làng xã. Cách chia và
khẩu phần thực hiện 6 năm 1 lần. Tuy nhiên, việc áp dụng chính sách
quân điền năm 1711 không thực hiện được như mục đích ban đầu của
triều đình, việc thôn tính đất đai vẫn diễn ra mạnh mẽ. Ruộng công sau
khi phân cho quân lính còn lại rất ít cho dân, triều đình cũng không can
thiệp vào việc chia đất ở làng xã như thời Lê Sơ nữa. Sau này Trịnh
Doanh lên ngôi (1740) cũng ban hành phép "tỉnh điền" để lập lại công
bằng nhưng cũng không thực hiện được.
Năm 1723, Trịnh Cương ban hành biểu thuế ruộng mới khá chi tiết. Theo
biểu này, các quý tộc và quan lại được miễn thuế ruộng tư với diện tích nhất
định theo phẩm hàm, cao nhất là nhất phẩm được miễn 25 mẫu. Các quan hầu
trong cung và phụ nữ quý tộc được miễn tương ứng, với số gấp đôi (cao nhất
là 50 mẫu). Nếu viên quan nào có quá nhiều ruộng tư quá số quy định thì phải
nộp thuế trên số vượt quá đó; người nào có ít ruộng tư hơn mức được hưởng
thì được thêm tiền theo phẩm trật. Riêng với vùng Thanh Nghệ - nơi trưng tập
binh lính nanh vuốt của triều đình - mãi đến tận năm 1780 mới bắt đầu thu
thuế ruộng tư.
Việc thu thuế ruộng tư nhằm giảm bớt sự bất công do chính sách miễn
thuế ruộng tư từ thời Lê sơ gây ra và tăng thu cho ngân khố triều đình.
lOMoARcPSD| 57874556
Đàng trong : ruộng đất kém hơn Đàng Ngoài do diện tích đất nông nghiệp
nhỏ, manh mún và kém về chất.
Về sở hữu, vẫn tồn tại sở hữu Nhà Nước, sở hữu làng xã, sở hữu tư nhân.
Từ năm 1600, Nguyễn Hoàng bắt đầu ly khai họ Trịnh, trực tiếp quản lý
việc thu thuế đất này. Năm 1618, ông sai người đo đạc ruộng công của các xã
để thu thuế.
Năm 1669, Nguyễn Phúc Tần sai Hồ Quảng Đại đi đo đạc ruộng đất ở các
huyện, định ra 3 bậc và chia các hạng ruộng để thu thuế thóc.
Ruộng đất ở Thuận Quảng khá nhỏ hẹp so với Bắc Hà. Ruộng đất công
Đàng Trong chia làm "quân điền trang" và "quan đồn điền" thuộc quyền quản
lý của chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn cấp ruộng này cho người thân thích
công thần (Người thân thích nhà Chúa được 10 mẫu, chưởng cơ 5 mẫu, cai cơ
4 mẫu, cai đội 3 mẫu). Ruộng đất ở các xã được phân chia theo lệ làng. Sang
thế kỷ 18, mỗi xã dân được chia 5-6 sào ruộng, binh lính thì được khẩu phần
gấp 3 lần.
Ruộng đất tư được gọi là bản bức tư điền. Các chúa Nguyễn có chính sách
kích thích sự phát triển ruộng tư: các đầm, đất thổ nhưỡng chiêm trũng, vùng
nhiễm mặn, rừng rú đều được cải tạo thành các làng xã mới.
Chính sách cho phép các nhà giàu m dân phiêu tán vào nam khai phá đất
mới đã tạo điều kiện hình thành bộ phận tư hữu ruộng đất. Việc kiêm tính
ruộng đất xảy ra ở vùng Nam B mới hình thành, tạo ra các địa chủ lớn.
T năm 1669, Nguyễn Phúc Tần bắt đầu ban hành phép thu thuế với mức
thu không quá nặng, nhưng các quan lại coi việc thu quá nhiều, hay phiền
nhiễu nhân dân, tham nhũng khiến nhân dân bị bóc lột nặng nề.
Ưu điểm:
Chính sách ruộng đất ca nhà Hậu Lê dù là “Quân điền “hay “Lộc điền”
đều nhằm bảo vệ quyền sở hữu ruộng đất của nhà nước, mặt khác, mở rộng
chế độ tư hữu ruộng đất, phục hồi phát triển nền kinh tế địa chủ, tiểu nông,
chỗ dựa kinh tế xã hội của nhà Hậu Lê, giải quyết được những mâu thuẫn
ruộng đất nẩy sinh nghiêm trọng gay gắt cuối đời Trần- Hồ, góp phần vào sự
phát triển kinh tế xã hội.
Chính sách quân điền là một bước trong quá trình phong kiến hóa làng xã,
chuyển từ nền kinh tế điền trang quý tc sang nền kinh tế tiểu nông. Qua đó
Nhà nước nắm được làng xã và dân chúng tăng nguồn thu nhập (qua nghĩa vụ
tô thuế, lao dịch, binh dịch). Đây là một chính sách tích cực trong thời Lê Sơ
nhưng về sau đã dần mất tác dụng.
Chế độ quân điền của nhà Lê, là một chính sách tiến bộ trong việc giải
quyết ruộng dất cho nhân dân sản xuất, ai nấy đều có ruộng: từ hạng cô quả,
tần tật, vợ con những phạm nhân đều được chia ruộng đất để cây cây sinh
lOMoARcPSD| 57874556
sống. Chế độ lộc điền và phép quân điền, cùng với các chế độ ruộng đất
khác thời
Lê sơ phản ánh xu thế phát triển khách quan về ruộng đất trong lịch sử Việt
Nam, hình thành quan hệ sản xuất phong kiến phổ biến địa chủ - tá điển trong
xã hội. Cùng với nó, các chính sách ruộng đất đã tạo ra một số giai cấp địa
chủ mới: địa chủ xuất thân từ bộ phận nhà nước; tin quan lại, quý tộc và từ
nông dân mà ra. Họ là bộ phận chiếm ít trong xã hội nhưng năm trong tay
nhiều tư liệu sản xuất. Đây là bộ phận rất quan trọng, tạo cơ sở cho nhà nước
thiết lập quan hệ địa chủ nông dân, từ đó đưa ra các chính sách phát triển kinh
tế mạnh mẽ, tăng tiềm lực cho nhà nước phong kiến tập quyền cao độ.
Nhược điểm:
Chính sách ruộng đất ca nhà Hậu Lê chứa đựng mâu thuẫn và sự vận
động của mâu thuẫn này sẽ dẫn nhà Lê đến suy vong vào thế kỷ XVI và sụp
đổ vào thế kỷ XVIII.
T khi Lê Lợi lên ngôi nhà Vua đã cho tiến hành đo đạc ruộng đất; lúc
đầu, việc đo đạc giao cho các quan huyện thực hiện, sau đó tiến hành lập các
đoàn từ Kinh đô xuống tận địa phương tiến hành đo đạc nhằm đảm bảo độ
chính xác. Tuy nhiên, do cuộc chiến tranh giành quyền lực của các phe phái
và chiến tranh liên miên xảy ra giữa Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn nên việc đo
đạc đã không hoàn thành. Chiến tranh, nông dân đói kh, ruộng đất bỏ hoang,
mất mùa, các cuộc bạo động diễn ra ở khắp nơi. Đất dai rơi dẫn vào tay địa
chủ, quan lại, cường hào và hậu quả là đến đầu thế kỷ XVIII, chế độ tư hữu
ruộng đất chiếm ưu thế trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ.
Chính sách quân điền đáp ứng đại đa số nguyện vọng của thời kỳ đầu của
Nhà nước Lê Sơ, nhưng khi thời kỳ Lê Sơ mât đi, chính sách quân điền không
có sự tiến bộ, đi ngược lại mong muốn của nhân dân, gây ra mâu thuẫn giữa
chính quyền trung ương và nhân dân.
Càng về cuối triều đại, tính hình sản xuất càng đình trệ, chính sách thuế
má hà khắc, người nông dân bất mãn, đó cũng là lý do cho các cuộc khởi
nghĩa nông dân nổi dậy.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 57874556 QLDD thời Hậu Lê lOMoAR cPSD| 57874556 4.4. Nhà Hậu Lê:
4.4.1. Lê sơ : Nhà Lê sơ (1428-1527): kéo dài 100 năm, bắt đầu từ
khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi gạt bỏ vua bù nhìn
Trần Cảo, tự làm vua, lập ra triều đại mới và kết thúc khi
quyền thần Mạc Đăng Dung phế bỏ vua Lê Cung Hoàng lập ra nhà Mạc
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1417-1427) thắng lợi đã mở ra một trang mới
trong lịch sử phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam, thời kỳ xây dựng
nhà nước phong kiến tập quyền cao độ. Với thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống quân Minh, nền độc lập dân tộc được khôi phục và giữ vững, nạn ngoại
xâm phương Bắc bị đánh bại hoàn toàn. Tình hình đó đã tạo ra những điều
kiện hết sức thuận lợi để củng cố nền chính trị và đẩy mạnh công cuộc xây
dựng đất nước. Nhân dân Jai Việt tích cực sản xuất trong không khí hồ hởi
của một nền hoà bình vừa được giành lại. Nền nông nghiệp lâu đời tiếp tục
được coi trọng, trong đó ruộng đất được nhà nước phong kiến quan tâm hàng
đầu. Nhà Lê thời kỳ này rất chăm lo đến sự phát triển kinh tế, thi hành một số
biện pháp tích cực thúc đẩy nông nghiệp phát triển.
Tất cả ruộng đất dưới thời vua Lê Thái Tổ được chia làm 3 loại: Ruộng đất
thuộc sở hữu nhà nước, của làng xã và tư hữu ruộng đất.
- Ruộng đất thuốc sở hữu Nhà nước: Nhà Lê tịch thu ruộng đất trong tay
quân Minh và bọn tay sai, tịch thu điền trang thái ấp của quý tộc trước
đây, cộng với ruộng hoang hoá; tất cả sung làm ruộng đất công.
- Ruộng đất làng xã: có nguồn gốc xa xưa, được duy trì đến thế kỷ XV ở
các làng xã với tỉ lệ khác nhau.
- Ruộng đất tư hữu: là hình thức sở hữu tồn tại từ trước và đến thời Hậu
Lê vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển, dưới thời Lê Sơ được hình thành
chủ yếu do: giao dịch dân sự(mua bán, tặng cho giữa các cá nhân),
ruộng đất thế nghiệp, ruộng đất được nhà nước cấp cho trong phần khai hoang.
Với quỹ đất công lớn, nhà Lê đã sử dụng một phần ban cho quý tộc tôn
thất và quan lại cao cấp (lộc điền), phần lớn bổ sung cho công xã để chia
cho dân cày cấy (quân điền).
Quân điền: được Lê Lợi ban hành năm 1429 và hoàn thiện vào thời Lê Thánh
Tông; bộ 'luật quân điền' được chép trong Thiên Nam dư hạ tập năm 1481. Từ
thời vua Lê Thái Tổ, nhà nước đã đặt vấn đề phân chia ruộng đất công làng xã
cho dân làng ít hoặc không có ruộng đất, quân lính. Để thống nhất việc phân
chia ruộng đất trong phạm vi cả nước, Lê Thánh Tông thực hiện chính sách
quân điền- ban hành phép quân điền.
Chế độ quân điền nghĩa là: thực hiện việc lấy đất công và ruộng bỏ hoang đem chia cho nông dân. lOMoAR cPSD| 57874556
Nội dung chính của chế độ quân điền là:
- Nhà nước đem ruộng đất do mình trực tiếp quản lý chia cho nông dân
cày cấy, cứ 6 năm ruộng công lầng xã được chia lại 1 lần cho các thành
viên trong xã bao gồm các quan chức cấp thấp( từ ngũ phẩm trở
xuống), chức dịch của làng, quân lính, dân đinh, vợ các quan, phụ nữ
góa chồng, trẻ mồ côi,...
- Các quan lại, tuỳ theo chức vụ cao thấp, được cấp ruộng đất làm bổng lộc.
- Ruộng trồng lúa, người làm thuê đến 60 tuổi phải trả lại cho nhà nước;
ruộng trồng dâu được cha truyền con nối.
Dưới thời vu Lê Thánh Tông
'Chế độ lộc điền' xuất hiện nhằm bảo vệ quyền lợi cho quý tộc, tông thất và
những quan lại cao cấp, đẩy mạnh sự phát triển của giai cấp địa chủ - tầng lớp
thống trị mới trong xã hội phong kiến lúc đó.Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, “lộc
điền” vẫn là phần thưởng quý giá, tiếp tục được phong thưởng cho các công
thần và cho các vương tôn, quý tộc, quan lại (cho đến cửu phẩm).
Lộc điền bao gồm hai loại ruộng:
- Một phần cấp vĩnh viễn gọi là ruộng thế nghiệp chủ yếu dành cho các
vương hầu, công chúa. Loại cấp 1 đời gọi là ruông ân tứ (15-130 mẫu
cho quan từ nhất phẩm đến tứ phẩm)
- Một phần cấp sử dụng không vĩnh viễn . Sau ba năm chủ đất chết, phần
không vĩnh viễn phải trả lại cho nhà nước.
Ví dụ một thân vương nhất phẩm được ban cấp 218 mẫu, trong đó có 18
mẫu cấp vĩnh viễn, số còn lại là cấp không vĩnh viễn.
Chế độ “Lộc điền” coi như lương bổng nhà nước cấp cho quan lại. Giống
như nhà Lý, nhà Lê cũng qui định người được hưởng “Lộc điền” không được
biến nông dân thành nông nô nhằm chống lại việc phát sinh lãnh địa thế tập
phong kiến cát cứ, bảo đảm quyền lực vĩnh viễn của trung ương, buộc tầng
lớp địa chủ mới này phải lệ thuộc vào nhà nước, bảo vệ nông dân, bảo vệ lực
lương sản xuất của xã hội.
Năm 1483, nhà Lê ban hành Quốc triều Hình luật (còn gọi là Bộ luật
Hồng Đức), đây là bộ luật đầu tiên của Việt Nam. Trong đó, Chương Điền
sản: gồm 59 điều, trong đó 32 điều ban đầu và 27 điều bổ sung sau (14 điều
về điền sản mới tăng thêm, 4 điều về luật hương hỏa, 9 điều về châm chước
bổ sung luật hương hỏa) quy định về ruộng đất, thừa kế, hương hỏa và các tội
phạm trong lĩnh vực này. Do đã có chế độ lộc điền-công điền tương đối toàn
diện về vấn đề ruộng đất công nên trong bộ luật này quyền sở hữu nhà nước
về ruộng đất chỉ được thể hiện thành các chế tài áp dụng đối với các hành vi lOMoAR cPSD| 57874556
vi phạm chế độ sử dụng ruộng đất công như: không được bán ruộng đất công
(điều 342), không được chiếm ruộng đất công quá hạn mức (điều 343), không
được nhận bậy ruộng đất công đã giao cho người khác (điều 344), cấm làm
sai quy định phân cấp ruộng đất công (điều 347), không để bỏ hoang ruộng
đất công (điều 350), cấm biến ruộng đất công thành tư (điều 353), không được
ẩn lậu để trốn thuế (điều 345)...
Lê Thánh Tông còn lập các chức quan Hà đê, khuyến nông để chăm lo
việc nông trang, thủy lợi đê điều. Ông còn ra lệnh cho Hộ bộ và các quan địa
phương báo cho ông biết nơi nào có đất hoang, rồi ông dụ phủ huyện đôn đốc
dân đi khai hoang, mở ruộng. Ông cũng đặt ra những quy định về quyền tư
hữu ruộng đất, nghiêm trị những người cưỡng đoạt, lấn chiếm ruộng của
người khác, hoặc chặt cây và tre trong ruộng của người khác. Triều đình Lê
Thánh Tông quan tâm đến đời sống làng xã hơn bất kỳ một triều vua nào
trước. Điều này xuất phát từ sự gia tăng số lượng quan chức ở làng xã và từ
cách cai trị sâu sát của hoàng đế.
4.4.2. Nhà Lê trung hưng(1533-1789): kéo dài 256 năm, bắt đầu từ khi
Thượng tướng quân Nguyễn Kim lập tông thất Lê Duy Ninh lên
ngôi, tức Lê Trang Tông tại Ai Lao để khôi phục nhà Hậu Lê; kết
thúc khi Lê Chiêu Thống chạy sang lưu vong tại Trung Quốc
dưới thời Thanh Cao Tông.
Đây là Thời kỳ vua lê- chúa trịnh – chúa nguyễn
Do nước Đại Việt bị chia cắt từ đầu thế kỷ 17, quản lý đất đai Đại Việt
thời Lê Trung Hưng bao gồm 2 phía: Đàng Ngoài và Đàng Trong. Đàng ngoài:
Nông nghiệp Đàng Ngoài phản ánh tình hình ruộng đất và sản xuất nông
nghiệp của miền bắc nước Đại Việt thời Lê trung hưng, dưới quyền cai quản
thực sự của chúa Trịnh, trong khoảng thời gian từ 1592 đến 1786.
- Chế độ ưu đãi binh lính: Từ thời nhà Mạc, do chiến tranh, triều đình
phải ưu tiên quân sĩ khi thực hiện chính sách quân điền (chia ruộng
công ở làng xã). Ruộng còn lại để chia cho dân đinh không được bao
nhiêu. Sang thời Lê trung hưng, các chúa Trịnh vẫn tiếp tục phải ưu đãi
binh lính vì các cuộc nội chiến trong nước còn tiếp diễn.
- Lộc điền : Đối với các công thần có công lao trung hưng nhà Lê, triều
đình cũng áp dụng ban lộc điền như thời Lê Sơ nhưng quy mô ít hơn,
mỗi lần cấp chỉ được khoảng 50 mẫu; hoặc thay vào đó là thưởng công
bằng tiền hoặc bằng thóc.
*Ruộng đất bị tư hữu hóa: Nhiều quý tộc và quan lại sau khi được cấp
ruộng, khi chết không trả lại cho triều đình. Năm 1670, Trịnh Tạc ban hành lOMoAR cPSD| 57874556
mức thuế cho loại ruộng "miễn hoàn" (tha không phải trả lại cho triều đình
khi người được cấp chết), chính thức thừa nhận sở hữu ruộng đất công của những người này.
Để bảo đảm thu nhập của triều đình, trừ các ruộng công thần, ruộng binh
lính, chúa Trịnh cho thu thuế tất cả các loại ruộng khác, kể cả ruộng thế
nghiệp, ruộng công, ruộng cấp tứ... Năm 1664, theo đề nghị của Phạm Công
Trứ, nhà Lê ban hành phép "bình lệ". Theo đó, khi thống kê chỉ kê số dân
đinh, số ruộng ở các xã rồi từ đó tính toán và ấn định số thuế phải nộp của xã
đó. Số lượng thu đó được duy trì trong các năm tiếp theo, không cần tính tới
sự thay đổi về số đinh hay thay đổi về ruộng đất của xã. Cách thu này dẫn đến
sự thao túng, gian lận ruộng đất và các dân đinh của chức dịch ở làng xã,
đồng thời xảy ra nạn bất công trầm trọng, đời sống nhân dân càng khó khăn.
- Phép quân điền : Từ thế kỷ 17 sang thế kỷ 18, tình trạng tư hữu hóa
ruộng đất càng nhiều, các quan lại, địa chủ nắm giữ phần lớn ruộng tư.
Họ thường ép giá những người dân nghèo khổ phải bán ruộng đất để
thôn tính đất đai. Năm 1711, theo đề nghị của Nguyễn Quý Đức, triều
đình ban hành lại phép quân điền của thời Lê Sơ để ngăn chặn tình
trạng này. Theo chính sách đó, người đã được cấp đủ ruộng tư hoặc
ruộng lộc thì thôi không được cấp nữa. Dân đinh từ 18 tuổi trở lên được
ban ruộng khẩu phần, đến 60 tuổi thì trả lại cho làng xã. Cách chia và
khẩu phần thực hiện 6 năm 1 lần. Tuy nhiên, việc áp dụng chính sách
quân điền năm 1711 không thực hiện được như mục đích ban đầu của
triều đình, việc thôn tính đất đai vẫn diễn ra mạnh mẽ. Ruộng công sau
khi phân cho quân lính còn lại rất ít cho dân, triều đình cũng không can
thiệp vào việc chia đất ở làng xã như thời Lê Sơ nữa. Sau này Trịnh
Doanh lên ngôi (1740) cũng ban hành phép "tỉnh điền" để lập lại công
bằng nhưng cũng không thực hiện được.
Năm 1723, Trịnh Cương ban hành biểu thuế ruộng mới khá chi tiết. Theo
biểu này, các quý tộc và quan lại được miễn thuế ruộng tư với diện tích nhất
định theo phẩm hàm, cao nhất là nhất phẩm được miễn 25 mẫu. Các quan hầu
trong cung và phụ nữ quý tộc được miễn tương ứng, với số gấp đôi (cao nhất
là 50 mẫu). Nếu viên quan nào có quá nhiều ruộng tư quá số quy định thì phải
nộp thuế trên số vượt quá đó; người nào có ít ruộng tư hơn mức được hưởng
thì được thêm tiền theo phẩm trật. Riêng với vùng Thanh Nghệ - nơi trưng tập
binh lính nanh vuốt của triều đình - mãi đến tận năm 1780 mới bắt đầu thu thuế ruộng tư.
Việc thu thuế ruộng tư nhằm giảm bớt sự bất công do chính sách miễn
thuế ruộng tư từ thời Lê sơ gây ra và tăng thu cho ngân khố triều đình. lOMoAR cPSD| 57874556
Đàng trong : ruộng đất kém hơn Đàng Ngoài do diện tích đất nông nghiệp
nhỏ, manh mún và kém về chất.
Về sở hữu, vẫn tồn tại sở hữu Nhà Nước, sở hữu làng xã, sở hữu tư nhân.
Từ năm 1600, Nguyễn Hoàng bắt đầu ly khai họ Trịnh, trực tiếp quản lý
việc thu thuế đất này. Năm 1618, ông sai người đo đạc ruộng công của các xã để thu thuế.
Năm 1669, Nguyễn Phúc Tần sai Hồ Quảng Đại đi đo đạc ruộng đất ở các
huyện, định ra 3 bậc và chia các hạng ruộng để thu thuế thóc.
Ruộng đất ở Thuận Quảng khá nhỏ hẹp so với Bắc Hà. Ruộng đất công
Đàng Trong chia làm "quân điền trang" và "quan đồn điền" thuộc quyền quản
lý của chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn cấp ruộng này cho người thân thích và
công thần (Người thân thích nhà Chúa được 10 mẫu, chưởng cơ 5 mẫu, cai cơ
4 mẫu, cai đội 3 mẫu). Ruộng đất ở các xã được phân chia theo lệ làng. Sang
thế kỷ 18, mỗi xã dân được chia 5-6 sào ruộng, binh lính thì được khẩu phần gấp 3 lần.
Ruộng đất tư được gọi là bản bức tư điền. Các chúa Nguyễn có chính sách
kích thích sự phát triển ruộng tư: các đầm, đất thổ nhưỡng chiêm trũng, vùng
nhiễm mặn, rừng rú đều được cải tạo thành các làng xã mới.
Chính sách cho phép các nhà giàu mộ dân phiêu tán vào nam khai phá đất
mới đã tạo điều kiện hình thành bộ phận tư hữu ruộng đất. Việc kiêm tính
ruộng đất xảy ra ở vùng Nam Bộ mới hình thành, tạo ra các địa chủ lớn.
Từ năm 1669, Nguyễn Phúc Tần bắt đầu ban hành phép thu thuế với mức
thu không quá nặng, nhưng các quan lại coi việc thu quá nhiều, hay phiền
nhiễu nhân dân, tham nhũng khiến nhân dân bị bóc lột nặng nề. Ưu điểm:
Chính sách ruộng đất của nhà Hậu Lê dù là “Quân điền “hay “Lộc điền”
đều nhằm bảo vệ quyền sở hữu ruộng đất của nhà nước, mặt khác, mở rộng
chế độ tư hữu ruộng đất, phục hồi phát triển nền kinh tế địa chủ, tiểu nông,
chỗ dựa kinh tế xã hội của nhà Hậu Lê, giải quyết được những mâu thuẫn
ruộng đất nẩy sinh nghiêm trọng gay gắt cuối đời Trần- Hồ, góp phần vào sự
phát triển kinh tế xã hội.
Chính sách quân điền là một bước trong quá trình phong kiến hóa làng xã,
chuyển từ nền kinh tế điền trang quý tộc sang nền kinh tế tiểu nông. Qua đó
Nhà nước nắm được làng xã và dân chúng tăng nguồn thu nhập (qua nghĩa vụ
tô thuế, lao dịch, binh dịch). Đây là một chính sách tích cực trong thời Lê Sơ
nhưng về sau đã dần mất tác dụng.
Chế độ quân điền của nhà Lê, là một chính sách tiến bộ trong việc giải
quyết ruộng dất cho nhân dân sản xuất, ai nấy đều có ruộng: từ hạng cô quả,
tần tật, vợ con những phạm nhân đều được chia ruộng đất để cây cây sinh lOMoAR cPSD| 57874556
sống. Chế độ lộc điền và phép quân điền, cùng với các chế độ ruộng đất khác thời
Lê sơ phản ánh xu thế phát triển khách quan về ruộng đất trong lịch sử Việt
Nam, hình thành quan hệ sản xuất phong kiến phổ biến địa chủ - tá điển trong
xã hội. Cùng với nó, các chính sách ruộng đất đã tạo ra một số giai cấp địa
chủ mới: địa chủ xuất thân từ bộ phận nhà nước; tin quan lại, quý tộc và từ
nông dân mà ra. Họ là bộ phận chiếm ít trong xã hội nhưng năm trong tay
nhiều tư liệu sản xuất. Đây là bộ phận rất quan trọng, tạo cơ sở cho nhà nước
thiết lập quan hệ địa chủ nông dân, từ đó đưa ra các chính sách phát triển kinh
tế mạnh mẽ, tăng tiềm lực cho nhà nước phong kiến tập quyền cao độ. Nhược điểm:
Chính sách ruộng đất của nhà Hậu Lê chứa đựng mâu thuẫn và sự vận
động của mâu thuẫn này sẽ dẫn nhà Lê đến suy vong vào thế kỷ XVI và sụp đổ vào thế kỷ XVIII.
Từ khi Lê Lợi lên ngôi nhà Vua đã cho tiến hành đo đạc ruộng đất; lúc
đầu, việc đo đạc giao cho các quan huyện thực hiện, sau đó tiến hành lập các
đoàn từ Kinh đô xuống tận địa phương tiến hành đo đạc nhằm đảm bảo độ
chính xác. Tuy nhiên, do cuộc chiến tranh giành quyền lực của các phe phái
và chiến tranh liên miên xảy ra giữa Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn nên việc đo
đạc đã không hoàn thành. Chiến tranh, nông dân đói khổ, ruộng đất bỏ hoang,
mất mùa, các cuộc bạo động diễn ra ở khắp nơi. Đất dai rơi dẫn vào tay địa
chủ, quan lại, cường hào và hậu quả là đến đầu thế kỷ XVIII, chế độ tư hữu
ruộng đất chiếm ưu thế trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ.
Chính sách quân điền đáp ứng đại đa số nguyện vọng của thời kỳ đầu của
Nhà nước Lê Sơ, nhưng khi thời kỳ Lê Sơ mât đi, chính sách quân điền không
có sự tiến bộ, đi ngược lại mong muốn của nhân dân, gây ra mâu thuẫn giữa
chính quyền trung ương và nhân dân.
Càng về cuối triều đại, tính hình sản xuất càng đình trệ, chính sách thuế
má hà khắc, người nông dân bất mãn, đó cũng là lý do cho các cuộc khởi
nghĩa nông dân nổi dậy.