




Preview text:
PHẬT GIÁO+ AI CẬP LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI 
Câu lý thuyết: Sự ra đời của Phật giáo ở Ấn Độ cổ đại: 
- Quê hương của đạo Phật là đất nước Ấn Độ cổ đại, ra đời ở một miền đất nhỏ 
ở vùng biên giới đông bắc Ấn Độ, từ trên 2600 năm nay, đạo Phật đã truyền 
bá khắp đất nước này và đi tới hầu hết các nước vùng Đông Á và Đông Nam 
Á, thu hút hàng trăm triệu tín đồ, trở thành một trong những tôn giáo lớn nhất  của loài người. 
- Tuy nhiên như một nghịch lý, trong khi đạo Phật có những ảnh hưởng rất 
sau rộng ở bên ngoài Ấn Độ, thì tại quê hương của mình, vị trí của đạo Phật 
ngày càng thu hẹp trước sự mở rộng của đạo Hinđu. Theo thống kê hiện nay, 
83% dân số Ấn Độ theo đạo Hinđu còn theo đạo Phật thì chưa đầy 1% dân  số. 
- Vào thế kỷ VI TCN, đạo Phật - một trong những tôn giáo lớn nhất của nhân 
loại, đã ra đời ở Ấn Độ. Người sáng lập ra tôn giáo này là Sitđạtta Gôtama, 
hiệu là Sakia Muni (Thích Ca Mâuni) – Sakia: tên thị tộc, bộ lạc Phật xuất 
hiện, Muni: Thánh → Sakia Muni: Thánh của tộc Sakia. 
- Đạo Phật ra đời ở Đông Bắc Ấn Độ, ở chân núi Himalaya, (nay là Nêpan). 
- Đạo Phật ra đời trong hoàn cảnh đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp Vácna đang 
thịnh hành, những mâu thuẫn trong lòng xã hội rất sâu sắc, đó là mâu thuẫn 
giữa quảng đại quần chúng nhân dân với hai đẳng cấp trên và mâu thuẫn giữa 
quý tộc Ksatơrya với Bàlamôn. Vì lúc này, đẳng cấp Ksatơrya đã nắm chính 
quyền, có thế lực về kinh tế, chính trị, nhưng địa vị xã hội vẫn thấp hơn 
Bàlamôn nên họ đấu tranh chống lại đẳng cấp Bàlamôn. 
- Niên đại của đạo Phật có nhiều ý kiến, trong đó có 3 ý kiến cơ bản:   563 – 483 TCN  560 – 480 TCN  624 – 544 TCN 
- Theo truyền thuyết, đức Phật Thích Ca là người sáng lập ra đạo Phật, tuy nhiên 
giáo lý nhà Phật cho rằng Thích Ca không phải là đức Phật duy nhất. Theo 
tiếng Phạn, Buddha có nghĩa là “Đấng giác ngộ”. Phật Thích Ca chỉ là một 
trong những đấng giác ngộ đó, nhưng là một đức Phật chí tôn có thực     
trong lịch sử. Cuộc đời của Phật Thích Ca chủ yếu được biết đến qua một số 
kinh truyện và Phật thoại, trong đó, bên ngoài cái nhân lõi lịch sử có thực là 
một vầng hào quang của những truyền thuyết và huyền thoại. 
Phật Thích Ca tên thật là Sitđatta Gôtama, sinh năm 563 TCN, là hoàng tử của 
bộ tộc Xakya (Thích Ca), có thủ đô là thành Kapilavatstu (ngày nay ở biên giới 
giáp Nêpan, đông bắc Ấn Độ). Mẹ Sítđatta là hoàng hậu Maya xinh đẹp, hiền dịu 
và thông minh. Sítđạtta thuộc dòng dõi đẳng cấp vũ sĩ Ksatơrya. 
Theo kinh Phật truyền lại thì Gautama năm 29 tuổi đã chán ghét cuộc đời đầy những cảnh 
“sinh, lão, bệnh, tử”, nên đã rời bỏ cung điện của vua cha ra đi tìm con đường giải thoát 
cho chính mình và cho cả “chúng sinh”. Sau nhiều năm tu hành khổ hạnh và sống ẩn dật, 
ông đã tìm ra con đường giải thoát và từ đó được gọi là Buddha (tức Phật), có nghĩa là 
“người đã được giác ngộ về chân lý”. Sau đó, ông đi khắp miền trung du sông Hằng trong 
hơn 40 năm trời để truyền bá giáo lý mới của ông, mà về sau người ta gọi là đạo Phật  (Buddhism). 
Ngay sau sự ra đời của Phật giáo Ấn Độ cổ đại, số người theo đạo tăng lên rất nhanh, đặc 
biệt là tầng lớp dân nghèo bị áp bức. Đạo Phật được hoan nghênh vì nó tuyên truyền sự 
“bình đẳng giữa các chúng sinh”, kỳ thật là sự bình đẳng về tinh thần giữa những người 
dân tự do mà thôi. Tầng lớp thị dân giàu có và một bộ phận quý tộc Kshatriya cũng ưa 
thích đạo Phật ở chỗ lễ nghi của nó đơn giản, không tốn kém, không đòi hỏi phải tế lễ, hy 
sinh gì. Mặc dầu đạo Phật không hề kêu gọi xóa bỏ chế độ chủng tính nhưng giáo lý của 
nó mở đường giải thoát về tinh thần cho tất cả mọi người bị đè nén, tức là gián tiếp phản 
đối đạo Bà La Môn chủ trương bạo lực và duy trì cách biệt chủng tính. 
Điểm hạn chế của đạo Phật đó là có phần xa rời thực tế cuộc sống, phủ định đấu tranh 
giai cấp, do đó rất phù hợp với mong muốn của tầng lớp Kshatriya đang nắm chính quyền 
thời bấy giờ. Thái độ thờ ơ, nhẫn nhục, vô vi mà đạo Phật tuyên truyền, đã bị giai cấp quý 
tộc chủ nô lợi dụng để củng cố nền thống trị của họ đối với người dân bị áp bức. Hơn 
nữa, theo giáo lý đạo Phật, thành phần xuất thân từ chủng tính cao quý Bà La Môn không 
có ý nghĩa quan trọng của nó nữa. Điều quan trọng lúc này là chiếm hữu nhiều của cải và     
nô lệ. Bởi vậy khuynh hướng của đạo Phật chống tăng lữ Bà La Môn là hoàn toàn phù 
hợp với lợi ích của giai cấp quý tộc chủ nô thời bấy giờ nói chung. Ngoài ra, đạo Phật với 
tính cách là một tôn giáo không liên hệ với các thứ tín ngưỡng tôn giáo của các bộ lạc địa 
phương, có thể là một cơ sở tư tưởng thích hợp cho xu hướng thống nhất của các quốc gia 
chiếm hữu nô lệ lớn đang hình thành. 
Câu thực hành: Ai Cập  
CHỮ VIẾT CỦA NGƯỜI AI CẬP 
Ít có lịch sử nước nào sánh được với lịch sử Ai Cập về mức độ được quan tâm. Một 
người, dù thuộc chủng tộc nào, văn hóa nào cũng không khỏi bị lôi cuốn bởi những kim 
tự tháp bên trong có bảo vật, mê hồn trận và những hàng chữ tượng hình, tuy đã được 
giải mã, nhưng vẫn còn đượm nhiều huyền bí. Ai Cập cổ đại 3000 năm trước còn được 
biết như Đất nước của các pharaon. Ai Cập là một trong những nền văn minh sớm nhất 
của nền văn minh nhân loại, một trong những tiêu biểu của nền văn minh Ai Cập phải kể  đến đó là chữ viết. 
Chữ viết Ai Cập ra đời khi xã hội hình thành giai cấp. Đó là chữ tượng hình. 
Đối với các khái niệm phức tạp và trừu tượng, người ta dùng phương pháp mượn ý. 
Tuy nhiên, hai phương pháp này chưa đủ để ghi mọi khái niệm của cuộc sống nên 
dần dần xuất hiện những hình vẽ biểu hiện âm tiết. Lâu dần, những chữ chỉ âm tiết 
trở thành chữ cái. Tổng số chữ tượng hình của Ai Cập cổ đại có khoảng 1000 chữ, 
trong đó có 24 chữ cái. Loại chữ này được dùng trong hơn 3000 năm. 
Chữ viết cổ này thường được viết trên đá, gỗ, đồ gốm, vải gai, da… nhưng chất 
liệu phổ biến nhất là giấy papyrus. Bút được làm từ thân cây sậy. Mực được làm từ  bồ hóng. 
Papyrus - cầu nối giữa Ai Cập cổ đại và thế giới hiện đại 
Dấu tích lịch sử, kho tàng kiến thức của nền văn minh Ai Cập cổ đại được 
khắc ghi trên trang giấy papyrus, đơn sơ nhưng lại chẳng sợ vết thời gian. Cây 
papyrus đã trở thành biểu tượng của văn hóa, tâm linh và lịch sử của xã hội Ai Cập 
cổ đại, cũng như di sản đáng quý của đất nước Ai Cập hiện đại. 
Cây papyrus là một trong những loài thực vật cổ xưa nhất được loài người biết 
đến và Ai Cập được coi là nơi xuất xứ của loài cây này. Cây papyrus mọc trong các 
vùng đầm lầy ở hai bên bờ sông Nile, dựa vào phù sa của sông Nile bồi đắp để nuôi     
dưỡng và phát triển. Tài liệu lâu đời nhất được ghi nhận về sự xuất hiện của loài cây 
papyrus là của nhà sử học Hy Lạp Herodotus, vào năm 450 trước Công nguyên 
(TCN): “Cây papyrus mọc lên từ các vùng đầm lầy, phần thân thì được cắt và xử lý 
thành các sản phẩm khác nhau, phần thân rễ dưới thì dùng để ăn hoặc bán”. 
Tháng 11 hằng năm, sau khi nước sông Nin rút đi, từ những gò đất phù sa này 
sẽ nổi lên từ dòng nước cùng cây papyrus. Vì thế, papyrus là biểu tượng của sự sinh 
sôi, tái sinh, là mầm mống của sự sáng tạo. Với ý nghĩa linh thiêng đó, người Ai Cập 
cổ đại đã sử dụng papyrus như tấm bùa hộ mệnh, trong đám tang, khi ướp xác hay 
trên bức vẽ trong các ngôi đền. Bùa hộ mệnh làm từ cây papyrus được đeo quanh cổ, 
khâu trên khăn bọc xác ướp, hoặc đặt bên dưới đầu xác ướp để giúp người đã khuất 
có được hơi ấm như khi còn sống dù đã bước chân sang thế giới bên kia. 
Các bức vẽ trên tường nhiều lăng mộ cho thấy giấy papyrus được sử dụng trong 
các buổi làm lễ hay trong nghi thức tang lễ. Những người phục vụ trong buổi lễ 
thường mang theo những thân cây papyrus như một lễ vật dâng lên các vị thần. 
Có ý kiến cho rằng khi nghĩ đến Ai Cập, người ta nghĩ ngay đến giấy papyrus. 
Những người Ai Cập cổ đại đã phát minh giấy papyrus từ rất lâu, lâu đến mức con 
người chưa thể xác định chính xác thời điểm. Người Ai Cập cổ đại đã phát hiện giá 
trị sử dụng của cây papyrus trong đời sống hàng ngày. Không chỉ là nguyên liệu 
chính trong sản xuất giấy papyrus, cây papyrus còn có rất nhiều công dụng khác 
trong đời sống hàng ngày của người Ai Cập cổ đại. Papyrus còn được bện làm dây 
thừng, lưới đánh cá, thậm chí là thuyền hoặc các chi tiết trang trí trên thuyền. Tại 
các hộ gia đình, papyrus có thể được dùng làm củi đun nấu, đan thành các vật dụng 
hằng ngày như túi đựng, nút chai, ga giường, thảm, rèm, dép… 
Thân dưới và rễ cây có thể ăn sống hoặc nướng. Người ta có thể nhai thân cây 
papyrus, nuốt lấy nước và sau đó nhả bã như kẹo cao su vậy. Trong lĩnh vực y học, 
tro cây papyrus khô được dùng để chữa bệnh về da (ăn da, vết chai…) hay ngăn nhiệt  miệng phát triển. 
Phần lớn lịch sử của Ai Cập và thế giới cổ đại đến với thế giới hiện đại qua 
những thông tin được viết trên giấy papyrus cùng với những “nét khắc thiêng liêng” 
trên vách đá lăng mộ các Pharaong. 
Việc sử dụng giấy papyrus từ Vương triều thứ I, năm 3100 TCN được ghi lại 
trên các bức bích họa dưới hình một cuộn giấy, đồng thời được coi là hình ảnh của  một cuốn sách.     
Vậy giấy papyrus đã được người Ai Cập cổ đại sản xuất như thế nào? 
Đầu tiên, họ kéo thân cây papyrus khỏi đầm lầy, buộc thành từng bó và mang 
về xưởng chế biến. Sau đó, thân cây được cắt thành lát mỏng, ngâm nước nhiều ngày 
để làm mềm. Cuối cùng, các lát được xếp thành lớp, ép hết nước và tăng cường độ  kết dính. 
Giấy papyrus được phơi khô, có thể được dán để tăng độ dài tùy thuộc vào mục 
đích sử dụng. Giấy papyrus cổ được tìm thấy ở nhiều nơi, nhưng chủ yếu trong các  lăng mộ. 
Trong cuộc khai quật năm 1903-1920 tại làng Deir al Medina (nơi ở của của 
những người làm việc cho các lăng mộ trong Thung lũng các vị vua), thuộc thành 
phố Thebes (nay là Luxor) do nhà Ai Cập học người Italy Ernesto Schiaparelli dẫn 
đầu, các nhà sử học đã tìm thấy 16 mét giấy papyrus, được biết đến là “Cuốn sách 
của người chết” trên lăng mộ của người thợ chính Kha và vợ là Merit (được xây 
dựng khoảng năm 1386-1349 TCN). 
Đây là một tài liệu tôn giáo cổ của người Ai Cập, tên gọi khác là “Sách hướng 
tới ánh sáng” hay “Tử thư”, tập hợp bùa chú, phép thuật được ghi lại để giúp linh 
hồn người chết sang thế giới bên kia thông qua “Cửa Âm phủ”. Cuốn sách do nhiều 
thầy tư tế viết trong khoảng thời gian 1.000 năm. 
Ban đầu, cuốn sách này được khắc bằng chữ tượng hình trong các khu lăng mộ 
kim tự tháp và chỉ phục vụ cho các Pharaoh. 
Tuy nhiên, đến thời kỳ Tân Vương quốc (1550-1352 TCN), cuốn sách này đã 
được các thầy tư tế chép lại trên giấy papyrus và sử dụng cho cả hoàng thân, các 
quan chức và tầng lớp thượng lưu. 
Tử thư sẽ được đọc trong suốt quá trình ướp xác và để lại trong lăng mộ người  chết. 
Chữ tượng hình đóng một vai trò quan trọng trong việc thực hiện nhiều nhiệm vụ của 
hoàng gia và được sử dụng bởi các pharaoh quyền lực của Ai Cập và các kinh sư để ghi 
lại những thành tựu trong triều đại của họ. Ngày nay, hàng triệu chữ tượng hình được lưu 
giữ trong các văn bản thiêng liêng, quan tài, lăng mộ và tượng đài là minh chứng cho quá 
khứ hoàng kim của Ai Cập.