PHẬT GIÁO+ AI CẬP LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
Câu lý thuyết: Sự ra đời của Phật giáo ở Ấn Độ cổ đại:
-
Quê hương của đạo Phật đất nước Ấn Độ cổ đại, ra đời ở một miền đất nhỏ
vùng biên giới đông bắc Ấn Độ, từ trên 2600 năm nay, đạo Phật đã truyền
bá khắp đất nước này và đi tới hầu hết các nước vùng Đông Á và Đông Nam
Á, thu hút hàng trăm triệu tín đồ, trở thành một trong những tôn giáo lớn nhất
của loài người.
- Tuy nhiên như một nghịch lý, trong khi đạo Phật có những ảnh hưởng rất
sau rộng ở bên ngoài Ấn Độ, thì tại quê hương của mình, vị trí của đạo Phật
ngày càng thu hẹp trước sự mở rộng của đạo Hinđu. Theo thống kê hiện nay,
83% dân số Ấn Độ theo đạo Hinđu còn theo đạo Phật thì chưa đầy 1% dân
số.
-
Vào thế kỷ VI TCN, đạo Phật - một trong những tôn giáo lớn nhất của nhân
loại, đã ra đời Ấn Độ. Người sáng lập ra tôn giáo này Sitđạtta Gôtama,
hiệu Sakia Muni (Thích Ca Mâuni) Sakia: tên thị tộc, bộ lạc Phật xuất
hiện, Muni: Thánh → Sakia Muni: Thánh của tộc Sakia.
-
Đạo Phật ra đời ở Đông Bắc Ấn Độ, ở chân núi Himalaya, (nay là Nêpan).
-
Đạo Phật ra đời trong hoàn cảnh đạo Bàlamôn chế độ đẳng cấp Vácna đang
thịnh hành, những mâu thuẫn trong lòng hội rất sâu sắc, đó mâu thuẫn
giữa quảng đại quần chúng nhân dân với hai đẳng cấp trên và mâu thuẫn giữa
quý tộc Ksatơrya với Bàlamôn. lúc này, đẳng cấp Ksatơrya đã nắm chính
quyền, thế lực về kinh tế, chính trị, nhưng địa vị hội vẫn thấp hơn
Bàlamôn nên họ đấu tranh chống lại đẳng cấp Bàlamôn.
-
Niên đại của đạo Phật có nhiều ý kiến, trong đó có 3 ý kiến cơ bản:
563 – 483 TCN
560 – 480 TCN
624 – 544 TCN
-
Theo truyền thuyết, đức Phật Thích Ca người sáng lập ra đạo Phật, tuy nhiên
giáo nhà Phật cho rằng Thích Ca không phải là đức Phật duy nhất. Theo
tiếng Phạn, Buddha nghĩa “Đấng giác ngộ”. Phật Thích Ca chỉ một
trong những đấng giác ngộ đó, nhưng là một đức Phật chí tôn có thực
trong lịch sử. Cuộc đời của Phật Thích Ca chủ yếu được biết đến qua một số
kinh truyện Phật thoại, trong đó, bên ngoài cái nhân lõi lịch sử thực
một vầng hào quang của những truyền thuyết và huyền thoại.
Phật Thích Ca tên thật Sitđatta Gôtama, sinh năm 563 TCN, hoàng tử của
bộ tộc Xakya (Thích Ca), thủ đô thành Kapilavatstu (ngày nay biên giới
giáp Nêpan, đông bắc Ấn Độ). Mẹ Sítđatta hoàng hậu Maya xinh đẹp, hiền dịu
và thông minh. Sítđạtta thuộc dòng dõi đẳng cấp vũ sĩ Ksatơrya.
Theo kinh Phật truyền lại thì Gautama năm 29 tuổi đã chán ghét cuộc đời đầy những cảnh
“sinh, lão, bệnh, tử”, nên đã rời bỏ cung điện của vua cha ra đi tìm con đường giải thoát
cho chính mình và cho cả “chúng sinh”. Sau nhiều năm tu hành khổ hạnh và sống ẩn dật,
ông đã tìm ra con đường giải thoát và từ đó được gọi là Buddha (tức Phật), có nghĩa là
“người đã được giác ngộ về chân lý”. Sau đó, ông đi khắp miền trung du sông Hằng trong
hơn 40 năm trời để truyền bá giáo lý mới của ông, mà về sau người ta gọi là đạo Phật
(Buddhism).
Ngay sau sự ra đời của Phật giáo Ấn Độ cổ đại, số người theo đạo tăng lên rất nhanh, đặc
biệt là tầng lớp dân nghèo bị áp bức. Đạo Phật được hoan nghênh vì nó tuyên truyền sự
“bình đẳng giữa các chúng sinh”, kỳ thật là sự bình đẳng về tinh thần giữa những người
dân tự do mà thôi. Tầng lớp thị dân giàu có và một bộ phận quý tộc Kshatriya cũng ưa
thích đạo Phật ở chỗ lễ nghi của nó đơn giản, không tốn kém, không đòi hỏi phải tế lễ, hy
sinh gì. Mặc dầu đạo Phật không hề kêu gọi xóa bỏ chế độ chủng tính nhưng giáo lý của
nó mở đường giải thoát về tinh thần cho tất cả mọi người bị đè nén, tức là gián tiếp phản
đối đạo Bà La Môn chủ trương bạo lực và duy trì cách biệt chủng tính.
Điểm hạn chế của đạo Phật đó là có phần xa rời thực tế cuộc sống, phủ định đấu tranh
giai cấp, do đó rất phù hợp với mong muốn của tầng lớp Kshatriya đang nắm chính quyền
thời bấy giờ. Thái độ thờ ơ, nhẫn nhục, vô vi mà đạo Phật tuyên truyền, đã bị giai cấp quý
tộc chủ nô lợi dụng để củng cố nền thống trị của họ đối với người dân bị áp bức. Hơn
nữa, theo giáo lý đạo Phật, thành phần xuất thân từ chủng tính cao quý Bà La Môn không
có ý nghĩa quan trọng của nó nữa. Điều quan trọng lúc này là chiếm hữu nhiều của cải
nô lệ. Bởi vậy khuynh hướng của đạo Phật chống tăng lữ Bà La Môn là hoàn toàn phù
hợp với lợi ích của giai cấp quý tộc chủ nô thời bấy giờ nói chung. Ngoài ra, đạo Phật với
tính cách là một tôn giáo không liên hệ với các thứ tín ngưỡng tôn giáo của các bộ lạc địa
phương, có thể là một cơ sở tư tưởng thích hợp cho xu hướng thống nhất của các quốc gia
chiếm hữu nô lệ lớn đang hình thành.
Câu thực hành: Ai Cập
CHỮ VIẾT CỦA NGƯỜI AI CẬP
Ít có lịch sử nước nào sánh được với lịch sử Ai Cập về mức độ được quan tâm. Một
người, dù thuộc chủng tộc nào, văn hóa nào cũng không khỏi bị lôi cuốn bởi những kim
tự tháp bên trong có bảo vật, mê hồn trận và những hàng chữ tượng hình, tuy đã được
giải mã, nhưng vẫn còn đượm nhiều huyền bí. Ai Cập cổ đại 3000 năm trước còn được
biết như Đất nước của các pharaon. Ai Cập là một trong những nền văn minh sớm nhất
của nền văn minh nhân loại, một trong những tiêu biểu của nền văn minh Ai Cập phải kể
đến đó là chữ viết.
Chữ viết Ai Cập ra đời khi hội hình thành giai cấp. Đó chữ tượng hình.
Đối với các khái niệm phức tạp và trừu tượng, người ta dùng phương pháp mượn ý.
Tuy nhiên, hai phương pháp này chưa đủ để ghi mọi khái niệm của cuộc sống nên
dần dần xuất hiện những hình vẽ biểu hiện âm tiết. Lâu dần, những chữ chỉ âm tiết
trở thành chữ cái. Tổng số chữ tượng hình của Ai Cập cổ đại khoảng 1000 chữ,
trong đó có 24 chữ cái. Loại chữ này được dùng trong hơn 3000 năm.
Chữ viết cổ này thường được viết trên đá, gỗ, đồ gốm, vải gai, da… nhưng chất
liệu phổ biến nhất là giấy papyrus. Bút được làm từ thân cây sậy. Mực được làm từ
bồ hóng.
Papyrus - cầu nối giữa Ai Cập cổ đại và thế giới hiện đại
Dấu tích lịch sử, kho tàng kiến thức của nền văn minh Ai Cập cổ đại được
khắc ghi trên trang giấy papyrus, đơn sơ nhưng lại chẳng sợ vết thời gian. Cây
papyrus đã trở thành biểu tượng của văn hóa, tâm linh và lịch sử của xã hội Ai Cập
cổ đại, cũng như di sản đáng quý của đất nước Ai Cập hiện đại.
Cây papyrus là một trong những loài thực vật cổ xưa nhất được loài người biết
đến và Ai Cập được coi là nơi xuất xứ của loài cây này. Cây papyrus mọc trong các
vùng đầm lầy ở hai bên bờ sông Nile, dựa vào phù sa của sông Nile bồi đắp để nuôi
dưỡng phát triển. Tài liệu lâu đời nhất được ghi nhận về sự xuất hiện của loài cây
papyrus của nhà sử học Hy Lạp Herodotus, vào năm 450 trước Công nguyên
(TCN): “Cây papyrus mọc lên từ các vùng đầm lầy, phần thân thì được cắt và xử lý
thành các sản phẩm khác nhau, phần thân rễ dưới thì dùng để ăn hoặc bán”.
Tháng 11 hằng năm, sau khi nước sông Nin rút đi, từ những gò đất phù sa này
sẽ nổi lên từ dòng nước cùng cây papyrus. Vì thế, papyrus là biểu tượng của sự sinh
sôi, tái sinh, mầm mống của sự sáng tạo. Với ý nghĩa linh thiêng đó, người Ai Cập
cổ đại đã sử dụng papyrus như tấm bùa hộ mệnh, trong đám tang, khi ướp xác hay
trên bức vẽ trong các ngôi đền. Bùa hộ mệnh làm tcây papyrus được đeo quanh cổ,
khâu trên khăn bọc xác ướp, hoặc đặt bên dưới đầu xác ướp để giúp người đã khuất
có được hơi ấm như khi còn sống dù đã bước chân sang thế giới bên kia.
Các bức vẽ trên tường nhiều lăng mộ cho thấy giấy papyrus được sử dụng trong
các buổi làm lễ hay trong nghi thức tang lễ. Những người phục vụ trong buổi lễ
thường mang theo những thân cây papyrus như một lễ vật dâng lên các vị thần.
Có ý kiến cho rằng khi nghĩ đến Ai Cập, người ta nghĩ ngay đến giấy papyrus.
Những người Ai Cập cổ đại đã phát minh giấy papyrus từ rất lâu, lâu đến mức con
người chưa thể xác định chính xác thời điểm. Người Ai Cập cổ đại đã phát hiện giá
trị sử dụng của cây papyrus trong đời sống hàng ngày. Không chỉ nguyên liệu
chính trong sản xuất giấy papyrus, cây papyrus còn rất nhiều công dụng khác
trong đời sống hàng ngày của người Ai Cập cổ đại. Papyrus còn được bện làm dây
thừng, lưới đánh cá, thậm chí thuyền hoặc các chi tiết trang trí trên thuyền. Tại
các hộ gia đình, papyrus có thể được dùng làm củi đun nấu, đan thành các vật dụng
hằng ngày như túi đựng, nút chai, ga giường, thảm, rèm, dép…
Thân dưới và rễ cây có thể ăn sống hoặc nướng. Người ta có thể nhai thân cây
papyrus, nuốt lấy nước và sau đó nhả như kẹo cao su vậy. Trong lĩnh vực y học,
tro cây papyrus khô được dùng để chữa bệnh về da (ăn da, vết chai…) hay ngăn nhiệt
miệng phát triển.
Phần lớn lịch sử của Ai Cập thế giới cổ đại đến với thế giới hiện đại qua
những thông tin được viết trên giấy papyrus cùng với những “nét khắc thiêng liêng
trên vách đá lăng mộ các Pharaong.
Việc sử dụng giấy papyrus từ Vương triều thứ I, năm 3100 TCN được ghi lại
trên các bức bích họa dưới hình một cuộn giấy, đồng thời được coi hình ảnh của
một cuốn sách.
Vậy giấy papyrus đã được người Ai Cập cổ đại sản xuất như thế nào?
Đầu tiên, hkéo thân cây papyrus khỏi đầm lầy, buộc thành từng bó mang
về xưởng chế biến. Sau đó, thân cây được cắt thành lát mỏng, ngâm nước nhiều ngày
để làm mềm. Cuối cùng, các lát được xếp thành lớp, ép hết nước tăng cường độ
kết dính.
Giấy papyrus được phơi khô, thể được dán để tăng độ dài tùy thuộc vào mục
đích sử dụng. Giấy papyrus cổ được tìm thấy nhiều nơi, nhưng chủ yếu trong các
lăng mộ.
Trong cuộc khai quật năm 1903-1920 tại làng Deir al Medina (nơi của của
những người làm việc cho các lăng mộ trong Thung lũng các vị vua), thuộc thành
phố Thebes (nay Luxor) do nhà Ai Cập học người Italy Ernesto Schiaparelli dẫn
đầu, các nhà sử học đã tìm thấy 16 mét giấy papyrus, được biết đến “Cuốn sách
của người chết” trên lăng mộ của người thợ chính Kha vợ Merit (được y
dựng khoảng năm 1386-1349 TCN).
Đây là một tài liệu tôn giáo cổ của người Ai Cập, tên gọi khác là “Sách hướng
tới ánh sáng” hay “Tthư”, tập hợp bùa chú, phép thuật được ghi lại để giúp linh
hồn người chết sang thế giới bên kia thông qua “Cửa Âm phủ”. Cuốn sách do nhiều
thầy tư tế viết trong khoảng thời gian 1.000 năm.
Ban đầu, cuốn sách này được khắc bằng chữ tượng hình trong các khu lăng m
kim tự tháp và chỉ phục vụ cho các Pharaoh.
Tuy nhiên, đến thời kỳ Tân Vương quốc (1550-1352 TCN), cuốn sách này đã
được các thầy tế chép lại trên giấy papyrus sử dụng cho cả hoàng thân, các
quan chức và tầng lớp thượng lưu.
Tử thư sẽ được đọc trong suốt quá trình ướp xác và để lại trong lăng mộ người
chết.
Chữ tượng hình đóng một vai trò quan trọng trong việc thực hiện nhiều nhiệm vụ của
hoàng gia và được sử dụng bởi các pharaoh quyền lực của Ai Cập và các kinh sư để ghi
lại những thành tựu trong triều đại của họ. Ngày nay, hàng triệu chữ tượng hình được lưu
giữ trong các văn bản thiêng liêng, quan tài, lăng mộ và tượng đài là minh chứng cho quá
khứ hoàng kim của Ai Cập.

Preview text:

PHẬT GIÁO+ AI CẬP LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
Câu lý thuyết: Sự ra đời của Phật giáo ở Ấn Độ cổ đại:
- Quê hương của đạo Phật là đất nước Ấn Độ cổ đại, ra đời ở một miền đất nhỏ
ở vùng biên giới đông bắc Ấn Độ, từ trên 2600 năm nay, đạo Phật đã truyền
bá khắp đất nước này và đi tới hầu hết các nước vùng Đông Á và Đông Nam
Á, thu hút hàng trăm triệu tín đồ, trở thành một trong những tôn giáo lớn nhất của loài người.
- Tuy nhiên như một nghịch lý, trong khi đạo Phật có những ảnh hưởng rất
sau rộng ở bên ngoài Ấn Độ, thì tại quê hương của mình, vị trí của đạo Phật
ngày càng thu hẹp trước sự mở rộng của đạo Hinđu. Theo thống kê hiện nay,
83% dân số Ấn Độ theo đạo Hinđu còn theo đạo Phật thì chưa đầy 1% dân số.
- Vào thế kỷ VI TCN, đạo Phật - một trong những tôn giáo lớn nhất của nhân
loại, đã ra đời ở Ấn Độ. Người sáng lập ra tôn giáo này là Sitđạtta Gôtama,
hiệu là Sakia Muni (Thích Ca Mâuni) – Sakia: tên thị tộc, bộ lạc Phật xuất
hiện, Muni: Thánh → Sakia Muni: Thánh của tộc Sakia.
- Đạo Phật ra đời ở Đông Bắc Ấn Độ, ở chân núi Himalaya, (nay là Nêpan).
- Đạo Phật ra đời trong hoàn cảnh đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp Vácna đang
thịnh hành, những mâu thuẫn trong lòng xã hội rất sâu sắc, đó là mâu thuẫn
giữa quảng đại quần chúng nhân dân với hai đẳng cấp trên và mâu thuẫn giữa
quý tộc Ksatơrya với Bàlamôn. Vì lúc này, đẳng cấp Ksatơrya đã nắm chính
quyền, có thế lực về kinh tế, chính trị, nhưng địa vị xã hội vẫn thấp hơn
Bàlamôn nên họ đấu tranh chống lại đẳng cấp Bàlamôn.
- Niên đại của đạo Phật có nhiều ý kiến, trong đó có 3 ý kiến cơ bản: 563 – 483 TCN 560 – 480 TCN 624 – 544 TCN
- Theo truyền thuyết, đức Phật Thích Ca là người sáng lập ra đạo Phật, tuy nhiên
giáo lý nhà Phật cho rằng Thích Ca không phải là đức Phật duy nhất. Theo
tiếng Phạn, Buddha có nghĩa là “Đấng giác ngộ”. Phật Thích Ca chỉ là một
trong những đấng giác ngộ đó, nhưng là một đức Phật chí tôn có thực
trong lịch sử. Cuộc đời của Phật Thích Ca chủ yếu được biết đến qua một số
kinh truyện và Phật thoại, trong đó, bên ngoài cái nhân lõi lịch sử có thực là
một vầng hào quang của những truyền thuyết và huyền thoại.
Phật Thích Ca tên thật là Sitđatta Gôtama, sinh năm 563 TCN, là hoàng tử của
bộ tộc Xakya (Thích Ca), có thủ đô là thành Kapilavatstu (ngày nay ở biên giới
giáp Nêpan, đông bắc Ấn Độ). Mẹ Sítđatta là hoàng hậu Maya xinh đẹp, hiền dịu
và thông minh. Sítđạtta thuộc dòng dõi đẳng cấp vũ sĩ Ksatơrya.
Theo kinh Phật truyền lại thì Gautama năm 29 tuổi đã chán ghét cuộc đời đầy những cảnh
“sinh, lão, bệnh, tử”, nên đã rời bỏ cung điện của vua cha ra đi tìm con đường giải thoát
cho chính mình và cho cả “chúng sinh”. Sau nhiều năm tu hành khổ hạnh và sống ẩn dật,
ông đã tìm ra con đường giải thoát và từ đó được gọi là Buddha (tức Phật), có nghĩa là
“người đã được giác ngộ về chân lý”. Sau đó, ông đi khắp miền trung du sông Hằng trong
hơn 40 năm trời để truyền bá giáo lý mới của ông, mà về sau người ta gọi là đạo Phật (Buddhism).
Ngay sau sự ra đời của Phật giáo Ấn Độ cổ đại, số người theo đạo tăng lên rất nhanh, đặc
biệt là tầng lớp dân nghèo bị áp bức. Đạo Phật được hoan nghênh vì nó tuyên truyền sự
“bình đẳng giữa các chúng sinh”, kỳ thật là sự bình đẳng về tinh thần giữa những người
dân tự do mà thôi. Tầng lớp thị dân giàu có và một bộ phận quý tộc Kshatriya cũng ưa
thích đạo Phật ở chỗ lễ nghi của nó đơn giản, không tốn kém, không đòi hỏi phải tế lễ, hy
sinh gì. Mặc dầu đạo Phật không hề kêu gọi xóa bỏ chế độ chủng tính nhưng giáo lý của
nó mở đường giải thoát về tinh thần cho tất cả mọi người bị đè nén, tức là gián tiếp phản
đối đạo Bà La Môn chủ trương bạo lực và duy trì cách biệt chủng tính.
Điểm hạn chế của đạo Phật đó là có phần xa rời thực tế cuộc sống, phủ định đấu tranh
giai cấp, do đó rất phù hợp với mong muốn của tầng lớp Kshatriya đang nắm chính quyền
thời bấy giờ. Thái độ thờ ơ, nhẫn nhục, vô vi mà đạo Phật tuyên truyền, đã bị giai cấp quý
tộc chủ nô lợi dụng để củng cố nền thống trị của họ đối với người dân bị áp bức. Hơn
nữa, theo giáo lý đạo Phật, thành phần xuất thân từ chủng tính cao quý Bà La Môn không
có ý nghĩa quan trọng của nó nữa. Điều quan trọng lúc này là chiếm hữu nhiều của cải và
nô lệ. Bởi vậy khuynh hướng của đạo Phật chống tăng lữ Bà La Môn là hoàn toàn phù
hợp với lợi ích của giai cấp quý tộc chủ nô thời bấy giờ nói chung. Ngoài ra, đạo Phật với
tính cách là một tôn giáo không liên hệ với các thứ tín ngưỡng tôn giáo của các bộ lạc địa
phương, có thể là một cơ sở tư tưởng thích hợp cho xu hướng thống nhất của các quốc gia
chiếm hữu nô lệ lớn đang hình thành.
Câu thực hành: Ai Cập
CHỮ VIẾT CỦA NGƯỜI AI CẬP
Ít có lịch sử nước nào sánh được với lịch sử Ai Cập về mức độ được quan tâm. Một
người, dù thuộc chủng tộc nào, văn hóa nào cũng không khỏi bị lôi cuốn bởi những kim
tự tháp bên trong có bảo vật, mê hồn trận và những hàng chữ tượng hình, tuy đã được
giải mã, nhưng vẫn còn đượm nhiều huyền bí. Ai Cập cổ đại 3000 năm trước còn được
biết như Đất nước của các pharaon. Ai Cập là một trong những nền văn minh sớm nhất
của nền văn minh nhân loại, một trong những tiêu biểu của nền văn minh Ai Cập phải kể đến đó là chữ viết.
Chữ viết Ai Cập ra đời khi xã hội hình thành giai cấp. Đó là chữ tượng hình.
Đối với các khái niệm phức tạp và trừu tượng, người ta dùng phương pháp mượn ý.
Tuy nhiên, hai phương pháp này chưa đủ để ghi mọi khái niệm của cuộc sống nên
dần dần xuất hiện những hình vẽ biểu hiện âm tiết. Lâu dần, những chữ chỉ âm tiết
trở thành chữ cái. Tổng số chữ tượng hình của Ai Cập cổ đại có khoảng 1000 chữ,
trong đó có 24 chữ cái. Loại chữ này được dùng trong hơn 3000 năm.
Chữ viết cổ này thường được viết trên đá, gỗ, đồ gốm, vải gai, da… nhưng chất
liệu phổ biến nhất là giấy papyrus. Bút được làm từ thân cây sậy. Mực được làm từ bồ hóng.
Papyrus - cầu nối giữa Ai Cập cổ đại và thế giới hiện đại
Dấu tích lịch sử, kho tàng kiến thức của nền văn minh Ai Cập cổ đại được
khắc ghi trên trang giấy papyrus, đơn sơ nhưng lại chẳng sợ vết thời gian. Cây
papyrus đã trở thành biểu tượng của văn hóa, tâm linh và lịch sử của xã hội Ai Cập
cổ đại, cũng như di sản đáng quý của đất nước Ai Cập hiện đại.
Cây papyrus là một trong những loài thực vật cổ xưa nhất được loài người biết
đến và Ai Cập được coi là nơi xuất xứ của loài cây này. Cây papyrus mọc trong các
vùng đầm lầy ở hai bên bờ sông Nile, dựa vào phù sa của sông Nile bồi đắp để nuôi
dưỡng và phát triển. Tài liệu lâu đời nhất được ghi nhận về sự xuất hiện của loài cây
papyrus là của nhà sử học Hy Lạp Herodotus, vào năm 450 trước Công nguyên
(TCN): “Cây papyrus mọc lên từ các vùng đầm lầy, phần thân thì được cắt và xử lý
thành các sản phẩm khác nhau, phần thân rễ dưới thì dùng để ăn hoặc bán”.
Tháng 11 hằng năm, sau khi nước sông Nin rút đi, từ những gò đất phù sa này
sẽ nổi lên từ dòng nước cùng cây papyrus. Vì thế, papyrus là biểu tượng của sự sinh
sôi, tái sinh, là mầm mống của sự sáng tạo. Với ý nghĩa linh thiêng đó, người Ai Cập
cổ đại đã sử dụng papyrus như tấm bùa hộ mệnh, trong đám tang, khi ướp xác hay
trên bức vẽ trong các ngôi đền. Bùa hộ mệnh làm từ cây papyrus được đeo quanh cổ,
khâu trên khăn bọc xác ướp, hoặc đặt bên dưới đầu xác ướp để giúp người đã khuất
có được hơi ấm như khi còn sống dù đã bước chân sang thế giới bên kia.
Các bức vẽ trên tường nhiều lăng mộ cho thấy giấy papyrus được sử dụng trong
các buổi làm lễ hay trong nghi thức tang lễ. Những người phục vụ trong buổi lễ
thường mang theo những thân cây papyrus như một lễ vật dâng lên các vị thần.
Có ý kiến cho rằng khi nghĩ đến Ai Cập, người ta nghĩ ngay đến giấy papyrus.
Những người Ai Cập cổ đại đã phát minh giấy papyrus từ rất lâu, lâu đến mức con
người chưa thể xác định chính xác thời điểm. Người Ai Cập cổ đại đã phát hiện giá
trị sử dụng của cây papyrus trong đời sống hàng ngày. Không chỉ là nguyên liệu
chính trong sản xuất giấy papyrus, cây papyrus còn có rất nhiều công dụng khác
trong đời sống hàng ngày của người Ai Cập cổ đại. Papyrus còn được bện làm dây
thừng, lưới đánh cá, thậm chí là thuyền hoặc các chi tiết trang trí trên thuyền. Tại
các hộ gia đình, papyrus có thể được dùng làm củi đun nấu, đan thành các vật dụng
hằng ngày như túi đựng, nút chai, ga giường, thảm, rèm, dép…
Thân dưới và rễ cây có thể ăn sống hoặc nướng. Người ta có thể nhai thân cây
papyrus, nuốt lấy nước và sau đó nhả bã như kẹo cao su vậy. Trong lĩnh vực y học,
tro cây papyrus khô được dùng để chữa bệnh về da (ăn da, vết chai…) hay ngăn nhiệt miệng phát triển.
Phần lớn lịch sử của Ai Cập và thế giới cổ đại đến với thế giới hiện đại qua
những thông tin được viết trên giấy papyrus cùng với những “nét khắc thiêng liêng”
trên vách đá lăng mộ các Pharaong.
Việc sử dụng giấy papyrus từ Vương triều thứ I, năm 3100 TCN được ghi lại
trên các bức bích họa dưới hình một cuộn giấy, đồng thời được coi là hình ảnh của một cuốn sách.
Vậy giấy papyrus đã được người Ai Cập cổ đại sản xuất như thế nào?
Đầu tiên, họ kéo thân cây papyrus khỏi đầm lầy, buộc thành từng bó và mang
về xưởng chế biến. Sau đó, thân cây được cắt thành lát mỏng, ngâm nước nhiều ngày
để làm mềm. Cuối cùng, các lát được xếp thành lớp, ép hết nước và tăng cường độ kết dính.
Giấy papyrus được phơi khô, có thể được dán để tăng độ dài tùy thuộc vào mục
đích sử dụng. Giấy papyrus cổ được tìm thấy ở nhiều nơi, nhưng chủ yếu trong các lăng mộ.
Trong cuộc khai quật năm 1903-1920 tại làng Deir al Medina (nơi ở của của
những người làm việc cho các lăng mộ trong Thung lũng các vị vua), thuộc thành
phố Thebes (nay là Luxor) do nhà Ai Cập học người Italy Ernesto Schiaparelli dẫn
đầu, các nhà sử học đã tìm thấy 16 mét giấy papyrus, được biết đến là “Cuốn sách
của người chết” trên lăng mộ của người thợ chính Kha và vợ là Merit (được xây
dựng khoảng năm 1386-1349 TCN).
Đây là một tài liệu tôn giáo cổ của người Ai Cập, tên gọi khác là “Sách hướng
tới ánh sáng” hay “Tử thư”, tập hợp bùa chú, phép thuật được ghi lại để giúp linh
hồn người chết sang thế giới bên kia thông qua “Cửa Âm phủ”. Cuốn sách do nhiều
thầy tư tế viết trong khoảng thời gian 1.000 năm.
Ban đầu, cuốn sách này được khắc bằng chữ tượng hình trong các khu lăng mộ
kim tự tháp và chỉ phục vụ cho các Pharaoh.
Tuy nhiên, đến thời kỳ Tân Vương quốc (1550-1352 TCN), cuốn sách này đã
được các thầy tư tế chép lại trên giấy papyrus và sử dụng cho cả hoàng thân, các
quan chức và tầng lớp thượng lưu.
Tử thư sẽ được đọc trong suốt quá trình ướp xác và để lại trong lăng mộ người chết.
Chữ tượng hình đóng một vai trò quan trọng trong việc thực hiện nhiều nhiệm vụ của
hoàng gia và được sử dụng bởi các pharaoh quyền lực của Ai Cập và các kinh sư để ghi
lại những thành tựu trong triều đại của họ. Ngày nay, hàng triệu chữ tượng hình được lưu
giữ trong các văn bản thiêng liêng, quan tài, lăng mộ và tượng đài là minh chứng cho quá
khứ hoàng kim của Ai Cập.