TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA QUẢN TRỊ NHÂN LỰC
BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
ĐỀ TÀI: LỢI ÍCH KINH TẾ VÀ VAI TRÒ CỦA LỢI ÍCH KINH TẾ VÀ LIÊN HỆ
THỰC TIỄN VIỆT NAM.
Nhóm : 01
Lớp học phần : 242_RLCP1211_41
Giáo viên hướng dẫn : Tống Thế Sơn
1
DANH SÁCH THÀNH VIÊN
STT HỌ TÊN MÃ SV ĐÁNH GIÁ
1Vũ Hà An 23D210189
2Nguyễn Mai Anh 23D210191
3Vũ Quang Anh 23D210051
4Đỗ Thị Ánh – Thư ký 23D210192
5Vũ Minh Ánh – Nhóm trưởng 23D210193
6Bùi Gia Bình 23D210007
7Phùng Thị Ngọc Châm 23D210148
8Bùi Ngọc Quỳnh Châu 23D210194
9Lê Văn Dũng 23D210055
10 Nguyễn Xuân Dũng 23D210101
2
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................................4
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT.........................................................................................5
1.1. Lợi ích kinh tế.......................................................................................................5
1.1.1. Khái niệm lợi ích kinh tế.................................................................................5
1.1.2 Bản chất và biểu hiện của lợi ích kinh tế..........................................................5
1.1.3 Vai trò của lợi ích kinh tế..................................................................................5
1.2. Quan hệ lợi ích kinh tế..........................................................................................6
1.2.1. Khái niệm quan hệ lợi ích kinh tế....................................................................6
1.2.2. Sự thống nhất và mâu thuẫn trong các quan hệ lợi ích kinh tế.........................6
1.2.3. Một số quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản..............................................................7
1.2.4. Phương thức thực hiện lợi ích kinh tế trong các quan hệ lợi ích chủ yếu.........9
PHẦN 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ TẠI VIỆT NAM. .10
2.1. Quá trình phát triển lợi ích kinh tế ở Việt Nam................................................10
2.2. Thực trạng và các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam
.....................................................................................................................................11
2.2.1. Thực trạng quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam..............................................11
2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam....................14
2.3. Vai trò của Nhà Nước trong điều hoà quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam......18
2.3.1. Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tìm kiếm lợi
ích của các chủ thể kinh tế.......................................................................................19
2.3.2. Điều hòa lợi ích giữa cá nhân – doanh nghiệp – xã hội..................................20
2.3.3. Kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực đối với sự
phát triển xã hội.......................................................................................................22
2.3.4. Giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế............................23
PHẦN KẾT LUẬN..........................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................26
3
4
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong bất kỳ nền kinh tế nào, lợi ích kinh tế luôn yếu tố quan trọng thúc đẩy sự
phát triển điều phối các hoạt động sản xuất, kinh doanh, phân phối tiêu dùng. Lợi
ích kinh tế không chỉ ảnh hưởng đến các chủ thể như cá nhân, doanh nghiệp mà còn đóng
vai trò quyết định đến sự ổn định và phát triển của cả nền kinh tế quốc gia. Việc cân bằng
lợi ích giữa các nhóm chủ thể là một trong những nhiệm vụ quan trọng để đảm bảo sự hài
hòa trong xã hội và thúc đẩy sự phát triển bền vững.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà nước
giữ vai trò quan trọng trong việc quản điều tiết nền kinh tế. Không chỉ đóng vai trò
giám sát, Nhà nước còn trực tiếp tham gia vào quá trình phân phối lợi ích thông qua các
chính sách tài khóa, tiền tệ, thuế khóa, đầu công trợ cấp. Điều này nhằm bảo đảm
lợi ích của các nhóm yếu thế, thúc đẩy công bằng xã hội và duy trì sự ổn định kinh tế - xã
hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị
trường, Nhà nước cũng phải đối mặt với nhiều thách thức trong việc cân đối lợi ích giữa
các thành phần kinh tế, đảm bảo không có sự chênh lệch quá lớn dẫn đến bất ổn hoặc ảnh
hưởng tiêu cực đến sự phát triển chung.
Với mục tiêu làm vai trò của Nhà nước trong điều hòa lợi ích kinh tế, bài thảo
luận này sẽ tập trung phân tích các khía cạnh luận về lợi ích kinh tế, đồng thời liên hệ
thực tiễn ở Việt Nam nhằm làm nổi bật sự cần thiết của Nhà nước trong việc đảm bảo lợi
ích chung, góp phần ổn định và phát triển kinh tế đất nước.
5
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Lợi ích kinh tế
1.1.1. Khái niệm lợi ích kinh tế
Lợi ích sự thỏa mãn nhu cầu của con người sự thỏa mãn nhu cầu này phải
được nhận thức và đặt trong mối quan hệ xã hội ứng với trình độ phát triển nhất định của
nền sản xuất hội đó. Tuỳ từng bối cảnh vai trò quyết định đối với hoạt động của
con ngườilợi ích vật chất hay lợi ích tinh thần. Nhưng xuyên suốt quá trình tồn tại của
con người đời sống hội thì lợi ích vật chất đóng vai trò quyết định thúc đẩy hoạt
động của mỗi cá nhân, tổ chức cũng như xã hội
Lợi ích kinh tế lợi ích vật chất lợi ích thu được khi thực hiện các hoạt động
kinh tế con người.
1.1.2 Bản chất và biểu hiện của lợi ích kinh tế
Bản chất: Lợi ích kinh tế phản ánh mục đích động của các quan hệ giữa các
chủ thể trong nền sản xuất xã hội. Các thành viên trong xã hội xác lập các quan hệ kinh tế
với nhau vì trong quan hệ đó hàm chứa những lợi ích kinh tế họ thể được. Các
quan hệ hội luôn mang tính lịch sử, do vậy, lợi ích kinh tế trong mỗi giai đoạn cũng
phản ánh bản chất xã hội của giai đoạn lịch sử đó.
Biểu hiện: Gắn với các chủ thể khác nhau những lợi ích tương ứng: lợi ích của
chủ doanh nghiệp trước hết lợi nhuận, lợi ích của người lao động thu nhập. Tất
nhiên, với mỗi nhân, trong các mối quan hệ hội tổng hợp gắn với con người đó,
mặc có khi thực hiện hoạt động kinh tế, trong nhất thời, không phải luôn đặt mục tiêu
lợi ích vật chất lên hàng đầu. Song, về lâu dài, đã tham gia vào hoạt động kinh tế thì lợi
ích kinh tế lợi ích quyết định. Nếu không thấy được vai trò này của lợi ích kinh tế sẽ
làm suy giảm động lực hoạt động của các cá nhân. Khi đề cập tới phạm trù lợi ích kinh tế,
nghĩa rằng lợi ích đó được xác lập trong quan hệ nào, vai trò của các chủ thể trong
quan hệ đó thể hiện chủ thể đó biểu hiện như thế nào. thể nói, trong nền kinh tế thị
trường, đâu hoạt động sản xuất kinh doanh, lao động đó quan hệ lợi ích lợi
ích kinh tế.
1.1.3 Vai trò của lợi ích kinh tế
vLợi ích kinh tế là động lực trực tiếp của các chủ thể và hoạt động kinh tế xã hội
Trong kinh tế thị trường, để thoả mãn nhu cầu, cần phải thu nhập. Thu nhập
càng cao, phương thức, mức độ thỏa mãn nhu cầu càng tốt. vậy, mọi chủ thể kinh tế
đều tìm cách nâng cao thu nhập, bảo đảm lợi ích kinh tế của mình. Thực hiện lợi ích kinh
6
tế của các giai tầng hội, đặc biệt của người dân vừa là cơ sở bảo đảm cho sự ổn định
phát triển hội, vừa biểu hiện của sự phát triển. Theo đuổi lợi ích kinh tế chính
đáng của mình, các chủ thể kinh tế đã đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế.
vLợi ích kinh tế là cơ sở thúc đẩy sự phát triển các lợi ích khác:
Mọi vận động của lịch sử, dưới hình thức nào, xét đến cùng, đều xoay quanh vấn
đề lợi ích,trước hết lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế được thực hiện sẽ tạo điều kiện
vật chất cho sự hình thành và thực hiện lợi ích chính trị, lợi ích xã hội, lợi ích văn hóa của
các chủ thể xã hội. Lợi ích kinh tế mang tính khách quan và là động lực mạnh mẽ để phát
triển kinh tế-xã hội. C. Mác đã chỉ rõ: “Cội nguồn phát triển của xã hội không phải là quá
trình nhận thức, mà là các quan hệ của đời sống vật chất, tức là các lợi ích kinh tế của con
người”. Điều cần lưu ý là, chỉ khi có sự đồng thuận, thống nhất giữa các lợi ích kinh tế thì
lợi ích kinh tế mới thực hiện được vai trò của mình. Ngược lại, việc theo đuổi những lợi
ích kinh tế không chính đáng, không hợp lý, không hợp pháp sẽ trở thành trở ngại cho s
phát triển
1.2. Quan hệ lợi ích kinh tế
1.2.1. Khái niệm quan hệ lợi ích kinh tế
Quan hệ lợi ích kinh tế sự thiết lập những tương tác giữa con người với con
người, giữa các cộng đồng người, giữa các tổ chức kinh tế, giữa các bộ phận hợp thành
nền kinh tế, giữa con người với tổ chức kinh tế, giữa quốc gia với phần còn lại của thế
giới nhằm mục tiêu xác lập các lợi ích kinh tế trong mối liên hệ với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất kiến trúc thượng tầng tương ứng của một giai đoạn phát triển
xã hội nhất định
1.2.2. Sự thống nhất và mâu thuẫn trong các quan hệ lợi ích kinh tế
- Sự thống nhất trong quan hệ lợi ích kinh tế
Chúng thống nhất với nhau một chủ thể thể trở thành bộ phận cấu
thành của chủ thể khác. Do đó, lợi ích của chủ thể này được thực hiện thì
lợi ích của chủ thể khác cũng trực tiếp hoặc gián tiếp được thực hiện.
Khi các chủ thể kinh tế hành động mục tiêu chung hoặc các mục tiêu
thống nhất với nhau thì các lợi ích kinh tế của các chủ thể đó thống nhất với
nhau.
- Sự mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế.
7
Các quan hệ lợi ích kinh tế mâu thuẫn với nhau vì các chủ thể kinh tế có thể
hành động theo những phương thức khác nhau để thực hiện các lợi ích của
mình. Sự khác nhau đó đến mức đối lập thì trở thành mâu thuẫn.
Khi có mâu thuẫn thì việc thực hiện lợi ích này có thể sẽ ngăn cản, thậm chí
làm tổn hại đến các lợi ích khác. Mâu thuẫn về lợi ích kinh tế cội nguồn
của các xung đột xã hội.
dụ: lợi ích của mình, các nhân doanh nghiệp thể làm hàng giả, buôn
lậu, trốn thuế, thì lợi ích của nhân, doanh nghiệp lợi ích của hội mâu thuẫn
với nhau. Khi đó, chủ doanh nghiệp càng thu được nhiều lợi nhuận, lợi ích kinh tế của
người tiêu dùng, của xã hội càng bị tổn hại.
Trong các hình thức lợi ích kinh tế, lợi ích nhân sở, nền tảng của
các lợi ích khác, bởi vì: thứ nhất, nhu cầu bản, sống còn trước hết thuộc
về các cá nhân, quyết định hoạt động các nhân; thứ hai, thực hiện lợi ích
nhânsở để thực hiện các lợi ích khác nhân cấu thànhn tập
thể, giai cấp, hội, Do đó lợi ích nhân chính đáng cần được pháp
luật tôn trọng, bảo vệ
1.2.3. Một số quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản
- Quan hệ lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động:
Lợi ích kinh tế của người sử dụng lao động thể hiện tập trung lợi nhuận
mà họ thu được trong quá trình kinh doanh
Lợi ích kinh tế của người lao động thể hiện tập trung thu nhập (tiền
lương, tiền thưởng, …) mà họ nhận được từ việc bán sức lao động của mình
cho người sử dụng lao động.
Lợi ích kinh tế của người lao động với người sử dụng lao động quan hệ
chặt chẽ, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau.
Sự thống nhất về lợi ích kinh tế giữa người lao động người sử dụng lao
động thể hiện: Nếu người sử dụng lao động thực hiện các hoạt động kinh tế
trong điều kiện bình thường họ sẽ thu được lợi nhuận, thực hiện được lợi
ích kinh tế của mình; đồng thời, họ sẽ tiếp tục sử dụng lao động nên người
lao động cũng thực hiện được lợi ích kinh tế của mình việc làm, nhận
được tiền lương và ngược lại
Mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa người lao động người sử dụng lao
động thể hiện: Tại một thời điểm nhất định, thu nhập từ các hoạt động kinh
8
tế là xác định cho nên lợi nhuận của người sử dụng lao động tăng lên vì tiền
lương của người lao động giảm xuống ngược lại. lợi ích của mình,
người sử dụng lao động luôn tìm cách cắt giảm tới mức thấp nhất các chi
phí, trong đó có tiền lương của người lao động để tăng lợi nhuậnlợi ích
của mình, người lao động sẽ đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, bãi
công,… Nếu mâu thuẫn không được giải quyết hợp lý sẽ ảnh hưởng xấu tới
các hoạt động kinh tế.
Để bảo vệ lợi ích kinh tế của mình, người lao động người sử dụng lao động đã
thành lập các tổ chức riêng. Công đoàn tổ chức quan trọng nhất bảo vệ quyền lợi
người lao động. Trong hội hiện đại, đấu tranh giữa các bên cân phải tuân thủ các
quy định của pháp luật.
- Quan hệ lợi ích giữa những người sử dụng lao động:
Những người sử dụng lao động có quan hệ lợi ích kinh tế chặt chẽ với nhau.
Trong cơ chế thị trường, những người sử dụng lao động vừa đối tác, vừa
là đối thủ của nhau, từ đó tạo ra sự thống nhất mâu thuẫn về lợi ích kinh
tế giữa họ.
Sự thống nhất về lợi ích kinh tế làm cho những người sử dụng lao động liên
kết chặt chẽ với nhau, hỗ trợ lẫn nhau. Quan hệ chặt ch về lợi ích kinh tế
giữa những người sử dụng lao động làm cho họ trở thành đội ngũ doanh
nhân. Trong chế thị trường, đội ngũ này đóng góp quan trọng vào sự
phát triển kinh tế - hội nên cần được tôn vinh, tạo điều kiện thuận lợi để
phát triển.
- Quan hệ lợi ích giữa những người lao động:
Để thực hiện lợi ích kinh tế của mình người lao động không phải chỉ quan
hệ với người sử dụng lao động mà còn phải quan hệ với nhau. Nếu có nhiều
người bán sức lao động, người lao động phải cạnh tranh với nhau. Dẫn đến
việc tiền lương của người lao động và giảm xuống, một bộ phận người lao
động bị sa thải. Nếu những người lao động thống nhất được với nhau, họ có
thể thực hiện được các yêu sách của mình đối với giới chủ.
Để hạn chế mâu thuẫn lợi ích kinh tế trong nội bộ, đặc trưng với những người sử dụng
lao động, những người lao động đã thành lập tổ chức riêng. Sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn
nhau giữa những người lao động trong giải quyết các mối quan hệ rất cần thiết
nhưng phải dựa trên các quy định của pháp luật.
9
- Quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm và lợi ích xã hội:
Lợi ích nhânlợi ích của một thành viên trong hội khi tham gia vào
hoạt động kinh tế
Lợi ích nhóm lợi ích của các nhân của tổ chức hoạt động trong cùng
ngành cùng lĩnh vực có sự liên kết với nhau để thể hiện tốt lợi ích riêng.
Lợi ích xã hội là tổng các lợi ích cá nhân. Lợi ích cá nhân được thực hiện sẽ
làm phát triển nền kinh tế, thực hiện được lợi ích kinh tế của xã hội
Trong chế thị trường, nhân tồn tại dưới nhiều hình thức. Người lao
động, người sử dụng lao động thành viên của hội nên mỗi người đều
có lợi ích cá nhân và có quan hệ chặt chẽ với lợi ích xã hội.
Nếu người lao động và người sử dụng lao động làm việc theo đúng các quy
định của pháp luật thực hiện được các lợi ích kinh tế của mình, họ đã
góp phần phát triển nền kinh tế, thực hiện lợi ích kinh tế của xã hội. Khi lợi
ích kinh tế của hội được thực hiện, hội phát triển sẽ tạo lập môi
trường thuận lợi để người lao động và người sử dụng lao động thực hiện tốt
hơn các lợi ích kinh tế của mình.
1.2.4. Phương thức thực hiện lợi ích kinh tế trong các quan hệ lợi ích chủ yếu
Mặc nhiều quan hệ lợi ích đan xen, tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hai phương thức bản để thực hiện lợi ích kinh
tế gồm:
- Thứ nhất,thực hiện lợi ích kinh tế theo nguyên tắc thị trường: theo quy luật của
kinh tế thị trường. Các quan hệ lợi ích, các chủ thế lợi ích kinh tế mặc dù đa dạng,
song để thể thực hiện được lợi ích của mình, trong bối cảnh kinh tế thị trường
cần phải căn cứ vào các nguyên tắc của thị trường. Đây phương thức phổ biến
trong mọi nền kinh tế thị trường, bao gồm cả kinh tế thị trường định hướng hội
chủ nghĩa ở Việt
- Thứ hai, thực hiện lợi ích kinh tế theo chính sách của nhà nước vai trò của các
tổ chức hội. dụ gói cứu trợ của nhà nước,hoạt động của các tổ chức hội
trong đại dịch Covid-19. Khi thực hiện lợi ích kinh tế, nếu chỉ căn cứ theo nguyên
tắc thị trường, tất yếu sẽ dẫn đến những hạn chế về mặt hội. Do đó, để khắc
phục những hạn chế của phương thức thực hiện theo nguyên tắc thị trường,
phương thức thực hiện lợi ích dựa trên chính sách của nhà nước vai trò của các
10
tổ chức hội cần phải được chú ý nhằm tạo sự bình đẳng thúc đẩy tiến bộ
hội.
11
PHẦN 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ TẠI VIỆT NAM
2.1. Quá trình phát triển lợi ích kinh tế ở Việt Nam
Quá trình phát triển lợi ích kinh tế Việt Nam gắn liền với sự chuyển mình của
nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ
nghĩa. Sự hội nhập kinh tế quốc tế thu hút đầu nước ngoài đã tạo ra nhiều cơ hội
thách thức cho phát triển kinh tế bền vững. Quá trình phát triển lợi ích kinh tế ở Việt Nam
đã trải qua nhiều giai đoạn và đạt được những thành tựu đáng kể.
vGiai đoạn trước Đổi Mới (Trước 1986)
Trước năm 1986, Việt Nam theo đuổi mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, chịu
ảnh hưởng lớn từ hệ thống kinh tế của các nước hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn này,
Nhà nước nắm giữ vai trò chủ đạo trong việc phân bổ nguồn lực, quyết định sản xuất
tiêu dùng. Mục tiêu chính của nền kinh tế xây dựng sở vật chất kỹ thuật cho chủ
nghĩa hội, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Tuy nhiên, hình này bộc lộ nhiều
hạn chế, dẫn đến năng suất lao động thấp, sản xuất trì trệ, đời sống người dân gặp nhiều
khó khăn. Lợi ích kinh tế chưa được tạo ra một cách hiệu quảphân phối còn nhiều bất
cập. Tình trạng thiếu thốn hàng hóa tiêu dùng thiết yếu, thu nhập bình quân đầu người
thấp sự phụ thuộc vào viện trợ từ các nước khác những đặc điểm nổi bật của giai
đoạn này.
vGiai đoạn Đổi Mới (Từ 1986)
Năm 1986, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đã khởi xướng công cuộc
Đổi Mới toàn diện, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của
đất nước. Nội dung cốt lõi của Đổi Mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
sang nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa, thừa nhận sự tồn tại phát
triển của nhiều thành phần kinh tế. Các chính sách quan trọng được triển khai bao gồm:
xóa bỏ chế quản tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện tự do hóa giá cả ngoại
hối, khuyến khích đầu nhân đầu nước ngoài, mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại. Những cải cách này đã tạo ra động lực mới cho sự phát triển kinh tế, giải phóng
sức sản xuất và từng bước cải thiện đời sống người dân.
Trong giai đoạn đầu của quá trình Đổi Mới, các chính sách Đổi Mới tiếp tục được
củng cố hoàn thiện. Việt Nam đạt được những thành tựu kinh tế đáng kể. Tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân hàng năm khá cao, cấu kinh tế bắt đầu có sự chuyển dịch tích
cực theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Sản
xuất nông nghiệp bước phát triển vượt bậc, không chỉ đảm bảo an ninh lương thực
12
còn trở thành ngành xuất khẩu quan trọng. Công nghiệp dịch vụ cũng dần hình thành
phát triển. Đời sống của người dân được cải thiện rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể.
Lợi ích kinh tế trong giai đoạn này thể hiện nét ở sgia tăng thu nhập bình quân đầu
người, sự đa dạng hóa hàng hóa và dịch vụ và sự cải thiện về chất lượng cuộc sống.
vGiai đoạn hội nhập sâu rộng và toàn cầu hóa
Bước sang thế kỷ XXI, nền kinh tế Việt Nam bước vào giai đoạn tăng trưởng
nhanh mạnh mẽ hơn. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh thông qua
việc kết nhiều hiệp định thương mại tự do song phương đa phương, gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007. Điều này đã mở ra hội lớn để thu
hút vốn đầu nước ngoài, mở rộng thị trường xuất khẩu tiếp thu công nghệ tiên tiến.
Các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, dịch vụ (đặc biệt là du lịch công nghệ thông
tin) bước phát triển vượt bậc, đóng góp ngày càng lớn vào GDP. sở hạ tầng được
đầu tư nâng cấp, đời sống vật chấttinh thần của người dân được cải thiện đáng kể. Tỷ
lệ hộ nghèo giảm nhanh, thu nhập bình quân đầu người tăng cao, Việt Nam đã vươn lên
trở thành một trong những nền kinh tế năng động nhất khu vực Đông Nam Á.
Ngày nay, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế,
lợi ích kinh tế được mở rộng phân phối tốt hơn so với các giai đoạn trước. Tuy nhiên,
nền kinh tế vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức, bao gồm: nguy tụt hậu, khoảng
cách giàu nghèo ngày càng gia tăng, vấn đề ô nhiễm môi trường, chất lượng nguồn nhân
lực còn hạn chế sự phụ thuộc vào một số thị trường xuất khẩu. Để tiếp tục phát triển
bền vững bao trùm, Việt Nam đang tập trung vào việc đổi mới hình tăng trưởng,
nâng cao năng suất lao động, phát triển khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường đảm
bảo an sinh xã hội. Quá trình này đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của cả Nhà nước, doanh
nghiệp người dân để tiếp tục xây dựng một nền kinh tế Việt Nam ngày càng thịnh
vượng và mang lại lợi ích cho mọi người.
2.2. Thực trạng và các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam
2.2.1. Thực trạng quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam
Các quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản tại Việt Nam có thể kể đến như sau:
vThứ nhất là, quan hệ lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động:
Người lao động: là người có đủ thể lực và trí lực để lao động, nghĩa là có khả năng
lao động. Khi họ bán sức lao động sẽ nhận được tiền lương tiền công chịu sự quản lý,
điều hành của người sử dụng lao động.
13
Người sử dụng lao động: là chủ doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia
đình, nhân thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng lao động. những người
trả tiền cho những người lao động nên người sử dụng lao động có quyền tổ chức, quản
quá trình làm việc của người lao động.
Sự thống nhất về lợi ích kinh tế giữa người lao động người sử dụng lao động
thể hiện: nếu người sử dụng lao động thực hiện các hoạt động kinh tế trong điều kiện
bình thường họ sẽ thu được lợi nhuận, thực hiện được lợi ích kinh tế của mình; đồng thời,
họ sẽ tiếp tục sử dụng lao động nên người lao động cũng thực hiện được lợi ích kinh tế
của mình vì có việc làm, nhận được tiền lương.
Lấy dụ tại doanh nghiệp Vinamilk tại Việt Nam, mối quan hệ lợi ích kinh tế
giữa người lao động người sdụng lao động được thể hiện nét qua các chính sách
hoạt động của công ty. Về phía người lao động, họ nhận được mức lương cạnh tranh,
các khoản thưởng theo hiệu suất làm việc các chế độ phụ cấp hấp dẫn, đảm bảo thu
nhập ổn định cải thiện đời sống. Vinamilk cũng tạo điều kiện cho người lao động phát
triển nghề nghiệp thông qua các khóa đào tạo, nâng cao tay nghề, từ đó mở ra hội
thăng tiến tăng thu nhập trong tương lai. Đồng thời, công ty đảm bảo đầy đủ các chế
độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp giúp người lao động an tâm về
mặt tài chínhan sinh hội. Về phía Vinamilk, việc đầu vào nguồn nhân lực giúp
công ty thu hút giữ chân nhân tài, xây dựng đội ngũ lao động chất lượng cao, từ đó
nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đội ngũ lao động gắn bó và có năng
lực cũng góp phần tạo nên sự ổn định phát triển bền vững cho công ty, mang lại lợi
nhuận và giá trị cho các cổ đông. Đây là sự thống nhất lợi ích kinh tế giữa người lao động
và người sử dụng lao động.
Để bảo vệ lợi ích kinh tế của mình, người lao động người sử dụng lao động đã thành
lập các tổ chức riêng. Công đoàn tổ chức quan trọng nhất bảo vệ quyền lợi người lao
động. Trong hội hiện đại, đấu tranh giữa các bên cần phải tuân thủ các quy định của
pháp luật.
vThứ hai, quan hệ lợi ích giữa những người sử dụng lao động:
Những người sử dụng lao động có quan hệ lợi ích kinh tế chặt chẽ với nhau. Trong
chế thị trường, những người sử dụng lao động vừa đối tác, vừa đối thủ của nhau,
từ đó tạo ra sự thống nhất và mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa họ
Quan hệ lợi ích kinh tế giữa những người sdụng lao động hay các doanh nghiệp
thường thể hiện qua sự cạnh tranh hợp tác để tối đa hóa lợi nhuận. Cạnh tranh diễn ra
14
khi các doanh nghiệp cùng ngành hoặc liên quan cạnh tranh về thị phần, giá cả, chất
lượng sản phẩm nguồn nhân lực. Họ cố gắng tối ưu hóa chi phí sản xuất, tìm kiếm
nguồn cung ứng giá rẻ đầu vào công nghệ để tạo ra lợi thế cạnh tranh. Ngược lại,
hợp tác xuất hiện khi các doanh nghiệp nhận ra lợi ích của việc chia sẻ kiến thức, công
nghệ hoặc nguồn lực để cùng phát triển. dụ, các công ty công nghệ có thể hợp tác để
nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới hoặc các doanh nghiệp trong cùng chuỗi cung ứng
có thể hợp tác để tối ưu hóa quy trình sản xuất và phân phối.
Tại Việt Nam, có thể thấy rõ mối quan hệ này qua hai ví dụ cụ thể. Thứ nhất, trong
ngành bán lẻ, các chuỗi siêu thị như WinMart Bách Hóa Xanh cạnh tranh gay gắt về
giá cả, chương trình khuyến mãi và địa điểm cửa hàng để thu hút khách hàng. Đồng thời,
họ cũng hợp tác với các nhà cung cấp để đảm bảo nguồn hàng ổn định và chất lượng. Thứ
hai, trong ngành công nghệ thông tin, các tập đoàn lớn như FPT Viettel cạnh tranh
trong việc cung cấp các dịch vụ viễn thông, phần mềm giải pháp công nghệ. Tuy
nhiên, họ cũng hợp tác trong một số dự án lớn như dự án xây dựng phần mềm tiện ích
cho doanh nhân. Đây dự án phát triển các phần mềm tiện ích, ứng dụng trên mobile,
netbook, PCs hướng tới nhóm đối tượng khách hàng là các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ,
chủ cửa hàng,… FPT Software Viettel kỳ vọng dự án này sẽ sự mở đầu thuận lợi
cho sự hợp tác lâu dài giữa hai bên đồng thời mở ra hướng đi mới trong việc phát triển
sản phẩm đóng gói của FPT Software. Việc hai tập đoàn này chia sẻ sở hạ tầng
cùng nhau đầu tư vào nghiên cứu phát triển góp phần giúp nâng cao năng lực cạnh tranh
của ngành công nghệ Việt Nam.
vThứ ba, quan hệ lợi ích giữa những người lao động:
Trong nền kinh tế thị trường, nhiều người muốn bán sức lao động. Để thực hiện lợi
ích kinh tế của mình, người lao động không chỉ phải quan hệ với người sử dụng lao động,
còn phải quan hệ với nhau. Nếu nhiều người bán sức lao động, người lao động
phải cạnh tranh với nhau. Hậu quả tiền lương của người lao động bị giảm xuống
một bộ phận người lao động bị sa thải. Để hạn chế mâu thuẫn lợi ích kinh tế trong nội bộ,
đặc trưng với những người sử dụng lao động, những người lao động đã thành lập tổ chức
riêng. Sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa những người lao động trong giải quyết các
mối quan hệ là rất cần thiết nhưng phải dựa trên các quy định của pháp luật.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, ngư nghiệp tại Việt Nam, những người lao động
thường hợp tác thành các hợp tác hoặc tổ hợp tác. Họ cùng nhau chia sẻ nguồn lực,
kinh nghiệm thị trường tiêu thụ. dụ, các tổ hợp tác trồng rau sạch Đà Lạt cùng
15
nhau đầu tư hệ thống tưới tiêu, chia sẻ kỹ thuật canh tác và bán sản phẩm cho các siêu thị,
mang lại thu nhập ổn định cho các thành viên. Hay tại các khu công nghiệp tỉnh Bình
Dương, những người lao động nào chung mối quan tâm về tiền lương, điều kiện làm
việc và các chế độ phúc lợi sẽ cùng nhau tham gia vào tổ chức công đoàn Bình Dương để
bảo vệ quyền lợi của mình hoặc hỗ trợ lẫn nhau trong các vấn đề liên quan đến công việc
cuộc sống. Trong lĩnh vực dịch vụ như vận tải công nghệ, những người lao động
thể tạo ra các nhóm hoặc cộng đồng để chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và hỗ trợ lẫn nhau.
dụ, các tài xế xe ôm công nghệ đến từ các doanh nghiệp khác nhau như Grab, Be,
XanhSM thể cùng nhau chia sẻ thông tin về các tuyến đường, khách hàng các vấn
đề liên quan đến công việc thông qua các diễn đàn điện tử, mạng xã hội…
vThứ tư, quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm và lợi ích xã hội:
Trong chế thị trường, nhân tồn tại dưới nhiều hình thức. Người lao động
người sử dụng lao động là thành viên của xã hội nên mỗi người đều lợi ích cá nhân
quan hệ chặt chẽ với lợi ích hội. Nếu người lao động người sử dụng lao động
làm việc theo đúng các quy định của pháp luật thực hiện được các lợi ích kinh tế của
mình, họ đã góp phần phát triển nền kinh tế, thực hiện lợi ích kinh tế của hội. Khi lợi
ích kinh tế của xã hội được thực hiện, xã hội phát triển sẽ tạo lập môi trường thuận lợi để
người lao động và người sử dụng lao động thực hiện tốt hơn các lợi ích kinh tế của mình.
Lợi ích cá nhân là lợi ích của 1 thành viên trong xã hội khi tham gia vào hoạt động
kinh tế.
Lợi ích nhóm:lợi ích của các cá nhân của tổ chức hoạt động trong cùng ngành
cùng lĩnh vực có sự liên kết với nhau để thể hiện tốt lợi ích riêng.
Lợi ích xã hội: Là tổng các lợi ích nhân. Lợi ích nhân được thực hiện sẽ làm
phát triển nền kinh tế thực hiện được lợi ích kinh tế của xã hội.
Tại Việt Nam, các doanh nghiệp hàng không như Vietnam Airlines hoạt động
trong một mạng lưới tương tác phức tạp giữa lợi ích nhân, lợi ích nhóm lợi ích
hội. Lợi ích cá nhân của các cổ đông ban lãnh đạo được thúc đẩy bởi mục tiêu tối đa
hóa lợi nhuận, thể hiện qua giá trị cổ phiếu hiệu quả kinh doanh. Lợi ích nhóm, đặc
biệt là thông qua Hiệp hội Doanh nghiệp Hàng không Việt Nam thể hiện sự phối hợp giữa
các hãng hàng không để bảo vệ lợi ích chung như vận động chính sách, chia sẻ thông tin
thị trường hợp tác trong các vấn đề an toàn an ninh hàng không. Đồng thời, các
doanh nghiệp hàng không đóng góp vào lợi ích hội bằng cách tạo ra việc làm, đóng
thuế cho nhà nước, thúc đẩy tăng trưởng du lịch kinh tế cũng như cung cấp dịch vụ
16
vận chuyển thiết yếu cho người dân doanh nghiệp. dụ, trong các tình huống khẩn
cấp như thiên tai hoặc dịch bệnh, các hãng hàng không tham gia vào các hoạt động cứu
trợ vận chuyển hàng hóa, thể hiện trách nhiệm hội đóng góp vào sự ổn định
phát triển của đất nước.
2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam
vThứ nhất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:
phương thức mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất của con người, lợi ích
kinh tế trước hết phụ thuộc vào số lượng, chất lượng hàng hóa và dịch vụ, mà điều này lại
phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Do đó, trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất càng cao, việc đáp ứng lợi ích kinh tế của các chủ thể càng tốt.
Sau gần 40 năm đổi mới, lực lượng sản xuất của Việt Nam đã những bước phát
triển vượt bậc cả trên phương diện chủ thể của lực lượng sản xuất - người lao động
điều kiện, tiền đề phát triển lực lượng sản xuất - liệu sản xuất. Đến năm 2025, lực
lượng lao động ước đạt 53,2 triệu người với cấu chuyển dịch theo chiều hướng tích
cực: Giảm mạnh tỷ lệ lao động nông nghiệp còn 25,8%; tăng nhanh tỷ lệ nguồn nhân lực
đã qua với 70%. Nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứtrong các lĩnh vực then chốt như công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo,
công nghệ thông tin được tập trung phát triển, bước đầu hình thành đội ngũ lao động với
duy số và kỹ năng số ngày càng được nâng cao. Ngoài ra, liệu sản xuất hình (dữ
liệu số) ngày càng chiếm vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế. Điều này
chính động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, sở để Việt Nam chuyển
mạnh sang sản xuất theo chiều sâu, tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh
của nền kinh tế. Do đó, lực lượng sản xuất Việt Nam hiện nay không chỉ đơn thuần
người lao động thủ công, còn đội ngũ lao động trình độ khoa học - công nghệ
hiện đại, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin, góp phần làm thay đổi toàn bộ
cấu trúc sức sản xuất trong lực lượng sản xuất mới. Đặc biệt, hiện nay trí tuệ nhân tạo
đang dẫn đầu trong quá trình chuyển đổi số và ngày càng gia tăng qua từng năm.
Mặc lực lượng sản xuất mới đang dần hình thành, nhưng vẫn còn những hạn
chế nhất định, chất lượng hiệu quả vẫn còn khoảng cách khá xa so với yêu cầu của
phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Về nguồn nhân lực, tính tới thời điểm hiện tại, “chỉ 28% lực lượng lao động Việt
Nam có qua đào tạo có chứng chỉ, bằng cấp; ngành công nghiệp chế biến chế tạo chủ yếu
do doanh nghiệp nước ngoài chiếm lĩnh; 72% xuất khẩu của Việt Nam do các doanh
17
nghiệp FDI thực hiện, 28% do doanh nghiệp trong nước, nhưng chủ yếu các sản phẩm
nông nghiệp ngành lao động giản đơn; năng suất lao động bình quân của người lao
động Việt Nam chỉ bằng 7,6% năng suất lao động của Singapore, 19,5% của Malaysia,
37,9% của Thái Lan, 45,6% của Indonesia”. Những hạn chế về trình độ của nguồn nhân
lực đang tạo ra lực cản đáng kể để phát triển lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại, nhất là
tạo ra những khó khăn trong sự kết hợp giữa người lao động trí tuệ nhân tạo một số
ngành sử dụng công nghệ hiện đại.
Về tư liệu sản xuất mới, với chủ trương chuyển đổi số của Chính phủ, mặc dù Việt
Nam đang dần xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin quốc gia cũng như cơ sở dữ liệu thông tin
của các bộ, ngành, địa phương; hình thành nên nguồn liệu sản xuất vô hình; tuy nhiên,
“việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa hệ thống thông tin của các bộ, ngành, địa phương và
sở dữ liệu quốc gia chưa thông suốt; nhiều dịch vụ công trực tuyến chất lượng thấp, tỷ lệ
người sử dụng chưa cao”. Do đó, chưa khai thác được tối đa lợi thế của nguồn dữ liệu
phong phú để thúc đẩy phát triển kinh tế số, kinh tế chia sẻ.
vThứ hai, địa vị của chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội:
Quan hệ sản xuất, trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quyết định vị trí,
vai trò của mỗi con người, mỗi chủ thể trong quá trình tham gia các hoạt động kinh tế -
xã hội. Do đó, không có lợi ích kinh tế nằm ngoài những quan hệ sản xuất và trao đổi, mà
sản phẩm của những quan hệ sản xuất và trao đổi, hình thức tồn tại biểu hiện
của các quan hệ sản xuất và trao đổi trong nền kinh tế thị trường.
Tại tập đoàn Vingroup - Top 10 Doanh nghiệp nhân lớn nhất Việt Nam, địa vị
của các chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất hội được thể hiện qua sự phân cấp
quyền lực và lợi ích ràng. Ông Phạm Nhật Vượng, Chủ tịch Hội đồng quản trị, với
cách là người sở hữu phần lớn cổ phần, có quyền lực tối cao trong việc định hướng chiến
lược quyết định các vấn đề quan trọng của tập đoàn. Ban lãnh đạo cấp cao, bao gồm
các tổng giám đốc giám đốc các bộ phận, chịu trách nhiệm thực thi các chiến lược
quản hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp. Các cổ đông, tùy thuộc o số lượng cổ
phần nắm giữ, quyền tham gia vào các quyết định quan trọng thông qua Đại hội cổ
đông. Người lao động tại Vingroup, từ nhân viên văn phòng đến công nhân sản xuất,
lực lượng trực tiếp tạo ra giá trị sản phẩm và dịch vụ. Họ nhận được lương, thưởng và các
chế độ đãi ngộ theo quy định của công ty và pháp luật lao động. Tuy nhiên, quyền lực của
người lao động trong việc tham gia vào các quyết định quản lý doanh nghiệp còn hạn chế,
chủ yếu thông qua các tổ chức công đoàn và đối thoại với ban lãnh đạo.
18
vThứ ba, chính sách phân phối thu nhập của nhà nước:
Sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường tất yếu khách quan, thông
qua nhiều loại công cụ, trong đó các chính sách kinh tế - hội. Trong các chính sách
kinh tế - xã hội, chính sách phân phối thu nhập của nhà nước làm thay đổi mức thu nhập
tương quan thu nhập của các chủ thể kinh tế. Khi mức thu nhập tương quan thu
nhập thay đổi, phương thức mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất cũng thay đổi, tức
là lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế giữa các chủ thể cũng thay đổi.
Kể từ năm 2009 đến nay, lương tối thiểu theo vùng của Việt Nam đã được điều
chỉnh 16 lần. Lần gần đây nhất được quy định tại Nghị định 74/2024/NĐ-CP áp dụng từ
ngày 01/7/2024 đến nay. Theo đó, mức lương tối thiểu vùng năm 2025 4,96 triệu
đồng/tháng (vùng I); 4,41 triệu đồng/tháng (vùng II); 3,86 triệu đồng/tháng (vùng III)
3,45 triệu đồng/tháng (vùng IV). Khi nhà nước quy định mức lương tối thiểu hàng tháng
ở mỗi vùng khác nhau nghĩa là chính sách phân phối thu nhập của nhà nước làm thay đổi
mức thu nhập và tương quan thu nhập giữa các chủ thể kinh tế. Việc điều chỉnh lương tối
thiểu thường xuyên cho thấy slinh hoạt của Nhà nước trong việc điều chỉnh chính sách
theo tình hình kinh tế thực tế, được cân nhắc dựa trên các yếu tố như tốc độ tăng trưởng
kinh tế, lạm phát, năng suất lao động khả năng chi trả của doanh nghiệp. Chính sách
này nhằm đảm bảo sự hài hòa giữa việc bảo vệ quyền lợi của người lao động việc tạo
điều kiện cho doanh nghiệp phát triển bền vững.
vThứ tư, hội nhập kinh tế quốc tế:
Bản chất của kinh tế thị trường mở cửa hội nhập. Khi mở cửa hội nhập, các
quốc gia thể gia tăng lợi ích kinh tế từ thương mại quốc tế, đầu quốc tế. Tuy nhiên,
lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp, hộ gia đình sản xuất hàng hóa tiêu thụ trên thị
trường nội địa thể bị ảnh hưởng bởi cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài. Thông qua
mở cửa hội nhập đất nước thể phát triển nhanh hơn nhưng cũng phải đối mặt với các
nguy cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường… Điều đó nghĩa hội nhập kinh tế
quốc tế sẽ tác động mạnh mẽ và nhiều chiều đến lợi ích kinh tế của các chủ thể.
Trong những m qua, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành động lực quan trọng
thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước ta. Từ năm 1986, khi Việt Nam bắt đầu công cuộc
đổi mới, mở cửa nền kinh tế thực hiện chính sách đa phương hóa trong quan hệ quốc
tế, đất nước đã bước vào thời kỳ hội nhập mạnh mẽ. Tuy nhiên, chỉ đến năm 1995, khi
Việt Nam gia nhập ASEAN Hoa Kỳ tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với
Việt Nam, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam mới thực sự sâu rộng.
19
Việc gia nhập ASEAN đánh dấu một bước ngoặt lớn trong tiến trình hội nhập.
tham gia muộn so với các nước ASEAN khác khởi đầu từ nền kinh tế còn yếu, Việt
Nam đã nỗ lực không ngừng trên mọi lĩnh vực từ kinh tế đến ngoại giao, góp phần nâng
cao vị thế trong ASEAN khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Sự ổn định chính trị
tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ đã giúp Việt Nam trở thành một quốc gia tiếng nói trọng
lượng trong việc giải quyết các vấn đề của khu vực, đặc biệt những vấn đề liên quan
trực tiếp đến lợi ích quốc gia như Biển Đông, biến đổi khí hậu, quản nguồn nước sông
Mekong, chống khủng bố, và phòng, chống buôn bán ma túy.
Từ thành công bước đầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam tiếp tục
tham gia và chủ trì nhiều diễn đàn quan trọng của khu vực như: Diễn đàn Hợp tác kinh tế
Á - Âu (ASEM), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Đặc biệt,
Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào
năm 2007 - đánh dấu sự hội nhập toàn diện đầy đủ của Việt Nam vào nền kinh tế toàn
cầu.
Việt Nam đã tham gia sáng lập thực hiện có trách nhiệm các hiệp định thương
mại tự do (FTA) thế hệ mới quan trọng, bao gồm: Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP),
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) Hiệp định Bảo
hộ đầu (EVIPA). Bên cạnh đó, Việt Nam đã chủ trì tổ chức thành công nhiều sự
kiện quốc tế lớn, đồng thời hoàn thành các trọng trách quốc tế như Ủy viên không
thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc và Chủ tịch ASEAN vào các nhiệm kỳ 2010
2020. Đặc biệt, Việt Nam đã chính thức tham gia các hoạt động giữ gìn hòa bình của
Liên hiệp quốc, góp phần bảo đảm an ninh phi truyền thống thúc đẩy sứ mệnh hòa
bình toàn cầu.
Thông qua hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã phát triển một s ngành kinh tế mũi
nhọn, cải thiện năng suất, chất lượng sản phẩm tăng cường khả năng cạnh tranh trên
thị trường quốc tế. Nước ta cũng thu hút được nhiều vốn đầu nước ngoài nhờ môi
trường chính trị ổn định vị trí chiến lược Đông Nam Á. Đồng thời, Việt Nam đã đa
dạng hóa thị trường xuất khẩu, giảm sự phụ thuộc vào các thị trường truyền thống đạt
thặng thương mại, cho thấy sự phát triển bền vững năng lực cạnh tranh trên thị
trường toàn cầu.
20

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA QUẢN TRỊ NHÂN LỰC BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
ĐỀ TÀI: LỢI ÍCH KINH TẾ VÀ VAI TRÒ CỦA LỢI ÍCH KINH TẾ VÀ LIÊN HỆ
THỰC TIỄN VIỆT NAM. Nhóm : 01 Lớp học phần : 242_RLCP1211_41
Giáo viên hướng dẫn : Tống Thế Sơn 1 DANH SÁCH THÀNH VIÊN STT HỌ TÊN MÃ SV ĐÁNH GIÁ 1Vũ Hà An 23D210189 2Nguyễn Mai Anh 23D210191 3Vũ Quang Anh 23D210051
4Đỗ Thị Ánh – Thư ký 23D210192
5Vũ Minh Ánh – Nhóm trưởng 23D210193 6Bùi Gia Bình 23D210007
7Phùng Thị Ngọc Châm 23D210148
8Bùi Ngọc Quỳnh Châu 23D210194 9Lê Văn Dũng 23D210055 10 Nguyễn Xuân Dũng 23D210101 2 MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................................4
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT.........................................................................................5
1.1. Lợi ích kinh tế.......................................................................................................5
1.1.1. Khái niệm lợi ích kinh tế.................................................................................5
1.1.2 Bản chất và biểu hiện của lợi ích kinh tế..........................................................5
1.1.3 Vai trò của lợi ích kinh tế..................................................................................5
1.2. Quan hệ lợi ích kinh tế..........................................................................................6
1.2.1. Khái niệm quan hệ lợi ích kinh tế....................................................................6
1.2.2. Sự thống nhất và mâu thuẫn trong các quan hệ lợi ích kinh tế.........................6
1.2.3. Một số quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản..............................................................7
1.2.4. Phương thức thực hiện lợi ích kinh tế trong các quan hệ lợi ích chủ yếu.........9
PHẦN 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ TẠI VIỆT NAM. .10
2.1. Quá trình phát triển lợi ích kinh tế ở Việt Nam................................................10
2.2. Thực trạng và các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam
..................................................................................................................................... 11

2.2.1. Thực trạng quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam..............................................11
2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam....................14
2.3. Vai trò của Nhà Nước trong điều hoà quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam......18
2.3.1. Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tìm kiếm lợi
ích của các chủ thể kinh tế.......................................................................................19
2.3.2. Điều hòa lợi ích giữa cá nhân – doanh nghiệp – xã hội..................................20
2.3.3. Kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực đối với sự
phát triển xã hội.......................................................................................................22
2.3.4. Giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế............................23
PHẦN KẾT LUẬN..........................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................26 3 4 PHẦN MỞ ĐẦU
Trong bất kỳ nền kinh tế nào, lợi ích kinh tế luôn là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự
phát triển và điều phối các hoạt động sản xuất, kinh doanh, phân phối và tiêu dùng. Lợi
ích kinh tế không chỉ ảnh hưởng đến các chủ thể như cá nhân, doanh nghiệp mà còn đóng
vai trò quyết định đến sự ổn định và phát triển của cả nền kinh tế quốc gia. Việc cân bằng
lợi ích giữa các nhóm chủ thể là một trong những nhiệm vụ quan trọng để đảm bảo sự hài
hòa trong xã hội và thúc đẩy sự phát triển bền vững.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nhà nước
giữ vai trò quan trọng trong việc quản lý và điều tiết nền kinh tế. Không chỉ đóng vai trò
giám sát, Nhà nước còn trực tiếp tham gia vào quá trình phân phối lợi ích thông qua các
chính sách tài khóa, tiền tệ, thuế khóa, đầu tư công và trợ cấp. Điều này nhằm bảo đảm
lợi ích của các nhóm yếu thế, thúc đẩy công bằng xã hội và duy trì sự ổn định kinh tế - xã
hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị
trường, Nhà nước cũng phải đối mặt với nhiều thách thức trong việc cân đối lợi ích giữa
các thành phần kinh tế, đảm bảo không có sự chênh lệch quá lớn dẫn đến bất ổn hoặc ảnh
hưởng tiêu cực đến sự phát triển chung.
Với mục tiêu làm rõ vai trò của Nhà nước trong điều hòa lợi ích kinh tế, bài thảo
luận này sẽ tập trung phân tích các khía cạnh lý luận về lợi ích kinh tế, đồng thời liên hệ
thực tiễn ở Việt Nam nhằm làm nổi bật sự cần thiết của Nhà nước trong việc đảm bảo lợi
ích chung, góp phần ổn định và phát triển kinh tế đất nước. 5
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Lợi ích kinh tế
1.1.1. Khái niệm lợi ích kinh tế
Lợi ích là sự thỏa mãn nhu cầu của con người mà sự thỏa mãn nhu cầu này phải
được nhận thức và đặt trong mối quan hệ xã hội ứng với trình độ phát triển nhất định của
nền sản xuất xã hội đó. Tuỳ từng bối cảnh mà vai trò quyết định đối với hoạt động của
con người là lợi ích vật chất hay lợi ích tinh thần. Nhưng xuyên suốt quá trình tồn tại của
con người và đời sống xã hội thì lợi ích vật chất đóng vai trò quyết định thúc đẩy hoạt
động của mỗi cá nhân, tổ chức cũng như xã hội
Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất là lợi ích thu được khi thực hiện các hoạt động kinh tế con người.
1.1.2 Bản chất và biểu hiện của lợi ích kinh tế
Bản chất: Lợi ích kinh tế phản ánh mục đích và động cơ của các quan hệ giữa các
chủ thể trong nền sản xuất xã hội. Các thành viên trong xã hội xác lập các quan hệ kinh tế
với nhau vì trong quan hệ đó hàm chứa những lợi ích kinh tế mà họ có thể có được. Các
quan hệ xã hội luôn mang tính lịch sử, do vậy, lợi ích kinh tế trong mỗi giai đoạn cũng
phản ánh bản chất xã hội của giai đoạn lịch sử đó.
Biểu hiện: Gắn với các chủ thể khác nhau là những lợi ích tương ứng: lợi ích của
chủ doanh nghiệp trước hết là lợi nhuận, lợi ích của người lao động là thu nhập. Tất
nhiên, với mỗi cá nhân, trong các mối quan hệ xã hội tổng hợp gắn với con người đó,
mặc dù có khi thực hiện hoạt động kinh tế, trong nhất thời, không phải luôn đặt mục tiêu
lợi ích vật chất lên hàng đầu. Song, về lâu dài, đã tham gia vào hoạt động kinh tế thì lợi
ích kinh tế là lợi ích quyết định. Nếu không thấy được vai trò này của lợi ích kinh tế sẽ
làm suy giảm động lực hoạt động của các cá nhân. Khi đề cập tới phạm trù lợi ích kinh tế,
có nghĩa rằng lợi ích đó được xác lập trong quan hệ nào, vai trò của các chủ thể trong
quan hệ đó thể hiện chủ thể đó biểu hiện như thế nào. Có thể nói, trong nền kinh tế thị
trường, ở đâu có hoạt động sản xuất kinh doanh, lao động ở đó có quan hệ lợi ích và lợi ích kinh tế.
1.1.3 Vai trò của lợi ích kinh tế
vLợi ích kinh tế là động lực trực tiếp của các chủ thể và hoạt động kinh tế xã hội
Trong kinh tế thị trường, để thoả mãn nhu cầu, cần phải có thu nhập. Thu nhập
càng cao, phương thức, mức độ thỏa mãn nhu cầu càng tốt. Vì vậy, mọi chủ thể kinh tế
đều tìm cách nâng cao thu nhập, bảo đảm lợi ích kinh tế của mình. Thực hiện lợi ích kinh 6
tế của các giai tầng xã hội, đặc biệt của người dân vừa là cơ sở bảo đảm cho sự ổn định
và phát triển xã hội, vừa là biểu hiện của sự phát triển. Theo đuổi lợi ích kinh tế chính
đáng của mình, các chủ thể kinh tế đã đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế.
vLợi ích kinh tế là cơ sở thúc đẩy sự phát triển các lợi ích khác:
Mọi vận động của lịch sử, dưới hình thức nào, xét đến cùng, đều xoay quanh vấn
đề lợi ích, mà trước hết là lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế được thực hiện sẽ tạo điều kiện
vật chất cho sự hình thành và thực hiện lợi ích chính trị, lợi ích xã hội, lợi ích văn hóa của
các chủ thể xã hội. Lợi ích kinh tế mang tính khách quan và là động lực mạnh mẽ để phát
triển kinh tế-xã hội. C. Mác đã chỉ rõ: “Cội nguồn phát triển của xã hội không phải là quá
trình nhận thức, mà là các quan hệ của đời sống vật chất, tức là các lợi ích kinh tế của con
người”. Điều cần lưu ý là, chỉ khi có sự đồng thuận, thống nhất giữa các lợi ích kinh tế thì
lợi ích kinh tế mới thực hiện được vai trò của mình. Ngược lại, việc theo đuổi những lợi
ích kinh tế không chính đáng, không hợp lý, không hợp pháp sẽ trở thành trở ngại cho sự phát triển
1.2. Quan hệ lợi ích kinh tế
1.2.1. Khái niệm quan hệ lợi ích kinh tế
Quan hệ lợi ích kinh tế là sự thiết lập những tương tác giữa con người với con
người, giữa các cộng đồng người, giữa các tổ chức kinh tế, giữa các bộ phận hợp thành
nền kinh tế, giữa con người với tổ chức kinh tế, giữa quốc gia với phần còn lại của thế
giới nhằm mục tiêu xác lập các lợi ích kinh tế trong mối liên hệ với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng của một giai đoạn phát triển xã hội nhất định
1.2.2. Sự thống nhất và mâu thuẫn trong các quan hệ lợi ích kinh tế
- Sự thống nhất trong quan hệ lợi ích kinh tế
Chúng thống nhất với nhau vì một chủ thể có thể trở thành bộ phận cấu
thành của chủ thể khác. Do đó, lợi ích của chủ thể này được thực hiện thì
lợi ích của chủ thể khác cũng trực tiếp hoặc gián tiếp được thực hiện.
Khi các chủ thể kinh tế hành động vì mục tiêu chung hoặc các mục tiêu
thống nhất với nhau thì các lợi ích kinh tế của các chủ thể đó thống nhất với nhau.
- Sự mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế. 7
Các quan hệ lợi ích kinh tế mâu thuẫn với nhau vì các chủ thể kinh tế có thể
hành động theo những phương thức khác nhau để thực hiện các lợi ích của
mình. Sự khác nhau đó đến mức đối lập thì trở thành mâu thuẫn.
Khi có mâu thuẫn thì việc thực hiện lợi ích này có thể sẽ ngăn cản, thậm chí
làm tổn hại đến các lợi ích khác. Mâu thuẫn về lợi ích kinh tế là cội nguồn
của các xung đột xã hội.
Ví dụ: Vì lợi ích của mình, các cá nhân doanh nghiệp có thể làm hàng giả, buôn
lậu, trốn thuế, … thì lợi ích của cá nhân, doanh nghiệp và lợi ích của xã hội mâu thuẫn
với nhau. Khi đó, chủ doanh nghiệp càng thu được nhiều lợi nhuận, lợi ích kinh tế của
người tiêu dùng, của xã hội càng bị tổn hại.
Trong các hình thức lợi ích kinh tế, lợi ích cá nhân là cơ sở, nền tảng của
các lợi ích khác, bởi vì: thứ nhất, nhu cầu cơ bản, sống còn trước hết thuộc
về các cá nhân, quyết định hoạt động các cá nhân; thứ hai, thực hiện lợi ích
cá nhân là cơ sở để thực hiện các lợi ích khác vì cá nhân cấu thành nên tập
thể, giai cấp, xã hội, … Do đó lợi ích cá nhân chính đáng cần được pháp
luật tôn trọng, bảo vệ
1.2.3. Một số quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản
- Quan hệ lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động:
Lợi ích kinh tế của người sử dụng lao động thể hiện tập trung ở lợi nhuận
mà họ thu được trong quá trình kinh doanh
Lợi ích kinh tế của người lao động thể hiện tập trung ở thu nhập (tiền
lương, tiền thưởng, …) mà họ nhận được từ việc bán sức lao động của mình
cho người sử dụng lao động.
Lợi ích kinh tế của người lao động với người sử dụng lao động có quan hệ
chặt chẽ, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau.
Sự thống nhất về lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao
động thể hiện: Nếu người sử dụng lao động thực hiện các hoạt động kinh tế
trong điều kiện bình thường họ sẽ thu được lợi nhuận, thực hiện được lợi
ích kinh tế của mình; đồng thời, họ sẽ tiếp tục sử dụng lao động nên người
lao động cũng thực hiện được lợi ích kinh tế của mình vì có việc làm, nhận
được tiền lương và ngược lại
Mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao
động thể hiện: Tại một thời điểm nhất định, thu nhập từ các hoạt động kinh 8
tế là xác định cho nên lợi nhuận của người sử dụng lao động tăng lên vì tiền
lương của người lao động giảm xuống và ngược lại. Vì lợi ích của mình,
người sử dụng lao động luôn tìm cách cắt giảm tới mức thấp nhất các chi
phí, trong đó có tiền lương của người lao động để tăng lợi nhuận Vì lợi ích
của mình, người lao động sẽ đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, bãi
công,… Nếu mâu thuẫn không được giải quyết hợp lý sẽ ảnh hưởng xấu tới các hoạt động kinh tế.
Để bảo vệ lợi ích kinh tế của mình, người lao động và người sử dụng lao động đã
thành lập các tổ chức riêng. Công đoàn là tổ chức quan trọng nhất bảo vệ quyền lợi
người lao động. Trong xã hội hiện đại, đấu tranh giữa các bên cân phải tuân thủ các
quy định của pháp luật.
- Quan hệ lợi ích giữa những người sử dụng lao động:
Những người sử dụng lao động có quan hệ lợi ích kinh tế chặt chẽ với nhau.
Trong cơ chế thị trường, những người sử dụng lao động vừa là đối tác, vừa
là đối thủ của nhau, từ đó tạo ra sự thống nhất và mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa họ.
Sự thống nhất về lợi ích kinh tế làm cho những người sử dụng lao động liên
kết chặt chẽ với nhau, hỗ trợ lẫn nhau. Quan hệ chặt chẽ về lợi ích kinh tế
giữa những người sử dụng lao động làm cho họ trở thành đội ngũ doanh
nhân. Trong cơ chế thị trường, đội ngũ này đóng góp quan trọng vào sự
phát triển kinh tế - xã hội nên cần được tôn vinh, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển.
- Quan hệ lợi ích giữa những người lao động:
Để thực hiện lợi ích kinh tế của mình người lao động không phải chỉ quan
hệ với người sử dụng lao động mà còn phải quan hệ với nhau. Nếu có nhiều
người bán sức lao động, người lao động phải cạnh tranh với nhau. Dẫn đến
việc tiền lương của người lao động và giảm xuống, một bộ phận người lao
động bị sa thải. Nếu những người lao động thống nhất được với nhau, họ có
thể thực hiện được các yêu sách của mình đối với giới chủ.
Để hạn chế mâu thuẫn lợi ích kinh tế trong nội bộ, đặc trưng với những người sử dụng
lao động, những người lao động đã thành lập tổ chức riêng. Sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn
nhau giữa những người lao động trong giải quyết các mối quan hệ là rất cần thiết
nhưng phải dựa trên các quy định của pháp luật. 9
- Quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm và lợi ích xã hội:
Lợi ích cá nhân là lợi ích của một thành viên trong xã hội khi tham gia vào hoạt động kinh tế
Lợi ích nhóm là lợi ích của các cá nhân của tổ chức hoạt động trong cùng
ngành cùng lĩnh vực có sự liên kết với nhau để thể hiện tốt lợi ích riêng.
Lợi ích xã hội là tổng các lợi ích cá nhân. Lợi ích cá nhân được thực hiện sẽ
làm phát triển nền kinh tế, thực hiện được lợi ích kinh tế của xã hội
Trong cơ chế thị trường, cá nhân tồn tại dưới nhiều hình thức. Người lao
động, người sử dụng lao động là thành viên của xã hội nên mỗi người đều
có lợi ích cá nhân và có quan hệ chặt chẽ với lợi ích xã hội.
Nếu người lao động và người sử dụng lao động làm việc theo đúng các quy
định của pháp luật và thực hiện được các lợi ích kinh tế của mình, họ đã
góp phần phát triển nền kinh tế, thực hiện lợi ích kinh tế của xã hội. Khi lợi
ích kinh tế của xã hội được thực hiện, xã hội phát triển sẽ tạo lập môi
trường thuận lợi để người lao động và người sử dụng lao động thực hiện tốt
hơn các lợi ích kinh tế của mình.
1.2.4. Phương thức thực hiện lợi ích kinh tế trong các quan hệ lợi ích chủ yếu
Mặc dù có nhiều quan hệ lợi ích đan xen, tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có hai phương thức cơ bản để thực hiện lợi ích kinh tế gồm:
- Thứ nhất,thực hiện lợi ích kinh tế theo nguyên tắc thị trường: theo quy luật của
kinh tế thị trường. Các quan hệ lợi ích, các chủ thế lợi ích kinh tế mặc dù đa dạng,
song để có thể thực hiện được lợi ích của mình, trong bối cảnh kinh tế thị trường
cần phải căn cứ vào các nguyên tắc của thị trường. Đây là phương thức phổ biến
trong mọi nền kinh tế thị trường, bao gồm cả kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
- Thứ hai, thực hiện lợi ích kinh tế theo chính sách của nhà nước và vai trò của các
tổ chức xã hội. Ví dụ gói cứu trợ của nhà nước,hoạt động của các tổ chức xã hội
trong đại dịch Covid-19. Khi thực hiện lợi ích kinh tế, nếu chỉ căn cứ theo nguyên
tắc thị trường, tất yếu sẽ dẫn đến những hạn chế về mặt xã hội. Do đó, để khắc
phục những hạn chế của phương thức thực hiện theo nguyên tắc thị trường,
phương thức thực hiện lợi ích dựa trên chính sách của nhà nước và vai trò của các 10
tổ chức xã hội cần phải được chú ý nhằm tạo sự bình đẳng và thúc đẩy tiến bộ xã hội. 11
PHẦN 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ TẠI VIỆT NAM
2.1. Quá trình phát triển lợi ích kinh tế ở Việt Nam
Quá trình phát triển lợi ích kinh tế ở Việt Nam gắn liền với sự chuyển mình của
nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Sự hội nhập kinh tế quốc tế và thu hút đầu tư nước ngoài đã tạo ra nhiều cơ hội và
thách thức cho phát triển kinh tế bền vững. Quá trình phát triển lợi ích kinh tế ở Việt Nam
đã trải qua nhiều giai đoạn và đạt được những thành tựu đáng kể.
vGiai đoạn trước Đổi Mới (Trước 1986)
Trước năm 1986, Việt Nam theo đuổi mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, chịu
ảnh hưởng lớn từ hệ thống kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn này,
Nhà nước nắm giữ vai trò chủ đạo trong việc phân bổ nguồn lực, quyết định sản xuất và
tiêu dùng. Mục tiêu chính của nền kinh tế là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Tuy nhiên, mô hình này bộc lộ nhiều
hạn chế, dẫn đến năng suất lao động thấp, sản xuất trì trệ, đời sống người dân gặp nhiều
khó khăn. Lợi ích kinh tế chưa được tạo ra một cách hiệu quả và phân phối còn nhiều bất
cập. Tình trạng thiếu thốn hàng hóa tiêu dùng thiết yếu, thu nhập bình quân đầu người
thấp và sự phụ thuộc vào viện trợ từ các nước khác là những đặc điểm nổi bật của giai đoạn này.
vGiai đoạn Đổi Mới (Từ 1986)
Năm 1986, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đã khởi xướng công cuộc
Đổi Mới toàn diện, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của
đất nước. Nội dung cốt lõi của Đổi Mới là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thừa nhận sự tồn tại và phát
triển của nhiều thành phần kinh tế. Các chính sách quan trọng được triển khai bao gồm:
xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện tự do hóa giá cả và ngoại
hối, khuyến khích đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài, mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại. Những cải cách này đã tạo ra động lực mới cho sự phát triển kinh tế, giải phóng
sức sản xuất và từng bước cải thiện đời sống người dân.
Trong giai đoạn đầu của quá trình Đổi Mới, các chính sách Đổi Mới tiếp tục được
củng cố và hoàn thiện. Việt Nam đạt được những thành tựu kinh tế đáng kể. Tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân hàng năm khá cao, cơ cấu kinh tế bắt đầu có sự chuyển dịch tích
cực theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Sản
xuất nông nghiệp có bước phát triển vượt bậc, không chỉ đảm bảo an ninh lương thực mà 12
còn trở thành ngành xuất khẩu quan trọng. Công nghiệp và dịch vụ cũng dần hình thành
và phát triển. Đời sống của người dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể.
Lợi ích kinh tế trong giai đoạn này thể hiện rõ nét ở sự gia tăng thu nhập bình quân đầu
người, sự đa dạng hóa hàng hóa và dịch vụ và sự cải thiện về chất lượng cuộc sống.
vGiai đoạn hội nhập sâu rộng và toàn cầu hóa
Bước sang thế kỷ XXI, nền kinh tế Việt Nam bước vào giai đoạn tăng trưởng
nhanh và mạnh mẽ hơn. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh thông qua
việc ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương, gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007. Điều này đã mở ra cơ hội lớn để thu
hút vốn đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường xuất khẩu và tiếp thu công nghệ tiên tiến.
Các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, dịch vụ (đặc biệt là du lịch và công nghệ thông
tin) có bước phát triển vượt bậc, đóng góp ngày càng lớn vào GDP. Cơ sở hạ tầng được
đầu tư nâng cấp, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện đáng kể. Tỷ
lệ hộ nghèo giảm nhanh, thu nhập bình quân đầu người tăng cao, Việt Nam đã vươn lên
trở thành một trong những nền kinh tế năng động nhất khu vực Đông Nam Á.
Ngày nay, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế,
lợi ích kinh tế được mở rộng và phân phối tốt hơn so với các giai đoạn trước. Tuy nhiên,
nền kinh tế vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức, bao gồm: nguy cơ tụt hậu, khoảng
cách giàu nghèo ngày càng gia tăng, vấn đề ô nhiễm môi trường, chất lượng nguồn nhân
lực còn hạn chế và sự phụ thuộc vào một số thị trường xuất khẩu. Để tiếp tục phát triển
bền vững và bao trùm, Việt Nam đang tập trung vào việc đổi mới mô hình tăng trưởng,
nâng cao năng suất lao động, phát triển khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường và đảm
bảo an sinh xã hội. Quá trình này đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của cả Nhà nước, doanh
nghiệp và người dân để tiếp tục xây dựng một nền kinh tế Việt Nam ngày càng thịnh
vượng và mang lại lợi ích cho mọi người.
2.2. Thực trạng và các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam
2.2.1. Thực trạng quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam
Các quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản tại Việt Nam có thể kể đến như sau:
vThứ nhất là, quan hệ lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động:
Người lao động: là người có đủ thể lực và trí lực để lao động, nghĩa là có khả năng
lao động. Khi họ bán sức lao động sẽ nhận được tiền lương tiền công và chịu sự quản lý,
điều hành của người sử dụng lao động. 13
Người sử dụng lao động: là chủ doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia
đình, cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng lao động. Là những người
trả tiền cho những người lao động nên người sử dụng lao động có quyền tổ chức, quản lý
quá trình làm việc của người lao động.
Sự thống nhất về lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao động
thể hiện: nếu người sử dụng lao động thực hiện các hoạt động kinh tế trong điều kiện
bình thường họ sẽ thu được lợi nhuận, thực hiện được lợi ích kinh tế của mình; đồng thời,
họ sẽ tiếp tục sử dụng lao động nên người lao động cũng thực hiện được lợi ích kinh tế
của mình vì có việc làm, nhận được tiền lương.
Lấy ví dụ tại doanh nghiệp Vinamilk tại Việt Nam, mối quan hệ lợi ích kinh tế
giữa người lao động và người sử dụng lao động được thể hiện rõ nét qua các chính sách
và hoạt động của công ty. Về phía người lao động, họ nhận được mức lương cạnh tranh,
các khoản thưởng theo hiệu suất làm việc và các chế độ phụ cấp hấp dẫn, đảm bảo thu
nhập ổn định và cải thiện đời sống. Vinamilk cũng tạo điều kiện cho người lao động phát
triển nghề nghiệp thông qua các khóa đào tạo, nâng cao tay nghề, từ đó mở ra cơ hội
thăng tiến và tăng thu nhập trong tương lai. Đồng thời, công ty đảm bảo đầy đủ các chế
độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp giúp người lao động an tâm về
mặt tài chính và an sinh xã hội. Về phía Vinamilk, việc đầu tư vào nguồn nhân lực giúp
công ty thu hút và giữ chân nhân tài, xây dựng đội ngũ lao động chất lượng cao, từ đó
nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đội ngũ lao động gắn bó và có năng
lực cũng góp phần tạo nên sự ổn định và phát triển bền vững cho công ty, mang lại lợi
nhuận và giá trị cho các cổ đông. Đây là sự thống nhất lợi ích kinh tế giữa người lao động
và người sử dụng lao động.
Để bảo vệ lợi ích kinh tế của mình, người lao động và người sử dụng lao động đã thành
lập các tổ chức riêng. Công đoàn là tổ chức quan trọng nhất bảo vệ quyền lợi người lao
động. Trong xã hội hiện đại, đấu tranh giữa các bên cần phải tuân thủ các quy định của pháp luật.
vThứ hai, quan hệ lợi ích giữa những người sử dụng lao động:
Những người sử dụng lao động có quan hệ lợi ích kinh tế chặt chẽ với nhau. Trong
cơ chế thị trường, những người sử dụng lao động vừa là đối tác, vừa là đối thủ của nhau,
từ đó tạo ra sự thống nhất và mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa họ
Quan hệ lợi ích kinh tế giữa những người sử dụng lao động hay các doanh nghiệp
thường thể hiện qua sự cạnh tranh và hợp tác để tối đa hóa lợi nhuận. Cạnh tranh diễn ra 14
khi các doanh nghiệp cùng ngành hoặc liên quan cạnh tranh về thị phần, giá cả, chất
lượng sản phẩm và nguồn nhân lực. Họ cố gắng tối ưu hóa chi phí sản xuất, tìm kiếm
nguồn cung ứng giá rẻ và đầu tư vào công nghệ để tạo ra lợi thế cạnh tranh. Ngược lại,
hợp tác xuất hiện khi các doanh nghiệp nhận ra lợi ích của việc chia sẻ kiến thức, công
nghệ hoặc nguồn lực để cùng phát triển. Ví dụ, các công ty công nghệ có thể hợp tác để
nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới hoặc các doanh nghiệp trong cùng chuỗi cung ứng
có thể hợp tác để tối ưu hóa quy trình sản xuất và phân phối.
Tại Việt Nam, có thể thấy rõ mối quan hệ này qua hai ví dụ cụ thể. Thứ nhất, trong
ngành bán lẻ, các chuỗi siêu thị như WinMart và Bách Hóa Xanh cạnh tranh gay gắt về
giá cả, chương trình khuyến mãi và địa điểm cửa hàng để thu hút khách hàng. Đồng thời,
họ cũng hợp tác với các nhà cung cấp để đảm bảo nguồn hàng ổn định và chất lượng. Thứ
hai, trong ngành công nghệ thông tin, các tập đoàn lớn như FPT và Viettel cạnh tranh
trong việc cung cấp các dịch vụ viễn thông, phần mềm và giải pháp công nghệ. Tuy
nhiên, họ cũng hợp tác trong một số dự án lớn như dự án xây dựng phần mềm tiện ích
cho doanh nhân. Đây là dự án phát triển các phần mềm tiện ích, ứng dụng trên mobile,
netbook, PCs hướng tới nhóm đối tượng khách hàng là các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ,
chủ cửa hàng,… FPT Software và Viettel kỳ vọng dự án này sẽ là sự mở đầu thuận lợi
cho sự hợp tác lâu dài giữa hai bên đồng thời mở ra hướng đi mới trong việc phát triển
sản phẩm đóng gói của FPT Software. Việc hai tập đoàn này chia sẻ cơ sở hạ tầng và
cùng nhau đầu tư vào nghiên cứu phát triển góp phần giúp nâng cao năng lực cạnh tranh
của ngành công nghệ Việt Nam.
vThứ ba, quan hệ lợi ích giữa những người lao động:
Trong nền kinh tế thị trường, nhiều người muốn bán sức lao động. Để thực hiện lợi
ích kinh tế của mình, người lao động không chỉ phải quan hệ với người sử dụng lao động,
mà còn phải quan hệ với nhau. Nếu có nhiều người bán sức lao động, người lao động
phải cạnh tranh với nhau. Hậu quả là tiền lương của người lao động bị giảm xuống và
một bộ phận người lao động bị sa thải. Để hạn chế mâu thuẫn lợi ích kinh tế trong nội bộ,
đặc trưng với những người sử dụng lao động, những người lao động đã thành lập tổ chức
riêng. Sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa
những người lao động trong giải quyết các
mối quan hệ là rất cần thiết nhưng phải dựa trên các quy định của pháp luật.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, ngư nghiệp tại Việt Nam, những người lao động
thường hợp tác thành các hợp tác xã hoặc tổ hợp tác. Họ cùng nhau chia sẻ nguồn lực,
kinh nghiệm và thị trường tiêu thụ. Ví dụ, các tổ hợp tác trồng rau sạch ở Đà Lạt cùng 15
nhau đầu tư hệ thống tưới tiêu, chia sẻ kỹ thuật canh tác và bán sản phẩm cho các siêu thị,
mang lại thu nhập ổn định cho các thành viên. Hay tại các khu công nghiệp tỉnh Bình
Dương, những người lao động nào có chung mối quan tâm về tiền lương, điều kiện làm
việc và các chế độ phúc lợi sẽ cùng nhau tham gia vào tổ chức công đoàn Bình Dương để
bảo vệ quyền lợi của mình hoặc hỗ trợ lẫn nhau trong các vấn đề liên quan đến công việc
và cuộc sống. Trong lĩnh vực dịch vụ như vận tải công nghệ, những người lao động có
thể tạo ra các nhóm hoặc cộng đồng để chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và hỗ trợ lẫn nhau.
Ví dụ, các tài xế xe ôm công nghệ đến từ các doanh nghiệp khác nhau như Grab, Be,
XanhSM có thể cùng nhau chia sẻ thông tin về các tuyến đường, khách hàng và các vấn
đề liên quan đến công việc thông qua các diễn đàn điện tử, mạng xã hội…
vThứ tư, quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm và lợi ích xã hội:
Trong cơ chế thị trường, cá nhân tồn tại dưới nhiều hình thức. Người lao động và
người sử dụng lao động là thành viên của xã hội nên mỗi người đều có lợi ích cá nhân và
có quan hệ chặt chẽ với lợi ích xã hội. Nếu người lao động và người sử dụng lao động
làm việc theo đúng các quy định của pháp luật và thực hiện được các lợi ích kinh tế của
mình, họ đã góp phần phát triển nền kinh tế, thực hiện lợi ích kinh tế của xã hội. Khi lợi
ích kinh tế của xã hội được thực hiện, xã hội phát triển sẽ tạo lập môi trường thuận lợi để
người lao động và người sử dụng lao động thực hiện tốt hơn các lợi ích kinh tế của mình.
Lợi ích cá nhân là lợi ích của 1 thành viên trong xã hội khi tham gia vào hoạt động kinh tế.
Lợi ích nhóm: Là lợi ích của các cá nhân của tổ chức hoạt động trong cùng ngành
cùng lĩnh vực có sự liên kết với nhau để thể hiện tốt lợi ích riêng.
Lợi ích xã hội: Là tổng các lợi ích cá nhân. Lợi ích cá nhân được thực hiện sẽ làm
phát triển nền kinh tế thực hiện được lợi ích kinh tế của xã hội.
Tại Việt Nam, các doanh nghiệp hàng không như Vietnam Airlines hoạt động
trong một mạng lưới tương tác phức tạp giữa lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm và lợi ích xã
hội. Lợi ích cá nhân của các cổ đông và ban lãnh đạo được thúc đẩy bởi mục tiêu tối đa
hóa lợi nhuận, thể hiện qua giá trị cổ phiếu và hiệu quả kinh doanh. Lợi ích nhóm, đặc
biệt là thông qua Hiệp hội Doanh nghiệp Hàng không Việt Nam thể hiện sự phối hợp giữa
các hãng hàng không để bảo vệ lợi ích chung như vận động chính sách, chia sẻ thông tin
thị trường và hợp tác trong các vấn đề an toàn và an ninh hàng không. Đồng thời, các
doanh nghiệp hàng không đóng góp vào lợi ích xã hội bằng cách tạo ra việc làm, đóng
thuế cho nhà nước, thúc đẩy tăng trưởng du lịch và kinh tế cũng như cung cấp dịch vụ 16
vận chuyển thiết yếu cho người dân và doanh nghiệp. Ví dụ, trong các tình huống khẩn
cấp như thiên tai hoặc dịch bệnh, các hãng hàng không tham gia vào các hoạt động cứu
trợ và vận chuyển hàng hóa, thể hiện trách nhiệm xã hội và đóng góp vào sự ổn định và
phát triển của đất nước.
2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam
vThứ nhất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:
Là phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất của con người, lợi ích
kinh tế trước hết phụ thuộc vào số lượng, chất lượng hàng hóa và dịch vụ, mà điều này lại
phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Do đó, trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất càng cao, việc đáp ứng lợi ích kinh tế của các chủ thể càng tốt.
Sau gần 40 năm đổi mới, lực lượng sản xuất của Việt Nam đã có những bước phát
triển vượt bậc cả trên phương diện chủ thể của lực lượng sản xuất - người lao động và
điều kiện, tiền đề phát triển lực lượng sản xuất - tư liệu sản xuất. Đến năm 2025, lực
lượng lao động ước đạt 53,2 triệu người với cơ cấu chuyển dịch theo chiều hướng tích
cực: Giảm mạnh tỷ lệ lao động nông nghiệp còn 25,8%; tăng nhanh tỷ lệ nguồn nhân lực
đã qua với 70%. Nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư trong các lĩnh vực then chốt như công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo,
công nghệ thông tin được tập trung phát triển, bước đầu hình thành đội ngũ lao động với
tư duy số và kỹ năng số ngày càng được nâng cao. Ngoài ra, tư liệu sản xuất vô hình (dữ
liệu số) ngày càng chiếm vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế. Điều này
chính là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, là cơ sở để Việt Nam chuyển
mạnh sang sản xuất theo chiều sâu, tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh
của nền kinh tế. Do đó, lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay không chỉ đơn thuần là
người lao động thủ công, mà còn là đội ngũ lao động có trình độ khoa học - công nghệ
hiện đại, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin, góp phần làm thay đổi toàn bộ
cấu trúc sức sản xuất trong lực lượng sản xuất mới. Đặc biệt, hiện nay trí tuệ nhân tạo
đang dẫn đầu trong quá trình chuyển đổi số và ngày càng gia tăng qua từng năm.
Mặc dù lực lượng sản xuất mới đang dần hình thành, nhưng vẫn còn những hạn
chế nhất định, chất lượng và hiệu quả vẫn còn khoảng cách khá xa so với yêu cầu của
phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Về nguồn nhân lực, tính tới thời điểm hiện tại, “chỉ 28% lực lượng lao động Việt
Nam có qua đào tạo có chứng chỉ, bằng cấp; ngành công nghiệp chế biến chế tạo chủ yếu
do doanh nghiệp nước ngoài chiếm lĩnh; 72% xuất khẩu của Việt Nam là do các doanh 17
nghiệp FDI thực hiện, 28% do doanh nghiệp trong nước, nhưng chủ yếu là các sản phẩm
nông nghiệp và ngành lao động giản đơn; năng suất lao động bình quân của người lao
động Việt Nam chỉ bằng 7,6% năng suất lao động của Singapore, 19,5% của Malaysia,
37,9% của Thái Lan, 45,6% của Indonesia”. Những hạn chế về trình độ của nguồn nhân
lực đang tạo ra lực cản đáng kể để phát triển lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại, nhất là
tạo ra những khó khăn trong sự kết hợp giữa người lao động và trí tuệ nhân tạo ở một số
ngành sử dụng công nghệ hiện đại.
Về tư liệu sản xuất mới, với chủ trương chuyển đổi số của Chính phủ, mặc dù Việt
Nam đang dần xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin quốc gia cũng như cơ sở dữ liệu thông tin
của các bộ, ngành, địa phương; hình thành nên nguồn tư liệu sản xuất vô hình; tuy nhiên,
“việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa hệ thống thông tin của các bộ, ngành, địa phương và cơ
sở dữ liệu quốc gia chưa thông suốt; nhiều dịch vụ công trực tuyến chất lượng thấp, tỷ lệ
người sử dụng chưa cao”. Do đó, chưa khai thác được tối đa lợi thế của nguồn dữ liệu
phong phú để thúc đẩy phát triển kinh tế số, kinh tế chia sẻ.
vThứ hai, địa vị của chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội:
Quan hệ sản xuất, trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quyết định vị trí,
vai trò của mỗi con người, mỗi chủ thể trong quá trình tham gia các hoạt động kinh tế -
xã hội. Do đó, không có lợi ích kinh tế nằm ngoài những quan hệ sản xuất và trao đổi, mà
nó là sản phẩm của những quan hệ sản xuất và trao đổi, là hình thức tồn tại và biểu hiện
của các quan hệ sản xuất và trao đổi trong nền kinh tế thị trường.
Tại tập đoàn Vingroup - Top 10 Doanh nghiệp Tư nhân lớn nhất Việt Nam, địa vị
của các chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội được thể hiện qua sự phân cấp
quyền lực và lợi ích rõ ràng. Ông Phạm Nhật Vượng, Chủ tịch Hội đồng quản trị, với tư
cách là người sở hữu phần lớn cổ phần, có quyền lực tối cao trong việc định hướng chiến
lược và quyết định các vấn đề quan trọng của tập đoàn. Ban lãnh đạo cấp cao, bao gồm
các tổng giám đốc và giám đốc các bộ phận, chịu trách nhiệm thực thi các chiến lược và
quản lý hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp. Các cổ đông, tùy thuộc vào số lượng cổ
phần nắm giữ, có quyền tham gia vào các quyết định quan trọng thông qua Đại hội cổ
đông. Người lao động tại Vingroup, từ nhân viên văn phòng đến công nhân sản xuất, là
lực lượng trực tiếp tạo ra giá trị sản phẩm và dịch vụ. Họ nhận được lương, thưởng và các
chế độ đãi ngộ theo quy định của công ty và pháp luật lao động. Tuy nhiên, quyền lực của
người lao động trong việc tham gia vào các quyết định quản lý doanh nghiệp còn hạn chế,
chủ yếu thông qua các tổ chức công đoàn và đối thoại với ban lãnh đạo. 18
vThứ ba, chính sách phân phối thu nhập của nhà nước:
Sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường là tất yếu khách quan, thông
qua nhiều loại công cụ, trong đó có các chính sách kinh tế - xã hội. Trong các chính sách
kinh tế - xã hội, chính sách phân phối thu nhập của nhà nước làm thay đổi mức thu nhập
và tương quan thu nhập của các chủ thể kinh tế. Khi mức thu nhập và tương quan thu
nhập thay đổi, phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất cũng thay đổi, tức
là lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế giữa các chủ thể cũng thay đổi.
Kể từ năm 2009 đến nay, lương tối thiểu theo vùng của Việt Nam đã được điều
chỉnh 16 lần. Lần gần đây nhất được quy định tại Nghị định 74/2024/NĐ-CP áp dụng từ
ngày 01/7/2024 đến nay. Theo đó, mức lương tối thiểu vùng năm 2025 là 4,96 triệu
đồng/tháng (vùng I); 4,41 triệu đồng/tháng (vùng II); 3,86 triệu đồng/tháng (vùng III) và
3,45 triệu đồng/tháng (vùng IV). Khi nhà nước quy định mức lương tối thiểu hàng tháng
ở mỗi vùng khác nhau nghĩa là chính sách phân phối thu nhập của nhà nước làm thay đổi
mức thu nhập và tương quan thu nhập giữa các chủ thể kinh tế. Việc điều chỉnh lương tối
thiểu thường xuyên cho thấy sự linh hoạt của Nhà nước trong việc điều chỉnh chính sách
theo tình hình kinh tế thực tế, được cân nhắc dựa trên các yếu tố như tốc độ tăng trưởng
kinh tế, lạm phát, năng suất lao động và khả năng chi trả của doanh nghiệp. Chính sách
này nhằm đảm bảo sự hài hòa giữa việc bảo vệ quyền lợi của người lao động và việc tạo
điều kiện cho doanh nghiệp phát triển bền vững.
vThứ tư, hội nhập kinh tế quốc tế:
Bản chất của kinh tế thị trường là mở cửa hội nhập. Khi mở cửa hội nhập, các
quốc gia có thể gia tăng lợi ích kinh tế từ thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế. Tuy nhiên,
lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp, hộ gia đình sản xuất hàng hóa tiêu thụ trên thị
trường nội địa có thể bị ảnh hưởng bởi cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài. Thông qua
mở cửa hội nhập đất nước có thể phát triển nhanh hơn nhưng cũng phải đối mặt với các
nguy cơ cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường… Điều đó có nghĩa là hội nhập kinh tế
quốc tế sẽ tác động mạnh mẽ và nhiều chiều đến lợi ích kinh tế của các chủ thể.
Trong những năm qua, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành động lực quan trọng
thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước ta. Từ năm 1986, khi Việt Nam bắt đầu công cuộc
đổi mới, mở cửa nền kinh tế và thực hiện chính sách đa phương hóa trong quan hệ quốc
tế, đất nước đã bước vào thời kỳ hội nhập mạnh mẽ. Tuy nhiên, chỉ đến năm 1995, khi
Việt Nam gia nhập ASEAN và Hoa Kỳ tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với
Việt Nam, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam mới thực sự sâu rộng. 19
Việc gia nhập ASEAN đánh dấu một bước ngoặt lớn trong tiến trình hội nhập. Dù
tham gia muộn so với các nước ASEAN khác và khởi đầu từ nền kinh tế còn yếu, Việt
Nam đã nỗ lực không ngừng trên mọi lĩnh vực từ kinh tế đến ngoại giao, góp phần nâng
cao vị thế trong ASEAN và khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Sự ổn định chính trị và
tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ đã giúp Việt Nam trở thành một quốc gia có tiếng nói trọng
lượng trong việc giải quyết các vấn đề của khu vực, đặc biệt là những vấn đề liên quan
trực tiếp đến lợi ích quốc gia như Biển Đông, biến đổi khí hậu, quản lý nguồn nước sông
Mekong, chống khủng bố, và phòng, chống buôn bán ma túy.
Từ thành công bước đầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam tiếp tục
tham gia và chủ trì nhiều diễn đàn quan trọng của khu vực như: Diễn đàn Hợp tác kinh tế
Á - Âu (ASEM), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Đặc biệt,
Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào
năm 2007 - đánh dấu sự hội nhập toàn diện và đầy đủ của Việt Nam vào nền kinh tế toàn cầu.
Việt Nam đã tham gia sáng lập và thực hiện có trách nhiệm các hiệp định thương
mại tự do (FTA) thế hệ mới quan trọng, bao gồm: Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP),
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) và Hiệp định Bảo
hộ đầu tư (EVIPA). Bên cạnh đó, Việt Nam đã chủ trì và tổ chức thành công nhiều sự
kiện quốc tế lớn, đồng thời hoàn thành các trọng trách quốc tế như là Ủy viên không
thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc và Chủ tịch ASEAN vào các nhiệm kỳ 2010
và 2020. Đặc biệt, Việt Nam đã chính thức tham gia các hoạt động giữ gìn hòa bình của
Liên hiệp quốc, góp phần bảo đảm an ninh phi truyền thống và thúc đẩy sứ mệnh hòa bình toàn cầu.
Thông qua hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã phát triển một số ngành kinh tế mũi
nhọn, cải thiện năng suất, chất lượng sản phẩm và tăng cường khả năng cạnh tranh trên
thị trường quốc tế. Nước ta cũng thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhờ môi
trường chính trị ổn định và vị trí chiến lược ở Đông Nam Á. Đồng thời, Việt Nam đã đa
dạng hóa thị trường xuất khẩu, giảm sự phụ thuộc vào các thị trường truyền thống và đạt
thặng dư thương mại, cho thấy sự phát triển bền vững và năng lực cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. 20