Lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn gốc, bản chất, đặc trưng và chức năng của nhà nước | Trường Đại học Đồng Tháp

Lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn gốc, bản chất, đặc trưng và chức năng của nhà nước | Trường Đại học Đồng Tháp. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 5 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LEENIN VỀ NGUỒN GỐC, BẢN
CHẤT, ĐẶC TRƯNG VÀ CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC
Lịch sử cho thấy không phải khi nào xã hội cũng có nhà nước. Trong xã hội
nguyên thủy, do còn thấp kém, chưa có sự phân hóa giai cấp, cho nên chưa kinh tế
có nhà nước. Đứng đầu các là các (hay ) do thị tộc bộ lạc tộc trưởng tộc chủ
những người dân ở đó bầu ra, quyền lực của những người đứng đầu thuộc về uy tín
, việc điều chỉnh các được thực hiện bằng những quy tắc đạo đức quan hệ xã hội
chung, những tập quán trong cộng đồng. Trong tay họ không có và không cần một
công cụ cưỡng bức đặc biệt nào.
- Sự ra đời của nhà nước:
F. Engels đã mô tả sự ra đời của nhà nước trên cơ sở sự tan rã của chế độ
thị tộc. Theo đó xã hội loài người qua quá trình phát triển đã dẫn đến sự phát triển
không ngừng của . Vào thời cổ đại đã diễn ra ba lần phân lực lượng sản xuất công
lao động xã hội.
Chăn nuôi tách khỏi trồng trọt là đòn bẩy cho kinh tế và hình thành mầm mống tư
hữu
Lần phân công thứ nhất, đã trở thành một ngành kinh tế độc lập vàchăn nuôi
tách ra khỏi , từ đây mầm mống của chế độ phát triển và "trồng trọt tư hữu gia
đình cá thể đã trở thành một lực lượng đang đe dọa thị tộc"
[3]
Lần phân công thứ hai, tách ra khỏi , lần phân thủ công nghiệp nông nghiệp
công này dẫn đến hình thành bước đầu với số lượng nô lệ ngày chế độ nô lệ
càng tăng và họ bị đẩy đi làm việc ở ngoài và trong xưởng thợ, đồng ruộng
thành từng đoàn mười người, người hai người một điều đó cho thấy sự phân
[4]
hóa xã hội, sâu sắc.phân tầng xã hội
Lần phân công thứ ba, sản xuất tách bạch với trao đổi dẫn đến sự xuất hiện
của tầng lớp , lần đầu tiên xuất hiện một giai cấp tuy không tham thương nhân
gia sản xuất một tý nào nhưng lại chiếm toàn bộ quyền lãnh đạo sản xuất và bắt
những người sản xuất phụ thuộc vào mình về mặt kinh tế… và bóc lột cả hai,
một giai cấp mà lịch sử loài người trước đó chưa hề biết đến.
[5]
Qua ba lần phân công lao động này cho thấy phát triển dẫn lực lượng sản xuất
đến năng suất tăng, làm ra ngày càng nhiều, và dẫn đến có của cải lao động của cải
dư thừa kèm theo đó là sự tích trữ, đồng thời xuất hiện một bộ phận chiến đoạt của
cải dư thừa đó (do nắm quyền quản lý, cai quản) hoặc giàu lên nhờ tích trữ, đầu
từ đây đã có sự phân hóa giàu nghèo, giữa người có của và người không có của,
sự phân hóa giàu nghèo này dẫn đến hiện tượng phân tầng xã hội, phân chia thành
các tầng lớp khác nhau từ đó dẫn đến phân chia giai cấp đồng thời và kéo theo xuất
hiện mâu thuẫn giai cấp và điều không tránh khỏi là lúc này nhàđấu tranh giai cấp,
nước đã có tiền đề rõ ràng cho sự ra đời của mình. Như vậy là Nhà nước đã xuất
hiện một cách khách quan, nó là sản phẩm của một xã hội đã phát triển đến một
giai đoạn nhất định, nó không phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt và xã hội
mà là một lực lượng nảy sinh từ xã hội, một lực lượng tựa hồ như đứng trên xã hội,
có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng
trật tự. Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là , xuất hiện
[8]
nhà nước Chiếm hữu nô lệ
trong cuộc đấu tranh không điều hoà giữa giai cấp và giai cấp . Tiếp đóchủ nô nô lệ
, Nhà nước Phong kiến Nhà nước Tư sản Nhà nước Xã hội chủ và sau cùng là
nghĩa.
- Nguyên nhân trực tiếp
Nguyên nhân trực tiếp của sự xuất hiện nhà nước là mâu thuẫn giai cấp
không thể điều hoà được. V. I. Lenin nhận định: Nhà nước là sản phẩm và biểu
hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc
nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể
điều hoà được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng
tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà được. Nhà nước chỉ ra đời,
tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội và sẽ mất đi khi
những cơ sở tồn tại của nó không còn nữa.
- Hình thức xuất hiện
Sự xuất hiện nhà nước ở các vùng và của các dân tộc khác nhau cũng có
những đặc điểm khác nhau về kinh tế, xã hội và ngoại cảnh. Theo F. Engels có ba
hình thức xuất hiện điển hình:
Thành bang Athens Cổ đại
Nhà nước Nhã Điển: Là hình thức thuần túy và cổ điển nhất. Nhà nước Nhã
Điển nãy sinh chủ yếu và trực tiếp từ sự đối lập giai cấp và phát triển ngay
trong nội bộ xã hội thị tộc.
Nhà nước La Mã: Là kết quả của cuộc cách mạng với thắng lợi của giới
bình dân chống lại quý tộc Lã Mã nhưng sau một thời gian giới bình dân và quý
tộc hoàn toàn bị hòa tan vào nhau.
Nhà nước của người Nhật Nhĩ Man: Nãy sinh trực tiếp từ việc chinh phục
đất đai rộng lớn của người khác. Tuy người chiến thắng đế chế Nhật Nhĩ Man
La Mã nhưng do nhiều lý do và hoàn cảnh kinh tế như cơ sở kinh tế, trình độ
phát triển kinh tế của người chinh phục và kẻ bị chinh phục, mức độ của cuộc
chiến đấu… nên việc tổ chức xây dựng nhà nước của người Nhật Nhĩ Man có
một số đặc điểm riêng.
- Bản chất giai cấp
Nhà nước ra đời tựa hồ đứng ngoài xã hội, làm cho xã hội tồn tại trong vòng
trật tự nhất định nhưng trên thực tế, chỉ giai cấp có thế lực nhất - giai cấp thống trị
về kinh tế mới có đủ điều kiện lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước. Nhờ có nhà
nước, giai cấp này cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị, và do đó có
thêm những phương tiện mới để đàn áp và bóc lột giai cấp khác.
Đặc trưng:
Các nhà nước được tổ chức một cách khác nhau. Song, theo Chủ nghĩa Mác
– Lênin thì bất kỳ nhà nước nào cũng có ba đặc trưng cơ bản sau:
Quản lý dân cư theo lãnh thổ
Khác với tổ chức thị tộc, bộ lạc thời nguyên thủy được hình thành trên cơ sở
những quan hệ , Nhà nước được hình thành trên cơ sở phân chia dân cưhuyết thống
theo lãnh thổ mà họ . Quyền lực nhà nước có hiệu lực với mọi thành viên cư trú
trong lãnh thổ không phân biệt huyết thống. Đặc trưng này làm xuất hiện mối quan
hệ giữa từng người trong cộng đồng với nhà nước. Mỗi nhà nước được xác định
bằng một quốc gia nhất định. Nhà nước xuất hiện đã lấy sự phân chia biên giới
lãnh thổ làm điểm xuất phát và để cho công dân thực hiện nhưng quyền và nghĩa
vụ xã hội của họ theo nơi cư trú, không kể họ thuộc thị tộc và bộ lạc nào.
Thiết lập quyền lực công cộng
Nhà nước lúc này đã tách phần nào khỏi xã hội và không còn hòa nhập với
dân cư nữa, quyền lực trong xã hội không thuộc về xã hội và thuộc về giai cấp
thống trị. Và để thực hiện quyền lực công cộng cần có một lớp người đặc biệt
chuyên làm nhiệm vụ quản lý và cưỡng chế.
Điều này dẫn đến tổ chức một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp Nhà nước
mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội, khác với các cơ quan
điều hành công việc chung trong thị tộc, bộ lạc, nhà nước của giai cấp thống trị nào
cũng có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp. Bộ máy quyền lực đó bao gồm các
đội vũ trang đặc biệt ( , , , v.v.) và bộ máy quản lý hành quân đội cảnh sát nhà tù
chính mà xã hội (cán bộ, công chức, viên chức, lãnh đạo, quan lại nha sai....) mà xã
hội thị tộc, bộ lạc không hề biết đến trước đó. Nhà nước thực hiện quyền lực của
mình trên cơ sở sức mạnh cưỡng bức của và dùng các thiết chế (tổ chức) pháp luật
bạo lực để pháp luật của mình được thực thi trong thực tế quản lý.
Hệ thống thuế khóa
Nhà nước hình thành hệ thống khóa để duy trì và tăng cường bộ máy thuế
cai trị. Nhà nước không thể tồn tại nếu không dựa vào thuế khóa, quốc trái và các
hình thức bóc lột khác. Đó là những chế độ đóng góp có tính chất cưỡng bức mà
được luật lệ định ra để nuôi sống bộ máy cai trị, chi cho các hoạt động thường
xuyên hay đột xuất của nhà nước. Hệ thống thuế khóa, cống nạp như vậy hoàn toàn
không có trong hình thức tổ chức xã hội thị tộc, bộ lạc. Nó chỉ tồn tại gắn liền với
hình thái tổ chức nhà nước. Bằng các hình thức khác nhau như vậy, nhà nước của
giai cấp bóc lột không những là công cụ trấn áp giai cấp mà còn là công cụ thực
hiện sự bóc lột các giai cấp bị áp bức.
Sỡ dĩ nhà nước phải đặt ra các loại thuế vì bộ máy của nhà nước bao gồm những
người đặc biệt, tách khỏi lao động sản xuất để thực hiện chức năng quản lý, bộ
máy đó phải được nuôi dưỡng từ nguồn tài chính lấy từ khu vực sản xuất trực tiếp
(vì Nhà nước và nhân viên của nó đã tách hẳn khỏi sản xuất nên không thể có thu
nhập). Nếu thiếu thuế thì bộ máy nhà nước không thể tồn tại được và mặt khác chỉ
có nhà nước mới có quyền đặt ra thuế và thu thuế vì nhà nước là tổ chức duy nhất
có tư cách đại diện chính thức của toàn xã hội.
Chức năng:
Bản chất giai cấp của nhà nước được thể hiện ở các chức năng của nó. Tùy
theo góc độ khác nhau, chức năng của nhà nước được phân chia khác nhau. Dưới
góc độ tính chất của quyền lực chính trị, nhà nước có chức năng thống trị chính trị
của giai cấp và chức năng xã hội. Dưới góc độ phạm vi tác động của quyền lực,
nhà nước có chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Trong các yếu tố của kiến
trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có tác dụng quyết định
năng lực hiện thực hóa của một nền kinh tế vì nó là lực lượng vật chất có sức mạnh
kinh tế.
Thống trị và xã hội
Bên cạnh việc nhấn mạnh bản chất giai cấp của nhà nước, F. Engels còn
đánh giá đúng tầm quan trọng về bản chất xã hội của nhà nước
Chức năng thống trị chính trị của giai cấp (hay chức năng giai cấp) là chức
năng nhà nước làm công cụ chuyên chính của một giai cấp nhằm bảo vệ sự thống
trị giai cấp đó đối với toàn thể xã hội. Chức năng giai cấp của nhà nước bắt nguồn
từ lý do ra đời của nhà nước và tạo thành bản chất chủ yếu của nó. Chức năng xã
hội của nhà nước là chức năng nhà nước thực hiện sự quản lý những hoạt động
chung vì sự tồn tại của xã hội, thỏa mãn một số nhu cầu chung của cộng đồng dân
cư nằm dưới sự quản lý của nhà nước.
Trong hai chức năng đó thì chức năng thống trị chính trị là cơ bản nhất có
vai trò chi phối chức năng xã hội phải phụ thuộc và phục vụ cho chức năng thống
trị chính trị. Giai cấp thống trị bao giờ cũng biết giới hạn kiện toàn cách thực hiện
chức năng xã hội trong khuôn khổ lợi ích của mình. Song, chức năng lại là xã hội
cơ sở cho việc thực hiện chức năng giai cấp, bởi vì chức năng giai cấp chỉ có thể
được thực hiện thông qua chức năng xã hội và cũng chỉ thực hiện tốt chức năng xã
hội thì vai trò, tư cách đại biểu, đại diện cho xã hội, toàn thể cộng đồng mới có
hiệu lực nhất.
Đối nội và đối ngoại
Sự thống trị chính trị và sự thực hiện chức năng xã hội của nhà nước thể
hiện trong lĩnh vực đối nội cũng như trong đối ngoại. Chức năng đối nội của nhà
nước nhằm duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị và những trật tự khác hiện có
trong xã hội. Thông thường điều đó phải được pháp luật hóa và được thực hiện nhờ
sự cưỡng bức của bộ máy nhà nước. Ngoài ra, nhà nước còn sử dụng nhiều phương
tiện khác (bộ máy thông tin, , các cơ quan văn hóa, ...) để xác tuyên truyền giáo dục
lập, củng cố tư tưởng, ý chí của giai cấp thống trị, làm cho chúng trở thành chính
thống trong xã hội.
Chức năng đối ngoại của nhà nước nhằm bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia
và thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các nhà nước khác vì lợi
ích của giai cấp thống trị cũng như lợi ích quốc gia, khi lợi ích quốc gia không mâu
thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị. Chức năng đối ngoại là sự liên tục của chức
năng đối nội. Ngày nay, trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế (toàn cầu hóa,
thế giới phẳng) thì việc mở rộng chức năng đối ngoại của nhà nước có tầm quan
trọng đặc biệt.
Nhưng cho dù như thế nào đi chăng nữa, theo quan điểm Mác thì cả hai
chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp
thống trị. Chúng là hai mặt của một thể thống nhất. Tính chất của chức năng đối
nội quyết định tính chất chức năng đối ngoại của nhà nước ngược lại tính chất và
những nhu cầu của chức năng đối ngoại có tác động mạnh mẽ trở lại chức năng đối
nội.
| 1/5

Preview text:

LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LEENIN VỀ NGUỒN GỐC, BẢN
CHẤT, ĐẶC TRƯNG VÀ CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC
Lịch sử cho thấy không phải khi nào xã hội cũng có nhà nước. Trong xã hội
nguyên thủy, do kinh tế còn thấp kém, chưa có sự phân hóa giai cấp, cho nên chưa
có nhà nước. Đứng đầu các và thị tộc
bộ lạc là các tộc trưởng (hay tộc chủ) do
những người dân ở đó bầu ra, quyền lực của những người đứng đầu thuộc về uy tín
và đạo đức, việc điều chỉnh các
được thực hiện bằng những quy tắc quan hệ xã hội
chung, những tập quán trong cộng đồng. Trong tay họ không có và không cần một
công cụ cưỡng bức đặc biệt nào.
- Sự ra đời của nhà nước:
F. Engels đã mô tả sự ra đời của nhà nước trên cơ sở sự tan rã của chế độ
thị tộc. Theo đó xã hội loài người qua quá trình phát triển đã dẫn đến sự phát triển
không ngừng của lực lượng sản xuất. Vào thời cổ đại đã diễn ra ba lần phân công lao động xã hội.
Chăn nuôi tách khỏi trồng trọt là đòn bẩy cho kinh tế và hình thành mầm mống tư hữu 
Lần phân công thứ nhất, chăn nuôi đã trở thành một ngành kinh tế độc lập và
tách ra khỏi trồng trọt, từ đây mầm mống của chế độ tư hữu phát triển và "gia
đình cá thể đã trở thành một lực lượng đang đe dọa thị tộc"[3]  Lần phân công thứ hai, tách ra khỏi thủ công nghiệp nông nghiệp, lần phân
công này dẫn đến hình thành bước đầu
với số lượng nô lệ ngày chế độ nô lệ
càng tăng và họ bị đẩy đi làm việc ở ngoài đồng ruộng và trong xưởng thợ,
thành từng đoàn mười người, người hai người một[4] điều đó cho thấy sự phân
hóa xã hội, phân tầng xã hội sâu sắc. 
Lần phân công thứ ba, sản xuất tách bạch với trao đổi dẫn đến sự xuất hiện
của tầng lớp thương nhân, lần đầu tiên xuất hiện một giai cấp tuy không tham
gia sản xuất một tý nào nhưng lại chiếm toàn bộ quyền lãnh đạo sản xuất và bắt
những người sản xuất phụ thuộc vào mình về mặt kinh tế… và bóc lột cả hai,
một giai cấp mà lịch sử loài người trước đó chưa hề biết đến.[5]
Qua ba lần phân công lao động này cho thấy lực lượng sản xuất phát triển dẫn
đến năng suất lao động tăng, của cải làm ra ngày càng nhiều, và dẫn đến có của cải
dư thừa kèm theo đó là sự tích trữ, đồng thời xuất hiện một bộ phận chiến đoạt của
cải dư thừa đó (do nắm quyền quản lý, cai quản) hoặc giàu lên nhờ tích trữ, đầu
cơ từ đây đã có sự phân hóa giàu nghèo, giữa người có của và người không có của,
sự phân hóa giàu nghèo này dẫn đến hiện tượng phân tầng xã hội, phân chia thành
các tầng lớp khác nhau từ đó dẫn đến phân chia giai cấp đồng thời và kéo theo xuất
hiện mâu thuẫn giai cấp và điều không tránh khỏi là đấu tranh giai cấp lúc này nhà ,
nước đã có tiền đề rõ ràng cho sự ra đời của mình. Như vậy là Nhà nước đã xuất
hiện một cách khách quan, nó là sản phẩm của một xã hội đã phát triển đến một
giai đoạn nhất định, nó không phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt và xã hội
mà là một lực lượng nảy sinh từ xã hội, một lực lượng tựa hồ như đứng trên xã hội,
có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng
trật tự.[8] Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước Chiếm hữu nô lệ, xuất hiện
trong cuộc đấu tranh không điều hoà giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Tiếp đó
là Nhà nước Phong kiến, Nhà nước Tư sản và sau cùng là Nhà nước Xã hội chủ nghĩa. - Nguyên nhân trực tiếp
Nguyên nhân trực tiếp của sự xuất hiện nhà nước là mâu thuẫn giai cấp
không thể điều hoà được. V. I. Lenin nhận định: Nhà nước là sản phẩm và biểu
hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc
nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể
điều hoà được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng
tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà được. Nhà nước chỉ ra đời,
tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội và sẽ mất đi khi
những cơ sở tồn tại của nó không còn nữa. - Hình thức xuất hiện
Sự xuất hiện nhà nước ở các vùng và của các dân tộc khác nhau cũng có
những đặc điểm khác nhau về kinh tế, xã hội và ngoại cảnh. Theo F. Engels có ba
hình thức xuất hiện điển hình: Thành bang Athens Cổ đại 
Nhà nước Nhã Điển: Là hình thức thuần túy và cổ điển nhất. Nhà nước Nhã
Điển nãy sinh chủ yếu và trực tiếp từ sự đối lập giai cấp và phát triển ngay
trong nội bộ xã hội thị tộc. 
Nhà nước La Mã: Là kết quả của cuộc cách mạng với thắng lợi của giới
bình dân chống lại quý tộc Lã Mã nhưng sau một thời gian giới bình dân và quý
tộc hoàn toàn bị hòa tan vào nhau. 
Nhà nước của người Nhật Nhĩ Man: Nãy sinh trực tiếp từ việc chinh phục
đất đai rộng lớn của người khác. Tuy người Nhật Nhĩ Man chiến thắng đế chế
La Mã nhưng do nhiều lý do và hoàn cảnh kinh tế như cơ sở kinh tế, trình độ
phát triển kinh tế của người chinh phục và kẻ bị chinh phục, mức độ của cuộc
chiến đấu… nên việc tổ chức xây dựng nhà nước của người Nhật Nhĩ Man có
một số đặc điểm riêng.
- Bản chất giai cấp
Nhà nước ra đời tựa hồ đứng ngoài xã hội, làm cho xã hội tồn tại trong vòng
trật tự nhất định nhưng trên thực tế, chỉ giai cấp có thế lực nhất - giai cấp thống trị
về kinh tế mới có đủ điều kiện lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước. Nhờ có nhà
nước, giai cấp này cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị, và do đó có
thêm những phương tiện mới để đàn áp và bóc lột giai cấp khác. Đặc trưng:
Các nhà nước được tổ chức một cách khác nhau. Song, theo Chủ nghĩa Mác
– Lênin thì bất kỳ nhà nước nào cũng có ba đặc trưng cơ bản sau:
Quản lý dân cư theo lãnh thổ
Khác với tổ chức thị tộc, bộ lạc thời nguyên thủy được hình thành trên cơ sở
những quan hệ huyết thống, Nhà nước được hình thành trên cơ sở phân chia dân cư
theo lãnh thổ mà họ cư trú. Quyền lực nhà nước có hiệu lực với mọi thành viên
trong lãnh thổ không phân biệt huyết thống. Đặc trưng này làm xuất hiện mối quan
hệ giữa từng người trong cộng đồng với nhà nước. Mỗi nhà nước được xác định
bằng một biên giới quốc gia nhất định. Nhà nước xuất hiện đã lấy sự phân chia
lãnh thổ làm điểm xuất phát và để cho công dân thực hiện nhưng quyền và nghĩa
vụ xã hội của họ theo nơi cư trú, không kể họ thuộc thị tộc và bộ lạc nào.
Thiết lập quyền lực công cộng
Nhà nước lúc này đã tách phần nào khỏi xã hội và không còn hòa nhập với
dân cư nữa, quyền lực trong xã hội không thuộc về xã hội và thuộc về giai cấp
thống trị. Và để thực hiện quyền lực công cộng cần có một lớp người đặc biệt
chuyên làm nhiệm vụ quản lý và cưỡng chế.
Điều này dẫn đến Nhà nước tổ chức một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp
mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội, khác với các cơ quan
điều hành công việc chung trong thị tộc, bộ lạc, nhà nước của giai cấp thống trị nào
cũng có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp. Bộ máy quyền lực đó bao gồm các
đội vũ trang đặc biệt (quân đội, cảnh sát, nhà tù, v.v.) và bộ máy quản lý hành
chính mà xã hội (cán bộ, công chức, viên chức, lãnh đạo, quan lại nha sai....) mà xã
hội thị tộc, bộ lạc không hề biết đến trước đó. Nhà nước thực hiện quyền lực của
mình trên cơ sở sức mạnh cưỡng bức của pháp luật và dùng các thiết chế (tổ chức)
bạo lực để pháp luật của mình được thực thi trong thực tế quản lý. Hệ thống thuế khóa
Nhà nước hình thành hệ thống thuế khóa để duy trì và tăng cường bộ máy
cai trị. Nhà nước không thể tồn tại nếu không dựa vào thuế khóa, quốc trái và các
hình thức bóc lột khác. Đó là những chế độ đóng góp có tính chất cưỡng bức mà
được luật lệ định ra để nuôi sống bộ máy cai trị, chi cho các hoạt động thường
xuyên hay đột xuất của nhà nước. Hệ thống thuế khóa, cống nạp như vậy hoàn toàn
không có trong hình thức tổ chức xã hội thị tộc, bộ lạc. Nó chỉ tồn tại gắn liền với
hình thái tổ chức nhà nước. Bằng các hình thức khác nhau như vậy, nhà nước của
giai cấp bóc lột không những là công cụ trấn áp giai cấp mà còn là công cụ thực
hiện sự bóc lột các giai cấp bị áp bức.
Sỡ dĩ nhà nước phải đặt ra các loại thuế vì bộ máy của nhà nước bao gồm những
người đặc biệt, tách khỏi lao động sản xuất để thực hiện chức năng quản lý, bộ
máy đó phải được nuôi dưỡng từ nguồn tài chính lấy từ khu vực sản xuất trực tiếp
(vì Nhà nước và nhân viên của nó đã tách hẳn khỏi sản xuất nên không thể có thu
nhập). Nếu thiếu thuế thì bộ máy nhà nước không thể tồn tại được và mặt khác chỉ
có nhà nước mới có quyền đặt ra thuế và thu thuế vì nhà nước là tổ chức duy nhất
có tư cách đại diện chính thức của toàn xã hội. Chức năng:
Bản chất giai cấp của nhà nước được thể hiện ở các chức năng của nó. Tùy
theo góc độ khác nhau, chức năng của nhà nước được phân chia khác nhau. Dưới
góc độ tính chất của quyền lực chính trị, nhà nước có chức năng thống trị chính trị
của giai cấp và chức năng xã hội. Dưới góc độ phạm vi tác động của quyền lực,
nhà nước có chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Trong các yếu tố của kiến
trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có tác dụng quyết định
năng lực hiện thực hóa của một nền kinh tế vì nó là lực lượng vật chất có sức mạnh kinh tế.
Thống trị và xã hội
Bên cạnh việc nhấn mạnh bản chất giai cấp của nhà nước, F. Engels còn
đánh giá đúng tầm quan trọng về bản chất xã hội của nhà nước
Chức năng thống trị chính trị của giai cấp (hay chức năng giai cấp) là chức
năng nhà nước làm công cụ chuyên chính của một giai cấp nhằm bảo vệ sự thống
trị giai cấp đó đối với toàn thể xã hội. Chức năng giai cấp của nhà nước bắt nguồn
từ lý do ra đời của nhà nước và tạo thành bản chất chủ yếu của nó. Chức năng xã
hội của nhà nước là chức năng nhà nước thực hiện sự quản lý những hoạt động
chung vì sự tồn tại của xã hội, thỏa mãn một số nhu cầu chung của cộng đồng dân
cư nằm dưới sự quản lý của nhà nước.
Trong hai chức năng đó thì chức năng thống trị chính trị là cơ bản nhất có
vai trò chi phối chức năng xã hội phải phụ thuộc và phục vụ cho chức năng thống
trị chính trị. Giai cấp thống trị bao giờ cũng biết giới hạn kiện toàn cách thực hiện
chức năng xã hội trong khuôn khổ lợi ích của mình. Song, chức năng xã hội lại là
cơ sở cho việc thực hiện chức năng giai cấp, bởi vì chức năng giai cấp chỉ có thể
được thực hiện thông qua chức năng xã hội và cũng chỉ thực hiện tốt chức năng xã
hội thì vai trò, tư cách đại biểu, đại diện cho xã hội, toàn thể cộng đồng mới có hiệu lực nhất.
Đối nội và đối ngoại
Sự thống trị chính trị và sự thực hiện chức năng xã hội của nhà nước thể
hiện trong lĩnh vực đối nội cũng như trong đối ngoại. Chức năng đối nội của nhà
nước nhằm duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị và những trật tự khác hiện có
trong xã hội. Thông thường điều đó phải được pháp luật hóa và được thực hiện nhờ
sự cưỡng bức của bộ máy nhà nước. Ngoài ra, nhà nước còn sử dụng nhiều phương
tiện khác (bộ máy thông tin, tuyên truyền, các cơ quan văn hóa, giáo dục...) để xác
lập, củng cố tư tưởng, ý chí của giai cấp thống trị, làm cho chúng trở thành chính thống trong xã hội.
Chức năng đối ngoại của nhà nước nhằm bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia
và thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các nhà nước khác vì lợi
ích của giai cấp thống trị cũng như lợi ích quốc gia, khi lợi ích quốc gia không mâu
thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị. Chức năng đối ngoại là sự liên tục của chức
năng đối nội. Ngày nay, trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế (toàn cầu hóa,
thế giới phẳng) thì việc mở rộng chức năng đối ngoại của nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt.
Nhưng cho dù như thế nào đi chăng nữa, theo quan điểm Mác thì cả hai
chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp
thống trị. Chúng là hai mặt của một thể thống nhất. Tính chất của chức năng đối
nội quyết định tính chất chức năng đối ngoại của nhà nước ngược lại tính chất và
những nhu cầu của chức năng đối ngoại có tác động mạnh mẽ trở lại chức năng đối nội.