













Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
VIỆN KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN
ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN ĐỀ TÀI:
LÝ LUẬN CỦA V.I. LENIN VỀ CÁC ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ CỦA ĐỘC QUYỀN VÀ
ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TƯ BẢN CHỦ NGHĨA Nhóm: 03
Lớp học phần: 241_RLCP1211_30
Chuyên ngành: Kiểm Toán
Giảng viên hướng dẫn: Vũ Thị Hồng Thắm HÀ NỘI – 2024 1
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ Tên Chức vụ Nhiệm vụ Lê Viết Hưng Nhóm trưởng Thuyết trình Chỉnh sửa nội dung Tập hợp nội dung Trần Hoàng Khánh Huyền Thư ký 1c, 1d Hoàng Ngọc Hà Thành viên 1a, 1b Nguyễn Thị Linh Giang Thành viên Thuyết trình Chỉnh sửa nội dung Phương Thanh Hằng Thành viên 1đ, 2a Nguyễn Viết Hiếu Thành viên 2b, 2c Ngô Khánh Huy Thành viên Làm Slide 2
BIÊN BẢN HỌP NHÓM 3 LỚP HP: 241_RLCP1211_30
Học phần: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN (Lần 1) Thời điểm: 22/09/2024
Hình thức: Online qua Google Meet Thành viên tham gia: STT Họ và tên - 1Lê Viết Hưng 2Trần Hoàng Khánh Huyền 3Hoàng Ngọc Hà 4Nguyễn Thị Linh Giang 5Phương Thanh Hằng 6Nguyễn Viết Hiếu 7Ngô Khánh Huy Mục đích họp nhóm: Thảo luận công việc.
Bầu nhóm trưởng, thư kí. Phân chia nhiệm vụ. - Kết quả họp nhóm:
Lê Viết Hưng, Trần Hoàng Khánh Huyền làm nhóm trưởng, thư kí.
Các thành viên còn lại nắm rõ được nhiệm vụ của mình.
Hoàn thành bảng phân chia công việc và thời hạn. Thư kí Nhóm trưởng 3
BIÊN BẢN HỌP NHÓM 3 LỚP HP: 241_RLCP1211_30
Học phần: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN (Lần 2) Thời điểm: 26/09/2024
Hình thức: Online qua Google Meet Thành viên tham gia: STT Họ và tên - 1Lê Viết Hưng 2Trần Hoàng Khánh Huyền 3Hoàng Ngọc Hà 4Nguyễn Thị Linh Giang 5Phương Thanh Hằng 6Nguyễn Viết Hiếu 7Ngô Khánh Huy Mục đích họp nhóm: Kiểm tra tiến độ.
Thảo luận, rà soát lại vấn đề, kết cấu nội dung Word. - Kết quả họp nhóm:
Hoàn thành tiến độ đề ra.
Hoàn thành bản Word hoàn chỉnh. Thư kí Nhóm trưởng Lời mở đầu 4
Chủ đề "Lý luận của V.I. Lenin về các đặc điểm kinh tế của độc quyền và độc
quyền nhà nước trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa" là một trong những vấn
đề quan trọng trong học thuyết kinh tế của Lenin. Trên cơ sở phân tích sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, V.I. Lenin nhận định rằng sự
phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã dẫn đến sự xuất hiện của các tổ chức
kinh tế độc quyền, đặc biệt là các tập đoàn và liên minh lớn. Ông cho rằng các tổ chức
này không chỉ chi phối thị trường mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách của nhà
nước, dẫn đến sự hình thành của cái gọi là "độc quyền nhà nước tư bản chủ nghĩa."
Đây là giai đoạn cao nhất của chủ nghĩa tư bản, khi sự kết hợp giữa nhà nước và các tổ
chức độc quyền làm gia tăng sự bóc lột và bất công trong xã hội, đồng thời làm sâu sắc
thêm mâu thuẫn giữa các giai cấp.
I. Lý luận của V.I. Lenin về đặc điểm kinh tế của độc quyền
1, Các tổ chức độc quyền có quy mô tích tụ và tập trung tư bản lớn
- Dưới chủ nghĩa tư bản, tích tụ và tập trung sản xuất cao, biểu hiện ở số lượng các xí
nghiệp tư bản lớn chiếm tỷ trọng nhỏ trong nền kinh tế, nhưng nắm giữ và chi phối thị 5
trường. Sự tích tụ và tập trung sản xuất đến mức cao như vậy đã trực tiếp dẫn đến hình
thành các tổ chức độc quyền.
- Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hóa, các tổ chức độc quyền hình thành theo liên
kết ngang, nghĩa là mới chỉ liên kết những doanh nghiệp trong cùng một ngành, nhưng
về sau theo mối liện hệ dây chuyền, các tổ chức độc quyền đã phát triển theo liên kết
dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác nhau.
- Về mặt lịch sử, các hình thức tổ chức độc quyền cơ bản từ thấp đến cao, bao gồm:
Cartel, Syndicate, Trust, Consortium.
+ Cartel là hình thức tổ chức độc quyền trong đó các xí nghiệp tư bản lớn ký các hiệp
nghị thỏa thuận với nhau về giá cả, sản lượng hàng hóa, thị trường tiêu thụ, kỳ hạn
thanh toán... Các xí nghiệp tư bản tham gia cartel vẫn độc lập cả về sản xuất và lưu
thông hàng hóa. Họ chỉ cam kết thực hiện đúng hiệp nghị đã ký, nếu làm sai sẽ bị phạt
tiền theo quy định của hiệp nghị. Vì vậy, cartel là liên minh độc quyền không vững
chắc. Trong một vài trường hợp, những thành viên thấy ở vào vị trí bất lợi đã rút ra
khỏi cartel, làm cho chúng thường tan vỡ trước kỳ hạn.
Ví dụ: Cartel thường xuất hiện trong các ngành có ít công ty tham gia và sản phẩm
có tính chất tương tự, như ngành dầu mỏ, khí đốt, hay ngành dược phẩm. Một ví dụ nổi bật là OPEC...
+ Syndicate là hình thức tổ chức độc quyền cao hơn, ổn định hơn cartel. Các xí nghiệp
tư bản tham gia syndicate vẫn giữ độc lập về sản xuất, chỉ không độc lập ở khâu lưu
thông hàng hóa (một ban quản trị chung của syndicate thực hiện nhiềm vụ này). Mục
đích của syndicate là thống nhất đầu mối mua và bán để mua nguyên liệu với giá rẻ,
bán hàng hóa với giá đắt nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao
Ví dụ: Các syndicate thường được thấy trong các dự án tài chính hoặc bảo hiểm,
Syndicate trong ngân hàng đầu tư: Một nhóm các ngân hàng hợp tác để phát hành cổ
phiếu hoặc trái phiếu của một công ty lớn. Chẳng hạn, trong các đợt IPO (Phát hành
cổ phiếu lần đầu), một số ngân hàng sẽ liên kết với nhau để chia sẻ rủi ro và lợi nhuận.
+ Trust là hình thức độc quyền cao hơn cartel và syndicate. Trong trust thì cả việc xản
suất, tiêu thụ hàng hóa đều do một ban quản trị chung thống nhất quản lý. Các xí
nghiệp tư bản tham gia trust trở thành những cổ đông để thu lợi nhuận theo số lượng cổ phần.
Ví dụ: Standard Oil Trust là một trong những trust nổi tiếng nhất trong lịch sử nước
Mỹ, được thành lập bởi John D. Rockefeller, kiểm soát phần lớn ngành công nghiệp
dầu mỏ của Mỹ vào cuối thế kỷ 19 bằng cách mua lại hoặc kiểm soát các công ty dầu 6
nhỏ hơn. US Steel Trust do J.P. Morgan thành lập, đây là trust trong ngành thép vào
đầu thế kỷ 20, kiểm soát một phần lớn thị trường thép tại Mỹ bằng cách thâu tóm và
hợp nhất nhiều công ty nhỏ hơn.
+ Consortium là hình thức tổ chức độc quyền có trình độ và quy mô lớn hơn các hình
thức độc quyền trên. Tham gia consortium không chỉ có các xí nghiệp tư bản lớn mà
còn có cả các syndicate, các trust, thuộc các ngành khác nhau nhưng liên quan với
nhau về kinh tế, kỹ thuật. Với kiểu liên kết dọc như vậy, một consortium có thể có
hàng trăm xí nghiệp liên kết trên cơ sở hoàn toàn phụ thuộc về tài chính vào một nhóm
các nhà tư bản kếch xù. Ví dụ: Airbus là
một liên minh giữa các công ty hàng không vũ trụ từ nhiều nước
châu Âu (Pháp, Đức, Tây Ban Nha và Anh) nhằm phát triển và sản xuất các dòng máy
bay thương mại lớn như Airbus A320 và A380. European Space Agency (ESA) của
22 quốc gia châu Âu hợp tác nghiên cứu và phát triển các dự án không gian như vệ tinh và thăm dò vũ trụ.
2, Sức mạnh của các tổ chức độc quyền do tư bản tài chính và hệ thống tài phiệt chi phối
- Song song với quá trình tích tụ và tập trung sản xuất trong cộng nghiệp, trong ngân
hàng cũng diễn ra quá trình tích tụ, tập trung dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền trong ngân hàng.
- Quy luật tích tụ, tập trung trong ngân hàng cũng giống như trong công nghiệp, do quá
trình cạnh tranh, các ngân hàng vừa và nhỏ bị phá sản hoặc bị thôn tính và hình thành các ngân hàng lớn.
- Khi sản xuất trong ngành công nghiệp tích tụ, tập trung ở mức độ cao, các ngân hàng
nhỏ không đủ tiềm lực và uy tín để phục vụ cho việc kinh doanh của các doanh nghiệp
công nghiệp lớn. Trong điều kiện đó, các ngân hàng vừa và nhỏ bắt buộc phải phá sản
hoặc tự sáp nhập vào các ngân hàng lớn để tồn tại, sống còn trước quy luật cạnh tranh
khốc liệt. Chính điều này đã thúc đẩy các tổ chức độc quyền ngân hàng ra đời.
- Sự xuất hiện, phát triển của các tổ chức độc quyền trong ngân hàng đã làm thay đổi
quan hệ giữa các ngân hàng và doanh nghiệp công nghiệp, làm cho ngân hàng có vai
trò mới: từ chỗ ngân hàng chỉ là trung gian trong việc thanh toán và tín dụng, thì nay
đã nắm được hầu hết lượng tiền tệ của xã hội nên có quyền lực "vạn năng", khống chế
mọi hoạt động của nền kinh tế - xã hội. 7
- Quá trình độc quyền hóa trong công nghiệp và ngân hàng có quan hệ chặt chẽ với
nhau làm nảy sinh một loại hình tư bản mới, gọi là tư bản tài chính. Sự phát triển của
tư bản tài chính dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ những nhà tư bản kếch xù chi
phối toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị của toàn xã hội, gọi là tài phiệt.
Ví dụ: John D. Rockefelle thành lập công ty Standard Oil vào cuối thế kỷ 19 và trở
thành người giàu nhất thế giới vào thời điểm đó; Bill Gates sáng lập Microsoft, là một
trong những tài phiệt công nghệ vĩ đại nhất của thời đại; Elon Musk sáng lập SpaceX, Tesla...
+ Các tài phiệt thực hiện sự thống trị của mình thông qua "chế độ tham dự". Thực
chất của "chế độ tham dự" là một nhà tài chính lớn, hoặc một tập đoàn tài chính mua
số cổ phiếu khống chế, chi phối một công ty lớn nhất - công ty gốc gọi là "công ty
mẹ"; công ty này lại mua được cổ phiếu khống chế, thống trị các "công ty con"; "công
ty con" đến lượt nó lại chi phối các "công ty cháu"
+ Nhờ có "chế độ tham dự" và phương pháp tổ chức tập đoàn théo kiểu móc xích như
vậy, bằng một lượng tư bản đầu tư nhỏ, mà tài phiệt có thể khống chế và điều tiết được
một lượng tư bản lớn gấp nhiều lần.
+ Ngoài "chế độ tham dự, tài phiệt còn sử dụng những thủ đoạn như lập công ty mới,
phát hành trái khoán, kinh doanh công trái, đầu cơ chứng khoán ở sở giao dịch, đầu cơ
ruộng đất... để thu lợi nhuận độc quyền cao. Về mặt chính trị, hệ thống các nhà tài
phiệt chi phối mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, đặc biệt là chi phối các chính
sách đối nội, đối ngoại của nhà nước, biến nhà nước tư sản thành công cụ phục vụ lợi
ích cho chúng, do chúng thống trị được về kinh tế.
3, Xuất khẩu tư bản trở thành phổ biến
- Đối với các tập đoàn độc quyền, việc đưa tư bản ra nước ngoài để tìm kiếm nơi đầu
tư có lợi nhất trở thành phổ biến, gắn liền với sự tồn tại của các tổ chức độc quyền.
- Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước ngoài)
nhằm mục đích thu lợi nhuận và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập khẩu tư
bản, có thể được thực hiện dưới hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp:
+ Đầu tư trực tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí nghiệp mới
hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư để trực tiếp kinh
doanh thu lợi nhuận cao, biến nó thành một chi nhánh của “công ty mẹ” ở chính quốc. 8
Các xí nghiệp mới hình thành thường tồn tại dưới dạng hỗn hợp song phương hoặc đa
phương, nhưng cũng có những xí nghiệp toàn bộ vốn là của công ty nước ngoài.
Ví dụ: Samsung đã đầu tư trực tiếp hàng tỷ USD để xây dựng các nhà máy sản xuất
điện thoại di động và thiết bị điện tử tại Việt Nam. Các nhà máy này không chỉ phục
vụ cho nhu cầu địa phương mà còn sản xuất để xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Toyota
công ty ô tô của Nhật Bản, đã đầu tư hàng tỷ USD vào các nhà máy sản xuất tại Mỹ.
Đây là hình thức đầu tư trực tiếp khi Toyota thiết lập cơ sở sản xuất tại một quốc gia
khác và tham gia quản lý hoạt động kinh doanh.
+ Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc cho vay để thu lợi tức, mua cổ
phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông
qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia
quản lý hoạt động đầu tư.
Ví dụ: Một quỹ đầu tư của Mỹ mua cổ phiếu của tập đoàn VinGroup tại thị trường
chứng khoán Việt Nam. Mặc dù sở hữu cổ phần, nhưng quỹ này không tham gia vào
việc quản lý hay điều hành công ty; Các nhà đầu tư Nhật Bản có thể mua trái phiếu
chính phủ Anh để hưởng lãi suất, nhưng họ không có quyền kiểm soát đối với các
quyết định của chính phủ Anh về tài chính hoặc quản lý kinh tế.
4, Cạnh tranh để phân chia thị trường thế giới là tất yếu giữa các tập đoàn độc quyền
- Quá trình tích tụ và tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản tăng lên cả về
quy mô và phạm vi tất yếu dẫn tới sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các tập
đoàn tư bản độc quyền và hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế.
- Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản đã chứng tỏ thị trường trong nước luôn gắn
với thị trường ngoài nước. Đặc biệt trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, thị
trường ngoài nước còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước tư bản. V.I.
Lênin nhận xét: "Bọn tư sản chia nhau thế giới, không phải do tính độc ác đặc biệt
của chúng, mà do sự tập trung đã tới mức độ buộc chúng phải đi vào con đường ấy để kiếm lời"
- Sự đụng độ trên trường quốc tế giữa các tổ chức độc quyền có sức mạnh kinh tế hùng
hậu lại được sự ủng hộ của nhà nước “của mình” và các cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa
chúng tất yếu dẫn đến xu hướng thỏa hiệp, ký kết các hiệp định, để củng cố địa vị độc
quyền của chúng trong những lĩnh vực và những thị trường nhất định. Từ đó hình
thành các liên minh độ quyền quốc tế dưới dạng Cartel, Syndicate, Trust quốc tế. 9
Ví dụ: Boeing (Mỹ) và Airbus (châu Âu) là hai tập đoàn hàng không lớn nhất thế
giới, thường xuyên cạnh tranh nhau để giành hợp đồng cung cấp máy bay cho các hãng
hàng không toàn cầu. Hai công ty này đã và đang tìm cách phân chia thị trường hàng
không bằng cách lôi kéo khách hàng từ các khu vực khác nhau, như Mỹ, châu Âu,
Trung Đông, và châu Á. Cả hai tập đoàn này liên tục đầu tư vào phát triển công nghệ
mới, chẳng hạn như máy bay tiết kiệm nhiên liệu hoặc thân thiện với môi trường, để
thu hút các hãng hàng không và mở rộng thị phần. Họ cũng cạnh tranh về giá cả, dịch
vụ hậu mãi và quan hệ đối tác với các hãng hàng không lớn.
5, Lôi kéo, thúc đẩy các chính phủ vào việc phân định khu vực lãnh thổ ảnh
hưởng là cách thức để bảo vệ lợi ích độc quyền
- V.I. Lenin đã chỉ ra rằng: “Chủ nghĩa tư bản phát triển càng cao, nguyên liệu càng
thiếu thốn, sự cạnh tranh gay gắt và việc tìm kiếm các nguồn nguyên liệu trên thế giới
càng ráo riết, thì cuộc đấu tranh để chiếm thuộc địa càng quyết liệt hơn”.
- Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến những cuộc chiến tranh là do sự phân
chia lãnh thổ và phát triển không đều của các cường quốc tư bản. Theo V.I. Lênin,
trong thời đại chủ nghĩa để quốc tư bản, hàng loạt hình thức lệ thuộc có tính chất quá
độ của các nước đã ra đời. Nếu không lệ thuộc về chính trị, thì nhiều nước có thể bị
mắc vào cái lưới phụ thuộc về tài chính và ngoại giao.
- Từ sau nửa thế kỉ XX, hệ thống thuộc địa kiểu cũ đã sụp đổ nhưng chủ nghĩa thực
dân vẫn còn tồn tại và sử dụng chính sách thực dân mới, dùng viện trợ để khiến các
nước đang phát triển lệ thuộc vào mình bằng kinh tế, kĩ thuật và quân sự. Đứng đằng
sau, hậu thuẫn cho các quốc gia tư bản luôn có vai trò của các tập đoàn tư bản độc quyền.
Như vậy, năm đặc điểm kinh tế cơ bản của độc quyền dưới hình thức tư bản có
quan hệ chặt chẽ với nhau, nói lên bản chất thống trị của tư bản độc quyền. Đó cũng là
biểu hiện của phương thức thực hiện lợi ích của đế chế độc quyền trong giai đoạn độc
quyền của chủ nghĩa tư bản.
II. Lý luận của V.I. Lênin về đặc điểm kinh tế của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản
Trong điều kiện thống trị, dẫn đầu của độc quyền tư nhân trong chế độ tư bản
chủ nghĩa, một mặt nó phát triển nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, mặt khác hạn 10
chế quyền lực, đe dọa ổn định của chế độ chính trị. Từ sự phát triển của lực lượng sản
xuất, độc quyền nhà nước đã được ra đời và có các đặc trưng kinh tế chủ yếu sau:
1, Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và nhà nước
-V.I. Lênin đã từng nhấn mạnh sự liên minh cá nhân của các ngân hàng với công
nghiệp được bổ sung bằng sự liên minh cá nhân của ngân hàng, công nghiệp với chính
phủ: “Hôm nay là Bộ trưởng, ngày mai là chủ ngân hàng, hôm nay là chủ ngân hàng,
ngày mai là Bộ trưởng”, từ đó chỉ ra rằng, tư bản độc quyền đã sử dụng các đảng phái
để thống trị và trực tiếp xây dựng nên bộ máy nhà nước.
- Đứng đằng sau các đảng phái này là một lực lượng có quyền lực rất hùng hậu, như:
Hội Công nghiệp toàn quốc Mỹ, Liên đoàn các nhà kinh tế Nhật Bản, Liên minh liên
bang công nghiệp Đức, Tổng liên đoàn công thương Anh… Chính các chủ xí nghiệp
này đã trở thành chỗ dựa to lớn cho các nhà tư sản trong lĩnh vực kinh tế, chính trị.
- Các hội chủ xí nghiệp thông qua đảng phái của giai cấp tư sản, cung cấp kinh phí, tự
quyết định về mặt nhân sự, chính sách, kinh tế của các đảng, đồng thời cũng tham gia
vào việc thành lập bộ máy nhà nước ở các cấp. Thậm chí chúng còn được gọi là
“những chính phủ đằng sau chính phủ”, “một quyền lực thực tế đằng sau quyền lực”.
- Các đại biểu của các tổ chức độc quyền tham gia, cài cắm lẫn nhau vào bộ máy nhà
nước từ trung ương đến địa phương và ngược lại nhắm nắm giữ chức vụ trọng yếu,
hoặc thành người đỡ đầu của của tổ chức độc quyền. Sự thâm nhập lẫn nhau (sự kết
hợp) này đã tạo nên những biểu hiện mới trong mối quan hệ chặt chẽ giữa các tổ chức
độc quyền và cơ quan nhà nước.
Ví dụ: Henry Paulson, từng là Giám đốc điều hành (CEO) của Goldman Sachs, một
trong những tập đoàn tài chính lớn nhất thế giới, sau đó trở thành Bộ trưởng Tài chính
Mỹ dưới thời Tổng thống George W. Bush từ 2006-2009. Trong nhiệm kỳ của mình,
Paulson đã đóng vai trò quan trọng trong việc đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính
năm 2008, và các quyết định của ông thường bị cho là thiên về lợi ích của các tập đoàn
tài chính, bao gồm cả Goldman Sachs.
2, Sự hình thành và phát triển sở hữu nhà nước
- Sở hữu trong độc quyền nhà nước là sở hữu tập thể của giai cấp tư sản, của tư bản
độc quyền có nhiệm vụ ủng hộ và phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền nhằm duy trì
sự tồn tại, phát triển của chủ nghĩa tư bản. Nó biểu hiện không những ở chỗ sở hữu nhà
nước tăng lên mà còn ở sự tăng cường mối quan hệ cá nhân giữ sở hữu nhà nước và sở 11
hữu độc quyền tư nhân, hai loại sở hữu này đan xen với nhau trong quá trình tuần hoàn
của tổng tư bản xã hội.
- Sở hữu nhà nước không chỉ bao gồm bất động sản và bất động sản cần cho hoạt động
chính trị mà còn gồm doanh nghiệp trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, như:
y tế, giao thông vận tải, giáo dục, quân đội...
- Nguồn của sở hữu nhà nước được hình thành thông qua nhiều hình thức khác nhau,
như: xây dựng các doanh nghiệp nhà nước bằng vốn ngân sách, quốc hữu hóa các
doanh nghiệp tư nhân, mua cổ phần của các doanh nghiệp tư nhân, mở rộng doanh
nghiệp nhà nước bằng vốn tích lũy...
- Sở hữu nhà nước thực hiện ba chức năng chính, bao gồm:
+ Mở rộng sản xuất tư bản chủ nghĩa: Bành trướng địa bàn, bảo đảm thị trường rộng
lớn cho sự phát triển của chế độ độc quyền.
+ Điều tiết kinh tế: Tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển tư bản, đầu tư vào các
ngành sản xuất khác nhau, chuyển từ những ngành ít lãi hơn sang các ngành khác có
hiệu quả hơn một cách nhanh chóng, thuận tiện
+ Làm chỗ dựa: Hỗ trợ cho sự điều tiết kinh tế của nhà nước theo những chương trình nhất định
Ví dụ: Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) là một ví dụ điển hình về sở hữu nhà
nước, EVN đảm nhận vai trò cung cấp điện cho toàn quốc và được quản lý trực tiếp
bởi nhà nước. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan quản lý tiền tệ, ngân hàng
nhà nước giữ vai trò kiểm soát các chính sách tài chính, tiền tệ, góp phần vào sự ổn định của nền kinh tế.
- Sự hình thành thị trường độc quyền nhà nước:
+ Nhà nước chủ động mở rộng thị trường bằng cách bao mua sản phẩm thông qua hợp
đồng ký kết với các doanh nghiệp độc quyền. Các hợp đồng giữa nhà nước và các tổ
chức độc quyền giúp các tổ chức này khắc phục khó khăn, đảm bảo quá trình sản xuất diễn ra bình thường.
+ Sự tiêu thụ của nhà nước thực hiện qua những đơn đặt hàng của nhà nước với độc
quyền tư nhân, tiêu biểu là về quân sự do nhu cầu đảm bao an ninh quốc phòng lớn
dần ở mỗi quốc gia. Các hợp đồng này đảm bảo độc quyền tư nhân thu về lợi nhuận
lớn và ổn định, do tỷ suất lợi nhuận sản xuất hàng đặc biệt cao hơn tỷ suất lợi nhuận thông thường. 12
3, Độc quyền nhà nước trở thành công cụ để nhà nước điều tiết nền kinh tế
- Để điều tiết nền kinh tế, nhà nước tư sản sử dụng nhiều công cụ, trong đó có công cụ
độc quyền nhà nước. Hệ thống điều tiết của nhà nước tư sản hình thành một tổng thể
những thiết chế và thể chế kinh tế của nhà nước, gồm bộ máy quản lý gắn với hệ thống
chính sách có thể điều tiết sự vận động kinh tế toàn dân.
- Sự điều tiết được thực hiện dưới nhiều hình thức như: hướng dẫn, kiểm soát, uốn nắn
những lệch lạc bằng các công cụ kinh tế và hành chính-pháp lý, cả ưu đãi và trừng
phạt, những giải pháp chiến lược dài hạn lập kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế, khoa
học, bảo vệ môi trường.... và các giải pháp ngắn hạn khác.
- Nhà nước tư sản điều tiết, thực hiện chính sách kinh tế thông nhiều yếu tố: ngân sách,
thuế, hệ thống tiền tệ, tín dụng, doanh nghiệp nhà nước, kế hoạch hóa, pháp luật.
- Bộ máy điều tiết: bao gồm các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và có sự tham
gia của các đại diện từ tập đoàn tư bản độc quyền. Ngoài ra còn các tiểu ban được tổ
chức dưới hình thức khác nhau, thực hiện tư vấn nhằm lái đường lối phát triển theo
hướng của tổ chức độc quyền.
- Mục tiêu nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của các cơ chế khác
nhau (thị trường, độc quyền tư nhân, điều tiết nhà nước) để phục vụ lợi ích của chủ
nghĩa tư bản độc quyền.
Ví dụ: Ở Việt Nam, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) là đơn vị độc quyền cung
cấp điện cho toàn quốc. Nhà nước sử dụng sự độc quyền này để điều tiết giá điện và
bảo đảm an ninh năng lượng. Thông qua EVN, chính phủ có thể điều chỉnh giá điện
theo nhu cầu xã hội, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ phát triển các vùng xa, nơi mà việc
cung cấp điện có thể không có lợi nhuận nếu để tư nhân đầu tư. Độc quyền của EVN
cũng cho phép nhà nước quản lý và thực hiện các chính sách ưu đãi về giá điện cho
người dân thu nhập thấp, đồng thời đầu tư vào các dự án năng lượng tái tạo, như điện gió và điện 13 Tổng kết
Tóm lại, lý luận của V.I. Lenin về các đặc điểm kinh tế của độc quyền và độc
quyền nhà nước trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã chỉ ra bản chất phát
triển tất yếu của chủ nghĩa tư bản đến giai đoạn cao nhất. Sự kết hợp giữa nhà nước và
các tổ chức kinh tế độc quyền không chỉ làm gia tăng sự bóc lột trong xã hội mà còn
tạo ra những mâu thuẫn sâu sắc, dẫn đến khủng hoảng và bất ổn. Những phân tích của
V.I. Lenin vẫn giữ nguyên giá trị trong việc lý giải những hiện tượng kinh tế hiện đại,
khi mà sự tác động của các tập đoàn đa quốc gia và vai trò của nhà nước trong nền
kinh tế vẫn là vấn đề được quan tâm trong bối cảnh toàn cầu hóa. 14