Lý luận của V.I Lênin về cách mạng xã hội chủ nghĩa trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” để từ đó phân tích và liên hệ sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách mạng tháng Tám | Tiểu luận môn chủ nghĩa xã hội khoa học

V.I Lênin - một học trò xuất sắc của Mác, một lãnh tụ lỗi lạc của giai cấp công nhân và phong trào cộng sản thế giới, Người đã có nhiều công lao trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ chủ nghĩa Mác chân chính, ngoài ra Lênin cũng đã viết rất nhiều bài nghiên cứu về nhiều khía cạnh khác nhau. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

TR NG Đ I H C S PH M KỸỸ THU T TP. HCMƯỜ Ư
KHOA LÝ LU N CHÍNH TR

MÔN HỌC: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
LÝ LUẬN CỦA V.I. LÊ NIN VỀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG TÁC PHẨM “NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG “ ;
LIÊN HỆ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
NHÓM MẶT TRỜI
GVHD: Th.S Đặng Thị Minh Tuấn
TP. Hồ Chí Minh, năm 2021
LỜI CẢM ƠN
Thực tế luôn cho thấy, sthành công nào cũng đều gắn liền với sự hỗ trợ,
giúp đỡ của những người xung quanh cho sự giúp đỡ đó ít hay nhiều, trực
tiếp hay gián tiếp. Trong suốt thời gian làm bài tiểu luận đến nay, chúng em đã
nhận được sự quan tâm chỉ bảo, giúp đỡ của thầy cô, gia đình bạn xung
quanh.
Với tấm lòng biết ơn sâu sắc, chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành từ
đáy lòng đến cô – người đã dùng những tri thức và tâm huyết của mình để có thể
truyền đạt cho chúng em vốn kiến thức quý báu, cảm ơn cô đã giúp đỡ và hướng
dẫn chúng em tận tình trong suốt thời gian học tập vừa qua, tạo cho chúng em
những tiền đề, những kiến thức để tiếp cận vấn đề, phân tích giải quyết vấn đề.
Nhờ đó chúng em hoàn thành tốt học bài tiểu luận của mình tốt hơn.
Chúng em cũng xin cảm ơn bạn bè, anh chị đã tận tình chỉ bảo chúng em trong
quá trình hoàn thành bài tiểu luận, tạo cho chúng em hiểu thêm về những kiến
thức thực tế.
Bài tiểu luận này được nhóm em thực hiện trong vòng 2 tuần. Ban đầu
chúng em còn bỡ ngỡ vốn kiến thức còn hạn chế. Do vậy, không tránh khỏi
những thiếu sót, chúng em mong nhận được những ý kiến đóng góp của
các bạn cùng lớp để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn. Những kiến thức này sẽ
hành trang ban đầu cho quá trình làm việc của chúng em sau này. Chúng em
xin gửi lời chúc sức khỏe đến chúc sẽ luôn thành công trên con đường
sự nghiệp của mình.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
DANH SÁCH THÀNH VIÊN
Nhóm Mặt Trời
STT Họ và tên MSSV Tỉ lệ hoàn thành
1 Lưu Nữ Anh Thư 2013615
4
100%
2 Nguyễn Tấn Hưng 2013609
0
100%
3
Bùi Huy Hoàng 20136016
100%
4
Nguyễn Văn Trường Tốt 20133098
100%
5
Nguyễn Ngọc Hiền Vi 20136179
100%
*Ghi chú:
- Tỷ lệ % = 100%
- Trưởng nhóm: Lưu Nữ Anh Thư
Nhận xét của giáo viên:
...................................................................................................................................
...................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
Ngày … tháng … năm 2021
Giáo viên chấm điểm
MỤC LỤC TIỂU LUẬN
PHẦN MỞ ĐẦU........................................ ..................... ..................... ..................... ..................... ............. 1
1. Lý do chọn đề tài................... ..................... ..................... ..................... ..........................................1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài....................................................................................................2
3. Phương pháp nghiên cứu................... ..................... .......................................... .............................2
PHẦN NỘI DUNG........................................ ..................... ..................... ..................... ..................... ......... 3
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA V.I. LÊ NIN VỀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG
TÁC PHẨM “NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG “................................................................................3
1.1. Khái quát tác phẩm “Nhà nước và cách mạng “................... ..................... ..................... .....3
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.........................................................................................3
1.1.2. Lý do viết tác phẩm........................................ ..................... ..................... ..................... .....4
1.1.3. Kết cấu của tác phẩm................... ..................... ..................... ..................... ..................... ..5
1.1.4. Một số nội dung của tác phẩm "Nhà nước và cách mạng"............. ...............................6
1.2. Những luận điểm cơ bản của Lênin về Nhà nước................................................................6
1.2.1. Bản chất giai cấp của Nhà nước........................................................................................6
1.2.2. Thái độ của cách mạng xã hội chủ nghĩa đối với Nhà nước của giai cấp tư sản............8
1.2.3. Thực chất học thuyết Nhà nước của chủ nghĩa Mác - chuyên chính vô sản................ ...9
1.2.4. Hình thức Nhà nước của giai cấp vô sản................... ..................... ..................... ............11
1.2.5. Cơ sở kinh tế của Nhà nước tiêu vong, hai giai đoạn của xã hội cộng sản chủ nghĩa. .12
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM NHÀ NƯỚC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM..............................................................................................13
2.1. Bối cảnh lịch sử và tình hình nước ta trong cách mạng tháng Tám..................................13
2.1.1. Bối cảnh lịch sử nước ta trong cách mạng tháng Tám...................................................13
2.1.2. Tình hình nước ta trong cách mạng tháng Tám......................................................... ....15
2.2. Kết quả của việc vận dụng quan điểm Nhà nước của Lê-Nin vào Đảng Cộng Sản Việt
Nam trong cách mạng tháng Tám...................................................................................................16
PHẦN KẾT LUẬN......................................................... ..................... ..................... ..................... ........... 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................... ..................... ..................... .....................20
LÝ LUẬN CỦA V.I. LÊ NIN VỀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG TÁC PHẨM “NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG “;
LIÊN HỆ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
V.I Lênin - một học trò xuất sắc của Mác, một lãnh tụ lỗi lạc của giai cấp công nhân
phong trào cộng sản thế giới, Người đã nhiều công lao trong sự nghiệp xây dựng,
phát triển bảo vệ chủ nghĩa Mác chân chính, ngoài ra Lênin cũng đã viết rất nhiều bài
nghiên cứu về nhiều khía cạnh khác nhau. Nhiều tưởng của Người đã trở thành cương
lĩnh đấu tranh và hoạt động của các Đảng cộng sản tiến bộ trên thế giới. Trong công cuộc
xây dựng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo chế thị trường,
sự quản của Nhà nước, theo định hướng hội chủ nghĩa nước ta hiện nay, luận
nhận thức, vấn đề cải tạo thực tiễn nền kinh tế luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối
tượng. Trong hệ thốngluận của V.I Lênin, tư tưởng về Nhà nước luôn có vị trí đặc biệt
quan trọng. Chúng ta vẫn thường nhắc đến từ “Nhà nước” trong ngôn ngữ hàng ngày hay
khi đề cập đến những vấn đề về kinh tế - chính trị - hội, nhưng hiểu biết về Nhà nước
sự tồn tại của trong lịch sử đối với chúng ta còn rất khiêm tốn. tưởng về Nhà
nước không chỉ đơn thuần những vấn đề giả thuyết khoa học còn một mối
liên hệ chặt chẽ đến với đời sống hằng ngày cùng với đó là những quan điểm chính trị sâu
sắc. Theo bản chất, Nhà nước không thể lực lượng điều hòa xung đột giai cấp trái
lại làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt. Tất cả các hoạt động văn hóa, chính trị,
hội do Nhà nước tiến hành, xét đến cùng đều mang lợi ích cho giai cấp thống trị. Tuy
nhiên, “Nhà nước” trong chủ nghĩa Mác-Lênin tác động mạnh mẽ đến thực tiễn cách
mạng của nhiều nước để làm nền tảng hành động, làm chỉ tôn mục đích. Cụ thể Cách
mạng Tháng Tám ở nước ta năm 1945 thành công rực rỡ do nhiều nguyên nhân, trong đó
nguyên nhân quan trọng, ý nghĩa quyết định sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, khéo
léo của Đảng; sự vận dụng phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể
của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo. Đảngphương pháp, chiến
lược, chiến thuật cách mạng phù hợp, linh hoạt; nhận thức được thời cơ, chủ động đón
thời cơ và kiên quyết chớp thời cơ, tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả
nước. Từ đó, các cải cách tiến bộ trong hệ thống quản Nhà nước tiếp tục được diễn ra
1
theo hình thức “Lấy chủ nghĩa Mác- Lênin tưởng Hồ Chí Minh làm chỉ nam cho
mọi hoạt động” xây dựng Nhà nước thống nhất, hoàn thiện thể chế đảm bảo về mặt
pháp lý.
Qua những ý kiến trên ta cũng thấy được Nhà nước một vai trò cùng quan
trọng đối với cách mạng của nhiều quốc gia trên thế giới. tưởng về Nhà nước của V.I
Lênin sở đầu tiên cho những thay đổi tiến bộ trong quá trình cải cách hoàn thiện
Nhà nước. Từ đó, ta cũng thấy được nhiều nét tương đồng trong sự vận hành đối với Nhà
nước pháp quyền Việt Nam. Vì thế, nhóm chúng em quyết định chọn đề tài “Lý luận của
V.I Lênin về cách mạng hội chủ nghĩa trong tác phẩm “Nhà nước cách mạng”
để từ đó phân tích liên hệ sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách
mạng tháng Tám.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu của bài tiểu luận này tìm hiểu về luận của V.I. Lênin về cách mạng hội
chủ nghĩa trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”; liên hệ sự vận dụng của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong cách mạng tháng Tám.
Để đạt được mục tiêu này, tiểu luận tập trung vào các nhiệm vụ sau:
- Trình bày, phân tích luận của V.I. Lênin về cách mạng hội chủ nghĩa trong
tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”.
- Đánh giá khách quan về những phân tích của Lênin, liên hệ sự vận dụng của Đảng
cộng sản Việt Nam trong cách mạng tháng Tám.
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ
nghĩa duy vật biện chứng.
Đồng thời trong quá trình nghiên cứu tác giả còn kết hợp các phương pháp như: đánh giá,
phân tích, tổng hợp, logic- lịch sử… và các phương pháp cụ thể như: đọc tài liệu, tổng
hợp tài liệu…
2
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA V.I. LÊ NIN VỀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA TRONG TÁC PHẨM “NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG “
1.1. Khái quát tác phẩm “Nhà nước và cách mạng “
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Lênin nhiều tác phẩm phát triển học thuyết về Nhà nước của Mác như: “Tai họa sắp
đến những phương pháp ngăn ngừa tai họa đó”; “Những người Bônsêvich sẽ giữ
được chính quyền hay không? Nhiệm vụ trước mắt của chính quyền viết”; “Cách
mạng sản tên phản bội Cau Xky”; “Bàn về Nhà nước, Kinh tế chính trị trong thời
kỳ chuyên chính vô sản”; “Thà ít mà tốt”… nhưng tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”
tác phẩm chủ yếu nhất, tiêu biểu nhất. Đây toàn bộ luận về Nhà nước, những
quan điểm về một Nhà nước kiểu mới - Nhà nước sản đầu tiên trên thế giới của
Lênin.
Tác phẩm này được viết trong hoàn cảnh trước ngày nổ ra Cách mạng Tháng Mười (từ
tháng 7 đến tháng 8 năm 1917). Để tránh sự bắt bớ của Chính phủ lâm thời lúc bấy giờ,
Lênin phải ẩn náu trong nhà một người công nhân ở ga Rađơlít trên biên giới Nga - Phần
Lan, về sau lại ẩn náu trong túp lều tranh phía sau hồ Radơlip để hoạt động viết tác
phẩm này. Sống trong hoàn cảnh mật, Lênin không một phút nào ngừng hoạt động
cách mạng, Người vẫn giữ mối liên hệ với Trung ương Đảng. Thời gian ở đây, Lênin viết
thêm 60 bài báo, sách và thư từ. Trong số đó có tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” nổi
tiếng, nó được viết ra như có sự hối thúc của thời cuộc, như dành riêng cho giai cấp công
nhân để giành lấy chính quyền.
Trong tác phẩm này, Lênin không những đã khôi phục được quan điểm của Mác
Ăngghen về Nhà nước mà còn phát triển một bước học thuyết của chủ nghĩa Mác về Nhà
nước và chuyên chínhsản. Sau đó không lâu, Lênin có ý muốn viết tiếp phần thứ hai
của tác phẩm này - một bài tổng kết những kinh nghiệm của cuộc Cách mạng Nga năm
1905 và năm 1917; tổng hợp lại những kinh nghiệm mới của chính quyền Xô viết để tiếp
tục phát huy làm phong phú thêm học thuyết về Nhà nước của mình. Rất tiếc, Lênin
3
chưa kịp làm công việc đó thì Người đã từ trần. Đây một thiệt thòi lớn cho nhân loại,
cho những nước đi theo con đường của Lênin.
1.1.2. Lý do viết tác phẩm
Tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” được viết với ba lý do sau đây:
Một là, trong lời tựa lần xuất bản thứ nhất tác phẩm này, Lênin cũng đã chỉ rõ: “Hiện
nay, vấn đề Nhà nước một ý nghĩa quan trọng đặc biệt về phương diện luận cũng
như về phương diện chính trị - thực tiễn”. Theo Lênin, vấn đề Nhà nước bao giờ cũng là
vấn đề bản của mọi cuộc cách mạng. Đúng như Mác đã tổng kết cuộc cách mạng
Pháp 1848 - 1851 trong tác phẩm “Ngày mười tám tháng Sương mù” của Lui Bônapac
đã viết: Các chính Đảng lần lượt nối gót nhau đấu tranh giành chính quyền, đều coi
việc đoạt lấy tòa lâu đài Nhà nước đồ sộ kia chiến lợi phẩm chủ yếu của kẻ chiến
thắng.”
Khi giai cấp sản giành được chính quyền thì sức mạnh của Đảng được thực hiện
thông qua Nhà nước, Đảng sẽ lãnh đạo được toàn xã hội. Lênin dự đoán được cuộc Cách
mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga nhất định sẽ thành công, chính quyền Xô viết sẽ
về tay công nông. Để giúp giai cấp vô sản hiểu về Nhà nước, biết cách quản lý Nhà nước
của mình, Người đã viết tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”.
Hai là, trong thời điểm năm 1917, chủ nghĩa bản đã phát triển đến giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa - chủ nghĩa tư bản phân chia thị trường, xâm chiếm lãnh thổ thuộc địa và
chính chủ nghĩa đế quốc đã làm cho mâu thuẫn của chủ nghĩa bản căng thẳng sâu
sắc cực độ. Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) nổ ra hòng phân chia thế giới
dập tắt phong trào cách mạng của công nhân các nước, nhưng kết quả thì ngược lại.
Cuộc chiến tranh này đã tập trung tất cả mâu thuẫn của chủ nghĩa bản (mâu thuẫn
giữa sản với sản, giữa chủ nghĩa đế quốc với nhân dân các nước thuộc địa nửa
thuộc địa, giữa chủ nghĩa đế quốc với chủ nghĩa đế quốc) đã làm tăng nhanh sâu sắc
thêm quá trình biến chủ nghĩa bản tự do cạnh tranh (chủ nghĩa bản lũng đoạn)
thành chủ nghĩa bản lũng đoạn Nhà nước (chủ nghĩa đế quốc). Đồng thời đẩy nhanh
thêm những tai họa chưa từng làm tăng thêm tinh thần cách mạng của nhân dân.
Kết quả là đẩy cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản thêm nhanh và thuận lợi:
- Phong trào cách mạng vô sản thế giới phát triển rầm rộ.
- Thời cơ giai cấp vô sản giành lấy chính quyền từ tay giai cấp tư sản đã chín muồi.
- Vấn đề giai cấp vô sản và quan hệ đối với Nhà nước được đặt ra.
- Việc giai cấp sản trực tiếp tổ chức trang cuộc cách mạng sản giành chính
quyền bằng bạo lực đã trở thành vấn đề hành động thực tế trước mắt.
4
Lênin khẳng định: Chủ nghĩa đế quốc là đêm trước của cách mạng vô sản. Vì vậy, vấn đề
Nhà nước được đặt ra một cách cấp bách. Tác phẩm “Nhà nước cách mạng” chính
sự chuẩn bị lý luận về Nhà nước và cách mạng cho giai cấp vô sản giành chính quyền
nắm lấy chính quyền, là cương lĩnh xây dựng Nhà nước của giai cấpsản, vũ trang về
mặt lý luận cho giai cấp vô sản và quần chúng cách mạng Nga, làm cho những hoạt động
khởi nghĩa vũ trang có sự chỉ đạo lý luận mác- xít.
Ba là, viết “Nhà nướccách mạng”, Lênin muốn đập tan luận điệu của bọn cơ hội
Quốc tế II (điển hình Becstanh Causky), mưu toan chống lại những nguyên về
Nhà nước của Mác, chống lại việc xây dựng phương pháp cách mạng để thay thế Nhà
nước tư sản bằng Nhà nước vô sản. Bọn cơ hội, xét lại ở Quốc tế II ra sức bảo vệ lý luận
phát triển, bảo vệ hòa bình để chuyển từ chủ nghĩa bản thành chủ nghĩa hội. Còn
bọn chính phủ thì tìm cách chống lại bất kỳ một Nhà nước nào, kể cả Nhà nước
chuyên chính vô sản.
Trước tình hình đó, Lênin cho rằng, nếu không đấu tranh kiên quyết chống những thiên
biến hội chủ nghĩa về vấn đề Nhà nước thì không thể đấu tranh giải phóng quần
chúng cần lao khỏi ảnh hưởng của giai cấp sản nói chung. Những ý tưởng đó đã thúc
giục Người bắt tay viết “Nhà nước và cách mạng”.
1.1.3. Kết cấu của tác phẩm
Kết cấu cuốn sách gồm 2 phần:
- Phần 1: Trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn ra đời của tác phẩm; những nội dung cơ bản
về Nhà nước và cách mạng trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”;
- Phần 2: Trình bày các quan niệm, những nhân tố tác động đến xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay và những nội dung xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Tác phẩm “Nhà nước cách mạng” chia làm 6 chương, nội dung rất phong phú, được
trình bày một cách hệ thống và sâu sắc:
- Chương 1: Xã hội có giai cấp và Nhà nước.
- Chương 2: Nhà nước và cách mạng. Kinh nghiệm những năm 1848 - 1851.
- Chương 3: Nhà nước và cách mạng. Kinh nghiệm Công xã Pari 1871. Sự phân tích của
Mác.
- Chương 4: Tiếp theo. Những lời giải thích bổ sung của Ăngghen.
- Chương 5: Những cơ sở kinh tế để Nhà nước tiêu vong.
- Chương 6: Bọn cơ hội chủ nghĩa tầm thường hóa chủ nghĩa Mác.
1.1.4. Một số nội dung của tác phẩm "Nhà nước và cách mạng"
5
- Lê-nin bảo vệ phát triển quan điểm chủ nghĩa Mác về vấn đề bản chất, nguồn
gốc, đặc trưng của Nhà nước
- Tư tưởng của Lênin về chuyên chính vô sản và Nhà nước chuyên chính vô sản
- Quan điểm của Lênin về nhà nước của giai cấp tư sản hiện nay và tính tất yếu của
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
1.2. Những luận điểm cơ bản của Lênin về Nhà nước
1.2.1. Bản chất giai cấp của Nhà nước
Lênin vạch ra nguồn gốc giai cấp, xã hội của sự xuất hiện Nhà nước. Không phải hội
loài người xuất hiện làNhà nước. Nhà nước là một phạm trù lịch sử chỉ xuất hiện
trong hội khi sự phân chia giai cấp đấu tranh giai cấp. hội cộng sản nguyên
thủy chưa Nhà nước, khi hội nguyên thủy tan rã, hội phân chia thành các giai
cấp đối kháng không thể điều hòa được mới đẻ ra Nhà nước. Trong những tổ chức thị
tộc, bộ lạc củahội công xã nguyên thủy chưa có của riêng, không phân chia giai cấp,
toàn thể thành viên trong xã hội bình đẳng. Người cầm đầu là do mọi thành viên cử ra
trách nhiệm chăm sóc lợi ích toàn hội. Vì vậy, trong hội căn bản không cần
thiết có một uy lực chính trị nào đặt lên trên xã hội, do đó Nhà nước cũng không có khả
năng tồn tại.
Do lực lượng sản xuất phát triển, dần dần đẻ ra việc sử dụng của riêng và nô lệ, làm cho
hội phân chia thành chủ lệ, thành người giàu bần cùng, sự phân chia
này đã phá vỡ quan hệ bình đẳng giúp đỡ nhau giữa mọi người trong xã hội dẫn tới quan
hệ đối kháng giai cấp, mối liên hệ này ngày càng không thể điều hòa được, giai cấp
thống trị (chủ nô) cần có một tổ chức quyền lực xã hội đặc biệt để chế ngự giai cấp bị áp
bức (nô lệ), tổ chức đó Nhà nước. Từ đây ta thể thấy Nhà nước một sản phẩm
lịch sử, ra đời theo sự xuất hiện giai cấp. Nhà nước bộ máy đặc biệt để khống chế
người khác và chỉ có thể xuất hiện trong xã hội phân chia giai cấp.
Lênin đưa ra khái niệm về Nhà nước: “Nhà nước sản phẩm biểu hiện của những
mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, một quan thống trị giai cấp,
quan áp bức của một giai cấp này đối với một giai cấp khác; một bộ máy cho phép
một giai cấp này được áp bức một giai cấp khác.”
Những nhà tư tưởng của giai cấp tư sảntiểu tư sản tìm mọi cách xuyên tạc chủ nghĩa
Mác Lênin về Nhà nước. Bọn chúng nói bừa rằng, “Nhà nước cái siêu giai cấp để
duy trì trật tự xã hội”, là bộ máy “điều hòa” lợi ích của các giai cấp đối lập. Đây là điểm
bất đồng giữa Lênin và bọn cơ hội.
Xem xét các Nhà nước trong lịch sử, ta thấy:
6
- Nhà nước của chế độ lệ: Bọn chủ nắm lấy Nhà nước để áp bức nhân đạo với
nô lệ.
- Nhà nước của chế độ phong kiến: Bọn địa chủ nắm lấy Nhà nước để áp bức nhân
đạo với nông dân.
- Nhà nước của giai cấp tư sản: Giai cấp tư sản nắm lấy Nhà nước để trấn áp giai cấp
sản.
- Còn Nhà nước vô sản công khai tuyên bố rằng: Nhiệm vụ thứ nhất của nó là trấn áp sự
phản kháng của giai cấp bóc lột đã bị lật đổ cho đến khi triệt để tiêu diệt chúng.
Như vậy, bọn cơ hội chủ nghĩa về mặt luận không thể phủ nhận được Nhà nước
quan thống trị giai cấp, cũng không chối cãi được mâu thuẫn giai cấp không thể điều
hòa được. Nhưng họ đã quên và tìm cách bỏ qua, xóa nhòa một điều là: nếu Nhà nước
sản phẩm của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, nếu Nhà nước một
lực lượng đặt trên hội ngày càng trở nên xa lạ với hội, thì ràng việc giải
phóng giai cấp bị áp bức không thể thực hiện được nếu không tiến hành một cuộc cách
mạng bạo lực, cũng không thể thực hiện được nếu không thủ tiêu bộ máy chính
quyền Nhà nước do giai cấp thống trị tự dựng nên.
Bọn chúng không muốn cách mạng bạo lực, không muốn lật đổ bộ máy Nhà nước của
giai cấp tư sản, mà tiến hành bằng biện pháp cải lương trong điều kiện bảo tồn nó.
Theo Lênin, nhà nước không phải là bộ máy “duy trì trật tự xã hội” mà là “công cụ thống
trị của một giai cấp này đối với một giai cấp khác”, không phải là bộ máy “điều hòa giai
cấp” mà là một bộ máy áp bức giai cấp, không phải là vật sở hữu của toàn dân mà chỉ có
thể vật sở hữu của một số người. Do đó Nhà nước không nhượng lại được, “không
điều hòa được”. Từ khi hội giai cấp đến nay, người ta đều giành lấy giang sơn
(Nhà nước). Bản chất về Nhà nước là chuyên chính về giai cấp.
1.2.2. Thái độ của cách mạng hội chủ nghĩa đối với Nhà nước của giai cấp
sản
Về nguyên tắc Lênin nói, giai cấp vô sản tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa giành lấy
chính quyền về tay mình, thì phải đập tan bộ máy Nhà nước của giai cấp tư sản. Lênin so
sánh Nhà nước của giai cấp sản Nhà nước của giai cấp sản như sau: Nhà nước
của giai cấp sản công cụ của tuyệt đại đa số người lao động trấn áp một thiểu số
bọn bóc lột, công cụ để xóa bỏ ách bóc lột và giai cấp, xây dựng chủ nghĩa hội
chủ nghĩa cộng sản. Nhà nước của giai cấp sản công cụ của một thiểu số bọn bóc
lột trấn áp tuyệt đại đa số người lao động, là công cụ để bảo vệ và củng cố chế độ bóc lột
này hay chế độ bóc lột khác.
7
Lênin chỉ ra rằng: “Cần phải dùng bạo lực cách mạng, dùng cách mạng vô sản để xóa bỏ
Nhà nước của giai cấp tư sản, chứ không thể làm cho nó “tự tiêu vong”, còn đối với Nhà
nước của giai cấp vô sản, cần phải làm cho nó “tự tiêu vong” chứ không dùng bạo lực để
xóa bỏ. “ Đó là cơ sở của toàn bộ học thuyết về Nhà nước của Mác và Ăngghen.
Bọn chính phủ đã phủ nhận nhu cầu Nhà nước của giai cấp sản lẫn lộn sự khác
nhau về nguyên tắc giữa hai kiểu Nhà nước. Bọn chúng chủ trương: bất cứ Nhà nước
nào cũng đều phải xóa bỏ bằng bạo lực, còn bọn cơ hội chủ trương đối với Nhà nước
sản để cho nó “tự tiêu vong”, chuyển nhượng hòa bình cho giai cấp vô sản nhằm thủ tiêu
cách mạng vô sản thủ tiêu chuyên chính vô sản, thực chất là thủ tiêu Nhà nước vô sản.
Các giai cấp thống trị trong hội phân chia giai cấp bóc lột trong lịch sử thường bảo
tồn, cải lương bộ máy Nhà nước đã giành được, làm cho hoàn bộ hơn để phục vụ
cho giai cấp thống trị của bọn bóc lột mới. Vào cuối thế kỷ XVIII, giai cấp sản Pháp
từ chế độ phong kiến bước sang chủ nghĩa bản, vẫn sử dụng, bảo tồn bộ máy trấn
áp trước kia để phục vụ cho mình. Nguyên nhân chính là xuất phát từ lợi ích giai cấp và
yêu cầu giai cấp có tính chất bóc lột và tự tư tự lợi.
Thái độ của giai cấp sản đối với bộ máy Nhà nước sản thì khác hẳn, họ cần phải
đập tan, phá bỏ Nhà nước sản, xây dựng lại bộ máy Nhà nước mới, Nhà nước sản
không phải để phục vụ cho giai cấp bóc lột, để trấn áp, tiêu diệt giai cấp bóc lột.
Lênin tổng quát ý kiến của Mác qua những cuộc cách mạng 1848 - 1851 1871. Mác
cho rằng: Nhiệm vụ của cách mạng sau này - tức là cách mạng vô sản - không phải là cải
tiến về hình thức bộ máy Nhà nước tư sản hoặc làm cho nó hoàn bộ hơn mà là đập tan bộ
máy ấy.
1.2.3. Thực chất học thuyết Nhà nước của chủ nghĩa Mác - chuyên chính vô sản
Chuyên chính vô sản là nội dung cơ bản của cách mạng vô sản, học thuyết chuyên chính
sản học thuyết chủ yếu của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thừa nhận hay không thừa
nhận chuyên chính sản ranh giới phân biệt giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với chủ
nghĩa cơ hội “tả” hoặc hữu.
Lênin đã kế thừa phát triển một cách xuất sắc học thuyết của Mác - Ăngghen về
chuyên chính sản. “Nhà nước cách mạng” tác phẩm thể hiện xuất sắc về học
thuyết này. Học thuyết chuyên chính vô sản của chủ nghĩa Mác có một lịch sử lâu dài và
phong phú. Từ 1848, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác Ăngghen nêu
tưởng của chuyên chính sản là: Giai cấp sản phải giành quyền thống trị chính
trị. Sau khi trải qua cách mạng Pháp 1848 - 185l, Mác rút ra kết luận quan trọng là: nếu
không dùng bạo lực đập tan bộ máy Nhà nước của giai cấp sản thì cách mạng sản
không thể thắng lợi, chính quyền của giai cấp vô sản cũng không thể dựng lên được. Sau
8
Công Pari 1871, Mác đặt ra vấn đề là: giai cấp sản sau khi đập tan bộ máy Nhà
nước tư sản, thì thay vào bằng hình thức nhà nước nào?
Năm 1875, trong tác phẩm “Phê phán Cương lĩnh Gôta”, đã trình bày một số vấn đề
hết sức quan trọng về Nhà nước chuyên chính sản trong thời kỳ quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
Đến thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản thì học thuyết chuyên chính vô sản
của chủ nghĩa Mác đã bước sang một giai đoạn mới, Lênin không những khôi phục học
thuyết của Mác - Ăngghen, đập tan mọi sự xuyên tạc của mọi chủ nghĩa hội đối với
học thuyết này đồng thời phát triển nó, đề ra và giải quyết một số vấn đề mới quan trọng.
Trong bức thư gửi Vâyđơmaye ngày 5 tháng 3 năm 1852, Mác cho rằng, điều mới mẻ
mà Mác đã làm và đã chứng minh là:
- Sự tồn tại của giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn lịch sử nhất định của sự phát
triển sản xuất.
- Đấu tranh giai cấp tất nhiên đưa đến chuyên chính vô sản.
- Bản thân sự chuyên chính chỉ bước quá độ tiến lên xóa bỏ mọi giai cấp tiến lên
một xã hội không có giai cấp.
Đối với luận điểm này, trong “Nhà nước và cách mạng”, Lênin trình bày rằng: kẻ nào chỉ
thừa nhận có đấu tranh giai cấp không thôi, thì kẻ đó vẫn chưa phải là một người mácxít,
chỉ người nào mở rộng việc thừa nhận đấu tranh giai cấp đến việc thừa nhận chuyên
chính sản thì mới người mác-xít. Lênin đấu tranh kiên quyết chống chủ nghĩa
hội “tả” và hữu xuyên tạc chủ nghĩa Mác về chuyên chính vô sản.
Lênin trình bày sự tất yếu và thực chất của chuyên chính vô sản, phát triển và làm phong
phú thêm nguyên lý đó bằng những kinh nghiệm cách mạng mới:
- Phát triển thêm một bước về tính chất của chuyên chính vô sản: Chuyên chính vô
sản công cụ của cách mạng sản, sự thống trị của giai cấp sản đối với
giai cấp tư sản. Khối công - nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp sản một
chính quyền không chia sẻ cho ai hết trực tiếp dựa vào lực lượng
trang của quần chúng.
- Phát triển tư tưởng về đội tiên phong của giai cấp sản tức chính đảng của
giai cấp vô sản: Đảng của giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo của chuyên chính
sản lên chuyên chính sản tức Nhà nước của giai cấp sản cần phải
đảng lãnh đạo, đó là một trong những tư tưởng cơ bản của tác phẩm Nhà nước và
cách mạng.
Lênin chỉ rõ ràng: Trong cuộc đấu tranh cho chuyên chính vô sản và xây dựng chủ nghĩa
xã hội, cần phải làm cho Đảng có đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của
tất cả những người lao động và những người bị bóc lột. Nếu không có Đảng lãnh đạo, thì
giai cấp sản tất cả nhân dân lao động không thể lật đổ giai cấp sản, không thể
9
giành được thắng lợi của cách mạng hội chủ nghĩa, không thể xây dựng được chủ
nghĩa xã hội.
Ngoài ra chuyên chính vô sản còn có những nhiệm vụ cơ bản đó là :
+ Trấn áp sự phản kháng của bọn bóc lột đã bị đánh đổ và củng cố những thắng lợi
của mình.
+ Xây dựng khối liên minh công - nông, giai cấp sản giai cấp nửa sản
dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản.
Sử dụng chính quyền vô sản để tổ chức chế độ xã hội chủ nghĩa, dẫn dắt toàn dân
tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ chức một chế độ mới.
1.2.4. Hình thức Nhà nước của giai cấp vô sản
Hình thức Nhà nước của giai cấp sản nền chuyên chính sản cần áp dụng hình
thức Nhà nước nào để thực hiện nhiệm vụ lịch sử của bước quá độ từ chủ nghĩa bản
lên chủ nghĩa cộng sản. Do đó, hình thức Nhà nước của giai cấp sản một bộ phận
quan trọng trong toàn bộ học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong “Nhà nước và cách mạng”, Lênin chỉ rõ rằng, trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa cộng sản sẽ xây dựng hình thức Xô viết của chuyên chính vô sản.
Năm 1848, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác Ăngghen cho rằng, giai cấp
sản dựng lên quyền thống trị của mình bằng cách dùng bạo lực lật đổ giai cấp sản
đặt ra vấn đề Nhà nước, tức giai cấp sản đã được tổ chức thành giai cấp thống
trị. Đến thời kỳ cách mạng Pháp 1848 - l851 đến trước CôngPari 1871, trong tác
phẩm “Ngày mười tám tháng Sương mù” của Lui Bônapac, Mác tổng kết kinh nghiệm
lịch sử của cuộc cách mạng Pháp nhận định rằng, từ nay về sau, giai cấp sản tiến
hành cách mạng cần phải tập trung mọi sức mạnh của mình để phá hủy, đập tan bộ máy
nhà nước cũ. Thời kỳ Công xã Pari đến trước cách mạng Nga 1905 và tháng 2 năm 1917,
hai ông tìm ra được mẫu hình thức kiểu Nhà nước mới của giai cấp sản thay thế bộ
máy Nhà nước tư sản.
Thời kỳ 2 cuộc cách mạng Nga 1905 và tháng 2 năm 1917, Lênin đã tìm ra rằng, Xô viết
hình thức nhà nước mới của nhà nước sản. viết là một hình thức Nhà nước của
giai cấp tư sản cao hơn và toàn bộ hơn Công xã Pari. Bắt đầu từ khi chính quyền Xô viết
xuất hiện đã kết thúc thời đại của chế độ đại nghị dân chủ sản, đã mở ra một
chương mới của lịch sử toàn thế giới.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, do điều kiện lịch sử mới,các nước dân chủ nhân
dân lại xuất hiện một hình thức Nhà nước mới khác của Nhà nước sản - chính quyền
dân chủ nhân dân. Chính quyền dân chủ nhân dân viết hai hình thức chính
quyền giống nhau - chính quyền liên minh giữa giai cấp công nhân với những người lao
10
động. Sự phát triển này làm phong phú thêm học thuyết về hình thức nhà nước sản
của Lênin.
Trong tác phẩm “Nhà nước cách mạng”, khi trình bày hình thức Nhà nước của
chuyên chính vô sản, Lênin còn nêu nguyên tắc tổ chức của hình thức Nhà nước vô sản.
Nguyên tắc tổ chức của hình thức Nhà nước vô sản là chế độ tập trung dân chủ tập trung
dân chủ vừa nguyên tắc tổ chức của một chính đảng, vừa nguyên tắc tổ chức của
một hình thức Nhà nước do giai cấp sản lãnh đạo. Hai loại hình thức Nhà nước
viết và dân chủ nhân dân đều tuân thủ nguyên tắc này.
1.2.5. sở kinh tế của Nhà nước tiêu vong, hai giai đoạn của xã hội cộng sản chủ
nghĩa
Trong tác phẩm “Nhà nước cách mạng” Lênin định nghĩa một cách khoa học, toàn,
diện sâu sắc vấn đề này khẳng định: Nhà nước sẽ hoàn toàn tiêu vong trong giai
đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản. Cơ sở kinh tế của Nhà nước tiêu vong là vấn đề liên hệ
giữa Nhà nước tiêu vong chủ nghĩa cộng sản. Đây một trong những nội dung chủ
yếu của tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”
Khi trình bày cơ sở kinh tế của Nhà nước tiêu vong, Lênin phân tích vấn đề hai giai đoạn
chín muồi về kinh tế của chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩahội và chủ nghĩa cộng sản là
hai giai đoạn của chế độ hội cộng sản chủ nghĩa; một phương thức sản xuất
đông nhất có cơ sở chung và những đặc trưng chung:
- Tư liệu sản xuất thuộc về sở hữu công cộng.
- Không có người bóc lột người.
- Nền kinh tế quốc doanh phát triển theo kế hoạch.
Nhưng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản có sự khác nhau:
- Chủ nghĩa hội một hội vừa thoát thai ra trong hội bản chủ nghĩa do đó
còn mang nhiều vết tích, tàn của chế độ cũ. Phân phối theo phương thức “làm theo
năng lực, hưởng theo lao động”.
- Chủ nghĩa cộng sản thì nguyên tắc phát triển trên sẽ không còn, sẽ không còn sự bất
bình đẳng trong lao động và phân phối.
11
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM NHÀ NƯỚC CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
2.1. Bối cảnh lịch sử và tình hình nước ta trong cách mạng tháng Tám
2.1.1. Bối cảnh lịch sử nước ta trong cách mạng tháng Tám
Trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc (1930 - 1945), Đảng đã lãnh đạo tổ
chức quần chúng đấu tranh phát triển lực lượng cách mạng, chuẩn bị giành chính
quyền trải qua các cao trào cách mạng như:
Một là, cao trào cách mạng (1930 - 1931) mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh
Phong trào đấu tranh của Nhân dân ta trong những năm 1930 - 1931 tuân theo một
quy luật chung đâu áp bức đó đấu tranh. Thực tiễn lịch sử cho thấy
trong cao trào cách mạng 1930 - 1931 viết Nghệ Tĩnh, công nông thể hiện
một nghị lực cách mạng phi thường sức mạnh to lớn. Hàng triệu nông dân đã
đứng lên cùng với giai cấp công nhân phối hợp đấu tranh chống đế quốc, phong
kiến. Đó nhờ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đúng đắn, gắn nhiệm vụ chống đế
quốc với nhiệm vụ chống phong kiến, thực hiện giải phóng dân tộc ruộng đất
cho dân cày, đáp ứng nguyện vọng thiết tha của công nông.
Thực dân Pháp tay sai đã đàn áp man cao trào cách mạng của Nhân dân ta.
Cao trào cách mạng 1930 - 1931 viết Nghệ Tĩnh tuy chỉ tồn tại trong thời
gian ngắn, nhưng đã khẳng định sự đúng đắn của đường lối cách mạng Việt Nam,
khẳng định vai trò năng lực của Đảng trong cách mạng giải phóng dân tộc. Đã
hình thành trong thực tế khối liên minh công nông phát huy sức mạnh của khối
liên minh đó. Cao trào cách mạng 1930 - 1931 cuộc tổng diễn tập đầu tiên của
Đảng và quần chúng cách mạng, chuẩn bị cho thắng lợi của Tổng khởi nghĩa tháng
Tám năm 1945.
Hai là, cao trào vận động dân chủ (1936 - 1939)
Trong thời gian này tình hình thế giới những diễn biến đáng chú ý. Sự ra đời
chủ nghĩa phát xít ở Italia và Đức, sự xuất hiện của chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản,
đã trực tiếp đe dọa hòa bình, dân chủ tiến công vào phong trào cách mạng thế
giới...Ở Việt Nam, vào cuối năm 1931, cách mạng nước ta bước vào thời kỳ thoái
trào. Thực dân Pháp thi hành chính sách đàn áp khủng bố rất tàn bạo, nhất đối
với Nhân dân Nghệ An, Tĩnh. quan Trung ương, các xứ ủy Nam Kỳ, Trung
12
Kỳ, Bắc Kỳ, nhiều quan tỉnh, huyện, bị phá vỡ hầu hết. Kẻ địch định dìm
phong trào cách mạng của quần chúng trong biển máu, tình hình đen tối tưởng như
không có đường ra. Cách mạng đứng trước thử thách lớn.
Do tinh thần yêu nước, thiết tha với độc lập, tự do của Nhân dân ta lòng trung
thành, ý chí đấu tranh kiên cường của cán bộ, đảng viên, cách mạng đã nhanh
chóng ra khỏi thời kỳ thoái trào, tiến lên một cao trào mới, cao trào vận động dân
chủ 1936 - 1939. Cao trào này thật sự là phong trào cách mạng, đánh dấu sự trưởng
thành của Đảng trong việc đề ra mục tiêu phương pháp đấu tranh thích hợp,
mang lại những quyền lợi thiết thực cho quần chúng, qua đó tập hợp, giác ngộ
quần chúng cách mạng tiến tới hình thành đạo quân chính trị rộng lớn, phát huy
được sức mạnh của quần chúng. Cao trào ý nghĩa như cuộc tổng diễn tập thứ
hai, chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, để lại nhiều bài học
quý báu, trong đó bài học về công tác mặt trận, về sử dụng linh hoạt các hình
thức tổ chức và phương pháp đấu tranh.
Ba là, cao trào giải phóng dân tộc (1939 - 1945). ch mạng Tháng Tám thành
công
Sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ (1-9-1939), thực dân Pháp phát xít
hóa bộ máy thống trị thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng Đông Dương.
Đảng nhanh chóng rút vào hoạt động mật, giữ vững liên hệ với quần chúng,
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, nhấn mạnh vấn đề giải phóng dân tộc. Hội nghị
Trung ương Đảng (6-11-1939) do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì đã đề ra mục
tiêu đánh đổ đế quốc, giành độc lập hoàn toàn. Ngày 23-9-1940, phát xít Nhật
chiếm Lạng Sơn, ném bom Hải Phòng và đổ bộ lên Đồ Sơn. Ngày 27-9-1940, Nhân
dân Bắc Sơn (Lạng Sơn) dưới sự lãnh đạo của đảng bộ đã khởi nghĩa. Đó cuộc
khởi nghĩa mở đầu phong trào giải phóng dân tộc Đông Dương. Hội nghị lần thứ
7 của Trung ương Đảng (11-1940) tiếp tục chủ trương giải phóng dân tộc, duy trì
lực lượng trang Bắc Sơn, xây dựng căn cứ địa cách mạng. Hội nghị quyết định
đình chỉ cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ vì điều kiện chưa chín muồi, nhưnglệnh đình
chỉ tới chậm, khởi nghĩa Nam Kỳ vẫn nổ ra vào ngày 23-11-1940 và bị địch đàn áp
đẫm máu. Ngày 13-1-1941, binh lính đồn chợ Rạng (Đô Lương - Nghệ An) cũng
nổi dậy, nhưng nhanh chóng thất bại. Các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và binh biến Đô
Lương báo hiệu cuộc khởi nghĩa toàn quốc, bước đầu của thời kỳ đấu tranh
trang cách mạng ở nước ta.
Ngày 28-1-1941, sau 30 năm hoạt động nước ngoài, lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc trở về nước cùng Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Từ ngày 10
13
đến ngày 19-5-1941, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp
Pác Bó (Cao Bằng) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Sau khi phân tích tình hình thế giới
trong nước, Hội nghị quyết định nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, thành lập
Mặt trận Việt Minh để tập hợp và tổ chức lực lượng quần chúng ở Việt Nam (ở Lào
Campuchia mặt trận riêng). Hội nghị chủ trương đẩy mạnh xây dựng lực
lượng trang, căn cứ địa cách mạng, chuẩn bị khởi nghĩa trang, coi đó
nhiệm vụ trung tâm, tiến hành khởi nghĩa từng phần, tiến tới Tổng khởi nghĩa. Chú
trọng công tác xây dựng Đảng, bầu Ban Chấp hành Trung ương mới, Hội nghị đã
bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng thư. Tháng 8-1943, căn cứ địa Bắc Sơn -
Nhai căn cứ địa Cao Bằng được nối liền sau đó phát triển thành Khu giải
phóng Việt Bắc. Từ căn cứ địa Bắc Sơn -Nhai, Cứu quốc quân đẩy mạnh hoạt
động sang Thái Nguyên, Tuyên Quang. Năm 1943, phong trào đô thị cũng được
đẩy mạnh.
Tháng 5-1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị . Tháng 8-Sửa soạn khởi nghĩa
1944, Đảng kêu gọi toàn dân . Ngày 22-12-1944, Sắm khí đuổi thù chung đội
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập ở Cao Bằng, do đồng chí Võ
Nguyên Giáp phụ trách.
2.1.2. Tình hình nước ta trong cách mạng tháng Tám
trong nước, trải qua các cuộc diễn tập, đến năm 1945, phong trào cách
mạng dâng cao. Ngày 9-3-1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng Pháp.
Ngay trong đêm đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng quyết định phát
động một cao trào cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, thay đổi các hình
thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức đấu tranh cho thích hợp. Tháng 3-1945,
Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau hành động của chúng ta”.
Tháng 4-1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết
định nhiều vấn đề quan trọng, thống nhất các lực lượng trang thành Việt Nam
giải phóng quân. Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy
ban Dân tộc giải phóng các cấp chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc
Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.
Từ tháng 4-1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ,
phong phú về nội dung hình thức. Đầu tháng 5-1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về
Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước chuẩn bị
Đại hội quốc dân. Ngày 4-6-1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, đặt
dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời, trở thành căn cứ địa của cả nước.
Tháng 8-1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên
14
Quang) khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới” quyết định phát
động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật tay sai trước
khi quân Đồng minh vào Đông Dương; đề ra ba nguyên tắc bảo đảm tổng khởi
nghĩa thắng lợi, đó là: tập trung, thống nhất, kịp thời. 23 giờ ngày 13-8-1945, Ủy
ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 hiệu triệu toàn dân tổng khởi nghĩa. Ngày 16-8-
1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân trào thông qua “10 chính sách lớn của Việt
Minh”; thông qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định quốc kỳ, quốc ca; thành lập
Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí Hồ
Chí Minh làm Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi nhân dân cả nước
tổng khởi nghĩa, trong đó chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến.
Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước
đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ ngày 14 đến
ngày 18-8, cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng
Bắc Bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam các thị xã: Bắc Giang,
Hải Dương, Tĩnh, Hội An, Quảng Nam... Ngày 19-8, khởi nghĩa giành chính
quyền thắng lợi Nội. Ngày 23-8, khởi nghĩa thắng lợi Huế Bắc Cạn,
Hòa Bình, Hải Phòng, Đông, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Lai, Bạc
Liêu... Ngày 25-8, khởi nghĩa thắng lợi Sài Gòn - Gia Định, Kon Tum, Sóc
Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre... Ở Côn Đảo, Đảng bộ
nhà Côn Đảo đã lãnh đạo các chiến cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành
chính quyền.
2.2. Kết quả của việc vận dụng quan điểm Nhà nước của Lê-Nin vào Đảng
Cộng Sản Việt Nam trong cách mạng tháng Tám
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin được
vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam,
thắng lợi của tưởng Hồ Chí Minh đường lối cách mạng đúng đắn đầy
sáng tạo của Đảng ta đã gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa hội, gắn sức mạnh
dân tộc với sức mạnh của thời đại. Cách mạng Tháng Tám đánh dấu một bước
ngoặt đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Đây quá trình phát triển tất yếu
của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm phấn đấu, đỉnh cao của ý chí quật
cường, sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc hòa quyện với
những tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.Lênin, Hồ Chí Minh, với xu hướng của
15
thời đại hòa bình, dân chủ tiến bộ hội, độc lập dân tộc chủ nghĩa
hội.
Xuất phát từ việc nghiên cứu quy luật mâu thuẫn, quy luật phát triển không
đồng đều của chủ nghĩa bản, trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, về khả năng
cách mạng thắng lợi những nước - khâu yếu nhất trong sợi dây xích của chủ
nghĩa đế quốc, do Lênin đề ra, Đảng ta đã đặt phong trào cách mạng nước ta vào
điều kiện của chiến tranh và cách mạng, vào so sánh lực lượng giữa ta và bọn thống
trị Đông Dương, giữa phe dân chủ và bọn phát xít thế giới.
Đảng ta nhận định chiến tranh thế giới sẽ gây ra thảm họa lớn lao cho loài
người trong đó nhân dân Việt Nam nhưng cũng làm cho nhân dân lao động
nhanh chóng giác ngộ đi vào con đường cách mạng để tự cứu mình; chiến tranh thế
giới sẽ làm suy yếu bọn đế quốc, tạo điều kiện cho cách mạng thắng lợi. “Nếu cuộc
đế quốc chiến tranh lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc
đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách
mạng nhiều nước thành công”.
Đảng ta chủ trương tiến hành cuộc vận động giải phóng dân tộc ngay trong
điều kiện Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Một mặt Đảng tranh thủ lực
lượng tiến bộ như khi Liên cùng một số nước bản chủ nghĩa thành lập phe
Đồng minh, thì chủ trương cách mạng Đông Dương đứng về phía Đồng minh
chống phát xít. Mặt khác, Đảng ta biết lợi dụng mọi mâu thuẫn giữa các nước tham
chiến, giữa các nước đế quốc với đế quốc để tìm ra những khâu yếu nhất.
Đảng ta đã vận dụng tưởng cách mạng bạo lực của chủ nghĩa Mác-Lênin,
Cách mạng Tháng Mười Nga cách mạng thế giới một cách sáng tạo vào hoàn
cảnh nước ta, để tiến hành Cách mạng Tháng Tám bằng bạo lực cách mạng của
quần chúng.
Nhận thức đúng chủ nghĩa Mác-Lênin, cách mạng sự nghiệp của quần
chúng, Đảng ta luôn luôn chú trọng xây dựng cả hai lực lượng chính trị lực
lượng trang, kết hợp cả các hình thức đấu tranh chính trị quân sự để khởi
nghĩa giành chính quyền. Trong quá trình xây dựng lực lượng, lúc đầu trọng tâm
công tác của Đảng ra sức tuyên truyền tổ chức quần chúng vào các đoàn thể cứu
quốc, rồi lựa chọn những người hăng hái nhất trong các tổ chức cứu quốc để xây
dựng các tổ chức nửa trang trang. Tổ chức chính trị của quần chúng ngày
càng lớn mạnh thì các tổ chức nửa trang, trang cũng dần dần phát triển như
16
| 1/24

Preview text:

TR Ư NG Đ I H C S PH Ư M KỸỸ THU ẬT TP. HCM KHOA LÝ LU N CHÍNH TR 
MÔN HỌC: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
LÝ LUẬN CỦA V.I. LÊ NIN VỀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG TÁC PHẨM “NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG “ ;
LIÊN HỆ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NHÓM MẶT TRỜI
GVHD: Th.S Đặng Thị Minh Tuấn
TP. Hồ Chí Minh, năm 2021 LỜI CẢM ƠN
Thực tế luôn cho thấy, sự thành công nào cũng đều gắn liền với sự hỗ trợ,
giúp đỡ của những người xung quanh dù cho sự giúp đỡ đó là ít hay nhiều, trực
tiếp hay gián tiếp. Trong suốt thời gian làm bài tiểu luận đến nay, chúng em đã
nhận được sự quan tâm chỉ bảo, giúp đỡ của thầy cô, gia đình và bạn bè xung quanh.
Với tấm lòng biết ơn sâu sắc, chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành từ
đáy lòng đến cô – người đã dùng những tri thức và tâm huyết của mình để có thể
truyền đạt cho chúng em vốn kiến thức quý báu, cảm ơn cô đã giúp đỡ và hướng
dẫn chúng em tận tình trong suốt thời gian học tập vừa qua, tạo cho chúng em
những tiền đề, những kiến thức để tiếp cận vấn đề, phân tích giải quyết vấn đề.
Nhờ đó mà chúng em hoàn thành tốt kì học và bài tiểu luận của mình tốt hơn.
Chúng em cũng xin cảm ơn bạn bè, anh chị đã tận tình chỉ bảo chúng em trong
quá trình hoàn thành bài tiểu luận, tạo cho chúng em hiểu thêm về những kiến thức thực tế.
Bài tiểu luận này được nhóm em thực hiện trong vòng 2 tuần. Ban đầu
chúng em còn bỡ ngỡ vì vốn kiến thức còn hạn chế. Do vậy, không tránh khỏi
những thiếu sót, chúng em mong nhận được những ý kiến đóng góp của cô và
các bạn cùng lớp để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn. Những kiến thức này sẽ
là hành trang ban đầu cho quá trình làm việc của chúng em sau này. Chúng em
xin gửi lời chúc sức khỏe đến cô và chúc cô sẽ luôn thành công trên con đường sự nghiệp của mình.
Chúng em xin chân thành cảm ơn! DANH SÁCH THÀNH VIÊN Nhóm Mặt Trời STT Họ và tên MSSV Tỉ lệ hoàn thành 1 Lưu Nữ Anh Thư 2013615 100% 4 2 Nguyễn Tấn Hưng 2013609 100% 0 3 Bùi Huy Hoàng 20136016 100% 4 Nguyễn Văn Trường Tốt 20133098 100% 5 Nguyễn Ngọc Hiền Vi 20136179 100% *Ghi chú: - Tỷ lệ % = 100%
- Trưởng nhóm: Lưu Nữ Anh Thư
Nhận xét của giáo viên:
...................................................................................................................................
...................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
Ngày … tháng … năm 2021
Giáo viên chấm điểm
MỤC LỤC TIỂU LUẬN
PHẦN MỞ ĐẦU.........................................................................................................................................1 1.
Lý do chọn đề tài............................................................................................................................1 2.
Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài....................................................................................................2 3.
Phương pháp nghiên cứu...............................................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG.....................................................................................................................................3
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA V.I. LÊ NIN VỀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG
TÁC PHẨM “NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG “
................................................................................3 1.1.
Khái quát tác phẩm “Nhà nước và cách mạng “..................................................................3
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.........................................................................................3
1.1.2. Lý do viết tác phẩm............................................................................................................4
1.1.3. Kết cấu của tác phẩm.........................................................................................................5
1.1.4. Một số nội dung của tác phẩm "Nhà nước và cách mạng"............................................6 1.2.
Những luận điểm cơ bản của Lênin về Nhà nước................................................................6
1.2.1. Bản chất giai cấp của Nhà nước........................................................................................6
1.2.2. Thái độ của cách mạng xã hội chủ nghĩa đối với Nhà nước của giai cấp tư sản............8
1.2.3. Thực chất học thuyết Nhà nước của chủ nghĩa Mác - chuyên chính vô sản...................9
1.2.4. Hình thức Nhà nước của giai cấp vô sản.........................................................................11
1.2.5. Cơ sở kinh tế của Nhà nước tiêu vong, hai giai đoạn của xã hội cộng sản chủ nghĩa. .12
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM NHÀ NƯỚC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
..............................................................................................13 2.1.
Bối cảnh lịch sử và tình hình nước ta trong cách mạng tháng Tám..................................13
2.1.1. Bối cảnh lịch sử nước ta trong cách mạng tháng Tám...................................................13
2.1.2. Tình hình nước ta trong cách mạng tháng Tám.............................................................15 2.2.
Kết quả của việc vận dụng quan điểm Nhà nước của Lê-Nin vào Đảng Cộng Sản Việt
Nam trong cách mạng tháng Tám...................................................................................................16
PHẦN KẾT LUẬN...................................................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................................................20
LÝ LUẬN CỦA V.I. LÊ NIN VỀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG TÁC PHẨM “NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG “;
LIÊN HỆ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
V.I Lênin - một học trò xuất sắc của Mác, một lãnh tụ lỗi lạc của giai cấp công nhân
và phong trào cộng sản thế giới, Người đã có nhiều công lao trong sự nghiệp xây dựng,
phát triển và bảo vệ chủ nghĩa Mác chân chính, ngoài ra Lênin cũng đã viết rất nhiều bài
nghiên cứu về nhiều khía cạnh khác nhau. Nhiều tư tưởng của Người đã trở thành cương
lĩnh đấu tranh và hoạt động của các Đảng cộng sản tiến bộ trên thế giới. Trong công cuộc
xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có
sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, lý luận
nhận thức, vấn đề cải tạo thực tiễn nền kinh tế luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối
tượng. Trong hệ thống lý luận của V.I Lênin, tư tưởng về Nhà nước luôn có vị trí đặc biệt
quan trọng. Chúng ta vẫn thường nhắc đến từ “Nhà nước” trong ngôn ngữ hàng ngày hay
khi đề cập đến những vấn đề về kinh tế - chính trị - xã hội, nhưng hiểu biết về Nhà nước
và sự tồn tại của nó trong lịch sử đối với chúng ta còn rất khiêm tốn. Tư tưởng về Nhà
nước không chỉ đơn thuần là những vấn đề giả thuyết khoa học mà nó còn có một mối
liên hệ chặt chẽ đến với đời sống hằng ngày cùng với đó là những quan điểm chính trị sâu
sắc. Theo bản chất, Nhà nước không thể là lực lượng điều hòa xung đột giai cấp mà trái
lại làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt. Tất cả các hoạt động văn hóa, chính trị,
xã hội do Nhà nước tiến hành, xét đến cùng đều mang lợi ích cho giai cấp thống trị. Tuy
nhiên, “Nhà nước” trong chủ nghĩa Mác-Lênin tác động mạnh mẽ đến thực tiễn cách
mạng của nhiều nước để làm nền tảng hành động, làm chỉ tôn mục đích. Cụ thể là Cách
mạng Tháng Tám ở nước ta năm 1945 thành công rực rỡ do nhiều nguyên nhân, trong đó
nguyên nhân quan trọng, có ý nghĩa quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, khéo
léo của Đảng; là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể
của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo. Đảng có phương pháp, chiến
lược, chiến thuật cách mạng phù hợp, linh hoạt; nhận thức được thời cơ, chủ động đón
thời cơ và kiên quyết chớp thời cơ, tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả
nước. Từ đó, các cải cách tiến bộ trong hệ thống quản lý Nhà nước tiếp tục được diễn ra 1
theo hình thức “Lấy chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm chỉ nam cho
mọi hoạt động” xây dựng Nhà nước thống nhất, hoàn thiện thể chế và đảm bảo về mặt pháp lý.
Qua những ý kiến trên ta cũng thấy được Nhà nước có một vai trò vô cùng quan
trọng đối với cách mạng của nhiều quốc gia trên thế giới. Tư tưởng về Nhà nước của V.I
Lênin là cơ sở đầu tiên cho những thay đổi tiến bộ trong quá trình cải cách và hoàn thiện
Nhà nước. Từ đó, ta cũng thấy được nhiều nét tương đồng trong sự vận hành đối với Nhà
nước pháp quyền Việt Nam. Vì thế, nhóm chúng em quyết định chọn đề tài “Lý luận của
V.I Lênin về cách mạng xã hội chủ nghĩa trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”
để từ đó phân tích và liên hệ sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách
mạng tháng Tám.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu của bài tiểu luận này là tìm hiểu về lý luận của V.I. Lênin về cách mạng xã hội
chủ nghĩa trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”; liên hệ sự vận dụng của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong cách mạng tháng Tám.
Để đạt được mục tiêu này, tiểu luận tập trung vào các nhiệm vụ sau:
- Trình bày, phân tích lý luận của V.I. Lênin về cách mạng xã hội chủ nghĩa trong
tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”.
- Đánh giá khách quan về những phân tích của Lênin, liên hệ sự vận dụng của Đảng
cộng sản Việt Nam trong cách mạng tháng Tám.
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ
nghĩa duy vật biện chứng.
Đồng thời trong quá trình nghiên cứu tác giả còn kết hợp các phương pháp như: đánh giá,
phân tích, tổng hợp, logic- lịch sử… và các phương pháp cụ thể như: đọc tài liệu, tổng hợp tài liệu… 2 PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA V.I. LÊ NIN VỀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA TRONG TÁC PHẨM “NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG “
1.1. Khái quát tác phẩm “Nhà nước và cách mạng “
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Lênin có nhiều tác phẩm phát triển học thuyết về Nhà nước của Mác như: “Tai họa sắp
đến và những phương pháp ngăn ngừa tai họa đó”; “Những người Bônsêvich sẽ giữ
được chính quyền hay không? Nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết”; “Cách
mạng vô sản và tên phản bội Cau Xky”; “Bàn về Nhà nước, Kinh tế chính trị trong thời
kỳ chuyên chính vô sản”; “Thà ít mà tốt”… nhưng tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”
là tác phẩm chủ yếu nhất, tiêu biểu nhất. Đây là toàn bộ lý luận về Nhà nước, những
quan điểm về một Nhà nước kiểu mới - Nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới của Lênin.
Tác phẩm này được viết trong hoàn cảnh trước ngày nổ ra Cách mạng Tháng Mười (từ
tháng 7 đến tháng 8 năm 1917). Để tránh sự bắt bớ của Chính phủ lâm thời lúc bấy giờ,
Lênin phải ẩn náu trong nhà một người công nhân ở ga Rađơlít trên biên giới Nga - Phần
Lan, về sau lại ẩn náu trong túp lều tranh phía sau hồ Radơlip để hoạt động và viết tác
phẩm này. Sống trong hoàn cảnh bí mật, Lênin không một phút nào ngừng hoạt động
cách mạng, Người vẫn giữ mối liên hệ với Trung ương Đảng. Thời gian ở đây, Lênin viết
thêm 60 bài báo, sách và thư từ. Trong số đó có tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” nổi
tiếng, nó được viết ra như có sự hối thúc của thời cuộc, như dành riêng cho giai cấp công
nhân để giành lấy chính quyền.
Trong tác phẩm này, Lênin không những đã khôi phục được quan điểm của Mác và
Ăngghen về Nhà nước mà còn phát triển một bước học thuyết của chủ nghĩa Mác về Nhà
nước và chuyên chính vô sản. Sau đó không lâu, Lênin có ý muốn viết tiếp phần thứ hai
của tác phẩm này - một bài tổng kết những kinh nghiệm của cuộc Cách mạng Nga năm
1905 và năm 1917; tổng hợp lại những kinh nghiệm mới của chính quyền Xô viết để tiếp
tục phát huy và làm phong phú thêm học thuyết về Nhà nước của mình. Rất tiếc, Lênin 3
chưa kịp làm công việc đó thì Người đã từ trần. Đây là một thiệt thòi lớn cho nhân loại,
cho những nước đi theo con đường của Lênin.
1.1.2. Lý do viết tác phẩm
Tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” được viết với ba lý do sau đây:
Một là, trong lời tựa lần xuất bản thứ nhất tác phẩm này, Lênin cũng đã chỉ rõ: “Hiện
nay, vấn đề Nhà nước có một ý nghĩa quan trọng đặc biệt về phương diện lý luận cũng
như về phương diện chính trị - thực tiễn”. Theo Lênin, vấn đề Nhà nước bao giờ cũng là
vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Đúng như Mác đã tổng kết cuộc cách mạng
Pháp 1848 - 1851 trong tác phẩm “Ngày mười tám tháng Sương mù” của Lui Bônapac
đã viết: “Các chính Đảng lần lượt nối gót nhau đấu tranh giành chính quyền, đều coi
việc đoạt lấy tòa lâu đài Nhà nước đồ sộ kia là chiến lợi phẩm chủ yếu của kẻ chiến thắng.”
Khi giai cấp vô sản giành được chính quyền thì sức mạnh của Đảng được thực hiện
thông qua Nhà nước, Đảng sẽ lãnh đạo được toàn xã hội. Lênin dự đoán được cuộc Cách
mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga nhất định sẽ thành công, chính quyền Xô viết sẽ
về tay công nông. Để giúp giai cấp vô sản hiểu về Nhà nước, biết cách quản lý Nhà nước
của mình, Người đã viết tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”.
Hai là, trong thời điểm năm 1917, chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa - chủ nghĩa tư bản phân chia thị trường, xâm chiếm lãnh thổ thuộc địa và
chính chủ nghĩa đế quốc đã làm cho mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản căng thẳng và sâu
sắc cực độ. Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) nổ ra hòng phân chia thế giới và
dập tắt phong trào cách mạng của công nhân các nước, nhưng kết quả thì ngược lại.
Cuộc chiến tranh này đã tập trung tất cả mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản (mâu thuẫn
giữa tư sản với vô sản, giữa chủ nghĩa đế quốc với nhân dân các nước thuộc địa và nửa
thuộc địa, giữa chủ nghĩa đế quốc với chủ nghĩa đế quốc) đã làm tăng nhanh và sâu sắc
thêm quá trình biến chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh (chủ nghĩa tư bản lũng đoạn)
thành chủ nghĩa tư bản lũng đoạn Nhà nước (chủ nghĩa đế quốc). Đồng thời đẩy nhanh
thêm những tai họa chưa từng có và làm tăng thêm tinh thần cách mạng của nhân dân.
Kết quả là đẩy cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản thêm nhanh và thuận lợi:
- Phong trào cách mạng vô sản thế giới phát triển rầm rộ.
- Thời cơ giai cấp vô sản giành lấy chính quyền từ tay giai cấp tư sản đã chín muồi.
- Vấn đề giai cấp vô sản và quan hệ đối với Nhà nước được đặt ra.
- Việc giai cấp vô sản trực tiếp tổ chức vũ trang và cuộc cách mạng vô sản giành chính
quyền bằng bạo lực đã trở thành vấn đề hành động thực tế trước mắt. 4
Lênin khẳng định: Chủ nghĩa đế quốc là đêm trước của cách mạng vô sản. Vì vậy, vấn đề
Nhà nước được đặt ra một cách cấp bách. Tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” chính là
sự chuẩn bị lý luận về Nhà nước và cách mạng cho giai cấp vô sản giành chính quyền và
nắm lấy chính quyền, là cương lĩnh xây dựng Nhà nước của giai cấp vô sản, vũ trang về
mặt lý luận cho giai cấp vô sản và quần chúng cách mạng Nga, làm cho những hoạt động
khởi nghĩa vũ trang có sự chỉ đạo lý luận mác- xít.
Ba là, viết “Nhà nước và cách mạng”, Lênin muốn đập tan luận điệu của bọn cơ hội ở
Quốc tế II (điển hình là Becstanh và Causky), mưu toan chống lại những nguyên lý về
Nhà nước của Mác, chống lại việc xây dựng phương pháp cách mạng để thay thế Nhà
nước tư sản bằng Nhà nước vô sản. Bọn cơ hội, xét lại ở Quốc tế II ra sức bảo vệ lý luận
phát triển, bảo vệ hòa bình để chuyển từ chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội. Còn
bọn vô chính phủ thì tìm cách chống lại bất kỳ một Nhà nước nào, kể cả Nhà nước chuyên chính vô sản.
Trước tình hình đó, Lênin cho rằng, nếu không đấu tranh kiên quyết chống những thiên
biến cơ hội chủ nghĩa về vấn đề Nhà nước thì không thể đấu tranh giải phóng quần
chúng cần lao khỏi ảnh hưởng của giai cấp tư sản nói chung. Những ý tưởng đó đã thúc
giục Người bắt tay viết “Nhà nước và cách mạng”.
1.1.3. Kết cấu của tác phẩm
Kết cấu cuốn sách gồm 2 phần:
- Phần 1: Trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn ra đời của tác phẩm; những nội dung cơ bản
về Nhà nước và cách mạng trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”;
- Phần 2: Trình bày các quan niệm, những nhân tố tác động đến xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay và những nội dung xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” chia làm 6 chương, nội dung rất phong phú, được
trình bày một cách hệ thống và sâu sắc:
- Chương 1: Xã hội có giai cấp và Nhà nước.
- Chương 2: Nhà nước và cách mạng. Kinh nghiệm những năm 1848 - 1851.
- Chương 3: Nhà nước và cách mạng. Kinh nghiệm Công xã Pari 1871. Sự phân tích của Mác.
- Chương 4: Tiếp theo. Những lời giải thích bổ sung của Ăngghen.
- Chương 5: Những cơ sở kinh tế để Nhà nước tiêu vong.
- Chương 6: Bọn cơ hội chủ nghĩa tầm thường hóa chủ nghĩa Mác.
1.1.4. Một số nội dung của tác phẩm "Nhà nước và cách mạng" 5
- Lê-nin bảo vệ và phát triển quan điểm chủ nghĩa Mác về vấn đề bản chất, nguồn
gốc, đặc trưng của Nhà nước
- Tư tưởng của Lênin về chuyên chính vô sản và Nhà nước chuyên chính vô sản
- Quan điểm của Lênin về nhà nước của giai cấp tư sản hiện nay và tính tất yếu của
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
1.2. Những luận điểm cơ bản của Lênin về Nhà nước
1.2.1. Bản chất giai cấp của Nhà nước
Lênin vạch ra nguồn gốc giai cấp, xã hội của sự xuất hiện Nhà nước. Không phải xã hội
loài người xuất hiện là có Nhà nước. Nhà nước là một phạm trù lịch sử nó chỉ xuất hiện
trong xã hội khi có sự phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp. Xã hội cộng sản nguyên
thủy chưa có Nhà nước, khi xã hội nguyên thủy tan rã, xã hội phân chia thành các giai
cấp đối kháng không thể điều hòa được mới đẻ ra Nhà nước. Trong những tổ chức thị
tộc, bộ lạc của xã hội công xã nguyên thủy chưa có của riêng, không phân chia giai cấp,
toàn thể thành viên trong xã hội bình đẳng. Người cầm đầu là do mọi thành viên cử ra và
có trách nhiệm chăm sóc lợi ích toàn xã hội. Vì vậy, trong xã hội và căn bản không cần
thiết có một uy lực chính trị nào đặt lên trên xã hội, do đó Nhà nước cũng không có khả năng tồn tại.
Do lực lượng sản xuất phát triển, dần dần đẻ ra việc sử dụng của riêng và nô lệ, làm cho
xã hội phân chia thành chủ nô và nô lệ, thành người giàu có và bần cùng, sự phân chia
này đã phá vỡ quan hệ bình đẳng giúp đỡ nhau giữa mọi người trong xã hội dẫn tới quan
hệ đối kháng giai cấp, mối liên hệ này ngày càng không thể điều hòa được, giai cấp
thống trị (chủ nô) cần có một tổ chức quyền lực xã hội đặc biệt để chế ngự giai cấp bị áp
bức (nô lệ), tổ chức đó là Nhà nước. Từ đây ta có thể thấy Nhà nước là một sản phẩm
lịch sử, ra đời theo sự xuất hiện giai cấp. Nhà nước là bộ máy đặc biệt để khống chế
người khác và chỉ có thể xuất hiện trong xã hội phân chia giai cấp.
Lênin đưa ra khái niệm về Nhà nước: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những
mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, là một cơ quan thống trị giai cấp, là cơ
quan áp bức của một giai cấp này đối với một giai cấp khác; là một bộ máy cho phép
một giai cấp này được áp bức một giai cấp khác.”
Những nhà tư tưởng của giai cấp tư sản và tiểu tư sản tìm mọi cách xuyên tạc chủ nghĩa
Mác – Lênin về Nhà nước. Bọn chúng nói bừa rằng, “Nhà nước là cái siêu giai cấp để
duy trì trật tự xã hội”, là bộ máy “điều hòa” lợi ích của các giai cấp đối lập. Đây là điểm
bất đồng giữa Lênin và bọn cơ hội.
Xem xét các Nhà nước trong lịch sử, ta thấy: 6
- Nhà nước của chế độ nô lệ: Bọn chủ nô nắm lấy Nhà nước để áp bức vô nhân đạo với nô lệ.
- Nhà nước của chế độ phong kiến: Bọn địa chủ nắm lấy Nhà nước để áp bức vô nhân đạo với nông dân.
- Nhà nước của giai cấp tư sản: Giai cấp tư sản nắm lấy Nhà nước để trấn áp giai cấp vô sản.
- Còn Nhà nước vô sản công khai tuyên bố rằng: Nhiệm vụ thứ nhất của nó là trấn áp sự
phản kháng của giai cấp bóc lột đã bị lật đổ cho đến khi triệt để tiêu diệt chúng.
Như vậy, bọn cơ hội chủ nghĩa về mặt lý luận không thể phủ nhận được Nhà nước là cơ
quan thống trị giai cấp, cũng không chối cãi được mâu thuẫn giai cấp là không thể điều
hòa được. Nhưng họ đã quên và tìm cách bỏ qua, xóa nhòa một điều là: nếu Nhà nước là
sản phẩm của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, nếu Nhà nước là một
lực lượng đặt trên xã hội và ngày càng trở nên xa lạ với xã hội, thì rõ ràng là việc giải
phóng giai cấp bị áp bức không thể thực hiện được nếu không tiến hành một cuộc cách
mạng bạo lực, mà cũng không thể thực hiện được nếu không thủ tiêu bộ máy chính
quyền Nhà nước do giai cấp thống trị tự dựng nên.
Bọn chúng không muốn cách mạng bạo lực, không muốn lật đổ bộ máy Nhà nước của
giai cấp tư sản, mà tiến hành bằng biện pháp cải lương trong điều kiện bảo tồn nó.
Theo Lênin, nhà nước không phải là bộ máy “duy trì trật tự xã hội” mà là “công cụ thống
trị của một giai cấp này đối với một giai cấp khác”, không phải là bộ máy “điều hòa giai
cấp” mà là một bộ máy áp bức giai cấp, không phải là vật sở hữu của toàn dân mà chỉ có
thể là vật sở hữu của một số người. Do đó Nhà nước là không nhượng lại được, “không
điều hòa được”. Từ khi xã hội có giai cấp đến nay, người ta đều giành lấy giang sơn
(Nhà nước). Bản chất về Nhà nước là chuyên chính về giai cấp.
1.2.2. Thái độ của cách mạng xã hội chủ nghĩa đối với Nhà nước của giai cấp tư sản
Về nguyên tắc Lênin nói, giai cấp vô sản tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa giành lấy
chính quyền về tay mình, thì phải đập tan bộ máy Nhà nước của giai cấp tư sản. Lênin so
sánh Nhà nước của giai cấp tư sản và Nhà nước của giai cấp vô sản như sau: Nhà nước
của giai cấp vô sản là công cụ của tuyệt đại đa số người lao động trấn áp một thiểu số
bọn bóc lột, là công cụ để xóa bỏ ách bóc lột và giai cấp, xây dựng chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản. Nhà nước của giai cấp tư sản là công cụ của một thiểu số bọn bóc
lột trấn áp tuyệt đại đa số người lao động, là công cụ để bảo vệ và củng cố chế độ bóc lột
này hay chế độ bóc lột khác. 7
Lênin chỉ ra rằng: “Cần phải dùng bạo lực cách mạng, dùng cách mạng vô sản để xóa bỏ
Nhà nước của giai cấp tư sản, chứ không thể làm cho nó “tự tiêu vong”, còn đối với Nhà
nước của giai cấp vô sản, cần phải làm cho nó “tự tiêu vong” chứ không dùng bạo lực để
xóa bỏ. “ Đó là cơ sở của toàn bộ học thuyết về Nhà nước của Mác và Ăngghen.
Bọn vô chính phủ đã phủ nhận nhu cầu Nhà nước của giai cấp vô sản lẫn lộn sự khác
nhau về nguyên tắc giữa hai kiểu Nhà nước. Bọn chúng chủ trương: bất cứ Nhà nước
nào cũng đều phải xóa bỏ bằng bạo lực, còn bọn cơ hội chủ trương đối với Nhà nước tư
sản để cho nó “tự tiêu vong”, chuyển nhượng hòa bình cho giai cấp vô sản nhằm thủ tiêu
cách mạng vô sản thủ tiêu chuyên chính vô sản, thực chất là thủ tiêu Nhà nước vô sản.
Các giai cấp thống trị trong xã hội phân chia giai cấp bóc lột trong lịch sử thường bảo
tồn, cải lương bộ máy Nhà nước cũ đã giành được, làm cho nó hoàn bộ hơn để phục vụ
cho giai cấp thống trị của bọn bóc lột mới. Vào cuối thế kỷ XVIII, giai cấp tư sản Pháp
từ chế độ phong kiến bước sang chủ nghĩa tư bản, nó vẫn sử dụng, bảo tồn bộ máy trấn
áp trước kia để phục vụ cho mình. Nguyên nhân chính là xuất phát từ lợi ích giai cấp và
yêu cầu giai cấp có tính chất bóc lột và tự tư tự lợi.
Thái độ của giai cấp vô sản đối với bộ máy Nhà nước tư sản thì khác hẳn, họ cần phải
đập tan, phá bỏ Nhà nước tư sản, xây dựng lại bộ máy Nhà nước mới, Nhà nước vô sản
không phải để phục vụ cho giai cấp bóc lột, mà để trấn áp, tiêu diệt giai cấp bóc lột.
Lênin tổng quát ý kiến của Mác qua những cuộc cách mạng 1848 - 1851 và 1871. Mác
cho rằng: Nhiệm vụ của cách mạng sau này - tức là cách mạng vô sản - không phải là cải
tiến về hình thức bộ máy Nhà nước tư sản hoặc làm cho nó hoàn bộ hơn mà là đập tan bộ máy ấy.
1.2.3. Thực chất học thuyết Nhà nước của chủ nghĩa Mác - chuyên chính vô sản
Chuyên chính vô sản là nội dung cơ bản của cách mạng vô sản, học thuyết chuyên chính
vô sản là học thuyết chủ yếu của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thừa nhận hay không thừa
nhận chuyên chính vô sản là ranh giới phân biệt giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với chủ
nghĩa cơ hội “tả” hoặc hữu.
Lênin đã kế thừa và phát triển một cách xuất sắc học thuyết của Mác - Ăngghen về
chuyên chính vô sản. “Nhà nước và cách mạng” là tác phẩm thể hiện xuất sắc về học
thuyết này. Học thuyết chuyên chính vô sản của chủ nghĩa Mác có một lịch sử lâu dài và
phong phú. Từ 1848, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác – Ăngghen nêu rõ tư
tưởng của chuyên chính vô sản là: Giai cấp vô sản phải giành quyền thống trị và chính
trị. Sau khi trải qua cách mạng Pháp 1848 - 185l, Mác rút ra kết luận quan trọng là: nếu
không dùng bạo lực đập tan bộ máy Nhà nước của giai cấp tư sản thì cách mạng vô sản
không thể thắng lợi, chính quyền của giai cấp vô sản cũng không thể dựng lên được. Sau 8
Công xã Pari 1871, Mác đặt ra vấn đề là: giai cấp vô sản sau khi đập tan bộ máy Nhà
nước tư sản, thì thay vào bằng hình thức nhà nước nào?
Năm 1875, trong tác phẩm “Phê phán Cương lĩnh Gôta”, đã trình bày rõ một số vấn đề
hết sức quan trọng về Nhà nước và chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
Đến thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản thì học thuyết chuyên chính vô sản
của chủ nghĩa Mác đã bước sang một giai đoạn mới, Lênin không những khôi phục học
thuyết của Mác - Ăngghen, đập tan mọi sự xuyên tạc của mọi chủ nghĩa cơ hội đối với
học thuyết này đồng thời phát triển nó, đề ra và giải quyết một số vấn đề mới quan trọng.
Trong bức thư gửi Vâyđơmaye ngày 5 tháng 3 năm 1852, Mác cho rằng, điều mới mẻ
mà Mác đã làm và đã chứng minh là:
- Sự tồn tại của giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn lịch sử nhất định của sự phát triển sản xuất.
- Đấu tranh giai cấp tất nhiên đưa đến chuyên chính vô sản.
- Bản thân sự chuyên chính chỉ là bước quá độ tiến lên xóa bỏ mọi giai cấp và tiến lên
một xã hội không có giai cấp.
Đối với luận điểm này, trong “Nhà nước và cách mạng”, Lênin trình bày rằng: kẻ nào chỉ
thừa nhận có đấu tranh giai cấp không thôi, thì kẻ đó vẫn chưa phải là một người mácxít,
chỉ người nào mở rộng việc thừa nhận đấu tranh giai cấp đến việc thừa nhận chuyên
chính vô sản thì mới là người mác-xít. Lênin đấu tranh kiên quyết chống chủ nghĩa cơ
hội “tả” và hữu xuyên tạc chủ nghĩa Mác về chuyên chính vô sản.
Lênin trình bày sự tất yếu và thực chất của chuyên chính vô sản, phát triển và làm phong
phú thêm nguyên lý đó bằng những kinh nghiệm cách mạng mới:
- Phát triển thêm một bước về tính chất của chuyên chính vô sản: Chuyên chính vô
sản là công cụ của cách mạng vô sản, là sự thống trị của giai cấp vô sản đối với
giai cấp tư sản. Khối công - nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản là một
chính quyền mà nó không chia sẻ cho ai hết và trực tiếp dựa vào lực lượng vũ trang của quần chúng.
- Phát triển tư tưởng về đội tiên phong của giai cấp vô sản tức là chính đảng của
giai cấp vô sản: Đảng của giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo của chuyên chính
vô sản lên chuyên chính vô sản tức là Nhà nước của giai cấp vô sản cần phải có
đảng lãnh đạo, đó là một trong những tư tưởng cơ bản của tác phẩm Nhà nước và cách mạng.
Lênin chỉ rõ ràng: Trong cuộc đấu tranh cho chuyên chính vô sản và xây dựng chủ nghĩa
xã hội, cần phải làm cho Đảng có đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của
tất cả những người lao động và những người bị bóc lột. Nếu không có Đảng lãnh đạo, thì
giai cấp vô sản và tất cả nhân dân lao động không thể lật đổ giai cấp tư sản, không thể 9
giành được thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa, không thể xây dựng được chủ nghĩa xã hội.
Ngoài ra chuyên chính vô sản còn có những nhiệm vụ cơ bản đó là :
+ Trấn áp sự phản kháng của bọn bóc lột đã bị đánh đổ và củng cố những thắng lợi của mình.
+ Xây dựng khối liên minh công - nông, giai cấp tư sản và giai cấp nửa vô sản
dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản.
Sử dụng chính quyền vô sản để tổ chức chế độ xã hội chủ nghĩa, dẫn dắt toàn dân
tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ chức một chế độ mới.
1.2.4. Hình thức Nhà nước của giai cấp vô sản
Hình thức Nhà nước của giai cấp vô sản là nền chuyên chính vô sản cần áp dụng hình
thức Nhà nước nào để thực hiện nhiệm vụ lịch sử của bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa cộng sản. Do đó, hình thức Nhà nước của giai cấp vô sản là một bộ phận
quan trọng trong toàn bộ học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong “Nhà nước và cách mạng”, Lênin chỉ rõ rằng, trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa cộng sản sẽ xây dựng hình thức Xô viết của chuyên chính vô sản.
Năm 1848, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen cho rằng, giai cấp
vô sản dựng lên quyền thống trị của mình bằng cách dùng bạo lực lật đổ giai cấp tư sản
và đặt ra vấn đề Nhà nước, tức là giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp thống
trị. Đến thời kỳ cách mạng Pháp 1848 - l851 và đến trước Công xã Pari 1871, trong tác
phẩm “Ngày mười tám tháng Sương mù” của Lui Bônapac, Mác tổng kết kinh nghiệm
lịch sử của cuộc cách mạng Pháp và nhận định rằng, từ nay về sau, giai cấp vô sản tiến
hành cách mạng cần phải tập trung mọi sức mạnh của mình để phá hủy, đập tan bộ máy
nhà nước cũ. Thời kỳ Công xã Pari đến trước cách mạng Nga 1905 và tháng 2 năm 1917,
hai ông tìm ra được mẫu hình thức kiểu Nhà nước mới của giai cấp vô sản thay thế bộ máy Nhà nước tư sản.
Thời kỳ 2 cuộc cách mạng Nga 1905 và tháng 2 năm 1917, Lênin đã tìm ra rằng, Xô viết
là hình thức nhà nước mới của nhà nước vô sản. Xô viết là một hình thức Nhà nước của
giai cấp tư sản cao hơn và toàn bộ hơn Công xã Pari. Bắt đầu từ khi chính quyền Xô viết
xuất hiện đã kết thúc thời đại cũ của chế độ đại nghị dân chủ tư sản, đã mở ra một
chương mới của lịch sử toàn thế giới.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, do điều kiện lịch sử mới, ở các nước dân chủ nhân
dân lại xuất hiện một hình thức Nhà nước mới khác của Nhà nước vô sản - chính quyền
dân chủ nhân dân. Chính quyền dân chủ nhân dân và Xô viết là hai hình thức chính
quyền giống nhau - chính quyền liên minh giữa giai cấp công nhân với những người lao 10
động. Sự phát triển này làm phong phú thêm học thuyết về hình thức nhà nước vô sản của Lênin.
Trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, khi trình bày hình thức Nhà nước của
chuyên chính vô sản, Lênin còn nêu nguyên tắc tổ chức của hình thức Nhà nước vô sản.
Nguyên tắc tổ chức của hình thức Nhà nước vô sản là chế độ tập trung dân chủ tập trung
dân chủ vừa là nguyên tắc tổ chức của một chính đảng, vừa là nguyên tắc tổ chức của
một hình thức Nhà nước do giai cấp vô sản lãnh đạo. Hai loại hình thức Nhà nước Xô
viết và dân chủ nhân dân đều tuân thủ nguyên tắc này.
1.2.5. Cơ sở kinh tế của Nhà nước tiêu vong, hai giai đoạn của xã hội cộng sản chủ nghĩa
Trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, Lênin định nghĩa một cách khoa học, toàn
diện và sâu sắc vấn đề này và khẳng định: Nhà nước sẽ hoàn toàn tiêu vong trong giai
đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản. Cơ sở kinh tế của Nhà nước tiêu vong là vấn đề liên hệ
giữa Nhà nước tiêu vong và chủ nghĩa cộng sản. Đây là một trong những nội dung chủ
yếu của tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”
Khi trình bày cơ sở kinh tế của Nhà nước tiêu vong, Lênin phân tích vấn đề hai giai đoạn
chín muồi về kinh tế của chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là
hai giai đoạn của chế độ xã hội cộng sản chủ nghĩa; nó là một phương thức sản xuất
đông nhất có cơ sở chung và những đặc trưng chung:
- Tư liệu sản xuất thuộc về sở hữu công cộng.
- Không có người bóc lột người.
- Nền kinh tế quốc doanh phát triển theo kế hoạch.
Nhưng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản có sự khác nhau:
- Chủ nghĩa xã hội là một xã hội vừa thoát thai ra trong xã hội tư bản chủ nghĩa do đó
còn mang nhiều vết tích, tàn dư của chế độ cũ. Phân phối theo phương thức “làm theo
năng lực, hưởng theo lao động”.
- Chủ nghĩa cộng sản thì nguyên tắc phát triển trên sẽ không còn, sẽ không còn sự bất
bình đẳng trong lao động và phân phối. 11
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM NHÀ NƯỚC CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
2.1. Bối cảnh lịch sử và tình hình nước ta trong cách mạng tháng Tám
2.1.1. Bối cảnh lịch sử nước ta trong cách mạng tháng Tám
Trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc (1930 - 1945), Đảng đã lãnh đạo và tổ
chức quần chúng đấu tranh phát triển lực lượng cách mạng, chuẩn bị giành chính
quyền trải qua các cao trào cách mạng như:
Một là, cao trào cách mạng (1930 - 1931) mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh
Phong trào đấu tranh của Nhân dân ta trong những năm 1930 - 1931 tuân theo một
quy luật chung là ở đâu có áp bức ở đó có đấu tranh. Thực tiễn lịch sử cho thấy
trong cao trào cách mạng 1930 - 1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh, công nông thể hiện
một nghị lực cách mạng phi thường và sức mạnh to lớn. Hàng triệu nông dân đã
đứng lên cùng với giai cấp công nhân phối hợp đấu tranh chống đế quốc, phong
kiến. Đó là nhờ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đúng đắn, gắn nhiệm vụ chống đế
quốc với nhiệm vụ chống phong kiến, thực hiện giải phóng dân tộc và ruộng đất
cho dân cày, đáp ứng nguyện vọng thiết tha của công nông.
Thực dân Pháp và tay sai đã đàn áp dã man cao trào cách mạng của Nhân dân ta.
Cao trào cách mạng 1930 - 1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh tuy chỉ tồn tại trong thời
gian ngắn, nhưng đã khẳng định sự đúng đắn của đường lối cách mạng Việt Nam,
khẳng định vai trò và năng lực của Đảng trong cách mạng giải phóng dân tộc. Đã
hình thành trong thực tế khối liên minh công nông và phát huy sức mạnh của khối
liên minh đó. Cao trào cách mạng 1930 - 1931 là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của
Đảng và quần chúng cách mạng, chuẩn bị cho thắng lợi của Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
Hai là, cao trào vận động dân chủ (1936 - 1939)
Trong thời gian này tình hình thế giới có những diễn biến đáng chú ý. Sự ra đời
chủ nghĩa phát xít ở Italia và Đức, sự xuất hiện của chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản,
đã trực tiếp đe dọa hòa bình, dân chủ và tiến công vào phong trào cách mạng thế
giới...Ở Việt Nam, vào cuối năm 1931, cách mạng nước ta bước vào thời kỳ thoái
trào. Thực dân Pháp thi hành chính sách đàn áp khủng bố rất tàn bạo, nhất là đối
với Nhân dân Nghệ An, Hà Tĩnh. Cơ quan Trung ương, các xứ ủy Nam Kỳ, Trung 12
Kỳ, Bắc Kỳ, nhiều cơ quan tỉnh, huyện, xã bị phá vỡ hầu hết. Kẻ địch định dìm
phong trào cách mạng của quần chúng trong biển máu, tình hình đen tối tưởng như
không có đường ra. Cách mạng đứng trước thử thách lớn.
Do tinh thần yêu nước, thiết tha với độc lập, tự do của Nhân dân ta và lòng trung
thành, ý chí đấu tranh kiên cường của cán bộ, đảng viên, cách mạng đã nhanh
chóng ra khỏi thời kỳ thoái trào, tiến lên một cao trào mới, cao trào vận động dân
chủ 1936 - 1939. Cao trào này thật sự là phong trào cách mạng, đánh dấu sự trưởng
thành của Đảng trong việc đề ra mục tiêu và phương pháp đấu tranh thích hợp,
mang lại những quyền lợi thiết thực cho quần chúng, qua đó mà tập hợp, giác ngộ
quần chúng cách mạng tiến tới hình thành đạo quân chính trị rộng lớn, phát huy
được sức mạnh của quần chúng. Cao trào có ý nghĩa như cuộc tổng diễn tập thứ
hai, chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, để lại nhiều bài học
quý báu, trong đó có bài học về công tác mặt trận, về sử dụng linh hoạt các hình
thức tổ chức và phương pháp đấu tranh.
Ba là, cao trào giải phóng dân tộc (1939 - 1945). Cách mạng Tháng Tám thành công
Sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ (1-9-1939), thực dân Pháp phát xít
hóa bộ máy thống trị và thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng Đông Dương.
Đảng nhanh chóng rút vào hoạt động bí mật, giữ vững liên hệ với quần chúng,
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, nhấn mạnh vấn đề giải phóng dân tộc. Hội nghị
Trung ương Đảng (6-11-1939) do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì đã đề ra mục
tiêu đánh đổ đế quốc, giành độc lập hoàn toàn. Ngày 23-9-1940, phát xít Nhật
chiếm Lạng Sơn, ném bom Hải Phòng và đổ bộ lên Đồ Sơn. Ngày 27-9-1940, Nhân
dân Bắc Sơn (Lạng Sơn) dưới sự lãnh đạo của đảng bộ đã khởi nghĩa. Đó là cuộc
khởi nghĩa mở đầu phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Dương. Hội nghị lần thứ
7 của Trung ương Đảng (11-1940) tiếp tục chủ trương giải phóng dân tộc, duy trì
lực lượng vũ trang Bắc Sơn, xây dựng căn cứ địa cách mạng. Hội nghị quyết định
đình chỉ cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ vì điều kiện chưa chín muồi, nhưng vì lệnh đình
chỉ tới chậm, khởi nghĩa Nam Kỳ vẫn nổ ra vào ngày 23-11-1940 và bị địch đàn áp
đẫm máu. Ngày 13-1-1941, binh lính đồn chợ Rạng (Đô Lương - Nghệ An) cũng
nổi dậy, nhưng nhanh chóng thất bại. Các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và binh biến Đô
Lương báo hiệu cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu của thời kỳ đấu tranh vũ
trang cách mạng ở nước ta.
Ngày 28-1-1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc trở về nước cùng Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Từ ngày 10 13
đến ngày 19-5-1941, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp ở
Pác Bó (Cao Bằng) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Sau khi phân tích tình hình thế giới
và trong nước, Hội nghị quyết định nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, thành lập
Mặt trận Việt Minh để tập hợp và tổ chức lực lượng quần chúng ở Việt Nam (ở Lào
và Campuchia có mặt trận riêng).
Hội nghị chủ trương đẩy mạnh xây dựng lực
lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng, chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, coi đó là
nhiệm vụ trung tâm, tiến hành khởi nghĩa từng phần, tiến tới Tổng khởi nghĩa. Chú
trọng công tác xây dựng Đảng, bầu Ban Chấp hành Trung ương mới, Hội nghị đã
bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư. Tháng 8-1943, căn cứ địa Bắc Sơn -
Vũ Nhai và căn cứ địa Cao Bằng được nối liền và sau đó phát triển thành Khu giải
phóng Việt Bắc. Từ căn cứ địa Bắc Sơn - Vũ Nhai, Cứu quốc quân đẩy mạnh hoạt
động sang Thái Nguyên, Tuyên Quang. Năm 1943, phong trào đô thị cũng được đẩy mạnh.
Tháng 5-1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị Sửa soạn khởi nghĩa. Tháng 8-
1944, Đảng kêu gọi toàn dân Sắm vũ khí đuổi thù chung. Ngày 22-12-1944, đội
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
được thành lập ở Cao Bằng, do đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách.
2.1.2. Tình hình nước ta trong cách mạng tháng Tám
Ở trong nước, trải qua các cuộc diễn tập, đến năm 1945, phong trào cách
mạng dâng cao. Ngày 9-3-1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng Pháp.
Ngay trong đêm đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng quyết định phát
động một cao trào cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, thay đổi các hình
thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho thích hợp. Tháng 3-1945,
Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
Tháng 4-1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết
định nhiều vấn đề quan trọng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam
giải phóng quân. Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy
ban Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc
Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.
Từ tháng 4-1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ,
phong phú về nội dung và hình thức. Đầu tháng 5-1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về
Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước và chuẩn bị
Đại hội quốc dân. Ngày 4-6-1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, đặt
dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời, trở thành căn cứ địa của cả nước.
Tháng 8-1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên 14
Quang) khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới” và quyết định phát
động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước
khi quân Đồng minh vào Đông Dương; đề ra ba nguyên tắc bảo đảm tổng khởi
nghĩa thắng lợi, đó là: tập trung, thống nhất, kịp thời. 23 giờ ngày 13-8-1945, Ủy
ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 hiệu triệu toàn dân tổng khởi nghĩa. Ngày 16-8-
1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân trào thông qua “10 chính sách lớn của Việt
Minh”; thông qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định quốc kỳ, quốc ca; thành lập
Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí Hồ
Chí Minh làm Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi nhân dân cả nước
tổng khởi nghĩa, trong đó chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến.
Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước
đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ ngày 14 đến
ngày 18-8, cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng
Bắc Bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và ở các thị xã: Bắc Giang,
Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam... Ngày 19-8, khởi nghĩa giành chính
quyền thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế và ở Bắc Cạn,
Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Lai, Bạc
Liêu... Ngày 25-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn - Gia Định, Kon Tum, Sóc
Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre... Ở Côn Đảo, Đảng bộ
nhà tù Côn Đảo đã lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền.
2.2. Kết quả của việc vận dụng quan điểm Nhà nước của Lê-Nin vào Đảng
Cộng Sản Việt Nam trong cách mạng tháng Tám
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin được
vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam,
là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng đúng đắn và đầy
sáng tạo của Đảng ta đã gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn sức mạnh
dân tộc với sức mạnh của thời đại. Cách mạng Tháng Tám đánh dấu một bước
ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Đây là quá trình phát triển tất yếu
của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm phấn đấu, đỉnh cao của ý chí quật
cường, sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc hòa quyện với
những tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.Lênin, Hồ Chí Minh, với xu hướng của 15
thời đại vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Xuất phát từ việc nghiên cứu quy luật mâu thuẫn, quy luật phát triển không
đồng đều của chủ nghĩa tư bản, trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, về khả năng
cách mạng thắng lợi ở những nước - khâu yếu nhất trong sợi dây xích của chủ
nghĩa đế quốc, do Lênin đề ra, Đảng ta đã đặt phong trào cách mạng nước ta vào
điều kiện của chiến tranh và cách mạng, vào so sánh lực lượng giữa ta và bọn thống
trị Đông Dương, giữa phe dân chủ và bọn phát xít thế giới.
Đảng ta nhận định chiến tranh thế giới sẽ gây ra thảm họa lớn lao cho loài
người trong đó có nhân dân Việt Nam nhưng cũng làm cho nhân dân lao động
nhanh chóng giác ngộ đi vào con đường cách mạng để tự cứu mình; chiến tranh thế
giới sẽ làm suy yếu bọn đế quốc, tạo điều kiện cho cách mạng thắng lợi. “Nếu cuộc
đế quốc chiến tranh lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc
đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách
mạng nhiều nước thành công”.
Đảng ta chủ trương tiến hành cuộc vận động giải phóng dân tộc ngay trong
điều kiện Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Một mặt Đảng tranh thủ lực
lượng tiến bộ như khi Liên Xô cùng một số nước tư bản chủ nghĩa thành lập phe
Đồng minh, thì chủ trương cách mạng Đông Dương đứng về phía Đồng minh
chống phát xít. Mặt khác, Đảng ta biết lợi dụng mọi mâu thuẫn giữa các nước tham
chiến, giữa các nước đế quốc với đế quốc để tìm ra những khâu yếu nhất.
Đảng ta đã vận dụng tư tưởng cách mạng bạo lực của chủ nghĩa Mác-Lênin,
Cách mạng Tháng Mười Nga và cách mạng thế giới một cách sáng tạo vào hoàn
cảnh nước ta, để tiến hành Cách mạng Tháng Tám bằng bạo lực cách mạng của quần chúng.
Nhận thức đúng chủ nghĩa Mác-Lênin, cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, Đảng ta luôn luôn chú trọng xây dựng cả hai lực lượng chính trị và lực
lượng vũ trang, kết hợp cả các hình thức đấu tranh chính trị và quân sự để khởi
nghĩa giành chính quyền. Trong quá trình xây dựng lực lượng, lúc đầu trọng tâm
công tác của Đảng là ra sức tuyên truyền tổ chức quần chúng vào các đoàn thể cứu
quốc, rồi lựa chọn những người hăng hái nhất trong các tổ chức cứu quốc để xây
dựng các tổ chức nửa vũ trang và vũ trang. Tổ chức chính trị của quần chúng ngày
càng lớn mạnh thì các tổ chức nửa vũ trang, vũ trang cũng dần dần phát triển như 16