Lý luận Nhà Nước và pháp luật | Trường Đại học Kinh tế – Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

Thuyết thần quyền: Cho rằng thượng đế chính là người sắp đặt trật tự xã hội, thượng đế đã sáng tạo ra nhà nước nhằm bảo vệ trật tự chung, nhà nước là một sản phẩm của thượng đế. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

lOMoARcPSD| 45943468
Lý luận nhà nước và pháp luật
1. Nguồn gốc ra đời của nhà nước
1.1. Quan điểm phi Mác-xít về nguồn gốc nhà nước
Thuyết thần quyền:
Cho rằng thượng đế chính là người sắp đặt trật tự hội, thượng đế đã sáng tạo
ra nhà nước nhằm bảo vệ trật tự chung, nhà ớc một sản phẩm của thượng
đế.
Thuyết gia trưởng:
Cho rằng nhà nước xuất hiện chính là kết quả sphát triển của gia đình và quyền
gia trưởng, thực chất nhà nước chính hình của một gia tộc mở rộng
quyền lực nhà nước chính là từ quyền gia trưởng được nâng cao lên hình thức
tổ chức tự nhiên của xã hội loài người.
Thuyết bạo lực:
Cho rằng nhà nước xuất hiện trực tiếp từ các cuộc chiến tranh xâm lược chiếm
đất, là việc sử dụng bạo lực của thị tộc đối với thị tộc khác mà kết quả là thị tộc
chiến thắng đặt ra một hệ thống quan đặc biệt nhà nước để dịch kẻ
chiến bại.
Thuyết tâm lý:
Cho rằng nhà ớc xuất hiện do nhu cầu về tâm của con người nguyên thủy
luôn muốn phụ thuộc vào các thủ lĩnh, giáo sĩ,…
Thuyết khế ước xã hội:
Cho rằng sự ra đời của nhà nước sản phẩm của một khế ước hội được
kết trước hết giữa những con người sống trong trạng thái tự nhiên không có nhà
nước. Chủ quyền nhà nước thuộc về nhân dân, trong trường hợp nhà nước không
giữ được vai trò của mình , các quyền tự nhiên bị vi phạm thì khế ước sẽ mất
hiệu lực và nhân dân có quyền lật đổ nhà nước và ký kế khế ước mới.
1.2. Quan điểm chủ nghĩa Mác-Leenin về nguồn gốc nhà
nước
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin nhà nước pháp luật không phải
những hiện tượng vĩnh cữu, bất biến. Nhà nước và pháp luật chỉ xuất hiện khi xã
hội loài người đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Chúng luôn vận động,
phát triển và sẽ tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại và phát
triển của chúng không còn nữa.
Nhà nước xuất hiện một cách khách quan, nhưng không phải hiện tượng
hội vĩnh cửu và bất biến. Nhà nước luôn vận động, phát triển và tiêu vong khi
lOMoARcPSD| 45943468
những điều kiện khách quan cho sự tồn tại phát triển của chúng không còn
nữa.
Nhà nước chỉ xuất hiện khi hội loài người đã phát triển đến một giai
đoạn nhất định. Nhà nước xuất hiện trực tiếp từ sự tan của chế độ cộng sản
nguyên thủy. Nhà nước chỉ xuất hiện ở nơi o và thời gian nào khi đã xuất hiện
sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng.
Quá trình hình thành nhà ớc theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
Chế độ Cộng sản nguyên thuỷ (CSNT) và tổ chức thị tộc – bộ lạc:
Đây là hình thái kinh tế xã hội đầu tiên trong lịch sử nhân loại.
+ sở kinh tế: chế độ sở hữu chung về liệu sản xuất sản phẩm lao động
với nguyên tắc phân phối bình quân. Mọi người đều bình đẳng trong lao động
hưởng thụ. hội không kẻ giàu người nghèo, không có giai cấp đấu tranh
giai cấp. Tế bào scủa hội thị tộc. Thị tộc một tổ chức lao động
sản xuất, một bộ máy kinh tế hội. Trong thị tộc sự phân công lao động tự
nhiên giữa đàn ông đàn bà, giữa người già trẻ nhỏ để thực hiện các công
việc khác nhau, chứ chưa mang tính xã hội.
+ Quyền lực xã hội và quy phạm xã hội trong chế độ CSNT:
Trong hội cộng sản nguyên thuỷ chưa xuất hiện nhà nước pháp luật, tuy
nhiên đã tồn tại quyền lực và hệ thống quản lý các thị tộc, nhưng đó là thứ quyền
lực hội được tổ chức thực hiện dựa trên sở nguyên tắc dân chủ thực sự.
Quyền lực xuất phát txã hội và phục vụ cho lợi ích của cả cộng đồng.
Sự tan rã của tổ chức thị tộc và sự xuất hiện của nhà nước:
Nguyên nhân: Sự phát triển không ngừng của lực ợng sản xuất đã tạo tiền đề
làm thay đổi phương thức sản xuất cộng sản nguyên thủy dẫn tới sự phân công
lao động xã hội.
Sau 03 lần phân công lao động xã hội, đã phân chia hội thành các giai cấp đối
lập nhau, luôn mâu thuẩn và đấu tranh gay gắt với nhau, xã hội này đòi hỏi phải
một tổ chức đủ sức dập tắt các xung đột công khai giữa các giai cấp giữ
cho các xung đột ấy trong vòng “trật tự”. Tổ chức ấy gọi là nhà nước.
=> Nhà nước đã xuất hiện một cách khách quan, là sản phẩm của một xã hội đã
phát triển đến một giai đoạn nhất định.
Nhà nước phân chia dân cư theo lãnh thổ và thiết lập quyền lực công cộng.
So với tổ chức thị tộc trước đây, nhà nước có hai đặc trưng cơ bản khác biệt với
thị tộc:
Nhà nước tổ chức dân theo lãnh thổ: Nhà nước xuất hiện đã lấy sự
phânchia lãnh thổ làm điểm xuất phát. Cách tổ chức công dân theo lãnh thổ là
lOMoARcPSD| 45943468
đặc điểm chung của tất cả các nhà nước (thị tộc hình thànhtồn tại trên cơ sở
huyết thống)
Nhà nước thiết lập quyền lực công cộng đặc biệt: Quyền lực này không
cònhòa nhập với dân cư (Quyền lực công cộng trong chế độ CSNT là quyền lực
xã hội, do dân cư tự tổ chức ra, không mang tính chính trị, giai cấp). Quyền lực
công cộng đặc biệt sau khi nhà nước thuộc về giai cấp thống trị, phục vụ lợi
ích của giai cấp thống trị.
2. Đặc trưng của nhà nước
– Thứ nhất, nhà nước phân chia dân thành các đơn vị hành chính theo lãnh
thổ
Phạm vi thực hiện quyền lực của nhà ớc trên toàn blãnh thổ nhà nước.
Nhà nước quản lý dân cư theo các đơn vị hành chính, không phụ thuộc vào quan
điểm chính trị, giới tính, huyết thống, nghề nghiệp nhằm đảm bảo cho sự quản
tập trung, thống nhất của nớc. Mối quan hệ giữa người dân với nhà nước
được thể hiện rõ nhất thông qua chế định quốc tịch, một chế định xác lập sự phụ
thuộc của công dân vào một nhà nước nhất định ơng ứng, nhà nước cũng
phải những nghĩa vụ nhất định đối với công dân của mình. Việc quản dân
theo lãnh thổ đây không giản đơn chỉ áp dụng đối với người mang quốc tịch
nước sở tại mà cả với người nước ngoài, cho dù quy chế pháp lý của người nước
ngoài hạn chế khác với công dân nước sở tại. Thứ hai, nhà ớc thiết lập
quyền lực công
Khi xuất hiện nhà ớc đã lập nên quyền lực chính trị đặc biệt. Nhà ớc tổ
chức quyền lực đặc biệt, không còn hoà nhập với dân cư nữa. Không những thế,
nhà nước còn bộ máy cưỡng chế gắn liền vớiquân đội, cảnh sát, nhà tù, trại
giam và những cơ quan cưỡng chế khác. Đây là những cơ quan mà không tồn tại
trong chế độ thị tộc nguyên thủy cũng như trong các tổ chức khác.
Bản chất của quyền lực chính trị của nhà nước thuộc về một thiểu số giai cấp
thống trị. Cùng với sự phát triển của hội, bộ máy nhà ớc đã được hoàn thiện
để thực hiện quản lý xã hội. – Thứ ba, nhà nước có chủ quyền quốc gia
Chủ quyền quốc gia là quyền tối cao của nhà nước về đối nội và độc lập về đối
ngoại. Hay nói cách khác, chủ quyền quốc gia là quyền tự quyết của quốc gia đó
về các vấn đề đối nội đối ngoại. Nhà nước người đại diện chính thức, đại
diện về mặt pháp lý cho toàn xã hội về đối nội và đối ngoại. Chủ quyền quốc gia
thể hiện tính độc lập và không phụ thuộc của nhà nước trong việc giải quyết các
công việc đối nội và đối ngoại của mình.
lOMoARcPSD| 45943468
Khái niệm chủ quyền quốc gia cũng chỉ là khái niệm tương đối. Ngày nay, trong
bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, bảo vệ chủ quyền quốc gia không đồng
nhất với đóng cửa không giao u với các quốc gia, các tổ chức quốc tế khác.
Ngược lại, việc tham gia hợp tác quốc tế cũng không nghĩa đánh mất chủ
quyền quốc gia. Nhà nước cũng như mọi sự vật, hiện tượng khác không thể tồn
tại trong sự tách rời, biệt lập với các quốc gia khác. Xu hướng toàn cầu hóa hiện
nay cho thấy nhà nước nào cũng tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế, diễn đàn
quốc tế và cùng chia sẻ lợi ích, cùng gánh vác những nghĩa vụ khác nhau. Ví dụ:
Việt Nam đang tham gia các tổ chức quốc tế như: ASEAN, FAO, IAEA, ILO,
IMF, UN, UNCTAD, UNESCO, WFTU, WHO, WIPO, WMO, APEC,
ASEM…; Nhiều vấn đề toàn cầu nảy sinh đòi hỏi sự chung sức của nhiều quốc
gia: AIDS, Cúm gia cầm H5N1, Nạn khủng bố, môi trường…
Thứ tư, nhà nước ban hành pháp luật và buộc mọi thành viên trong xã hội phải
thực hiện
Nhà nước là đại diện chính thức cho toàn xã hội. Chỉ có nhà nước mới có
quyền ban hành pháp luật và quản lý dân cư, các hoạt động xã hội bằng pháp
luật. Pháp luật có tính bắt buộc chung, được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước
với các biện pháp tổ chức, cưỡng chế, thuyết phục tùy theo bản chất nhà nước
và những điều kiện khách quan khác. Các tổ chức thị tộc nguyên thủy và với
các tổ chức phi nhà nước không có đặc trưng này..
Thứ năm, nhà nước quy định và tiến hành thu các loại thuế
Nhà nước nào cũng quyền định ra thu các loại thuế dưới hình thức bắt
buộc. Thuế được sử dụng để nuôi sống bmáy nhà ớc, thực hiện các hoạt
động chung của toàn hội. Mục đích bản của việc thu thuế để nuôi sống
một bộ máy nhà ớc, những cán bộ công chức, những người không trực tiếp
làm ra của cải vật chất cho xã hội. Chỉ nhà nước mới được thu thuế, các tổ chức
khác không phải nhà ớc không đặc trưng này. Chẳng hạn, một lớp học
thu quĩ lớp để phục vụ cho công việc của lớp; Đoàn thanh niên thu đoàn phí để
tri trả cho hoạt động Đoàn; Câu lạc bộ bóng đá thu tiền để tri trả cho hoạt động
chung…đó không phải là thu thuế.
Từ vấn đề bộ máy nhà nước, dân lãnh thổ, chủ quyền quốc gia thực chất
đều do pháp luật đương nhiên vấn đề thuế cũng vậy, đây những vấn đề quan
trọng, cần thiết và đều đối ợng điều chỉnh của pháp luật. Tuy nhiên mục đích
của việc đưa ra 5 đặc trưng cuối cùng là để chỉ ra những đặc điểm riêng của nhà
nước mà các tổ chức, đơn vị phi nhà nước không có được.
| 1/4

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45943468
Lý luận nhà nước và pháp luật
1. Nguồn gốc ra đời của nhà nước
1.1. Quan điểm phi Mác-xít về nguồn gốc nhà nước – Thuyết thần quyền:
Cho rằng thượng đế chính là người sắp đặt trật tự xã hội, thượng đế đã sáng tạo
ra nhà nước nhằm bảo vệ trật tự chung, nhà nước là một sản phẩm của thượng đế. – Thuyết gia trưởng:
Cho rằng nhà nước xuất hiện chính là kết quả sự phát triển của gia đình và quyền
gia trưởng, thực chất nhà nước chính là mô hình của một gia tộc mở rộng và
quyền lực nhà nước chính là từ quyền gia trưởng được nâng cao lên – hình thức
tổ chức tự nhiên của xã hội loài người. – Thuyết bạo lực:
Cho rằng nhà nước xuất hiện trực tiếp từ các cuộc chiến tranh xâm lược chiếm
đất, là việc sử dụng bạo lực của thị tộc đối với thị tộc khác mà kết quả là thị tộc
chiến thắng đặt ra một hệ thống cơ quan đặc biệt – nhà nước – để nô dịch kẻ chiến bại. – Thuyết tâm lý:
Cho rằng nhà nước xuất hiện do nhu cầu về tâm lý của con người nguyên thủy
luôn muốn phụ thuộc vào các thủ lĩnh, giáo sĩ,…
– Thuyết khế ước xã hội:
Cho rằng sự ra đời của nhà nước là sản phẩm của một khế ước xã hội được ký
kết trước hết giữa những con người sống trong trạng thái tự nhiên không có nhà
nước. Chủ quyền nhà nước thuộc về nhân dân, trong trường hợp nhà nước không
giữ được vai trò của mình , các quyền tự nhiên bị vi phạm thì khế ước sẽ mất
hiệu lực và nhân dân có quyền lật đổ nhà nước và ký kế khế ước mới.
1.2. Quan điểm chủ nghĩa Mác-Leenin về nguồn gốc nhà nước
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin nhà nước và pháp luật không phải là
những hiện tượng vĩnh cữu, bất biến. Nhà nước và pháp luật chỉ xuất hiện khi xã
hội loài người đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Chúng luôn vận động,
phát triển và sẽ tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại và phát
triển của chúng không còn nữa. –
Nhà nước xuất hiện một cách khách quan, nhưng không phải là hiện tượng
xã hội vĩnh cửu và bất biến. Nhà nước luôn vận động, phát triển và tiêu vong khi lOMoAR cPSD| 45943468
những điều kiện khách quan cho sự tồn tại và phát triển của chúng không còn nữa. –
Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội loài người đã phát triển đến một giai
đoạn nhất định. Nhà nước xuất hiện trực tiếp từ sự tan rã của chế độ cộng sản
nguyên thủy. Nhà nước chỉ xuất hiện ở nơi nào và thời gian nào khi đã xuất hiện
sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng.
Quá trình hình thành nhà nước theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin –
Chế độ Cộng sản nguyên thuỷ (CSNT) và tổ chức thị tộc – bộ lạc:
Đây là hình thái kinh tế xã hội đầu tiên trong lịch sử nhân loại.
+ Cơ sở kinh tế: chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động
với nguyên tắc phân phối bình quân. Mọi người đều bình đẳng trong lao động và
hưởng thụ. Xã hội không có kẻ giàu người nghèo, không có giai cấp và đấu tranh
giai cấp. Tế bào cơ sở của xã hội là thị tộc. Thị tộc là một tổ chức lao động và
sản xuất, một bộ máy kinh tế xã hội. Trong thị tộc có sự phân công lao động tự
nhiên giữa đàn ông và đàn bà, giữa người già và trẻ nhỏ để thực hiện các công
việc khác nhau, chứ chưa mang tính xã hội.
+ Quyền lực xã hội và quy phạm xã hội trong chế độ CSNT:
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ chưa xuất hiện nhà nước và pháp luật, tuy
nhiên đã tồn tại quyền lực và hệ thống quản lý các thị tộc, nhưng đó là thứ quyền
lực xã hội được tổ chức thực hiện dựa trên cơ sở nguyên tắc dân chủ thực sự.
Quyền lực xuất phát từ xã hội và phục vụ cho lợi ích của cả cộng đồng.
Sự tan rã của tổ chức thị tộc và sự xuất hiện của nhà nước:
Nguyên nhân: Sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất đã tạo tiền đề
làm thay đổi phương thức sản xuất cộng sản nguyên thủy và dẫn tới sự phân công lao động xã hội.
Sau 03 lần phân công lao động xã hội, đã phân chia xã hội thành các giai cấp đối
lập nhau, luôn mâu thuẩn và đấu tranh gay gắt với nhau, xã hội này đòi hỏi phải
có một tổ chức đủ sức dập tắt các xung đột công khai giữa các giai cấp và giữ
cho các xung đột ấy trong vòng “trật tự”. Tổ chức ấy gọi là nhà nước.
=> Nhà nước đã xuất hiện một cách khách quan, là sản phẩm của một xã hội đã
phát triển đến một giai đoạn nhất định.
Nhà nước phân chia dân cư theo lãnh thổ và thiết lập quyền lực công cộng.
So với tổ chức thị tộc trước đây, nhà nước có hai đặc trưng cơ bản khác biệt với thị tộc: –
Nhà nước tổ chức dân cư theo lãnh thổ: Nhà nước xuất hiện đã lấy sự
phânchia lãnh thổ làm điểm xuất phát. Cách tổ chức công dân theo lãnh thổ là lOMoAR cPSD| 45943468
đặc điểm chung của tất cả các nhà nước (thị tộc hình thành và tồn tại trên cơ sở huyết thống) –
Nhà nước thiết lập quyền lực công cộng đặc biệt: Quyền lực này không
cònhòa nhập với dân cư (Quyền lực công cộng trong chế độ CSNT là quyền lực
xã hội, do dân cư tự tổ chức ra, không mang tính chính trị, giai cấp). Quyền lực
công cộng đặc biệt sau khi có nhà nước thuộc về giai cấp thống trị, phục vụ lợi
ích của giai cấp thống trị.
2. Đặc trưng của nhà nước
– Thứ nhất, nhà nước phân chia dân cư thành các đơn vị hành chính theo lãnh thổ
Phạm vi thực hiện quyền lực của nhà nước là trên toàn bộ lãnh thổ nhà nước.
Nhà nước quản lý dân cư theo các đơn vị hành chính, không phụ thuộc vào quan
điểm chính trị, giới tính, huyết thống, nghề nghiệp nhằm đảm bảo cho sự quản
lý tập trung, thống nhất của nhà nước. Mối quan hệ giữa người dân với nhà nước
được thể hiện rõ nhất thông qua chế định quốc tịch, một chế định xác lập sự phụ
thuộc của công dân vào một nhà nước nhất định và tương ứng, nhà nước cũng
phải có những nghĩa vụ nhất định đối với công dân của mình. Việc quản lý dân
cư theo lãnh thổ ở đây không giản đơn chỉ áp dụng đối với người mang quốc tịch
nước sở tại mà cả với người nước ngoài, cho dù quy chế pháp lý của người nước
ngoài hạn chế và khác với công dân nước sở tại. – Thứ hai, nhà nước thiết lập quyền lực công
Khi xuất hiện nhà nước đã lập nên quyền lực chính trị đặc biệt. Nhà nước là tổ
chức quyền lực đặc biệt, không còn hoà nhập với dân cư nữa. Không những thế,
nhà nước còn có bộ máy cưỡng chế gắn liền vớiquân đội, cảnh sát, nhà tù, trại
giam và những cơ quan cưỡng chế khác. Đây là những cơ quan mà không tồn tại
trong chế độ thị tộc nguyên thủy cũng như trong các tổ chức khác.
Bản chất của quyền lực chính trị của nhà nước thuộc về một thiểu số giai cấp
thống trị. Cùng với sự phát triển của xã hội, bộ máy nhà nước đã được hoàn thiện
để thực hiện quản lý xã hội. – Thứ ba, nhà nước có chủ quyền quốc gia
Chủ quyền quốc gia là quyền tối cao của nhà nước về đối nội và độc lập về đối
ngoại. Hay nói cách khác, chủ quyền quốc gia là quyền tự quyết của quốc gia đó
về các vấn đề đối nội và đối ngoại. Nhà nước là người đại diện chính thức, đại
diện về mặt pháp lý cho toàn xã hội về đối nội và đối ngoại. Chủ quyền quốc gia
thể hiện tính độc lập và không phụ thuộc của nhà nước trong việc giải quyết các
công việc đối nội và đối ngoại của mình. lOMoAR cPSD| 45943468
Khái niệm chủ quyền quốc gia cũng chỉ là khái niệm tương đối. Ngày nay, trong
bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, bảo vệ chủ quyền quốc gia không đồng
nhất với đóng cửa không giao lưu với các quốc gia, các tổ chức quốc tế khác.
Ngược lại, việc tham gia hợp tác quốc tế cũng không có nghĩa là đánh mất chủ
quyền quốc gia. Nhà nước cũng như mọi sự vật, hiện tượng khác không thể tồn
tại trong sự tách rời, biệt lập với các quốc gia khác. Xu hướng toàn cầu hóa hiện
nay cho thấy nhà nước nào cũng tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế, diễn đàn
quốc tế và cùng chia sẻ lợi ích, cùng gánh vác những nghĩa vụ khác nhau. Ví dụ:
Việt Nam đang tham gia các tổ chức quốc tế như: ASEAN, FAO, IAEA, ILO,
IMF, UN, UNCTAD, UNESCO, WFTU, WHO, WIPO, WMO, APEC,
ASEM…; Nhiều vấn đề toàn cầu nảy sinh đòi hỏi sự chung sức của nhiều quốc
gia: AIDS, Cúm gia cầm H5N1, Nạn khủng bố, môi trường…
– Thứ tư, nhà nước ban hành pháp luật và buộc mọi thành viên trong xã hội phải thực hiện
Nhà nước là đại diện chính thức cho toàn xã hội. Chỉ có nhà nước mới có
quyền ban hành pháp luật và quản lý dân cư, các hoạt động xã hội bằng pháp
luật. Pháp luật có tính bắt buộc chung, được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước
với các biện pháp tổ chức, cưỡng chế, thuyết phục tùy theo bản chất nhà nước
và những điều kiện khách quan khác. Các tổ chức thị tộc nguyên thủy và với
các tổ chức phi nhà nước không có đặc trưng này..
– Thứ năm, nhà nước quy định và tiến hành thu các loại thuế
Nhà nước nào cũng có quyền định ra và thu các loại thuế dưới hình thức bắt
buộc. Thuế được sử dụng để nuôi sống bộ máy nhà nước, thực hiện các hoạt
động chung của toàn xã hội. Mục đích cơ bản của việc thu thuế là để nuôi sống
một bộ máy nhà nước, những cán bộ công chức, những người không trực tiếp
làm ra của cải vật chất cho xã hội. Chỉ nhà nước mới được thu thuế, các tổ chức
khác không phải là nhà nước không có đặc trưng này. Chẳng hạn, một lớp học
thu quĩ lớp để phục vụ cho công việc của lớp; Đoàn thanh niên thu đoàn phí để
tri trả cho hoạt động Đoàn; Câu lạc bộ bóng đá thu tiền để tri trả cho hoạt động
chung…đó không phải là thu thuế.
Từ vấn đề bộ máy nhà nước, dân cư và lãnh thổ, chủ quyền quốc gia thực chất
đều do pháp luật và đương nhiên vấn đề thuế cũng vậy, đây là những vấn đề quan
trọng, cần thiết và đều là đối tượng điều chỉnh của pháp luật. Tuy nhiên mục đích
của việc đưa ra 5 đặc trưng cuối cùng là để chỉ ra những đặc điểm riêng của nhà
nước mà các tổ chức, đơn vị phi nhà nước không có được.