Lý luận sản xuất hàng hóa và sự phát triển kinh tế hàng hóa ở Việt Nam hiện nay - Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin (KTCT01) | Đại học kinh tế quốc dân NEU
Lý luận sản xuất hàng hóa và sự phát triển kinh tế hàng hóa ở Việt Nam hiện nay - Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin (KTCT01) | Đại học kinh tế quốc dân NEU được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Kinh tế chính trị Mác-Lênin (KTCT2D02)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 44879730
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Viện Đào tạo Tiên tiến, Chất lượng cao và POHE BÀI TẬP LỚN
Học phần: HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
ĐỀ: Lý luận sản xuất hàng hóa và sự phát triển kinh tế hàng hóa ở Việt Nam hiện nay. SINH VIÊN:
- Họ và tên: Bùi Đức Nhân
- Mã sinh viên: 11224876
- Lớp tín chỉ: Kinh tế chính trị Mác Lê Nin_Digital Marketing CLC 64B_AEP(222)_15
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS. Tô Đức Hạnh HÀ NỘI: 4/2023 I.
Lý luận về sản xuất hàng hoá:
1. Khái niệm sản xuất hàng hóa lOMoAR cPSD| 44879730
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó những người sản xuất ra sản phẩm
không phải để tiêu dùng cho bản thân mà để trao đổi, mua bán trên thị trường. Trong lịch
sử, không phải ngay từ đầu khi loài người xuất hiện đã có sản xuất hàng hóa. Sản xuất
hàng hóa chỉ tồn tại và phát triển trong một số phương thức sản xuất xã hội, gắn liền với
những điều kiện lịch sử nhất định.
2. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá:
Theo Mác, sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi có đủ hai điều kiện là phân công lao động
xã hội và sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất.
a) Phân công lao động xã hội:
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội thành các ngành, các lĩnh
vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa của những người sản xuất thành những
ngành, nghề khác nhau. Do phân công lao động xã hội, mỗi người chỉ sản xuất một hoặc
một vài sản phẩm nhất định. Trong khi đó, nhu cầu của họ lại đòi hỏi nhiều loại sản phẩm
khác nhau. Để thỏa mãn nhu cầu, giữa những người sản xuất cần có sự trao đổi sản phẩm
với nhau. Như vậy, phân công lao động xã hội làm xuất hiện mối quan hệ trao đổi sản
phẩm giữa những người sản xuất với nhau. Phân công lao động xã hội càng phát triển thì
sản xuất và trao đổi sản phẩm càng mở rộng hơn, đa dạng hơn. Vì vậy, phân công lao động
xã hội đóng vai trò là cơ sở cho sự ra đời của sản xuất hàng hóa.
b) Sự tách biệt về kinh tế giữa các chủ thể sản xuất:
Tuy nhiên, nếu chỉ có phân công lao động xã hội thì cũng chưa thể có sản xuất và trao
đổi hàng hóa. Trong lịch sử, ở một số công xã cổ đại đã có sự phân công lao động khá chi
tiết, như công xã thị tộc Ấn Độ thời cổ đại, nhưng sản phẩm của lao động chưa trở thành
hàng hóa. Bởi vì ở đó tư liệu sản xuất là của chung, sản phẩm của từng nhóm sản xuất
chuyên môn hóa cũng là của chung, được dùng chung cho các thành viên trong công xã,
không phải thông qua trao đổi, mua bán. Vì vậy, muốn sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại
phải có điều kiện thứ hai là sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất. 1 lOMoAR cPSD| 44879730
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho giữa những người sản
xuất độc lập với nhau, khác nhau về lợi ích. Trong điều kiện đó, người này muốn tiêu dùng
sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi, mua bán sản phẩm, tức là phải trao đổi
dưới hình thức hàng hóa. Nói cách khác, sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản
xuất đòi hỏi việc trao đổi sản phẩm giữa họ với nhau phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng,
ngang giá, hai bên đều có lợi; tức là trao đổi mang hình thái trao đổi hàng hóa.
Trong lịch sử, sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất bắt đầu xuất hiện
khi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất ra đời. Sau này, do sự xuất hiện nhiều quan hệ sở hữu
khác nhau về tư liệu sản xuất; sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản
xuất; sự xuất hiện của nhiều hình thức kinh tế cụ thể khác nhau… nên sự tách biệt về mặt
kinh tế giữa các chủ thể sản xuất tiếp tục tồn tại và đa dạng hơn.
Tóm lại, sản xuất hàng hóa chỉ ra đời và tồn tại khi có đủ hai điều kiện trên. Thiếu một
trong hai điều kiện thì không có sản xuất hàng hóa và sản phẩm của lao động cũng không mang hình thái hàng hóa.
3. Quá trình phát triển của sản xuất hàng hoá:
Sản xuất hàng hoá ra đời từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã, phát triển mạnh
nhất trong chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội (giai đoạn thấp của hình thái kinh tế xã
hội cộng sản chủ nghĩa) đến chủ nghĩa cộng sản (giai đoạn cao của hình thái kinh tế xã hội
cộng sản chủ nghĩa). Sản xuất hàng hoá phát triển qua 2 giai đoạn:
Giai đoạn thấp: Sản xuất hàng hoá giản đơn là nền sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ
sở hữu tư nhân nhỏ về tư liệu sản xuất kết hợp với sức lao động cá nhân người lao động. Có đặc trưng là:
Người lao động có tư liệu sản xuất, tự tổ chức sản xuất và toàn bộ sản phẩm làm ra thuộc về họ
Sản xuất quy mô nhỏ, phân tán; Công cụ thủ công, lạc hậu, năng suất thấp 2 lOMoAR cPSD| 44879730
Nền sản xuất phát triển chậm (nhưng vẫn nhanh hơn sản xuất tự cấp tự túc)
Sản xuất hàng hoá giản đơn là đặc trưng cho chế độ nô lệ và phong kiến
Giai đoạn cao: Sản xuất hàng hoá phát triển là nền sản xuất hàng hoá tập trung, quy
mô lớn, sản xuất bằng máy móc, năng suất cao. Sản xuất hàng hoá phát triển luôn vận
động theo yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan của thị trường, do đó, kinh tế hàng
hoá phát triển còn gọi là nền kinh tế thị trường. Kinh tế hàng hoá phát triển gắn với sản
xuất hàng hoá trong chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội.
4. Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa:
Lịch sử phát triển sản xuất của xã hội được bắt đầu từ sản xuất tự cấp tự túc tiến lên
sản xuất hàng hóa. Sản xuất tự cấp, tự túc là sản xuất ra sản phẩm nhằm thỏa mãn trực tiếp
nhu cầu của người sản xuất. Kiểu tổ chức sản xuất tự cấp, tự túc, hay còn gọi là kinh tế tự
nhiên, gắn liền với giai đoạn sơ khai của sản xuất, khi lực lượng sản xuất chưa phát triển,
tình trạng phổ biến của sản xuất là lao động giản đơn, đóng cửa, khép kín, hướng vào thỏa
mãn nhu cầu hạn hẹp, thấp kém. Sự hạn chế của nhu cầu đã hạn chế sản xuất phát triển.
Sản xuất hàng hóa ra đời là bước phát triển sản xuất căn bản trong lịch sử phát triển
của xã hội loài người. Sản xuất hàng hóa đã phá vỡ tính khép kín của sản xuất, phá vỡ
thành trì phong kiến, giải phóng lực lượng sản xuất, lực lượng lao động và nâng cao hiệu
quả kinh tế của xã hội. So với sản xuất tự cấp, tự túc, sản xuất hàng hóa có đặc trưng và ưu thế cơ bản sau:
Sản xuất hàng hóa là sản xuất sản phẩm cho người khác, sản xuất để bán trên thị trường
nên việc mở rộng quy mô sản xuất không bị hạn chế bởi nhu cầu hạn hẹp của người sản
xuất. Chính nhu cầu lớn và không ngừng tăng lên là một động lực mạnh mẽ cho sự phát
triển của sản xuất hàng hóa.
Sản xuất hàng hóa gắn liền với cạnh tranh nên buộc người sản xuất phải năng động
trong sản xuất kinh doanh; phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất để 3 lOMoAR cPSD| 44879730
tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm bán được nhiều hàng hóa và
thu được nhiều lợi nhất; từ đó, tự phát thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Đây là một
động lực mạnh mẽ cho sự phát triển sản xuất xã hội.
Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở phân công lao động và lại thúc đẩy sự phát triển
của phân công lao động, phát triển chuyên môn hóa, tạo điều kiện để phát huy thế mạnh,
phát huy lợi thế so sánh của mỗi cá nhân, mỗi đơn vị sản xuất cũng như các khu vực, các vùng kinh tế.
Sản xuất và trao đổi hàng hóa gắn với tính chất mở của các quan hệ kinh tế, các
quan hệ hàng hóa tiền tệ, làm cho không gian giao lưu kinh tế giữa các khu vực, các nước,
các địa phương ngày càng mở rộng. Tính chất mở là đặc trưng của các quan hệ hàng hóa
tiền tệ, mở trong quan hệ giữa những người sản xuất, giữa các doanh nghiệp, các địa
phương, giữa các vùng và với nước ngoài. Từ đó, quan hệ hàng hóa tiền tệ tạo nên sự
“sống động” của nền kinh tế, tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực trên, sản xuất hàng hóa cũng còn tồn tại
nhiều mặt trái và cả những tác động tiêu cực đối với đời sống kinh tế, xã hội như phân hóa
giàu nghèo giữa những người sản xuất; chạy theo lợi ích cá nhân làm tổn hại đến các giá
trị đạo đức truyền thống; sản xuất không kiểm soát được tiềm ẩn nguy cơ mất cân đối,
khủng hoảng kinh tế, phá hoại môi trường sinh thái… Những tác động tiêu cực đó có thể
hạn chế được nếu có vai trò quản lý, điều tiết từ một chủ thể chung của toàn bộ nền kinh tế là nhà nước II.
Thực trạng nền kinh tế hàng hoá tại Việt Nam: 1. Thực trạng: a) Nông nghiệp: 4 lOMoAR cPSD| 44879730
Tiếp nối đà tăng trưởng ổn định trong năm 2022, nông nghiệp Việt Nam trong Quý 1
năm 2023 tiếp tục duy trì mức tăng trưởng ổn định ở hầu hết các mặt hàng. Tái cơ cấu
ngành nông nghiệp chuyển biến rõ rệt. Sản lượng sản phẩm chất lượng cao tiếp tục nâng
dần tỷ trọng trong cơ cấu của nhóm sản phẩm. Nhiều mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu cao
hơn năm trước. Tính đến trung tuần tháng 3/2023, cả nước gieo trồng được 2.922,3 nghìn
ha lúa đông xuân, bằng 98,7% cùng kỳ năm trước, 303,7 nghìn ha ngô, bằng 101,1% cùng
kỳ năm trước; 44 nghìn ha khoai lang, bằng 95,5% cùng kỳ năm trước…
Trong quý I năm 2023, sản lượng thu hoạch của một số loại cây công nghiệp lâu năm
ở nước ta ghi nhận tăng trưởng so với cùng kỳ năm trước, trong đó, mức tăng trưởng đáng
chú ý nhất thuộc về điều (226,3 nghìn tấn, tăng 7,4%) và cao su (130,6 nghìn tấn, tăng
2,9%). Hầu hết sản lượng cây ăn quả cũng tăng so với cùng kỳ năm trước, nổi bật nhất là
sầu riêng, đạt 108,3 nghìn tấn, tăng 27,8%; mít đạt 142,9 nghìn tấn, tăng 20,7%... Chăn
nuôi gia súc trong quý phát triển ổn định, chăn nuôi gia cầm phát triển khá, dịch bệnh được kiểm soát. b) Công nghiệp:
Theo báo cáo mới nhất của Bộ Công Thương, 3 tháng đầu năm 2023, giá trị tăng
thêm ngành công nghiệp giảm 0,82% so với cùng kỳ năm trước - là mức giảm sâu nhất
của cùng kỳ các năm trong giai đoạn 2011-2023.
Tính chung cả quý I năm 2023, chỉ số sản xuất công nghiệp giảm khoảng 2,2% thấp
hơn nhiều so với mức tăng 6,8% của cùng kỳ năm 2022 và mức tăng 5,7% của cùng kỳ
2021. Trong đó, nhiều ngành đều giảm tốc, như ngành chế biến, chế tạo; ngành sản xuất
và phân phối điện; ngành khai khoáng… Riêng ngành chế biến, chế tạo (chiếm trên 74%
giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp, quyết định chủ yếu đến tốc độ tăng trưởng toàn
ngành công nghiệp và toàn bộ nền kinh tế) Quý I năm nay giảm 2,4% so cùng kỳ, trong
khi cùng kỳ năm trước tăng ở mức cao 7,3%. 5 lOMoAR cPSD| 44879730
Đáng chú ý, một vấn đề luôn là điểm sáng của nền kinh tế là xuất khẩu cũng có dấu
hiệu chững lại trong 3 tháng đầu năm nay. Mặc dù kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng
3/2023 có sự hồi phục (ước đạt 29,57 tỷ USD - tăng hơn 13% so với tháng trước) nhưng
lại giảm tới gần 15% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I, kim ngạch hàng hóa
xuất khẩu ước tính đạt 79,17 tỷ USD - giảm 11,9% so với cùng kỳ (cùng kỳ tăng 14,4%). c) Dịch vụ:
Hoạt động thương mại và dịch vụ diễn ra sôi động trong quý I năm 2023. Số lượt khách
quốc tế đến Việt Nam tăng mạnh sau đại dịch Covid-19. Hoạt động vận tải duy trì đà tăng
trưởng tích cực cả về vận tải hành khách và hàng hóa.
Tính chung quý I năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
tăng 13,9% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2022 tăng 5%). Vận tải hành khách
và vận tải hàng hoá trong quý I năm 2023 đều tăng, lần lượt tăng 28,8% và 16,2% so với
cùng kỳ năm trước. Luân chuyển hành khách và luân chuyển hàng hoá cũng ghi nhận mức
tăng 66,5% và 21,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I năm 2023, khách quốc
tế đến nước ta ước đạt hơn 2.699,5 nghìn lượt người, gấp 29,7 lần cùng kỳ năm trước
nhưng vẫn chỉ bằng 60% so với cùng kỳ năm 2019 – năm chưa xảy ra dịch Covid-19.
d) Thu nhập bình quân:
Trước năm 2019, thu nhập bình quân đầu người tại Việt Nam liên tục tăng, tuy nhiên
sau 2019, do tác động tiêu cực của đại dịch Covid – 19, thu nhập có xu hướng giảm dần.
Năm 2022, kinh tế Việt Nam phục hồi ngoạn mục, tăng trưởng mạng mẽ, về cơ bản đã
vượt qua những tác động tiêu cực của đại dịch Covid – 19 và đang lấy lại đà tăng trưởng vốn có. 6 lOMoAR cPSD| 44879730
Thu nhập bình quân tháng của người lao động theo khu vực kinh tế giai đoạn 2019-2022
(Đơn vị: Triệu đồng)
Quý I/2023 chứng kiến tăng trưởng trong thu nhập bình quân tháng của người lao động.
Thu nhập bình quân tháng của người lao động quý I năm 2023 là 7,0 triệu đồng, tăng
640.000 đồng so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I năm 2023, thu nhập bình quân
của người lao động tăng ở cả ba khu vực kinh tế, trong đó, lao động trong khu vực dịch vụ
có tốc độ tăng thu nhập cao nhất (tăng 10,1%), tiếp đến là nông nghiệp (tăng 9,2%), cuối
cùng là công nghiệp (tăng 9,0%) so với cùng kỳ năm 2022.
2. Đánh giá thực trạng:
a) Kết quả đạt được:
Về nông nghiệp: Bất chấp mọi khó khăn do ảnh hưởng của hậu dịch Covid-19, sản xuất
nông nghiệp Việt Nam vẫn đạt khá. Kết quả hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy
sản năm 2022 và Quý I/2023 tiếp tục thể hiện rõ vai trò bệ đỡ của nền kinh tế.
Về công nghiệp: Năm 2022, công nghiệp Việt Nam đang trên đà phục hồi và phát triển,
chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp cả năm 2022 tăng trưởng khá, nhưng vẫn chưa 7 lOMoAR cPSD| 44879730
phục hồi lại mức tăng trưởng trước khi dịch Covid - 19 xuất hiện. Tuy nhiên, từ tháng
10/2022 đến Quý I/2023, sản xuất công nghiệp có xu hướng tăng chậm lại.
Về dịch vụ: Sau khi Việt Nam mở cửa trở lại vào tháng 3/2022, ngành dịch vụ đã có
những bước tăng trưởng đáng kể, đặc biệt là sự phục hồi và tăng trưởng của du lịch. Sự
tăng trưởng ngoạn mục của thị trường du lịch nội địa sau dịch COVID-19 là một điểm
sáng, khẳng định vai trò của thị trường này đối với sự phát triển chung của ngành du lịch.
b) Những hạn chế và nguyên nhân: Về nông nghiệp: - Hạn chế:
+) Quy mô sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, manh mún. Đổi mới hình thức tổ chức
sản xuất trong nông nghiệp diễn ra chậm. Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là sản phẩm
thô, giá trị thấp, thiếu bền vững dẫn tới một nền sản xuất nhiều rủi ro.
+) Nông nghiệp Việt Nam chưa thực sự chuyển mình theo hướng công nghiệp, hiện
đại, gắn với kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Người nông dân vẫn thường ở thế
yếu trong hệ thống liên kết kinh tế và trong không ít các quyết định ở nông thôn.
+) Năng lực mở rộng thị trường và dự báo thị trường cho sản xuất, tiêu thụ nông sản còn nhiều hạn chế.
+) Việc ứng dụng, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ cao vào phát triển nông nghiệp,
nông thôn còn gặp nhiều khó khăn, nhất là nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số.
- Nguyên nhân:
+) Sự gắn kết giữa sản xuất nông nghiệp và công nghiệp chế biến; giữa nhà nông, nhà
doanh nghiệp, nhà khoa học còn yếu.
+) Phần đông nông dân eo hẹp về nguồn lực, nhiều lao động lớn tuổi, thụ động, thiếu
kiến thức về kinh tế thị trường, chủ yếu sản xuất theo kinh nghiệm, phong trào.
+) Quy hoạch sản xuất còn chủ quan, chưa bám sát, dự báo đúng nhu cầu của thị trường.
Nhiều nông sản đang quá lệ thuộc vào một vài thị trường nhất định. 8 lOMoAR cPSD| 44879730 Công nghiệp: - Hạn chế:
+) Giá trị gia tăng của các ngành công nghiệp nội địa rất thấp, dễ bị tổn thương trước
những biến động về chính trị - kinh tế - xã hội trong và ngoài nước.
+) Ngành công nghiệp đang phát triển mất cân đối, phụ thuộc quá nhiều vào khu vực FDI
+) Sản phẩm công nghiệp thiếu sự cạnh tranh
- Nguyên nhân:
+) Đa số các doanh nghiệp Việt Nam chưa tham gia sâu vào các chuỗi giá trị toàn
cầu, chưa tự chủ nguyên liệu, phụ thuộc vào nhập khẩu.
+) Trong cơ cấu giá trị gia tăng các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam, tỷ lệ giá trị gia
tăng nội địa vẫn còn thấp và chưa có nhiều chuyển dịch đáng kể.
+) Chính sách phát triển công nghiệp của Việt Nam còn dàn trải, việc bố trí nguồn lực
cho phát triển công nghiệp chưa đủ mạnh, kinh tế tư nhân chưa được chú trọng. Dịch vụ: - Hạn chế:
+) Chất lượng dịch vụ, tính chuyên nghiệp chưa cao, còn thiếu những doanh nghiệp
tiên phong tiến mạnh ra thị trường quốc tế.
+) Việt Nam luôn nhập siêu trong các cán cân thương mại dịch vụ, nhất là với dịch vụ
có hàm lượng công nghệ và trí thức cao.
+) Chi phí dịch vụ ở nước ta còn khá cao so với một số nước trên thế giới, chi phí
logistic vẫn chiếm tỷ trọng cao.
+) Việt Nam thiếu trầm trọng đội ngũ lao động có kỹ năng và được đào tạo bài bản
trong lĩnh vực dịch vụ. 9 lOMoAR cPSD| 44879730
- Nguyên nhân:
+) Chất lượng, hiệu quả của giáo dục đào tạo còn thấp.
+) Tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, hàng kém phẩm chất lưu thông
tràn lan trên thị trường đang là vấn đề báo động đỏ.
+) Hệ thống hạ tầng thương mại chưa theo kịp với nhu cầu phát triển.
III. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nền kinh tế thị trường Việt Nam:
1. Giải pháp 1: Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ,
thiết bị hiện đại trong sản xuất
Trong nền kinh tế thị trường, giải pháp hiệu quả nhất nhằm chiếm ưu thế trong cạnh
tranh là tăng năng suất lao động, với mục đích giảm thời gian lao động cá biệt xuống thấp
nhất có thể (thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết). Tuy nhiên, so với thế giới, trình
độ công nghệ sản xuất của Việt Nam còn thấp kém, không đồng bộ, do đó, khả năng
cạnh tranh của hàng hóa nước ta so với hàng hóa nước ngoài trên cả thị trường nội địa và thế giới còn kém.
Để khắc phục hạn chế này, các nhà tư bản cần chú trọng đầu tư vào trang thiết bị, máy
móc, dây chuyền sản xuất, thường xuyên cập nhật, đổi mới công nghệ để hạ chi phí, nâng
cao chất lượng sản phẩm, mang lại lợi nhuận lâu dài, ổn định. Muốn vậy, phải đẩy mạnh
công tác nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu mới của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa.
2. Giải pháp 2: Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng, có trình độ, kĩ năng, tay nghề cao
Người lao động là một trong những yếu tố chính trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy,
để phát triển kinh tế thị trường, không thể bỏ qua phát triển nguồn nhân lực. Trước hết là
nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, trọng tâm là chuyển đổi số, hiện đại hóa cơ sở vật
chất, thiết bị, thay đổi phương thức giáo dục đào tạo. Ngoài ra, cần tổ chức mạng lưới cơ 10 lOMoAR cPSD| 44879730
sở giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, hiện đại, dễ tiếp cận, đa dạng về hình
thức tổ chức, phân bổ hợp lý cả về cơ cấu ngành, trình độ vùng, miền và đủ khả năng đáp
ứng nhu cầu về đào tạo nhân lực chất lượng cao.
Bên cạnh đó, hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút các nhà đầu tư, doanh nghiệp tham
gia vào hoạt động đào tạo, phát triển kỹ năng nghề và đẩy mạnh dự báo nhu cầu về đào
tạo nghề nghiệp, đặc biệt là ngành nghề khoa học và kỹ thuật công nghệ cũng là những
biện pháp hiệu quả để nâng cao trình độ người lao động.
3. Giải pháp 3: Xây dựng đội ngũ quản lý có trình độ chuyên môn cao nhằm tối ưu
hoá hoạt động lao động sản xuất
Để nâng cao năng suất sản xuất hàng hoá, chúng ta cần đẩy mạnh đào tạo và đào
tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý cho phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế trong thời kỳ
mới. Đội ngũ quản lý phải có năng lực chuyên môn giỏi, có khả năng thích ứng tốt với cơ
chế thị trường, đặc biệt là có nền tảng kiến thức sâu rộng về nền kinh tế thị trường cũng
như những quy luật kinh tế chi phối, tác động lên nó. Cơ cấu của đội ngũ cán bộ cần phải
được chú ý, bảo đảm cả ở phạm vi vĩ mô lẫn vi mô, cả cán bộ quản lý lẫn cán bộ kinh doanh.
Song song với đào tạo và đào tạo lại, cần phải có phương hướng sử dụng, bồi dưỡng,
đãi ngộ đúng đắn với đội ngũ đó, nhằm kích thích hơn nữa việc không ngừng nâng cao
trình độ nghiệp vụ, bản lĩnh quản lý, tài năng kinh doanh của họ.
4. Giải pháp 4: Nhà nước cần có những cơ chế, chính sách phù hợp để khuyến khích
sự phát triển của kinh tế tư nhân – một động lực quan trọng của nền kinh tế Việt
Nam cần tiếp tục cải cách cơ cấu và pháp luật mạnh mẽ hơn nữa để tạo nền tảng
vững chắc hơn cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Lý do là bởi dù có
những đóng góp không thể phủ nhận cho nền kinh tế, doanh nghiệp tư nhân luôn ở
trong tình trạng thiếu hụt nguồn vốn, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp quy mô 11 lOMoAR cPSD| 44879730
vừa, nhỏ và siêu nhỏ. Do quy mô nhỏ nên rất nhiều doanh nghiệp trong nước chưa
đủ năng lực cạnh tranh để xuất khẩu sang thị trường nước ngoài, hoặc tham gia
mạng lưới sản xuất toàn cầu.
Vì vậy, chương trình cải cách cần tập trung vào những lĩnh vực trọng yếu như tạo môi
trường cạnh tranh bình đẳng giữa tất cả các doanh nghiệp, thúc đẩy cơ hội tiếp cận tài
chính cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, mở rộng nguồn vốn dài hạn, tăng cường dịch vụ hạ
tầng, hỗ trợ cắt giảm chi phí, tháo gỡ khó khăn về tài chính, dòng tiền cho doanh nghiệp,
đặc biệt là trong giai đoạn kinh tế đang phục hồi sau đại dịch.
5. Giải pháp 5: Xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam
Thực tế cho thấy, gần 80% nông sản của Việt Nam ra thị trường thế giới dưới danh
nghĩa của những doanh nghiệp nước ngoài do chưa có thương hiệu, logo, nhãn mác… Do
đó, nông sản xuất khẩu của nước ta, dù có chất lượng không thua kém các sản phẩm cùng
loại của các quốc gia khác, nhưng lại không được ưa chuộng, và phải bán với giá thấp hơn.
Điều này gây ra những tổn thất lớn đối với tổng giá trị xuất khẩu nông sản nước nhà. Vì
thế, công tác xây dựng thương hiệu sản phẩm là một yêu cầu cấp bách.
Trước hết, cần xác định thế mạnh và sự khác biệt của nông sản xuất khẩu Việt Nam để
có chính sách ưu tiên, hỗ trợ kịp thời. Các doanh nghiệp cần tham gia đẩy mạnh việc triển
khai các chương trình quảng bá thương hiệu và sản phẩm của mình. Nhà nước cần hoàn
thiện chính sách xây dựng, bảo hộ thương hiệu và trang bị kiến thức về giá trị thương hiệu;
nâng cao nhận thức về yêu cầu và tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển thương
hiệu cho doanh nghiệp và người dân các vùng chuyên canh hàng nông sản xuất khẩu.
6. Giải pháp 6: Thúc đẩy sản xuất nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp trong nước,
thay thế cho nhu cầu nhập khẩu trong bối cảnh mặt bằng giá cả thế giới tăng cao
Thực tế cho thấy, trong năm 2022, chỉ số sản xuất công nghiệp ghi nhận tăng so với
cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, ở một số ngành do nguyên vật liệu khan hiếm, giá tăng cao
đã kìm hãm sự gia tăng của sản lượng sản xuất. Để khắc phục tình trạng này, các doanh 12 lOMoAR cPSD| 44879730
nghiệp cần tích cực tìm kiếm, cung cấp và cập nhật thường xuyên danh sách các nhà phân
phối, sản xuất xuất khẩu nguyên nhiên vật liệu, phụ liệu cho các sản xuất công nghiệp.
Trong dài hạn, sản xuất trong nước nên tìm kiếm nguồn cung thay thế thông qua việc
tăng cường liên kết, tận dụng tối đa các thị trường mới mở ra từ các hiệp định thương mại
tự do, qua đó sẽ thúc đẩy tăng tỷ lệ nội địa hóa và giảm tình trạng phụ thuộc. Bên cạnh đó,
Việt Nam cần xây dựng và phát triển những doanh nghiệp quy mô tầm trung tham gia vào
hoạt động sản xuất các nguyên vật liệu, để gia tăng sức cạnh tranh cho các ngành công
nghiệp mũi nhọn, thay vì phụ thuộc nhập khẩu từ Trung Quốc, Hàn Quốc.
7. Giải pháp 7: Nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch bằng cách chủ động tạo ra
những “sản phẩm du lịch”độc đáo, mang bản sắc dân tộc
Hiện du lịch Việt đang thừa các sản phẩm giống nhau, nhưng thiếu các sản phẩm độc
đáo. Khách du lịch hạng sang không những cần những sản phẩm cao cấp đáp ứng cao nhất
những nhu cầu và mong muốn của họ, mà còn cần những trải nghiệm, những sản phẩm
không thể tìm thấy ở bất cứ đâu. Phải thừa nhận một điều là ngoài phong cảnh trời ban
cho, chúng ta gần như quá thụ động trong việc bày ra các "sản phẩm du lịch".
Vì thế, các doanh nghiệp cần kết hợp sáng tạo những yếu tố văn hoá mang đậm bản
sắc dân tộc vào các “sản phẩm du lịch" để vừa thu hút, vừa giữ chân du khách và còn đón
khách quay trở lại. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng nên đa dạng hoá các lựa chọn cho
những đối tượng du khách khác nhau. Vì chủ yếu hiện nay, Việt Nam vẫn luôn được nhắc
đến như một quốc gia du lịch giá rẻ. Khách du lịch, đặc biệt là khách hạng sang, không có
chỗ chơi hay nơi để tiêu tiền, nên thay vì chọn Việt Nam, thì họ thường có xu hướng lựa
chọn các điểm đến khác có nhiều tổ hợp giải trí về đêm kết hợp với nghỉ dưỡng. 13 lOMoAR cPSD| 44879730
Danh sách tài liệu tham khảo:
- Giáo trình Kinh tế chính trị Mác Lê – nin (Dành cho bậc Đại học hệ không
chuyên Lý luận chính trị) (Bộ Giáo dục và Đào tạo)
- Thông cáo báo chí tình hình kinh tế – xã hội quý I năm 2023 (Tổng cục thống kê – 29/3/2023)
- Nông nghiệp Việt Nam năm 2022 - Những điểm sáng nổi bật (Tạp chí Con số
sự kiện – Dương Mạnh Hùng – 30/12/2022)
- Sản xuất công nghiệp Quý I/2023 giảm so cùng kỳ năm ngoái (Tạp chí Con số
sự kiện – Phí Thị Hương Nga – 4/4/2023)
- Sản xuất công nghiệp Việt Nam năm 2022 - những kết quả khả quan (Tạp chí
Con số sự kiện – Phí Thị Hương Nga – 31/12/2022)
- Thông cáo báo chí tình hình lao động việc làm quý I năm 2023 (Tổng cục thống kê – 6/4/2023)
- Thu nhập bình quân của lao động năm 2022 là 6,7 triệu đồng/tháng (Báo
Vietnamplus – Hồng Kiều – 10/1/2023)
- Thu nhập bình quân tháng người lao động trong quý I tăng 339 nghìn đồng
(Cổng thông tin điện tử bộ Tài chính – Thuý Hiền – 19/4/2021)
- Quý I/2022: Thu nhập bình quân tháng của người lao động tăng 1 triệu đồng
(Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam – 16/4/2022)
- Một số vấn đề về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta hiện
nay (Trang Thông tin điện tử tổng hợp Ban Kinh tế Trung ương – PGS, TS. Lê Văn Lợi – 9/5/2022)
- Công nghiệp Việt Nam đang phát triển mất cân đối (Tạp chí điện tử
VnEconomy – Vũ Khuê – 8/9/2022)
- Dịch vụ và xuất, nhập khẩu dịch vụ: Kết quả và vấn đề đặt ra (Tạp chí điện tử
VnEconomy – Phương Nam – 28/2/2023)
- 6 giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực (Tạp chí điện tử VnEconomy
– Nhật Dương – 18/9/2022)
- Thực trạng và giải pháp phát triển thành phần kinh tế tư nhân (Tạp chí Tài
chính online – ThS. Trần Thị Hoa– 23/4/2022)
- Xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam (Tạp chí điện tử Lý luận chính
trị – ThS Nguyễn Lan Hương – 11/10/2022)
- Giảm phụ thuộc nguyên liệu nhập khẩu để tăng sức cạnh tranh trong ngành
công nghiệp (Báo Công thương - Lan Anh – 7/5/2022)
- Vì sao du lịch Việt Nam "đi trước về chậm"? (Báo điện tử VTV News – Ban Thời sự - 19/3/2023) 14