BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ - LUẬT
BÀI THẢO LUẬN
Học phần: Kinh tế chính trị Mác Lê-nin
ĐỀ TÀI THẢO LUẬN: LÝ LUẬN LÝ LUẬN TÍCH LŨY VÀ Ý
NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN TÍCH LŨY
Giáo viên hướng dẫn: Tống Thế Sơn
Nhóm thực hiện: 04
Lớp học phần: 2244RLCP1211
Hà Nội – 2022
1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................................................................5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN..................................................................................................................7
1.1. Lý luận về tích lũy cơ bản........................................................................................................7
1.1.1. Khái niệm về tích lũy tư bản:.........................................................................................7
1.1.2. Bản chất của tích lũy tư bản:.........................................................................................7
1.1.3 Những nhân tố ảnh hưởng tới quy mô tích lũy.................................................................................8
1.1.4. Hệ quả của tích lũy tư bản..............................................................................................................10
1.2 Ý nghĩa của việc nghiên cứu lý luận tích lũy tư bản..............................................................................11
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG...........................................................................................................................11
2.1 Tại sao phải tích lũy vốn?........................................................................................................................11
2.2 Thực trạng lý luận tích lũy tư bản ở Việt Nam......................................................................................12
2.3. Đánh giá...................................................................................................................................................14
2.3.1. Thuận lợi..........................................................................................................................................14
2.3.2. Khó khăn..........................................................................................................................................15
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP.................................................................................................................................16
3.1. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ tích lũy - tiêu dùng:........................................17
3.2. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn:..........................................................................................................17
3.3. Tích lũy vốn trong nước:........................................................................................................................17
3.4. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài:............................................................................................................18
KẾT LUẬN........................................................................................................................................................20
2
LỜI MỞ ĐẦU
Tích lũy tư bản là sự đòi hỏi khách quan của bất cứ một giai đoạn phát
triển nào ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Nếu không tích lũy và huy
động nguồn lực tư bản cho quốc gia mình thì nền kinh tế xã hội quốc gia đó
sẽ không phát triển mạnh mẽ và cường thịnh được. Cụ thể trong doanh nghiệp,
vấn đề tích luỹ vốn được xem là yếu tố để doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất tăng khả
năng cạnh tranh. Cho nên đối với Việt Nam tích lũy luôn là điều kiện tiên quyết
để tái sản xuất mở rộng. Có tích lũy mới có thể làm cho nền kinh tế tăng
trưởng và phát triển, đưa đất nước vững vàng đi theo con đường chủ nghĩa
xã hội mà chúng ta đã lựa chọn. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi đất
nước đang tiến hành công cuộc công nghiệp hóa-hiện đại hóa thì nhu cầu
về vốn để xây dựng các công trình nền tảng và cái tiến kỹ thuật áp dụng
khoa học tiên tiến là càng cần thiết và quan trọng hơn bao giờ hết.
Thấy được tính cấp thiết của vấn đề, nhóm em quyết định chọn đề tài thảo luận: “Lý luận tích
luỹ và ý nghĩa của việc nghiên cứu lý luận tích luỹ”. Đề tài cho ta thấy được vai trò và tầm
quan trọng của tích luỹ đối với nền kinh tế của 1 quốc gia.
Nhờ sự hướng dẫn và giúp đỡ của giảng viên Tống Thế Sơn mà chúng em có thể hoàn
thành đề tài này. Trong quá trình nghiên cứu không thể tránh khỏi những thiếu sót, nhóm 4
mong sẽ nhận được những lời góp ý đề bài thảo luận được hoàn thiện hơn.
3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lý luận về tích lũy cơ bản
1.1.1. Khái niệm về tích lũy tư bản:
Tích lũy bản, trongLkinh tế chính trị Mác - Lênin, việc biến một bộ
phậnLgiá trị thặng dưLtrở lại thànhLtư bản, còn trong các lý luận kinh tế học
khác, đơn giản sựLhình thành bảnL(tăng lượng vốn dưới hình thức
tư bản cố định và lưu kho của chính phủ và tư nhân).L
Đặc trưng của tái sản xuất tư bản chủ nghĩa là tái sản xuất mở rộng. Muốn
vậy, cần phát triển một bộ phận giá trị thặng thành bản phụ thêm.
Việc biến g trị thặng trở lại bản gọi tích lũy bản. Như vậy,
thực chất của tích luỹ tư bản là tư bản hóa giá trị thặng dư.
Nguồn gốc duy nhất của tư bản tích luỹ là giá trị thặng dư và tư bản tích luỹ chiếm tỷ lệ ngày
càng lớn trong toàn bộ bản. Quá trình tích lũy đã làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế
hàng hóa biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa, nhưng sự biến đổi đó không vi phạm
quy luật giá trị. Động lực thúc đẩy tích luỹ tư bản là quy luật giá trị thặng dư và cạnh tranh.
1.1.2. Bản chất của tích lũy tư bản:
Xuất phát từ lợi ích nhà tư bản mong muốn.D
-Tích luỹ bản biến một phần giá trị thặng thành bản phụ
thêm (tư bản mới). Các giá trị thông qua đầu sẽ mang đến các giá
trị mới được sinh ra. Nếu xét thời điểm này, được xem bản
mới. Nhưng khi sử dụng để thực hiện đầu tư, lại đóng vai trò
tích lũy bản. Thông thường, các giá trị thặng sẽ được sử dụng
một phần để tham gia vào các tích lũy mới.
-Nhà tư bản mong muốn giàu lên với các nắm giữ lớn hơn cho giá trị
thặng dư. Cho nên nhu cầu trong đầu tư luôn được thể hiện. Trong
tính chất sản xuất hay kinh doanh, họ mua giá trị từ hàng hóa sức lao
động của công nhân. Từ đó tiến hành công việc để tìm kiếm giá trị từ
4
hàng hóa được tạo ra. Cũng chính các tính toán đó mà sau khi trừ các
chi phí ban đầu, họ vẫn nhận về cho mình những giá trị thặng dư.
Tính liên tục và tái sản xuất.
-Các lợi ích ổn định có thể được tìm kiếm khi sản xuất hay kinh doanh
được tiến hành ổn định. Nhà tư bản với nhu cầu trong tiêu dùng hay
tích lũy cũng không dừng lại. Do đó mà tái sản xuất là bản chất của
tích lũy tư bản.
-Tái sản xuất là quá trình sản xuất được lặp đi lặp lại không ngừng.
Tính chất thực hiện hoạt động bên cạnh các lợi thế và tiềm năng mà
nhà tư bản xác định. Đồng thời, với tham vọng tìm kiếm lợi ích, nhà tư
bản cũng xây dựng chiến lược cho việc mở rộng quy mô. Điều này thể
hiện với các đổi mới trong dây chuyền sản xuất, bằng việc thay thế
các tư liệu sản xuất phù hợp. Các nhân công cũng cần thiết đáp ứng
tiêu chí lao động ngày càng cao. Nó giúp cho các giá trị trả cho tiền
lương được thực hiện hiệu quả. Từ đó mà giá trị thặng dư có thể kiếm
về cho nhà tư bản là lớn hơn.
Hướng đến tái sản xuất mở rộng.
-Hình thức tiến hành của chủ nghĩa tư bản là tái sản xuất mở rộng.
Trong tính chất sản xuất quan tâm đến nhiều yếu tố lâu dài và bền
vững. Đây có thể là các yếu tố tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến
thặng dư. Tuy nhiên đều mang đến hiệu quả và thuận lợi cho nhà tư
bản khi thu hút được nhiều nhu cầu hơn. Bao gồm:
Tái sản xuất ra của cải vật chất, quan hệ sản xuất. Mang đến các
đảm bảo cho nhu cầu ổn định và phát triển của con người. Trong
đó còn làm mới phù hợp và hiệu quả cho việc thu về giá trị thặng
dư.
Tái sản xuất sức lao động của con người. Thông qua các máy móc
hiện đại thay thế sức lao động. Cũng như khai thác về trình độ kỹ
thuật nhiều hơn. Nhờ vậy mà sức lao động được sử dụng hiệu quả
và đảm bảo hơn.
Tái sản xuất môi trường sống của con người. Phản ánh với các điều
kiện sống được nâng cao. Bên cạnh việc sử dụng và khai thác, tác
động đến môi trường. Khắc phục những tác động đến môi trường
mang đến tính chất xanh, sạch, đẹp.
5
1.1.3 Những nhân tố ảnh hưởng tới quy mô tích lũy.
1.1.3.1 Trình độ khai thác sức lao động
Tỷ suất giá trị thặng dư tăng sẽ tạo tiền đề để tăng quy mô giá trị thặng dư. Từ đó tạo điều
kiện để tăng quy mô tích lũy. Để nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư, ngoài sử dụng các
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối, nhà
tư bản còn có thể sử dụng các biện pháp cắt giảm tiền công, tăng ca, tăng cường độ lao
động, kéo dài ngày lao động, cắt giảm tiền lương của công nhân. Có nghĩa là thời gian công
nhân sáng tạo ra giá trị thì càng được kéo dài ra nhưng chi phí càng được cắt giảm, do vậy
khối lượng giá trị thặng dư càng lớn và quy mô của tích lũy tư bản càng lớn.
Giải thích:
Các nhà tư bản nâng cao trình độ bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén vào tiền công.
Khi nghiên cứu sự sản xuất giá trị thặng dư, C.Mác giả định rằng sự trao đổi giữa công
nhân và nhà tư bản là sự trao đổi ngang giá, tức là tiền công bằng giá trị sức lao động.
Nhưng trong thực tế, công nhân không chỉ bị nhà tư bản chiếm đoạt lao động thặng dư,
mà còn bị chiếm đoạt một phần lao động tất yếu, tức cắt xén tiền công, để tăng tích lũy
tư bản.
Các nhà tư bản còn nâng cao trình độ bóc lột sức lao động bằng cách tăng cường độ
lao động và kéo dài ngày lao động để tăng khối lượng giá trị thặng dư, nhờ đó tăng
tích lũy tư bản. Cái lợi ở đây còn thể hiện ở chỗ nhà tư bản không cần ứng thêm tư bản
để mua thêm máy móc, thiết bị mà chỉ cần ứng tư bản để mua thêm nguyên liệu là có
thể tăng được khối lượng sản xuất, tận dụng được công suất của máy móc, thiết bị, nên
giảm được hao mòn vô hình và chi phí bảo quản của máy móc, thiết bị.
1.1.3.2 Năng suất lao động xã hội
Mà năng suất lao động xã hội tăng lên thì giá cả tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng giảm.
Sự giảm này đem lại hai hệ quả cho tích luỹ:
-Một là, với khối lượng giá trị thặng dư nhất định, phần dành cho tích luỹ có thể tăng
lên, nhưng tiêu dùng của các nhà tư bản không giảm, thậm chí có thể cao hơn trước.
-Hai là, một lượng giá trị thặng dư nhất định dành cho tích luỹ cũng có thể chuyển hóa
thành một khối lượng tư liệu sản xuất và sức lao động phụ thêm nhiều hơn trước.
Sự tiến bộ của khoa học và công nghệ đã tạo ra nhiều yếu tố phụ thêm cho tích lũy nhờ việc
sử dụng vật liệu mới và tạo ra công dụng mới của vật liệu hiện có như những phế thải trong
tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân của xã hội, những vật vốn không có giá trị. Cuối
cùng, năng suất lao động tăng sẽ làm cho giá trị của tư bản cũ tái hiện dưới hình thái hữu
dụng mới càng nhanh.
Năng suất lao động xã hội tăng làm cho giá trị tư liệu sinh hoạt giảm xuống, giá trị sức lao
động giảm giúp cho nhà tư bản thu được nhiều giá trị thặng dư hơn, góp phần tăng quy mô
tích lũy.
6
1.1.3.3 Sử dụng hiệu quả máy móc.(C.Mác gọi việc này là chênh lệch giữa tư bản sử dụng
và tư bản tiêu dùng).
Theo C.Mác máy móc được sử dụng toàn bộ tính năng của nó, song giá trị chỉ được tính
dần vào giá trị sản phẩm qua khấu hao. Sau mỗi chu kì như thế, máy móc vẫn hoạt động
toàn bộ nhưng giá trị của bản thân nó đã giảm dần do tính khấu hao để chuyển vào giá trị
sản phẩm.
-Tư bản sử dụng là khối lượng giá trị những tư liệu lao động mà toàn bộ quy mô hiện
vật của chúng đều hoạt động trong quá trình sản xuất sản phẩm.
-Còn tư bản tiêu dùng là phần giá trị những tư liệu lao động ấy được chuyển vào sản
phẩm theo từng chu kì sản xuất dưới dạng khấu hao.
ØDo đó, có sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Sự chênh lệch này là
thước đo sự tiến bộ của lực lượng sản xuất.
ØHệ quả là, mặc dù giá trị đã bị khấu hao, song tính năng hay giá trị sử dụng thì vẫn
nguyên như cũ, như lực lượng phục vụ không công trong sản xuất.
1.1.3.4 Đại lượng tư bản ứng trước
Thị trường thuận lợi, hàng hóa luôn bán được, tư bản ứng trước càng lớn sẽ là tiền đề cho
tăng quy mô tích lũy. Với trình độ bóc lột không thay đổi, thì khối lượng giá trị thặng dư do
khối lượng tư bản khả biến quyết định.
Do đó quy mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ phận tư bản khả biến càng lớn, thì khối
lượng giá trị thặng dư bóc lột được càng lớn, do đó tạo điều kiện tăng thêm quy mô của tích
luỹ tư bản. Từ sự nghiên cứu bốn nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ tư bản có thể rút
ra nhận xét chung là để tăng quy mô tích luỹ tư bản, cần khai thác tốt nhất lực lượng lao
động xã hội, tăng năng suất lao động, sử dụng triệt để công suất của máy móc, thiết bị và
tăng quy mô vốn đầu tư ban đầu.
1.1.4. Hệ quả của tích lũy tư bản
Thứ nhất, tích lũy tư bản làm tăng cấu tạo hữu cơ tư bản
- Cấu tạo hữucủa bản là cấu tạo giá trị được quyết định bởi yếu tốthuật phản
ánh sự biến đổi của cấu tạo kĩ thuật của tư bản.
- Chủ nghĩa Mác cho rằng nền sản xuất thể được quan sát bằng hình thái hiện vật
cũng có thể được quan sát bằng hình thái giá trị.
- Nếu quan sát qua hình thái hiện vật thì mối quan hệ đó thể được gọi cấu tạo
thuật.
- Với cấu tạo thuật trên nếu quan sát qua hình thái giá trị thì phản ánh mối quan hệ
tỉ lệ giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến, tỉ lệ đó gọi là cấu tạo hữu cơ. Nó luôn tăng
do cấu tạo kĩ thuật vận động luôn tăng lên về lượng.
=> Vì vậy, quá trình tích lũy tư bản không ngừng làm tăng cấu tạo hữu cơ tư bản.
Thứ hai, tích lũy cơ bản làm tăng tích tụ và tập trung tư bản
7
- Tích tụ bản sự tăng thêm quy của bản biệt bằng cách bản hóa giá trị
thặng dư.
- Tích tụ tư bản làm tăng quy mô của tư bản các biệt đồng thời làm tăng quy mô tư bản xã
hội do giá trị thặng được biến thành bản phụ thêm kết quả trực tiếp của tích
lũy tư bản.
- Tập trung tư bản là sự tăng lên của quy mô tư bản cá biệt mà không làm tăng quy mô tư
bản xã hội do hợp nhất các tư bản cá biệt vào một chỉnh thể tạo thành bản cá biệt lớn
hơn.
- Tích tụ tập trung bản đều góp phần tạo tiền đề để thể thu được nhiều giá trị
thặng dư hơn cho người mua hàng hóa sức lao động.
Thứ ba, tích lũy tư bản làm bần cùng hóa người lao động làm thuê
-Xét chung trong toàn bộ nền kinh tế bản chủ nghĩa, thu nhập các nhà bản
được lớn hơn gấp nhiều lần so với thu nhập dưới dạng tiền công của người lao động làm
thuê. C.Mác đã quan sát thấy thực tế trên ông gọi đó s bần cùng hóa của người
lao động.
-Bần cùng hóa giai cấp công nhân làm thuê biểu hiện dưới hai hình thái bần cùng hóa
tương đối và bần cùng hóa tuyệt đối.
1.2 Ý nghĩa của việc nghiên cứu lý luận tích lũy tư bản
Nghiên cứu tích lũy tư bản cho thấy rõ hơn bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa:
- Thứ nhất, nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy là giá trị thặng dư và tư bản tích lũy
chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản. C.Mác nói rằng: tư bản ứng trước chỉ là một
giọt nước trong sông của tích lũy mà thôi. Trong quá trình tái sản xuất, lãi cứ đập vào vốn,
vốn càng lớn thì lãi càng lớn, do đó lao động của công nhân trong quá khứ lại trở thành
phương tiện để bóc lột chính người công nhân.
- Thứ hai, quá trình tích lũy đã làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hàng hóa biến
thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa. Trong sản xuất hàng hóa giản đơn, sự trao đổi
giữa những người sản xuất hàng hóa theo nguyên tắc ngang giá về cơ bản không dẫn tới
người này chiếm đoạt lao động không công của người kia. Trái lại, nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa dẫn đến kết quả là nhà tư bản chẳng những chiếm đoạt một phần lao động của công
nhân mà còn là người sở hữu hợp pháp lao động không công đó.
Làm cho qui mô vốn ngày càng tăng, có điều kiện cải tiến kĩ thuật ứng dụng thành tựu khoa
học công nghệ, có khả năng giành thắng lợi trong cạnh tranh.
Nghiên cứu lý luận tích lũy giúp hiểu và nắm được các nhân tố tăng quy mô tích lũy, từ đó
vận dụng trong sản xuất và kinh doanh để tăng vốn và sử dụng vốn hiệu quả. Doanh nghiệp
cũng cần phải tiết kiệm sao cho hợp lý, việc xây dựng cơ sở sản xuất và thiết bị cũng cần phải
được tính toán kỹ càng. Nếu như vội vàng đưa ra quyết định đầu tư không hợp lý sẽ gây ra
lãng phí, thất thoát tài sản. Yêu cầu đối với doanh nghiệp đó là phải phân bố một cách hợp lý
giữa tiêu dùng và tích lũy.
Nghiên cứu lý luận tích lũy cho thấy tăng năng suất lao động là cách sử dụng vốn có hiệu
quả nhất cũng như tăng khấu hao tư liệu sản xuất giúp tránh được hao mòn vô hình, có ý nghĩa
8
rất lớn, tăng tích lũy vốn sản xuất và sử dụng tư liệu sản xuất có hiệu quả. Đồng thời, doanh
nghiệp cũng cần khai thác tối đa các nguồn lực, đây là điều kiện tiên quyết cho quá trình tích
lũy vốn của doanh nghiệp. Nội dung này đòi hỏi doanh nghiệp phải linh hoạt sao cho phù hợp
với điều kiện kinh tế của đất nước. Do đó doanh nghiệp phải có cơ chế, giải pháp huy động
vốn một cách hợp lý.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG
2.1. Tại sao phải tích lũy vốn?
- Trong đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước do Đại Hội
VIII của Đảng đề ra, vấn đề tích lũy vốn để tiến hành công nghiệp hóa,
hiện đại hóa có tầm quan trọng đặc biệt cả về phương pháp, nhận thức
chỉ đạo thực tiễn. Ai cũng biết rằng để công nghiệp hóa, hiện đại hóa
cần phải có vốn. Hiện nay chúng ta đang tiến hành xây dựng chủ nghĩa
xã hội từ điểm xuất phát rất thấp, trong khi đó tiến hành công nghiệp
hóa, hiện đại hóa lại phải cần nhiều vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng. Tuy
đất nước và khu vực đã thoát khỏi khủng hoảng, nhưng nước ta vẫn là
một nước nghèo, chậm phát triển thì vấn đề tích lũy vốn là
vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt, có ý nghĩa tiên quyết đối với toàn bộ
quá trình xây
dựng, tại Đại Hội Đảng lần thứ VIII Đảng ta đã khẳng định: “ Luôn chủ
trương tự lực cánh sinh xây dựng, phát triển kinh tế, công nghiệp tích
lũy vốn từ nội bộ kinh tế là chủ yếu”.
- Nhiều chuyên gia quốc tế đã cho rằng Việt Nam muốn phát triển
và đạt tốc độ theo hướng rồng bay thì phải nỗ lực huy động và tích lũy
vốn trong nước, tăng cường có hiệu quả với vốn nước ngoài và đầu tư có
hiệu quả cao. Họ đã tính toán rằng để tốc độ tăng trưởng GDP trung
bình hằng năm khoảng 8-10 % thì tổng đầu tư trong nước của Việt Nam
phải đạt từ 20-35%, để đạt được sự tăng trưởng GDP với tốc độ cao như
vậy đòi hỏi phải đẩy nhanh hơn nữa quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Nhưng
đất nước ta đang đứng trước một bài toán vô cùng nan giải đó là tình
trạng thiếu vốn về
mọi mặt (Vốn lao động, vốn tín dụng, vốn đầu tư phát triển) cần phải
giải đáp của nền
công nghiệp: muốn phát huy tối đa nguồn nhân lực, nâng cao dân trí,
đào tạo bồi dưỡng
nhân tài để phát huy tối đa cho công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa
thì phải đầu tư
cho GDP đẩy nhanh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất cũng
như xây dựng cở sở hạ tầng không thể thiếu vai trò của vốn. Mặt khác
chúng ta đang tiến tới hiệp định
GEPT/AFTA (ASEAN) và tham gia vào khu vực tự do hóa thương mại
9
Châu Á TBD
(APEC) để đứng vững được chúng ta phải có sức cạnh tranh trong mọi
thị trường trong
và ngoài nước. Theo Marx “Sự cạnh tranh bắt buộc nhà tư bản, nếu
muốn duy trì tư bản
của mình thì phải làm cho tư bản ngày càng tăng lên mãi và hẳn không
thể làm cho tư
bản đó ngày một tăng lên được nếu không có một sự tích lũy ngày càng
nhiều thêm”.
2.2. Thực trạng lý luận tích lũy tư bản ở Việt Nam
Trước khi đi vào tìm hiểu cụ thể về tích luỹ tư bản, chúng ta cần phải hiểu định nghĩa tư
bản là gì. Tư bản là sở hữu về vật chất thuộc về cá nhân hay tạo ra bởi xã hội. Nói một
cách đơn giản, tư bản là giá trị có bản năng tự tăng lên mà người chủ của nó không phải
tham gia lao động.
Trước dịch:
- Trước đây trong nền kinh tế bao cấp, tiêu dùng còn thiếu thốn thì quá trình tích lũy vốn
còn gặp rất nhiều trở ngại. Nhà nước lại can thiệp quá sâu vào nền kinh tế dẫn đến việc tổ
chức doanh nghiệp không thể phát huy hết khả năng của mình, nhiệm vụ tích tụ và tập
trung vốn không đạt được hiệu quả. Việc thực hiện CNH- HDH đề ra trong kế hoạch 5
năm tại Đại hội Đảng lần III 1960-1985 được tiến hành trong điều kiện chế độ quan liêu
bao cấp vì vậy nên còn tồn tại khá nhiều hạn chế. Chỉ khi sau đổi mới 1986, cùng với viêc
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chính sách mở cửa, ngoại giao
mềm dẻo, các kênh huy động vốn trở nên phong phú linh hoạt hơn. Theo thống kê giai
đoạn 1996-2000 tăng 66,7% so với 1991-1995, tỷ trọng vốn đầu tư xã hội 28,6% năm.
Tích lũy nội bộ tăng lên 25% GDP. Từ 2000 đến nay tốc độ lại tiếp tục tăng 2008 tăng
39,6%, 2009 tăng 34,8%, 2010 tăng 37,5% năm, giai đoạn 2011-2017 nguồn vốn đầu tư
toàn xã hội 15,524 tỷ, vốn nước ngoài ước tính 1150 tỷ đồng.
- Từ khi chuyển đổi nền kinh tế, nhất đời sống nhân dân đã được cải thiện rõ rệt, thu
nhập quốc dân tăng lên…tuy nhiên nó vẫn còn quá nhỏ bé so với nền kinh tế thế giới (nếu
quy đổi ra đô la Mỹ (thời điểm năm 2003) thì quy mô vốn của các doanh nghiệp ở Việt
Nam chỉ tương đương với một tập đoàn đa quốc gia cỡ trung bình trên thế giới). Trong đó
doanh nghiệp Nhà nước chiếm 59,0/% tổng vốn của doanh nghiệp cả nước, doanh nghiệp
ngoài quốc doanh chiếm 19,55%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 21,44%
tổng vốn các doanh nghiệp cả nước. Xét riêng đối với mỗi doanh nghiệp, vốn của từng
doanh nghiệp rất nhỏ.
- Thực tế cho thấy tiềm năng trong dân còn rất lớn nhưng tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư thấp,
nhiều hộ gia đình và không ít doanh nghiệp còn đầu tư chưa hiệu quả, nguồn vốn không
được luân chuyển từ nơi thừa đến nơi thiếu. Đầu tư của nhà nước tăng lên nhưng còn dàn
trải. Việc quản lý sử dụng vốn còn phân tán, không tập trung tối đa vốn tiền mặt cũng như
nhân tài vật lực để giải quyết những công trình thiết yếu của nền kinh tế. Tuy nhiên sự phát
10
triển nhanh chóng của thị trường chứng khoán cho thấy đây là một kênh huy động vốn thật
sự hấp dẫn và rất đáng kể.
Sau dịch:
- Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh vực
kinh tế – xã hội trong những năm gần đây thì tình hình tích lũy tư bản của nước ta trong
những năm đại dịch vẫn ổn định: Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến ngày
20/9/2021 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua
cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 22,15 tỷ USD, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước.
Trong báo cáo cập nhật kinh tế vĩ mô tháng 9/2021 vừa qua, WB đưa ra nhận định dòng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam cho thấy lòng tin vào nền kinh tế vẫn
được duy trì. Nhà đầu tư FDI vẫn tin tưởng vào triển vọng của nền kinh tế Việt Nam. Theo
chuyên gia WB, lý do là nền kinh tế Việt Nam vẫn nằm trong số các quốc gia tăng trưởng
tốt (năm 2020 là 2,9%) khi phần lớn các quốc gia khác suy giảm kinh tế nghiêm trọng. Đó
là dấu hiệu của khả năng phục hồi, cho thấy các nền tảng cơ bản của nền kinh tế Việt Nam
là vững chắc.
- Đóng góp của một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn vào tốc độ tăng tổng giá
trị tăng thêm được thống kê như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 5,53% so với năm trước,
đóng góp 0,61 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,87%,
đóng góp 0,46 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi giảm 1,88%, làm giảm 0,06 điểm
phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 14,68%, làm giảm 0,62 điểm phần trăm.
2.3. Đánh giá
2.3.1. Thuận lợi
❖ Qu tr nh m r ng s n xu t Vi t Nam hi n nay:á ì
- Trước đổi mới, mô hình kinh tế hiện vật với cơ chế quản lý kế hoạch
hóa tập trung, quan liêu, bao cấp đã kìm hãm lực lượng sản xuất phát
triển, dẫn đến sự trì trệ và khủng hoảng. Do đó đổi mới mô hình kinh tế
là điểm mấu chốt trong đổi mới quan hệ tổ chức, và quản lý sản xuất ở
Việt Nam.
- Sau đổi mới với xu thế toàn cầu hóa, sự chuyển giao và hòa nhập
quốc tế về khoa học, công nghệ đã khiến nền kinh tế nước ta phát triển
mạnh mẽ. Những công cụ lao động đơn giản đã được thay thế bằng dây
chuyền máy móc thiết bị hiện đại. Sự lao động tay chân của con người
dần được thay thế bằng lao động trí óc. Sự thay đổi đó đã làm cho năng
suất lao động tăng vượt bậc, khi lượng sản phẩm làm ra ngày càng
nhiều và chất lượng cao.
- Nhờ quá trình tích lũy vốn thay thế quá trình sản xuất nhỏ lẻ thành
quá trình sản xuất lớn hơn. Như ở nước ta nông nghiệp đóng vai trò
quan trọng, nên việc mở rộng sản xuất nông nghiệp là cần thiết và đạt
nhiều thành tựu.Từ đó nông nghiệp đạt được các thành tựu kim ngạch
xuất khẩu các mặt hàng nông lâm thủy sản đạt 15 tỷ USD ,tốc độ tăng
11
trưởng từ 4,0% tăng lên 4,5%. GDP nông nghiệp tăng rõ 3,3% lên 3,5%.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nông thôn đạt 7,8% - 8% / năm.
❖ S h nh th nh c c t p n kinh t Vi t Nam: ì à á đoà ế
- Trong h á í á ìu hết c c ch nh sách ph t trin kinh tế c a m nh, Nh n c u à ướ đề
th i hi n quan đ m h nh th nh c c t p n kinh t m i nh n và đủ sức ì à á đoà ế ũ
cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Theo đó một số tổng công ty nhà
nước trong một số lĩnh vực mũi nhọn sẽ được đổi thành các tập đoàn
kinh tế.
- Trê ế ăn thc t nă àm 2006 v đầu n m 2007, t m t p n kinh t qu c gia á đoà ế
trong c c l nh v c m i nh n Bưu chính – Viễn thông, Than – Khoáng sản, á ĩ ũ
dầu khí, điện lực, Công nghiệp tàu thủy, dệt may, cao su, tài chính – bảo
hiểm đã được thành lập. Đây là những tổng công ty có quy mô mạng
lưới thành viên có quan hệ mật thiết, liên doanh và hợp tác với nhiều đối
tác. Tuy nhiên trong quá trình thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước
đã xuất hiện sự lúng túng trong giải quyết các vấn đề cụ thể khi xây
dựng đề án. Các vấn đề nảy sinh đó là mối là mối quan hệ và liên kết
giữa các đơn vị trong tập đoàn, cơ chế thực hiện liên kết, cơ cấu tổ chức
bộ máy quản lý, thương hiệu của tập đoàn, quy mô vốn điều lệ và các
vấn đề khác để xác lập tập đoàn. Ngay như vị trí pháp lý của tập đoàn
vẫn còn ý kiến khác nhau như tập đoàn có hay không có tư cách pháp
nhân, đăng ký hay không đăng ký, có hay không có bộ máy quản lý
riêng.
- Các t đ à à ô đp o n v t ng c ng ty ang n m gi kho ng 75% t i s n c nh à đị
quc gia, kho ng 60% t ng t n d ng ng n h ng trong n c v t ng v í â à ướ à n.
- Vay nước ngoài nhưng chỉ tạo ra khoảng 40% tổng sản phẩm trong
nước tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của các đơn vị này 17%,
28,8% thu ngân sách. Tính đến cuối 2007, tổng vốn sở hữu của các tập
đoàn và tổng công ty đã tăng 18%, tổng tài sản tăng 26%. Bên cạnh các
tập đoàn kinh tế nhà nước còn có các tập đoàn kinh tế tư nhân như FPT,
Kinh Đô, Hòa Phát, Hoàng Anh Gia Lai, Vincom, Trung Nguyên,... Các tập
đoàn kinh tế tư nhân cũng góp phần làm làm thúc đẩy nền kinh tế phát
triển và làm tăng GDP quốc doanh của Việt Nam.
2.3.2. Khó khăn
Thiếu hụt về nguồn vốn trong mọi mặt:
- Tuy đất nước và khu vực đã thoát khỏi khủng hoảng, nhưng nước ta vẫn là một nước
nghèo, chậm phát triển thì vấn đề tích lũy vốn là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt, có ý
nghĩa tiên quyết đối với toàn bộ quá trình xây dựng, tại đại hội Đảng lần thứ VIII Đảng ta
đã khẳng định: “luôn chủ trương tự lực cánh sinh xây dựng, phát triển kinh tế, công nghiệp
tích lũy vốn từ nội bộ kinh tế là chủ yếu”. Nhiều chuyên gia quốc tế đã cho rằng Việt Nam
muốn phát triển và đạt tốc độ theo hướng rồng bay thì phải nỗ lực huy động và tích lũy
12
vốn trong nước, tăng cường có hiệu quả với nguồn nước ngoài và đầu tư có hiệu quả cao.
Nhưng đất nước ta đang đứng trước một bài toán vô cùng nan giải đó là tình trạng thiếu
vốn về mọi mặt (vốn lao động, vốn tín dụng, vốn đầu tư phát triển) cần phải giải đáp của
nền công nghiệp: muốn phát huy tối đa nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo bồi
dưỡng nhân tài để phát huy tối đa cho công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa thì phải đầu
tư cho GDP đẩy nhanh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất cũng như xây dựng cơ
sở hạ tầng không thể thiếu vai trò của vốn.
Việc quản lý sử dụng vốn còn phân tán, chưa hiệu quả:
- Thực tế cho thấy tiềm năng trong dân còn rất lớn nhưng tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư thấp,
nhiều hộ gia đình và không ít doanh nghiệp còn đầu tư chưa hiệu quả, nguồn vốn không
được luân chuyển từ nơi thừa đến nơi thiếu. Đầu tư của nhà nước tăng lên nhưng còn dàn
trải, ... Việc quản lý sử dụng vốn còn phân tán, không tập trung tối đa vốn tiền mặt cũng
như nhân tài vật lực để giải quyết những công trình thiết yếu của nền kinh tế. Tuy nhiên sự
phát triển nhanh chóng của thị trường chứng khoán cho thấy đây là một kênh huy động
vốn thật sự hấp dẫn và rất đáng kể.
Sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội:
- Phân hóa giàu nghèo ở nước ta ngày càng nghiêm trọng và ai cũng nhận ra qua thực tế
cuộc sống hàng ngày. Ở Việt Nam, sự phân hóa giàu nghèo diễn ra ngay từ thời kỳ quản lý
kinh tế - xã hội theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp. Tuy nhiên, lúc đó sự chênh lệch
giàu nghèo, phân hóa thu nhập và những biểu hiện của phân tầng xã hội chưa rạch ròi, rõ
nét, bị che khuất bởi chủ nghĩa bình quân và chế độ công hữu với cơ cấu giai cấp “hai giai
một tầng” (giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức). Chỉ từ
sau khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới toàn diện (1986), xóa bỏ cơ chế quản lý cũ,
thực hiện phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ,
thì sự phân tầng xã hội mới bộc lộ một cách rõ ràng và ngày càng rõ ràng. Lúc này đã xuất
hiện những công trình nghiên cứu về cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội nhằm cung cấp
những căn cứ lý luận và thực tiễn cặc hướng chiến lược và những chính sách phát triển
kinh tế - kinh tế phù hợp với thời kỳ chuyển đổi cơ chế và mô hình quản lý phát triển đất
nước.
- Cách đây 20 năm khi vừa mới thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, Việt Nam có quá
nửa tổng số hộ dân sống dưới mức nghèo khổ, hiện nay thì cả nước chỉ còn khoảng 10%
tổng số hộ nghèo và hầu như không còn hộ đói. Cũng cách đây 20 năm, có đến 2/3 tổng số
hộ ở khu vực nông thôn sống ở mức nghèo khổ và cũng có một tỷ lệ không nhỏ số hộ còn
bị đói. giờ thì tỷ lệ này đã giảm khá nhanh. Tuy đạt được những kết quả tích cực, nhưng tỷ
lệ nghèo và quy mô số người nghèo ở Việt Nam còn lớn. Việc phân bố số người nghèo
không chỉ chênh lệch ở tỷ lệ cao thấp qua các vùng, mà còn ở quy mô số người tuyệt đối.
Theo số liệu thống kê của nhà nước, vùng Đồng bằng sông Hồng có khoảng 1,23 triệu
người, vùng trung du và miền núi phía Bắc có 2,76 triệu người, vùng Bắc Trung bộ và
duyên hải miền Trung có 3,21 triệu người, vùng Tây Nguyên có khoảng trên 1 triệu người,
Đông Nam bộ có gần 213.000 người và vùng Đồng bằng sông Cửu Long có trên 1,84 triệu
người với một đất nước liên tục phải gánh chịu thiên tai như Việt Nam thì ranh giới giữa
13
mức cận nghèo và nghèo là rất mong manh nên nguy cơ số hộ nghèo tăng lên rất dễ xảy ra.
Thực tế trên cho thấy, bất bình đẳng trong thu nhập ở nước ta ngày càng rõ nét và gay gắt
hơn, tỷ lệ hộ nghèo tập trung chủ yếu ở những vùng khó khăn, có nhiều yếu tố bất lợi như
điều kiện tự nhiên khắc nghiệt kết cấu hạ tầng kém, trình độ dân trí thấp, trình độ sản xuất
manh mún, sơ khai. Ngoài ra, còn xuất hiện một số đối tượng nghèo mới ở những vùng
đang trong quá trình đô thị hóa và nhóm lao động nhập cư vào đô thị họ thường gặp khó
khăn nhiều hơn và phải chấp nhận mức thu nhập thấp hơn lao động sở tại. Đây là những
yếu tố làm gia tăng tình trạng tái nghèo và tạo ra sự không đồng đều trong tốc độ giảm
nghèo giữa các vùng trong cả nước.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP
Trong điều kiện đất nước ta, từ sản xuất nhỏ quá độ lên CNXH, chúng ta không còn cách
nào khác là một mặt huy động toàn bộ sức lực của mọi người, mọi ngành, mọi cấp để tăng
gia sản xuất thúc đẩy sản xuất phát triển; mặt khác, phải triệt để tiết kiệm nhằm tích lũy
vốn từ nội bộ nền kinh tế nước ta cho sự nghiệp xây dựng phát triển nền kinh tế sản xuất
XHCN.
3.1. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ tích lũy - tiêu dùng:
-Vì mục tiêu của xã hội XHCN là không ngừng tái sản xuất mở rộng, nâng cao mức
sống của người dân lao động nên chúng ta cần phải xác định cho được giữa quỹ tích
lũy và quỹ tiêu dùng. Tỷ lệ cụ thể giữa quỹ tích lũy và quỹ tiêu dùng phụ thuộc vào
nhiều yếu tố.
-Tương quan giữa tích lũy và tiêu dùng được coi là tối ưu khi sử dụng được các tài
sản hiện có, thực hiện được mức tích lũy có thể đảm bảo phát triển sản xuất với tốc
độ cao và ổn định mà cuối cùng vẫn đảm bảo tăng tiêu dùng và tích lũy không đến
mức cao nhất. Việc phân chia tỉ lệ giữa tích lũy và tiêu dùng không cố định mà thay
đổi tùy thuộc vào nhu cầu của nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Đồng thời
chúng ta cũng phải khuyến khích tất cả mọi người dân đều ra sức tiết kiệm, tích lũy.
3.2. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn:
-Để sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, trước hết chúng ta phải xác định rõ từng đối
tượng được cấp vốn, từ đó phân bổ nguồn vốn một cách hợp lý cho các ngành nhằm
tạo ra hiệu quả sử dụng vốn cao hơn.
-Đối với các doanh nghiệp nhà nước, chính phủ nên tiến hành cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước để doanh nghiệp có trách nhiệm hơn với đồng vốn của mình và tạo
điều kiện cho các chủ doanh nghiệp phát huy mọi khả năng.
-Yếu tố con người là một yếu tố quan trọng góp phần giúp đồng vốn được sử dụng
hiệu quả. Vì vậy cần đào tạo những đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ năng lực và
trách nhiệm cao.
14
-Đồng thời, Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi nhất cho đội ngũ cán bộ quản lý có
thể phát huy mọi năng lực của mình.
3.3. Tích lũy vốn trong nước:
-Nâng cao hiệu quả tích lũy, tích tụ và tập trung vốn qua ngân sách nhà nước. Tăng
lượng vốn thông qua các tổ chức tín dụng và ngân hàng.
-Sản xuất hàng hoá phát triển, lưu thông hàng hoá ngày càng mở rộng, trong xã hội
xuất hiện người thì có vốn nhàn rỗi, người thì cần vốn để tiến hành các hoạt động
sản xuất kinh doanh. Điều này giải quyết bằng cách các ngân hàng sẽ đứng ra huy
động vốn tạm thời nhàn rỗi từ các doanh nghiệp, dân cư sau đó sẽ cung ứng lại cho
nơi cần vốn để tiến hành hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh.
-Để thực hiện được ngày càng tốt, các ngân hàng cần tự đổi mới phương thức nghiệp
vụ. Đồng thời chính phủ cũng phải có biện pháp nâng cao mức lãi suất nhằm thu hút
ngày càng nhiều vốn nhàn rỗi trong dân. Đặc biệt hệ thống ngân hàng cần kết hợp
chặt chẽ với các tổ chức tín dụng để tích tụ và tập trung vốn được thuận tiện. Chúng
ta có thể huy động vốn qua các công ty bảo hiểm, xổ số kiến thiết, sự tài trợ của các
nhà doanh nghiệp...
-Mặt khác cần tích tụ và tập trung các nguồn vốn trong nước từ các nguồn tài nguyên
quốc gia và từ những tài sản công còn bỏ phí.
-Biện pháp mới được áp dụng ở nước ta hiện nay là thu hút vốn thông qua thịtrường
chứng khoán.. Tuy nhiên để có thể phát triển thị trường chứng khoán, trước hết
chúng ta phải tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà
nước và đồng thời phải phát triển hệ thống ngân hàng thương mại.
3.4. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài:
-Ngoài nguồn vốn tích lũy trong nước thì trong hoàn cảnh hiện nay khi nền kinh tế
mở cửa hội nhập vào nền kinh tế thế giới thì một nguồn vốn có vai trò đặc biệt quan
trọng khác là nguồn vốn đầu tư nước ngoài, bao gồm vốn đầu tư trực tiếp và gián
tiếp, trong đó vốn đầu tư trực tiếp (FDI) có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự phát
triển của nền kinh tế trong nước. Để thực hiện được chiến lược này cần phải thực
hiện nhiều biện pháp đồng bộ của chính phủ, trong đó một biện pháp quan trọng là
phải cải thiện môi trường đầu tư thích ứng với điều kiện cạnh tranh mới tạo sức hấp
dẫn cho các nhà đầu tư. Do vậy chúng ta phải nhanh chóng sửa đổi và bổ sung bộ
luật đầu tư nước ngoài phù hợp cho tình hình mới của nước ta hiện nay đảm bảo cho
quyền lợi nhà đầu tư và cho chính chúng ta.
-Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh
vực kinh tế – xã hội trong những năm gần đây thì tình hình tích lũy tư bản của nước
ta trong những năm đại dịch vẫn ổn định: Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
tính đến ngày 20/9/2021 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và
giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 22,15 tỷ USD, tăng
4,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong báo cáo cập nhật kinh tế vĩ mô tháng 9/2021
vừa qua, WB đưa ra nhận định dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt
Nam cho thấy lòng tin vào nền kinh tế vẫn được duy trì. Nhà đầu tư FDI vẫn tin
15
tưởng vào triển vọng của nền kinh tế Việt Nam. Theo chuyên gia WB, lý do là nền
kinh tế Việt Nam vẫn nằm trong số các quốc gia tăng trưởng tốt (năm 2020 là 2,9%)
khi phần lớn các quốc gia khác suy giảm kinh tế nghiêm trọng. Đó là dấu hiệu của
khả năng phục hồi, cho thấy các nền tảng cơ bản của nền kinh tế Việt Nam là vững
chắc.
-Đóng góp của một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn vào tốc độ tăng tổng
giá trị tăng thêm được thống kê như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 5,53% so với năm
trước, đóng góp 0,61 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm
tăng 6,87%, đóng góp 0,46 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi giảm 1,88%, làm
giảm 0,06 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 14,68%, làm
giảm 0,62 điểm phần trăm.
-Nhiều chuyên gia nước ngoài cũng lạc quan về sức bật đáng kể của kinh tế Việt Nam
trong bối cảnh khủng hoảng dịch bệnh COVID-19. Đó là kết quả của những chính
sách từ việc tích luỹ các bộ đệm tài khoá, kinh tế đối ngoại, tài chính và tích cực cải
cách hành chính trước khi xảy ra đại dịch đã giúp Việt Nam chống chịu tốt hơn trước
cú sốc. Các chuyên gia kinh tế quốc tế tin tưởng rằng Việt Nam sẽ viết tiếp câu
chuyện thành công của mình trong năm 2022 nếu tiếp tục duy trì và đẩy mạnh việc
quyết liệt cải cách.
Tài liệu tham khảo:
https://luatduonggia.vn/tich-luy-tu-ban-la-gi-ban-chat-va-quy-luat-tich-luy-
tu-ban/
https://luathoangphi.vn/tich-luy-tu-ban-la-gi/
https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-giao-thong-
van-tai/kinh-te-chinh-tri-mac-lenin-vien-dao-tao-chat-luong-cao/tong-
hop3-tich-luy-tu-ban-ban-chat-cua-tich-luy-tu-ban-va-he-qua-cua-tich-
luy-tu-ban/29452020?origin=home-recent-1
https://vietnamfinance.vn/tich-luy-tu-ban-la-gi-
20180504224209472.htm#:~:text=T%C3%ADch%20l%C5%A9y%20t
%C6%B0%20b%E1%BA%A3n%2C%20trong,ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB
%A7%20v%C3%A0%20t%C6%B0%20nh%C3%A2n ).
https://luanvan.net.vn/luan-van/de-tai-van-dung-ly-luan-tich-luy-tu-
ban-cua-chu-nghia-mac-lenin-vao-xay-dung-nen-kinh-te-o-viet-nam-
hien-nay-77893/
16
https://www.academia.edu/35321067/Tich_luy_t%C6%B0_b%E1%BA
%A3n_va_vi%E1%BB%87c_v%E1%BA%ADn_d%E1%BB%A5ng_vao_th
%E1%BB%B1c_ti%E1%BB%85n_vi%E1%BB%87t_nam
https://www.studocu.com/vn/document/dai-hoc-ton-duc-thang/kinh-te-
chinh-tri-mac-lenin/tich-luy-tu-ban-va-ap-dung-no-vao-tinh-hinh-kinh-
te-o-viet-nam/18798587
KẾT LUẬN
Qua lý luận tích lũy tư bản, ta thấy rằng cùng với sự phát triển của xã
hội, tích lũy ngày càng đóng một vai trò cần thiết. Nhờ tích lũy mà của cải
xã hội không ngừng tăng lên. Tuy nhiên trong từng giai đoạn lịch sử tích lũy
mang lại những bản chất khác nhau: Dưới chủ nghĩa tư bản, tích lũy là
phương tiện để giai cấp tư sản bóc lột lao động làm thuê, tích lũy càng
nhiều lao động làm thuê càng bị bóc lột nặng nề gây mâu thuẫn đối kháng
không thể giải quyết được, trong chủ nghĩa xã hội, tích lũy là phương tiện
làm tăng của cải, tích lũy càng cao thì đời sống của nhân dân càng được cải
thiện.
Riêng đối với Việt Nam, để đạt được những thuận lợi cùng với việc
vượt qua những
thách thức trong công nghiệp hiện đại hóa đất nước, trước hết phải có
17
nguồn vốn dồi dào
và quan trọng là việc sử dụng vốn như thế nào để đạt được hiệu quả. Sự
phát triển bền
vững và liên tục của nền kinh tế cũng tạo áp lưc, thách thức đòi hỏi mỗi
người dân, mỗi
doanh nghiệp không chỉ biết làm giàu cho mình mà còn là làm giàu cho đất
nước cho
toàn xã hội. Quy luật cạnh tranh đã bắt buộc bất cứ một doanh nghiệp nào
cũng phải
không ngừng mở rộng vốn đầu tư để phát triển doanh nghiệp. Mà con
đường duy nhất là
phải tích lũy ngày càng nhiều hơn để tái sản xuất mở rộng. Mặt khác việc
thu hút vốn đầu
tư nước ngoài sẽ có tác động rất lớn. Có như vậy chúng ta mới từng bước
thực hiện thành
công công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế thị
trường xã hội chủ
nghĩa, sớm đạt mục tiêu dân giàu nước mạnh.
18

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI KHOA KINH TẾ - LUẬT BÀI THẢO LUẬN
Học phần: Kinh tế chính trị Mác Lê-nin
ĐỀ TÀI THẢO LUẬN: LÝ LUẬN LÝ LUẬN TÍCH LŨY VÀ Ý
NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN TÍCH LŨY
Giáo viên hướng dẫn: Tống Thế Sơn Nhóm thực hiện: 04
Lớp học phần: 2244RLCP1211 Hà Nội – 2022 1 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................................................................5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN..................................................................................................................7

1.1. Lý luận về tích lũy cơ bản........................................................................................................7
1.1.1. Khái niệm về tích lũy tư bản:.........................................................................................7
1.1.2. Bản chất của tích lũy tư bản:.........................................................................................7
1.1.3 Những nhân tố ảnh hưởng tới quy mô tích lũy.................................................................................8
1.1.4. Hệ quả của tích lũy tư bản..............................................................................................................10

1.2 Ý nghĩa của việc nghiên cứu lý luận tích lũy tư bản..............................................................................11
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG...........................................................................................................................11
2.1 Tại sao phải tích lũy vốn?........................................................................................................................11
2.2 Thực trạng lý luận tích lũy tư bản ở Việt Nam......................................................................................12
2.3. Đánh giá...................................................................................................................................................14
2.3.1. Thuận lợi..........................................................................................................................................14
2.3.2. Khó khăn..........................................................................................................................................15
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP.................................................................................................................................16
3.1. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ tích lũy - tiêu dùng:........................................17
3.2. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn:..........................................................................................................17

3.3. Tích lũy vốn trong nước:........................................................................................................................17
3.4. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài:............................................................................................................18

KẾT LUẬN........................................................................................................................................................20 2 LỜI MỞ ĐẦU
Tích lũy tư bản là sự đòi hỏi khách quan của bất cứ một giai đoạn phát
triển nào ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Nếu không tích lũy và huy
động nguồn lực tư bản cho quốc gia mình thì nền kinh tế xã hội quốc gia đó
sẽ không phát triển mạnh mẽ và cường thịnh được. Cụ thể trong doanh nghiệp,
vấn đề tích luỹ vốn được xem là yếu tố để doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất tăng khả
năng cạnh tranh. Cho nên đối với Việt Nam tích lũy luôn là điều kiện tiên quyết
để tái sản xuất mở rộng. Có tích lũy mới có thể làm cho nền kinh tế tăng
trưởng và phát triển, đưa đất nước vững vàng đi theo con đường chủ nghĩa
xã hội mà chúng ta đã lựa chọn. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi đất
nước đang tiến hành công cuộc công nghiệp hóa-hiện đại hóa thì nhu cầu
về vốn để xây dựng các công trình nền tảng và cái tiến kỹ thuật áp dụng
khoa học tiên tiến là càng cần thiết và quan trọng hơn bao giờ hết.
Thấy được tính cấp thiết của vấn đề, nhóm em quyết định chọn đề tài thảo luận: “Lý luận tích
luỹ và ý nghĩa của việc nghiên cứu lý luận tích luỹ”. Đề tài cho ta thấy được vai trò và tầm
quan trọng của tích luỹ đối với nền kinh tế của 1 quốc gia.
Nhờ sự hướng dẫn và giúp đỡ của giảng viên Tống Thế Sơn mà chúng em có thể hoàn
thành đề tài này. Trong quá trình nghiên cứu không thể tránh khỏi những thiếu sót, nhóm 4
mong sẽ nhận được những lời góp ý đề bài thảo luận được hoàn thiện hơn. 3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lý luận về tích lũy cơ bản
1.1.1. Khái niệm về tích lũy tư bản:

Tích lũy tư bản, trongLkinh tế chính trị Mác - Lênin, là việc biến một bộ
phậnLgiá trị thặng dưLtrở lại thànhLtư bản, còn trong các lý luận kinh tế học
khác, nó đơn giản là sựLhình thành tư bảnL(tăng lượng vốn dưới hình thức
tư bản cố định và lưu kho của chính phủ và tư nhân).L
Đặc trưng của tái sản xuất tư bản chủ nghĩa là tái sản xuất mở rộng. Muốn
vậy, cần phát triển một bộ phận giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm.
Việc biến giá trị thặng dư trở lại tư bản gọi là tích lũy tư bản. Như vậy,
thực chất của tích luỹ tư bản là tư bản hóa giá trị thặng dư.
Nguồn gốc duy nhất của tư bản tích luỹ là giá trị thặng dư và tư bản tích luỹ chiếm tỷ lệ ngày
càng lớn trong toàn bộ tư bản. Quá trình tích lũy đã làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế
hàng hóa biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa, nhưng sự biến đổi đó không vi phạm
quy luật giá trị. Động lực thúc đẩy tích luỹ tư bản là quy luật giá trị thặng dư và cạnh tranh.
1.1.2. Bản chất của tích lũy tư bản:
Xuất phát từ lợi ích nhà tư bản mong muốn.D
-Tích luỹ tư bản là biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ
thêm (tư bản mới). Các giá trị thông qua đầu tư sẽ mang đến các giá
trị mới được sinh ra. Nếu xét ở thời điểm này, nó được xem là tư bản
mới. Nhưng khi sử dụng nó để thực hiện đầu tư, nó lại đóng vai trò là
tích lũy tư bản. Thông thường, các giá trị thặng dư sẽ được sử dụng
một phần để tham gia vào các tích lũy mới.
-Nhà tư bản mong muốn giàu lên với các nắm giữ lớn hơn cho giá trị
thặng dư. Cho nên nhu cầu trong đầu tư luôn được thể hiện. Trong
tính chất sản xuất hay kinh doanh, họ mua giá trị từ hàng hóa sức lao
động của công nhân. Từ đó tiến hành công việc để tìm kiếm giá trị từ 4
hàng hóa được tạo ra. Cũng chính các tính toán đó mà sau khi trừ các
chi phí ban đầu, họ vẫn nhận về cho mình những giá trị thặng dư.
Tính liên tục và tái sản xuất.
-Các lợi ích ổn định có thể được tìm kiếm khi sản xuất hay kinh doanh
được tiến hành ổn định. Nhà tư bản với nhu cầu trong tiêu dùng hay
tích lũy cũng không dừng lại. Do đó mà tái sản xuất là bản chất của tích lũy tư bản.
-Tái sản xuất là quá trình sản xuất được lặp đi lặp lại không ngừng.
Tính chất thực hiện hoạt động bên cạnh các lợi thế và tiềm năng mà
nhà tư bản xác định. Đồng thời, với tham vọng tìm kiếm lợi ích, nhà tư
bản cũng xây dựng chiến lược cho việc mở rộng quy mô. Điều này thể
hiện với các đổi mới trong dây chuyền sản xuất, bằng việc thay thế
các tư liệu sản xuất phù hợp. Các nhân công cũng cần thiết đáp ứng
tiêu chí lao động ngày càng cao. Nó giúp cho các giá trị trả cho tiền
lương được thực hiện hiệu quả. Từ đó mà giá trị thặng dư có thể kiếm
về cho nhà tư bản là lớn hơn.
Hướng đến tái sản xuất mở rộng.
-Hình thức tiến hành của chủ nghĩa tư bản là tái sản xuất mở rộng.
Trong tính chất sản xuất quan tâm đến nhiều yếu tố lâu dài và bền
vững. Đây có thể là các yếu tố tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến
thặng dư. Tuy nhiên đều mang đến hiệu quả và thuận lợi cho nhà tư
bản khi thu hút được nhiều nhu cầu hơn. Bao gồm:
Tái sản xuất ra của cải vật chất, quan hệ sản xuất. Mang đến các
đảm bảo cho nhu cầu ổn định và phát triển của con người. Trong
đó còn làm mới phù hợp và hiệu quả cho việc thu về giá trị thặng dư.
Tái sản xuất sức lao động của con người. Thông qua các máy móc
hiện đại thay thế sức lao động. Cũng như khai thác về trình độ kỹ
thuật nhiều hơn. Nhờ vậy mà sức lao động được sử dụng hiệu quả và đảm bảo hơn.
Tái sản xuất môi trường sống của con người. Phản ánh với các điều
kiện sống được nâng cao. Bên cạnh việc sử dụng và khai thác, tác
động đến môi trường. Khắc phục những tác động đến môi trường
mang đến tính chất xanh, sạch, đẹp. 5
1.1.3 Những nhân tố ảnh hưởng tới quy mô tích lũy.
1.1.3.1 Trình độ khai thác sức lao động
Tỷ suất giá trị thặng dư tăng sẽ tạo tiền đề để tăng quy mô giá trị thặng dư. Từ đó tạo điều
kiện để tăng quy mô tích lũy. Để nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư, ngoài sử dụng các
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối, nhà
tư bản còn có thể sử dụng các biện pháp cắt giảm tiền công, tăng ca, tăng cường độ lao
động, kéo dài ngày lao động, cắt giảm tiền lương của công nhân. Có nghĩa là thời gian công
nhân sáng tạo ra giá trị thì càng được kéo dài ra nhưng chi phí càng được cắt giảm, do vậy
khối lượng giá trị thặng dư càng lớn và quy mô của tích lũy tư bản càng lớn. Giải thích:
Các nhà tư bản nâng cao trình độ bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén vào tiền công.
Khi nghiên cứu sự sản xuất giá trị thặng dư, C.Mác giả định rằng sự trao đổi giữa công
nhân và nhà tư bản là sự trao đổi ngang giá, tức là tiền công bằng giá trị sức lao động.
Nhưng trong thực tế, công nhân không chỉ bị nhà tư bản chiếm đoạt lao động thặng dư,
mà còn bị chiếm đoạt một phần lao động tất yếu, tức cắt xén tiền công, để tăng tích lũy tư bản.
Các nhà tư bản còn nâng cao trình độ bóc lột sức lao động bằng cách tăng cường độ
lao động và kéo dài ngày lao động để tăng khối lượng giá trị thặng dư, nhờ đó tăng
tích lũy tư bản. Cái lợi ở đây còn thể hiện ở chỗ nhà tư bản không cần ứng thêm tư bản
để mua thêm máy móc, thiết bị mà chỉ cần ứng tư bản để mua thêm nguyên liệu là có
thể tăng được khối lượng sản xuất, tận dụng được công suất của máy móc, thiết bị, nên
giảm được hao mòn vô hình và chi phí bảo quản của máy móc, thiết bị.
1.1.3.2 Năng suất lao động xã hội
Mà năng suất lao động xã hội tăng lên thì giá cả tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng giảm.
Sự giảm này đem lại hai hệ quả cho tích luỹ:
-Một là, với khối lượng giá trị thặng dư nhất định, phần dành cho tích luỹ có thể tăng
lên, nhưng tiêu dùng của các nhà tư bản không giảm, thậm chí có thể cao hơn trước.
-Hai là, một lượng giá trị thặng dư nhất định dành cho tích luỹ cũng có thể chuyển hóa
thành một khối lượng tư liệu sản xuất và sức lao động phụ thêm nhiều hơn trước.
Sự tiến bộ của khoa học và công nghệ đã tạo ra nhiều yếu tố phụ thêm cho tích lũy nhờ việc
sử dụng vật liệu mới và tạo ra công dụng mới của vật liệu hiện có như những phế thải trong
tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân của xã hội, những vật vốn không có giá trị. Cuối
cùng, năng suất lao động tăng sẽ làm cho giá trị của tư bản cũ tái hiện dưới hình thái hữu dụng mới càng nhanh.
Năng suất lao động xã hội tăng làm cho giá trị tư liệu sinh hoạt giảm xuống, giá trị sức lao
động giảm giúp cho nhà tư bản thu được nhiều giá trị thặng dư hơn, góp phần tăng quy mô tích lũy. 6
1.1.3.3 Sử dụng hiệu quả máy móc.(C.Mác gọi việc này là chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng).
Theo C.Mác máy móc được sử dụng toàn bộ tính năng của nó, song giá trị chỉ được tính
dần vào giá trị sản phẩm qua khấu hao. Sau mỗi chu kì như thế, máy móc vẫn hoạt động
toàn bộ nhưng giá trị của bản thân nó đã giảm dần do tính khấu hao để chuyển vào giá trị sản phẩm.
-Tư bản sử dụng là khối lượng giá trị những tư liệu lao động mà toàn bộ quy mô hiện
vật của chúng đều hoạt động trong quá trình sản xuất sản phẩm.
-Còn tư bản tiêu dùng là phần giá trị những tư liệu lao động ấy được chuyển vào sản
phẩm theo từng chu kì sản xuất dưới dạng khấu hao.
ØDo đó, có sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Sự chênh lệch này là
thước đo sự tiến bộ của lực lượng sản xuất.
ØHệ quả là, mặc dù giá trị đã bị khấu hao, song tính năng hay giá trị sử dụng thì vẫn
nguyên như cũ, như lực lượng phục vụ không công trong sản xuất.
1.1.3.4 Đại lượng tư bản ứng trước
Thị trường thuận lợi, hàng hóa luôn bán được, tư bản ứng trước càng lớn sẽ là tiền đề cho
tăng quy mô tích lũy. Với trình độ bóc lột không thay đổi, thì khối lượng giá trị thặng dư do
khối lượng tư bản khả biến quyết định.
Do đó quy mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ phận tư bản khả biến càng lớn, thì khối
lượng giá trị thặng dư bóc lột được càng lớn, do đó tạo điều kiện tăng thêm quy mô của tích
luỹ tư bản. Từ sự nghiên cứu bốn nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ tư bản có thể rút
ra nhận xét chung là để tăng quy mô tích luỹ tư bản, cần khai thác tốt nhất lực lượng lao
động xã hội, tăng năng suất lao động, sử dụng triệt để công suất của máy móc, thiết bị và
tăng quy mô vốn đầu tư ban đầu.
1.1.4. Hệ quả của tích lũy tư bản
Thứ nhất, tích lũy tư bản làm tăng cấu tạo hữu cơ tư bản
- Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị được quyết định bởi yếu tố kĩ thuật và phản
ánh sự biến đổi của cấu tạo kĩ thuật của tư bản.
- Chủ nghĩa Mác cho rằng nền sản xuất có thể được quan sát bằng hình thái hiện vật và
cũng có thể được quan sát bằng hình thái giá trị.
- Nếu quan sát qua hình thái hiện vật thì mối quan hệ đó có thể được gọi là cấu tạo kĩ thuật.
- Với cấu tạo kĩ thuật trên nếu quan sát qua hình thái giá trị thì nó phản ánh mối quan hệ
tỉ lệ giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến, tỉ lệ đó gọi là cấu tạo hữu cơ. Nó luôn tăng
do cấu tạo kĩ thuật vận động luôn tăng lên về lượng.
=> Vì vậy, quá trình tích lũy tư bản không ngừng làm tăng cấu tạo hữu cơ tư bản.
Thứ hai, tích lũy cơ bản làm tăng tích tụ và tập trung tư bản 7
- Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách tư bản hóa giá trị thặng dư.
- Tích tụ tư bản làm tăng quy mô của tư bản các biệt đồng thời làm tăng quy mô tư bản xã
hội do giá trị thặng dư được biến thành tư bản phụ thêm và là kết quả trực tiếp của tích lũy tư bản.
- Tập trung tư bản là sự tăng lên của quy mô tư bản cá biệt mà không làm tăng quy mô tư
bản xã hội do hợp nhất các tư bản cá biệt vào một chỉnh thể tạo thành tư bản cá biệt lớn hơn.
- Tích tụ và tập trung tư bản đều góp phần tạo tiền đề để có thể thu được nhiều giá trị
thặng dư hơn cho người mua hàng hóa sức lao động.
Thứ ba, tích lũy tư bản làm bần cùng hóa người lao động làm thuê
-Xét chung trong toàn bộ nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, thu nhập mà các nhà tư bản có
được lớn hơn gấp nhiều lần so với thu nhập dưới dạng tiền công của người lao động làm
thuê. C.Mác đã quan sát thấy thực tế trên và ông gọi đó là sự bần cùng hóa của người lao động.
-Bần cùng hóa giai cấp công nhân làm thuê biểu hiện dưới hai hình thái là bần cùng hóa
tương đối và bần cùng hóa tuyệt đối.
1.2 Ý nghĩa của việc nghiên cứu lý luận tích lũy tư bản
Nghiên cứu tích lũy tư bản cho thấy rõ hơn bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa:
- Thứ nhất, nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy là giá trị thặng dư và tư bản tích lũy
chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản. C.Mác nói rằng: tư bản ứng trước chỉ là một
giọt nước trong sông của tích lũy mà thôi. Trong quá trình tái sản xuất, lãi cứ đập vào vốn,
vốn càng lớn thì lãi càng lớn, do đó lao động của công nhân trong quá khứ lại trở thành
phương tiện để bóc lột chính người công nhân.
- Thứ hai, quá trình tích lũy đã làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hàng hóa biến
thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa. Trong sản xuất hàng hóa giản đơn, sự trao đổi
giữa những người sản xuất hàng hóa theo nguyên tắc ngang giá về cơ bản không dẫn tới
người này chiếm đoạt lao động không công của người kia. Trái lại, nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa dẫn đến kết quả là nhà tư bản chẳng những chiếm đoạt một phần lao động của công
nhân mà còn là người sở hữu hợp pháp lao động không công đó.
Làm cho qui mô vốn ngày càng tăng, có điều kiện cải tiến kĩ thuật ứng dụng thành tựu khoa
học công nghệ, có khả năng giành thắng lợi trong cạnh tranh.
Nghiên cứu lý luận tích lũy giúp hiểu và nắm được các nhân tố tăng quy mô tích lũy, từ đó
vận dụng trong sản xuất và kinh doanh để tăng vốn và sử dụng vốn hiệu quả. Doanh nghiệp
cũng cần phải tiết kiệm sao cho hợp lý, việc xây dựng cơ sở sản xuất và thiết bị cũng cần phải
được tính toán kỹ càng. Nếu như vội vàng đưa ra quyết định đầu tư không hợp lý sẽ gây ra
lãng phí, thất thoát tài sản. Yêu cầu đối với doanh nghiệp đó là phải phân bố một cách hợp lý
giữa tiêu dùng và tích lũy.
Nghiên cứu lý luận tích lũy cho thấy tăng năng suất lao động là cách sử dụng vốn có hiệu
quả nhất cũng như tăng khấu hao tư liệu sản xuất giúp tránh được hao mòn vô hình, có ý nghĩa 8
rất lớn, tăng tích lũy vốn sản xuất và sử dụng tư liệu sản xuất có hiệu quả. Đồng thời, doanh
nghiệp cũng cần khai thác tối đa các nguồn lực, đây là điều kiện tiên quyết cho quá trình tích
lũy vốn của doanh nghiệp. Nội dung này đòi hỏi doanh nghiệp phải linh hoạt sao cho phù hợp
với điều kiện kinh tế của đất nước. Do đó doanh nghiệp phải có cơ chế, giải pháp huy động vốn một cách hợp lý.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG
2.1. Tại sao phải tích lũy vốn?
- Trong đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước do Đại Hội
VIII của Đảng đề ra, vấn đề tích lũy vốn để tiến hành công nghiệp hóa,
hiện đại hóa có tầm quan trọng đặc biệt cả về phương pháp, nhận thức
chỉ đạo thực tiễn. Ai cũng biết rằng để công nghiệp hóa, hiện đại hóa
cần phải có vốn. Hiện nay chúng ta đang tiến hành xây dựng chủ nghĩa
xã hội từ điểm xuất phát rất thấp, trong khi đó tiến hành công nghiệp
hóa, hiện đại hóa lại phải cần nhiều vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng. Tuy
đất nước và khu vực đã thoát khỏi khủng hoảng, nhưng nước ta vẫn là
một nước nghèo, chậm phát triển thì vấn đề tích lũy vốn là
vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt, có ý nghĩa tiên quyết đối với toàn bộ quá trình xây
dựng, tại Đại Hội Đảng lần thứ VIII Đảng ta đã khẳng định: “ Luôn chủ
trương tự lực cánh sinh xây dựng, phát triển kinh tế, công nghiệp tích
lũy vốn từ nội bộ kinh tế là chủ yếu”.
- Nhiều chuyên gia quốc tế đã cho rằng Việt Nam muốn phát triển
và đạt tốc độ theo hướng rồng bay thì phải nỗ lực huy động và tích lũy
vốn trong nước, tăng cường có hiệu quả với vốn nước ngoài và đầu tư có
hiệu quả cao. Họ đã tính toán rằng để tốc độ tăng trưởng GDP trung
bình hằng năm khoảng 8-10 % thì tổng đầu tư trong nước của Việt Nam
phải đạt từ 20-35%, để đạt được sự tăng trưởng GDP với tốc độ cao như
vậy đòi hỏi phải đẩy nhanh hơn nữa quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhưng
đất nước ta đang đứng trước một bài toán vô cùng nan giải đó là tình trạng thiếu vốn về
mọi mặt (Vốn lao động, vốn tín dụng, vốn đầu tư phát triển) cần phải giải đáp của nền
công nghiệp: muốn phát huy tối đa nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo bồi dưỡng
nhân tài để phát huy tối đa cho công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa thì phải đầu tư
cho GDP đẩy nhanh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất cũng
như xây dựng cở sở hạ tầng không thể thiếu vai trò của vốn. Mặt khác
chúng ta đang tiến tới hiệp định
GEPT/AFTA (ASEAN) và tham gia vào khu vực tự do hóa thương mại 9 Châu Á TBD
(APEC) để đứng vững được chúng ta phải có sức cạnh tranh trong mọi thị trường trong
và ngoài nước. Theo Marx “Sự cạnh tranh bắt buộc nhà tư bản, nếu muốn duy trì tư bản
của mình thì phải làm cho tư bản ngày càng tăng lên mãi và hẳn không thể làm cho tư
bản đó ngày một tăng lên được nếu không có một sự tích lũy ngày càng nhiều thêm”.
2.2. Thực trạng lý luận tích lũy tư bản ở Việt Nam
Trước khi đi vào tìm hiểu cụ thể về tích luỹ tư bản, chúng ta cần phải hiểu định nghĩa tư
bản là gì. Tư bản là sở hữu về vật chất thuộc về cá nhân hay tạo ra bởi xã hội. Nói một
cách đơn giản, tư bản là giá trị có bản năng tự tăng lên mà người chủ của nó không phải tham gia lao động. Trước dịch:
- Trước đây trong nền kinh tế bao cấp, tiêu dùng còn thiếu thốn thì quá trình tích lũy vốn
còn gặp rất nhiều trở ngại. Nhà nước lại can thiệp quá sâu vào nền kinh tế dẫn đến việc tổ
chức doanh nghiệp không thể phát huy hết khả năng của mình, nhiệm vụ tích tụ và tập
trung vốn không đạt được hiệu quả. Việc thực hiện CNH- HDH đề ra trong kế hoạch 5
năm tại Đại hội Đảng lần III 1960-1985 được tiến hành trong điều kiện chế độ quan liêu
bao cấp vì vậy nên còn tồn tại khá nhiều hạn chế. Chỉ khi sau đổi mới 1986, cùng với viêc
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chính sách mở cửa, ngoại giao
mềm dẻo, các kênh huy động vốn trở nên phong phú linh hoạt hơn. Theo thống kê giai
đoạn 1996-2000 tăng 66,7% so với 1991-1995, tỷ trọng vốn đầu tư xã hội 28,6% năm.
Tích lũy nội bộ tăng lên 25% GDP. Từ 2000 đến nay tốc độ lại tiếp tục tăng 2008 tăng
39,6%, 2009 tăng 34,8%, 2010 tăng 37,5% năm, giai đoạn 2011-2017 nguồn vốn đầu tư
toàn xã hội 15,524 tỷ, vốn nước ngoài ước tính 1150 tỷ đồng.
- Từ khi chuyển đổi nền kinh tế, nhất đời sống nhân dân đã được cải thiện rõ rệt, thu
nhập quốc dân tăng lên…tuy nhiên nó vẫn còn quá nhỏ bé so với nền kinh tế thế giới (nếu
quy đổi ra đô la Mỹ (thời điểm năm 2003) thì quy mô vốn của các doanh nghiệp ở Việt
Nam chỉ tương đương với một tập đoàn đa quốc gia cỡ trung bình trên thế giới). Trong đó
doanh nghiệp Nhà nước chiếm 59,0/% tổng vốn của doanh nghiệp cả nước, doanh nghiệp
ngoài quốc doanh chiếm 19,55%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 21,44%
tổng vốn các doanh nghiệp cả nước. Xét riêng đối với mỗi doanh nghiệp, vốn của từng doanh nghiệp rất nhỏ.
- Thực tế cho thấy tiềm năng trong dân còn rất lớn nhưng tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư thấp,
nhiều hộ gia đình và không ít doanh nghiệp còn đầu tư chưa hiệu quả, nguồn vốn không
được luân chuyển từ nơi thừa đến nơi thiếu. Đầu tư của nhà nước tăng lên nhưng còn dàn
trải. Việc quản lý sử dụng vốn còn phân tán, không tập trung tối đa vốn tiền mặt cũng như
nhân tài vật lực để giải quyết những công trình thiết yếu của nền kinh tế. Tuy nhiên sự phát 10
triển nhanh chóng của thị trường chứng khoán cho thấy đây là một kênh huy động vốn thật
sự hấp dẫn và rất đáng kể. Sau dịch:
- Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh vực
kinh tế – xã hội trong những năm gần đây thì tình hình tích lũy tư bản của nước ta trong
những năm đại dịch vẫn ổn định: Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến ngày
20/9/2021 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua
cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 22,15 tỷ USD, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước.
Trong báo cáo cập nhật kinh tế vĩ mô tháng 9/2021 vừa qua, WB đưa ra nhận định dòng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam cho thấy lòng tin vào nền kinh tế vẫn
được duy trì. Nhà đầu tư FDI vẫn tin tưởng vào triển vọng của nền kinh tế Việt Nam. Theo
chuyên gia WB, lý do là nền kinh tế Việt Nam vẫn nằm trong số các quốc gia tăng trưởng
tốt (năm 2020 là 2,9%) khi phần lớn các quốc gia khác suy giảm kinh tế nghiêm trọng. Đó
là dấu hiệu của khả năng phục hồi, cho thấy các nền tảng cơ bản của nền kinh tế Việt Nam là vững chắc.
- Đóng góp của một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn vào tốc độ tăng tổng giá
trị tăng thêm được thống kê như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 5,53% so với năm trước,
đóng góp 0,61 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,87%,
đóng góp 0,46 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi giảm 1,88%, làm giảm 0,06 điểm
phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 14,68%, làm giảm 0,62 điểm phần trăm. 2.3. Đánh giá 2.3.1. Thuận lợi
❖ Quá trình mở r ng s ộ
ản xuất ở Việt Nam hiện nay:
- Trước đổi mới, mô hình kinh tế hiện vật với cơ chế quản lý kế hoạch
hóa tập trung, quan liêu, bao cấp đã kìm hãm lực lượng sản xuất phát
triển, dẫn đến sự trì trệ và khủng hoảng. Do đó đổi mới mô hình kinh tế
là điểm mấu chốt trong đổi mới quan hệ tổ chức, và quản lý sản xuất ở Việt Nam.
- Sau đổi mới với xu thế toàn cầu hóa, sự chuyển giao và hòa nhập
quốc tế về khoa học, công nghệ đã khiến nền kinh tế nước ta phát triển
mạnh mẽ. Những công cụ lao động đơn giản đã được thay thế bằng dây
chuyền máy móc thiết bị hiện đại. Sự lao động tay chân của con người
dần được thay thế bằng lao động trí óc. Sự thay đổi đó đã làm cho năng
suất lao động tăng vượt bậc, khi lượng sản phẩm làm ra ngày càng
nhiều và chất lượng cao.
- Nhờ quá trình tích lũy vốn thay thế quá trình sản xuất nhỏ lẻ thành
quá trình sản xuất lớn hơn. Như ở nước ta nông nghiệp đóng vai trò
quan trọng, nên việc mở rộng sản xuất nông nghiệp là cần thiết và đạt
nhiều thành tựu.Từ đó nông nghiệp đạt được các thành tựu kim ngạch
xuất khẩu các mặt hàng nông lâm thủy sản đạt 15 tỷ USD ,tốc độ tăng 11
trưởng từ 4,0% tăng lên 4,5%. GDP nông nghiệp tăng rõ 3,3% lên 3,5%.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nông thôn đạt 7,8% - 8% / năm.
❖ Sự hình thành các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam:
- Trong hầu hết các chính sách phát triển kinh tế của mình, Nhà nước đều thể hiện quan i
đ ểm hình thành các tập đoàn kinh tế mũi nh n và đủ sức ọ
cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Theo đó một số tổng công ty nhà
nước trong một số lĩnh vực mũi nhọn sẽ được đổi thành các tập đoàn kinh tế.
- Trên thực tế năm 2006 và đầu năm 2007, tám tập đoàn kinh tế quốc gia trong các lĩnh vực m i nh ũ
n Bưu chính – Viễn thông, Th ọ an – Khoáng sản,
dầu khí, điện lực, Công nghiệp tàu thủy, dệt may, cao su, tài chính – bảo
hiểm đã được thành lập. Đây là những tổng công ty có quy mô mạng
lưới thành viên có quan hệ mật thiết, liên doanh và hợp tác với nhiều đối
tác. Tuy nhiên trong quá trình thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước
đã xuất hiện sự lúng túng trong giải quyết các vấn đề cụ thể khi xây
dựng đề án. Các vấn đề nảy sinh đó là mối là mối quan hệ và liên kết
giữa các đơn vị trong tập đoàn, cơ chế thực hiện liên kết, cơ cấu tổ chức
bộ máy quản lý, thương hiệu của tập đoàn, quy mô vốn điều lệ và các
vấn đề khác để xác lập tập đoàn. Ngay như vị trí pháp lý của tập đoàn
vẫn còn ý kiến khác nhau như tập đoàn có hay không có tư cách pháp
nhân, đăng ký hay không đăng ký, có hay không có bộ máy quản lý riêng.
- Các tập đoàn và tổng công ty đang nắm giữ khoảng 75% tài sản cố định
quốc gia, khoảng 60% t ng t ổ ín d ng ng ụ
ân hàng trong nước và t ng v ổ ốn.
- Vay nước ngoài nhưng chỉ tạo ra khoảng 40% tổng sản phẩm trong
nước tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của các đơn vị này 17%,
28,8% thu ngân sách. Tính đến cuối 2007, tổng vốn sở hữu của các tập
đoàn và tổng công ty đã tăng 18%, tổng tài sản tăng 26%. Bên cạnh các
tập đoàn kinh tế nhà nước còn có các tập đoàn kinh tế tư nhân như FPT,
Kinh Đô, Hòa Phát, Hoàng Anh Gia Lai, Vincom, Trung Nguyên,... Các tập
đoàn kinh tế tư nhân cũng góp phần làm làm thúc đẩy nền kinh tế phát
triển và làm tăng GDP quốc doanh của Việt Nam. 2.3.2. Khó khăn
Thiếu hụt về nguồn vốn trong mọi mặt:
- Tuy đất nước và khu vực đã thoát khỏi khủng hoảng, nhưng nước ta vẫn là một nước
nghèo, chậm phát triển thì vấn đề tích lũy vốn là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt, có ý
nghĩa tiên quyết đối với toàn bộ quá trình xây dựng, tại đại hội Đảng lần thứ VIII Đảng ta
đã khẳng định: “luôn chủ trương tự lực cánh sinh xây dựng, phát triển kinh tế, công nghiệp
tích lũy vốn từ nội bộ kinh tế là chủ yếu”. Nhiều chuyên gia quốc tế đã cho rằng Việt Nam
muốn phát triển và đạt tốc độ theo hướng rồng bay thì phải nỗ lực huy động và tích lũy 12
vốn trong nước, tăng cường có hiệu quả với nguồn nước ngoài và đầu tư có hiệu quả cao.
Nhưng đất nước ta đang đứng trước một bài toán vô cùng nan giải đó là tình trạng thiếu
vốn về mọi mặt (vốn lao động, vốn tín dụng, vốn đầu tư phát triển) cần phải giải đáp của
nền công nghiệp: muốn phát huy tối đa nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo bồi
dưỡng nhân tài để phát huy tối đa cho công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa thì phải đầu
tư cho GDP đẩy nhanh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất cũng như xây dựng cơ
sở hạ tầng không thể thiếu vai trò của vốn.
Việc quản lý sử dụng vốn còn phân tán, chưa hiệu quả:
- Thực tế cho thấy tiềm năng trong dân còn rất lớn nhưng tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư thấp,
nhiều hộ gia đình và không ít doanh nghiệp còn đầu tư chưa hiệu quả, nguồn vốn không
được luân chuyển từ nơi thừa đến nơi thiếu. Đầu tư của nhà nước tăng lên nhưng còn dàn
trải, ... Việc quản lý sử dụng vốn còn phân tán, không tập trung tối đa vốn tiền mặt cũng
như nhân tài vật lực để giải quyết những công trình thiết yếu của nền kinh tế. Tuy nhiên sự
phát triển nhanh chóng của thị trường chứng khoán cho thấy đây là một kênh huy động
vốn thật sự hấp dẫn và rất đáng kể.
Sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội:
- Phân hóa giàu nghèo ở nước ta ngày càng nghiêm trọng và ai cũng nhận ra qua thực tế
cuộc sống hàng ngày. Ở Việt Nam, sự phân hóa giàu nghèo diễn ra ngay từ thời kỳ quản lý
kinh tế - xã hội theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp. Tuy nhiên, lúc đó sự chênh lệch
giàu nghèo, phân hóa thu nhập và những biểu hiện của phân tầng xã hội chưa rạch ròi, rõ
nét, bị che khuất bởi chủ nghĩa bình quân và chế độ công hữu với cơ cấu giai cấp “hai giai
một tầng” (giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức). Chỉ từ
sau khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới toàn diện (1986), xóa bỏ cơ chế quản lý cũ,
thực hiện phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ,
thì sự phân tầng xã hội mới bộc lộ một cách rõ ràng và ngày càng rõ ràng. Lúc này đã xuất
hiện những công trình nghiên cứu về cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội nhằm cung cấp
những căn cứ lý luận và thực tiễn cặc hướng chiến lược và những chính sách phát triển
kinh tế - kinh tế phù hợp với thời kỳ chuyển đổi cơ chế và mô hình quản lý phát triển đất nước.
- Cách đây 20 năm khi vừa mới thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, Việt Nam có quá
nửa tổng số hộ dân sống dưới mức nghèo khổ, hiện nay thì cả nước chỉ còn khoảng 10%
tổng số hộ nghèo và hầu như không còn hộ đói. Cũng cách đây 20 năm, có đến 2/3 tổng số
hộ ở khu vực nông thôn sống ở mức nghèo khổ và cũng có một tỷ lệ không nhỏ số hộ còn
bị đói. giờ thì tỷ lệ này đã giảm khá nhanh. Tuy đạt được những kết quả tích cực, nhưng tỷ
lệ nghèo và quy mô số người nghèo ở Việt Nam còn lớn. Việc phân bố số người nghèo
không chỉ chênh lệch ở tỷ lệ cao thấp qua các vùng, mà còn ở quy mô số người tuyệt đối.
Theo số liệu thống kê của nhà nước, vùng Đồng bằng sông Hồng có khoảng 1,23 triệu
người, vùng trung du và miền núi phía Bắc có 2,76 triệu người, vùng Bắc Trung bộ và
duyên hải miền Trung có 3,21 triệu người, vùng Tây Nguyên có khoảng trên 1 triệu người,
Đông Nam bộ có gần 213.000 người và vùng Đồng bằng sông Cửu Long có trên 1,84 triệu
người với một đất nước liên tục phải gánh chịu thiên tai như Việt Nam thì ranh giới giữa 13
mức cận nghèo và nghèo là rất mong manh nên nguy cơ số hộ nghèo tăng lên rất dễ xảy ra.
Thực tế trên cho thấy, bất bình đẳng trong thu nhập ở nước ta ngày càng rõ nét và gay gắt
hơn, tỷ lệ hộ nghèo tập trung chủ yếu ở những vùng khó khăn, có nhiều yếu tố bất lợi như
điều kiện tự nhiên khắc nghiệt kết cấu hạ tầng kém, trình độ dân trí thấp, trình độ sản xuất
manh mún, sơ khai. Ngoài ra, còn xuất hiện một số đối tượng nghèo mới ở những vùng
đang trong quá trình đô thị hóa và nhóm lao động nhập cư vào đô thị họ thường gặp khó
khăn nhiều hơn và phải chấp nhận mức thu nhập thấp hơn lao động sở tại. Đây là những
yếu tố làm gia tăng tình trạng tái nghèo và tạo ra sự không đồng đều trong tốc độ giảm
nghèo giữa các vùng trong cả nước.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP
Trong điều kiện đất nước ta, từ sản xuất nhỏ quá độ lên CNXH, chúng ta không còn cách
nào khác là một mặt huy động toàn bộ sức lực của mọi người, mọi ngành, mọi cấp để tăng
gia sản xuất thúc đẩy sản xuất phát triển; mặt khác, phải triệt để tiết kiệm nhằm tích lũy
vốn từ nội bộ nền kinh tế nước ta cho sự nghiệp xây dựng phát triển nền kinh tế sản xuất XHCN.
3.1. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ tích lũy - tiêu dùng:
-Vì mục tiêu của xã hội XHCN là không ngừng tái sản xuất mở rộng, nâng cao mức
sống của người dân lao động nên chúng ta cần phải xác định cho được giữa quỹ tích
lũy và quỹ tiêu dùng. Tỷ lệ cụ thể giữa quỹ tích lũy và quỹ tiêu dùng phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
-Tương quan giữa tích lũy và tiêu dùng được coi là tối ưu khi sử dụng được các tài
sản hiện có, thực hiện được mức tích lũy có thể đảm bảo phát triển sản xuất với tốc
độ cao và ổn định mà cuối cùng vẫn đảm bảo tăng tiêu dùng và tích lũy không đến
mức cao nhất. Việc phân chia tỉ lệ giữa tích lũy và tiêu dùng không cố định mà thay
đổi tùy thuộc vào nhu cầu của nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Đồng thời
chúng ta cũng phải khuyến khích tất cả mọi người dân đều ra sức tiết kiệm, tích lũy.
3.2. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn:
-Để sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, trước hết chúng ta phải xác định rõ từng đối
tượng được cấp vốn, từ đó phân bổ nguồn vốn một cách hợp lý cho các ngành nhằm
tạo ra hiệu quả sử dụng vốn cao hơn.
-Đối với các doanh nghiệp nhà nước, chính phủ nên tiến hành cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước để doanh nghiệp có trách nhiệm hơn với đồng vốn của mình và tạo
điều kiện cho các chủ doanh nghiệp phát huy mọi khả năng.
-Yếu tố con người là một yếu tố quan trọng góp phần giúp đồng vốn được sử dụng
hiệu quả. Vì vậy cần đào tạo những đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ năng lực và trách nhiệm cao. 14
-Đồng thời, Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi nhất cho đội ngũ cán bộ quản lý có
thể phát huy mọi năng lực của mình.
3.3. Tích lũy vốn trong nước:
-Nâng cao hiệu quả tích lũy, tích tụ và tập trung vốn qua ngân sách nhà nước. Tăng
lượng vốn thông qua các tổ chức tín dụng và ngân hàng.
-Sản xuất hàng hoá phát triển, lưu thông hàng hoá ngày càng mở rộng, trong xã hội
xuất hiện người thì có vốn nhàn rỗi, người thì cần vốn để tiến hành các hoạt động
sản xuất kinh doanh. Điều này giải quyết bằng cách các ngân hàng sẽ đứng ra huy
động vốn tạm thời nhàn rỗi từ các doanh nghiệp, dân cư sau đó sẽ cung ứng lại cho
nơi cần vốn để tiến hành hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh.
-Để thực hiện được ngày càng tốt, các ngân hàng cần tự đổi mới phương thức nghiệp
vụ. Đồng thời chính phủ cũng phải có biện pháp nâng cao mức lãi suất nhằm thu hút
ngày càng nhiều vốn nhàn rỗi trong dân. Đặc biệt hệ thống ngân hàng cần kết hợp
chặt chẽ với các tổ chức tín dụng để tích tụ và tập trung vốn được thuận tiện. Chúng
ta có thể huy động vốn qua các công ty bảo hiểm, xổ số kiến thiết, sự tài trợ của các nhà doanh nghiệp...
-Mặt khác cần tích tụ và tập trung các nguồn vốn trong nước từ các nguồn tài nguyên
quốc gia và từ những tài sản công còn bỏ phí.
-Biện pháp mới được áp dụng ở nước ta hiện nay là thu hút vốn thông qua thịtrường
chứng khoán.. Tuy nhiên để có thể phát triển thị trường chứng khoán, trước hết
chúng ta phải tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà
nước và đồng thời phải phát triển hệ thống ngân hàng thương mại.
3.4. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài:
-Ngoài nguồn vốn tích lũy trong nước thì trong hoàn cảnh hiện nay khi nền kinh tế
mở cửa hội nhập vào nền kinh tế thế giới thì một nguồn vốn có vai trò đặc biệt quan
trọng khác là nguồn vốn đầu tư nước ngoài, bao gồm vốn đầu tư trực tiếp và gián
tiếp, trong đó vốn đầu tư trực tiếp (FDI) có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự phát
triển của nền kinh tế trong nước. Để thực hiện được chiến lược này cần phải thực
hiện nhiều biện pháp đồng bộ của chính phủ, trong đó một biện pháp quan trọng là
phải cải thiện môi trường đầu tư thích ứng với điều kiện cạnh tranh mới tạo sức hấp
dẫn cho các nhà đầu tư. Do vậy chúng ta phải nhanh chóng sửa đổi và bổ sung bộ
luật đầu tư nước ngoài phù hợp cho tình hình mới của nước ta hiện nay đảm bảo cho
quyền lợi nhà đầu tư và cho chính chúng ta.
-Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh
vực kinh tế – xã hội trong những năm gần đây thì tình hình tích lũy tư bản của nước
ta trong những năm đại dịch vẫn ổn định: Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
tính đến ngày 20/9/2021 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và
giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 22,15 tỷ USD, tăng
4,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong báo cáo cập nhật kinh tế vĩ mô tháng 9/2021
vừa qua, WB đưa ra nhận định dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt
Nam cho thấy lòng tin vào nền kinh tế vẫn được duy trì. Nhà đầu tư FDI vẫn tin 15
tưởng vào triển vọng của nền kinh tế Việt Nam. Theo chuyên gia WB, lý do là nền
kinh tế Việt Nam vẫn nằm trong số các quốc gia tăng trưởng tốt (năm 2020 là 2,9%)
khi phần lớn các quốc gia khác suy giảm kinh tế nghiêm trọng. Đó là dấu hiệu của
khả năng phục hồi, cho thấy các nền tảng cơ bản của nền kinh tế Việt Nam là vững chắc.
-Đóng góp của một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn vào tốc độ tăng tổng
giá trị tăng thêm được thống kê như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 5,53% so với năm
trước, đóng góp 0,61 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm
tăng 6,87%, đóng góp 0,46 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi giảm 1,88%, làm
giảm 0,06 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 14,68%, làm
giảm 0,62 điểm phần trăm.
-Nhiều chuyên gia nước ngoài cũng lạc quan về sức bật đáng kể của kinh tế Việt Nam
trong bối cảnh khủng hoảng dịch bệnh COVID-19. Đó là kết quả của những chính
sách từ việc tích luỹ các bộ đệm tài khoá, kinh tế đối ngoại, tài chính và tích cực cải
cách hành chính trước khi xảy ra đại dịch đã giúp Việt Nam chống chịu tốt hơn trước
cú sốc. Các chuyên gia kinh tế quốc tế tin tưởng rằng Việt Nam sẽ viết tiếp câu
chuyện thành công của mình trong năm 2022 nếu tiếp tục duy trì và đẩy mạnh việc quyết liệt cải cách. Tài liệu tham khảo:
https://luatduonggia.vn/tich-luy-tu-ban-la-gi-ban-chat-va-quy-luat-tich-luy- tu-ban/
https://luathoangphi.vn/tich-luy-tu-ban-la-gi/
https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-giao-thong-
van-tai/kinh-te-chinh-tri-mac-lenin-vien-dao-tao-chat-luong-cao/tong-
hop3-tich-luy-tu-ban-ban-chat-cua-tich-luy-tu-ban-va-he-qua-cua-tich-
luy-tu-ban/29452020?origin=home-recent-1
https://vietnamfinance.vn/tich-luy-tu-ban-la-gi-
20180504224209472.htm#:~:text=T%C3%ADch%20l%C5%A9y%20t
%C6%B0%20b%E1%BA%A3n%2C%20trong,ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB %A7%20v%C3%A0%20t%C6%B0%20n h%C3%A2n ).
https://luanvan.net.vn/luan-van/de-tai-van-dung-ly-luan-tich-luy-tu-
ban-cua-chu-nghia-mac-lenin-vao-xay-dung-nen-kinh-te-o-viet-nam- hien-nay-77893/ 16
https://www.academia.edu/35321067/Tich_luy_t%C6%B0_b%E1%BA
%A3n_va_vi%E1%BB%87c_v%E1%BA%ADn_d%E1%BB%A5ng_vao_th
%E1%BB%B1c_ti%E1%BB%85n_vi%E1%BB%87t_nam
https://www.studocu.com/vn/document/dai-hoc-ton-duc-thang/kinh-te-
chinh-tri-mac-lenin/tich-luy-tu-ban-va-ap-dung-no-vao-tinh-hinh-kinh- te-o-viet-nam/18798587 KẾT LUẬN
Qua lý luận tích lũy tư bản, ta thấy rằng cùng với sự phát triển của xã
hội, tích lũy ngày càng đóng một vai trò cần thiết. Nhờ tích lũy mà của cải
xã hội không ngừng tăng lên. Tuy nhiên trong từng giai đoạn lịch sử tích lũy
mang lại những bản chất khác nhau: Dưới chủ nghĩa tư bản, tích lũy là
phương tiện để giai cấp tư sản bóc lột lao động làm thuê, tích lũy càng
nhiều lao động làm thuê càng bị bóc lột nặng nề gây mâu thuẫn đối kháng
không thể giải quyết được, trong chủ nghĩa xã hội, tích lũy là phương tiện
làm tăng của cải, tích lũy càng cao thì đời sống của nhân dân càng được cải thiện.
Riêng đối với Việt Nam, để đạt được những thuận lợi cùng với việc vượt qua những
thách thức trong công nghiệp hiện đại hóa đất nước, trước hết phải có 17 nguồn vốn dồi dào
và quan trọng là việc sử dụng vốn như thế nào để đạt được hiệu quả. Sự phát triển bền
vững và liên tục của nền kinh tế cũng tạo áp lưc, thách thức đòi hỏi mỗi người dân, mỗi
doanh nghiệp không chỉ biết làm giàu cho mình mà còn là làm giàu cho đất nước cho
toàn xã hội. Quy luật cạnh tranh đã bắt buộc bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải
không ngừng mở rộng vốn đầu tư để phát triển doanh nghiệp. Mà con đường duy nhất là
phải tích lũy ngày càng nhiều hơn để tái sản xuất mở rộng. Mặt khác việc thu hút vốn đầu
tư nước ngoài sẽ có tác động rất lớn. Có như vậy chúng ta mới từng bước thực hiện thành
công công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa, sớm đạt mục tiêu dân giàu nước mạnh. 18