Lý luận và phương pháp giáo dục thể chất | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Trình bày sơ lược lịch sử phát triển giáo dục thể chất thời kỳ xã hội nguyên thủy và xã hội chiếm hữu nô lệ? Trình bày sơ lược lịch sử giáo dục thể chất thời kỳ xã hội phong kiến và thời kỳ cận đại, đương đại? Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Giáo dục thể chất
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC THỂ CHẤT
Câu 1: Trình bày sơ lược lịch sử phát triển giáo dục thể chất thời kỳ xã hội nguyên thủy và xã hội chiếm hữu nô lệ?
- Lịch sử phát triển GDTC thời kỳ xã hội nguyên thủy:
Trong quá trình tiến hoá từ vượn thành người, lao động là nhân tố quyết định. Cơ thể từ loài
vượn thành người, bàn tay dùng để lao động, vỏ đại não để tư duy và ngôn ngữ để giao tiếp... đều từ
lao động mà phát triển thành như ngày nay.
Trong quá trình sản xuất lâu dài, loài người thời nguyên thủy đã chế tạo ra và sử dụng các
công cụ lao động. Ngay trong quá trình giải quyết những vấn đề thiết thân về ăn, ở, mặc, con người
đã đồng thời nâng cao trí lực và thể lực của mình. Thời đó, điều kiện lao động rất gian khổ, nguy
hiểm, hoàn cảnh khắc nghiệt, công cụ rất thô sơ, lao động thể lực cực kỳ nặng nhọc. Do đó, muốn
kiếm ăn và sống an toàn, họ phải luôn đấu tranh với thiên tai và dã thú. Thực tế đấu tranh khốc liệt
để sinh tồn đó buộc con người phải biết chạy, nhảy, leo trèo, ném, bơi, mang vác nặng và chịu đựng
được trong điều kiện sống khắc nghiệt. Bởi vậy, những năng lực hoạt động đó cùng với kinh nghiệm
đã trở thành tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá trình độ, uy tín của con người lúc bấy giờ. Mầm mống
của bài tập thể chất đã nảy sinh chính từ thực tế của những hoạt động ấy và kết hợp tự nhiên ngay trong quá trình lao động.
Ở thời kỳ này, bản chất tự nhiên của con người được đặt lên hàng đầu, vì họ không chú trọng
nhiều đến sự thay đổi của thế giới tự nhiên bên ngoài, mọi hành động chỉ để đối phó, khắc phục với
điều kiện môi trường sống hiện tại thông qua kinh nghiệm tích lũy.
Ngoài ra còn có các trò chơi vui thích trong lúc nhàn rỗi, giải trí và về sau còn thêm dần một
số hoạt động rèn luyện thân thể khác để phòng chữa một số bệnh. Tất cả những điều này đã góp
phần quan trọng để phát triển các bài tập thể chất.
Mặt khác GDTC chỉ thực sự ra đời khi con người ý thức được về tác dụng và sự chuẩn bị của
họ cho cuộc sống tương lai, đặc biệt cho thế hệ trẻ; cụ thể là sự kế thừa, truyền thụ và tiếp thu những
kinh nghiệm và kỹ năng vận động (lao động). Do vậy, đó là nội dung chủ yếu của giáo dục thời cổ
xưa. Và ngay từ khi mới ra đời, GDTC đã là một phương tiện giáo dục, một hiện tượng xã hội mà ở
con vật không thể có được.
Việc truyền thụ và áp dụng kinh nghiệm trong quá trình giao tiếp chính là giáo dục (trong
trường hợp này là GDTC).
Kinh nghiệm sử dụng công cụ hàng ngày đã cho con người nhận thức thấy tác dụng của việc
chuẩn bị trước thông qua tập luyện các bài tập. Từ đó các bài tập chuẩn bị cho lao động dần dần
được “tách khỏi” cơ sở ban đầu là lao động và được khái quát, trừu tượng hóa để trở thành các môn thể thao.
Ví dụ: Trên cơ sở tự nhiên lúc săn đuổi hay chạy trốn kẻ thù đã dần dần hình thành môn chạy,
nhảy, qua chướng ngại vật; ném trúng đích thành môn ném…
- Lịch sử phát triển GDTC thời kỳ xã hội chiếm hữu nô lệ:
Khi chế độ thị tộc xuất hiện là hình thức tổ chức xã hội đầu tiên: Con người biết làm ăn chung,
biết phối hợp, phân công lao động, tạo của cải vật chất nuôi sống con người. Con người đã sản xuất
được nhiều sản phẩm so với sự cần thiết để sống, khả năng bóc lột lao động lao động đã xuất hiện.
Việc biến các tù binh bắt được thành nô lệ đã trở nên có lợi.
Khi xã hội có giai cấp và nhà nước thì chiến tranh bây giờ mới đúng nghĩa là biện pháp vũ lực
phục vụ cho công cuộc bành trướng quyền lực, mở rộng lãnh thổ, tức là chiến tranh đã phục vụ cho
mục đích chính trị. Giai cấp thống trị chủ nô tham lam không chỉ bóc lột cư dân trong lãnh thổ của
mình mà còn tiến hành các cuộc chiến tranh cướp đoạt đất đai xây dựng nên những đế quốc rộng
lớn, thống trị, bóc lột các dân tộc khác.
Nguồn cung cấp nô lệ quan trọng nhất là thông qua chiến tranh mà chiến tranh đòi hỏi phải có
sự chuẩn bị tốt về thể lực cho binh sĩ, sức mạnh, sức bền, khéo léo cũng như kỹ năng sử dụng vũ khí
đã được xã hội hóa coi trọng. Từ đó hệ thống GDTC và hệ thống giáo dục quân sự, huấn luyện thể
lực ra đời vào thời gian này; chúng đã mang tính giai cấp, tức là được sử dụng cho lợi ích của giai cấp thống trị.
Do đó thời kỳ này các môn bơi, chạy, đấu kiếm, cưỡi ngựa, vật,… là những nội dung chính để
rèn luyện thể lực và kỹ thuật chiến đấu cho quân đội.
Câu 2: Trình bày sơ lược lịch sử giáo dục thể chất thời kỳ xã hội phong kiến và thời kỳ cận đại, đương đại?
- Lịch sử giáo dục thể chất thời kỳ xã hội phong kiến:
+ Thời kỳ phong kiến sơ kỳ:
Sau khi chế độ chiếm hữu nô lệ bị tan rã, phần lớn các nước chế độ phong kiến đã thay đổi chế
độ chiếm hữu nô lệ. Thời kì này gọi là thời kỳ trung cổ.
Các nước mạnh đã bắt đầu thực hiện các cuộc xâm lược. Từ đó việc đào tạo quân sự là việc bắt
buộc đối với các chúa phong kiến.
Đối với nông dân phải chú ý đến các trò chơi giải trí và các bài tập phát triển sức mạnh, sức bền,
khéo léo, và các bài tập mang tính quân sự vì họ phải thường xuyên chống kẻ thù để bảo vệ mình.
+ Thời kỳ chủ nghĩa phong kiến phát triển:
Đến khoảng thế kỉ IV, các quan hệ phong kiến đã thiết lập hoàn toàn ở Tây Âu. Hệ thống
huấn luyện quân sự và thể lực cho các đẳng cấp quý tộc được phát triển gọi là hệ thống giáo dục
hiệp sĩ. Hệ thống này có 3 cấp:
Từ 7 tuổi: Tập trung tập luyện về quân sự như cưỡi ngựa, đấu kiếm, bơi… đồng thời học các quy tắc hiệp sĩ.
Từ 14 tuổi: Được sử dụng vũ khí để làm tuỳ tùng cho lãnh chúa trong các cuộc hành quân và
tham gia thi đấu hiệp sĩ, tham gia chiến đấu.
21 tuổi: Trở thành hiệp sĩ thật sự và tiếp tục tập luyện để thi đấu hiệp sĩ và chiến đấu.
Trong thời gian này, các cuộc thi đấu có ý nghĩa lớn trong việc phát triển TDTT. Các môn
ném đá, đẩy tạ, ném búa chim, chạy vượt chướng ngại vật hay các trò chơi đã hình thành quy tắc
trong thi đấu dần dần được mọi người thừa nhận. (Đó cũng là sự xuất hiện của luật thi đấu thể thao
hiện đại). Ở thời kỳ trung cổ, thi đấu mang tính chất thuần tuý, tham gia thi đấu mang tính tự
nguyện, thi đấu không gắn với tôn giáo, thi đấu có tính hài hước và từ “thể thao” có lẽ ra đời từ thời gian này.
+ Thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến và sự ra đời của chế độ tư bản:
Tư tưởng cơ bản của các nhà nhân đạo thời kỳ này là sử dụng giáo dục thể chất không chỉ để
huấn luyện quân sự mà còn để tăng cường sức khoẻ và phát triển sức mạnh thể chất. Đó là một tư
tưởng mới, tiến bộ. Tuy nhiên, quan điểm của các nhà nhân đạo chủ nghĩa còn hạn chế bởi khuynh
hướng chỉ nhằm bảo đảm hạnh phúc cá nhân của con người.
Nhà nhân đạo chủ nghĩa Ý đã thành lập trường học kiểu mới “nhà vui sướng”. Trong trường
có giảng dạy GDTC và TT. Lần đầu tiên đưa vào kế hoạch học tập của trường. Một lượng thời gian
đáng kể được dành cho các trò chơi và các bài tập thể chất. Người ta dạy cho các trẻ biết đấu kiếm,
cưỡi ngựa, bơi và thực hiện các quy tắc vệ sinh.
Nhà nhân đạo chủ nghĩa người Pháp đề nghị luân phiên giờ học văn hoá và tập thể dục, ông
kết hợp bài tập của giới quí tộc và người nghèo vào mục đích giáo dục con người.
- Lịch sử giáo dục thể chất thời kỳ cận đại, đương đại:
+ Những cơ sở tư tưởng lý luận của giáo dục thể chất:
Giăng giắc rút xô (Jean Jacques Rousseau) (1712 – 1778, nhà tư tưởng vĩ đại, nhà biện chứng
lỗi lạc của triết học Khai sáng Pháp) đã phát triển tư tưởng về vai trò quy định của môi trường bên
ngoài trong việc hình thành nhân cách con người. Ông viết “thân thể sinh ra trước tâm hồn, nên việc
quan tâm đến thân thể phải là việc trước tiên”. Bắt đầu là rèn luyện cơ thể sau đó là các trò chơi và các BTTC.
Các nhà giáo dục Thuỵ Sĩ có công lớn trong lĩnh vực GDTC, ông đã soạn ra phương pháp
phân tích, gọi các động tác ở khớp là các động tác sơ đẳng, là cơ sở để giảng dạy động tác phối hợp phức tạp.
Các nhà cách mạng tư sản pháp ở cuối thế kỉ XVIII có công lớn trong cơ sở lý luận cho
GDTC. Họ cho rằng cần phải đưa giáo dục thể chất vào hệ thống giáo dục quốc dân.
+ Sự nảy sinh và phát triển của các hệ thống giáo dục thể chất quốc gia:
Hệ thống giáo dục ở Đức cho rằng phương tiện GDTC gồm: rèn luyện chống thời tiết xấu, biết
chịu đói, khát, mất ngủ. Các bài tập phát triển giác quan, chủ yếu trong lúc tham gia trò chơi đặc
biệt; các bài tập trượt băng, mang vác vật nặng, các trò chơi giải trí, các bài tập cưỡi ngựa, đấu kiếm,
nhảy múa, trong đó các bài tập trên ngựa gỗ và một số dụng cụ khác, các động tác đơn giản của từng
bộ phận cơ thể, lao động chân tay.
Hệ thống GDTC của Thụy Điển là tính đối xứng và thẳng hàng. Tư thế đúng của tay chân và
mình được đặc biệt chú ý.
Hệ thống GDTC ở Pháp có tính chất ứng dụng quân sự đào tạo binh sĩ. Các bài tập thể dục tốt
nhất là bài tập phát triển kỹ năng cần thiết trong đời sống, đặc biệt là trong chiến tranh như các bài
tập đi, chạy, nhảy, mang vác ở các địa hình tự nhiên. Các bài tập thăng bằng, bò, leo trèo, bơi, lặn,
vật, ném, bắn, đấu kiếm, nhào lộn hay các bài tập tay không, múa.
GDTC và thể thao của các nước Đan Mạch, Anh, Mỹ và một số nước Đông Á, Đông Nam Á
đã trở thành những trung tâm chính phát triển TDTT. Tại các trường học xuất hiện các nhóm thể
thao nghiệp dư như: chạy, đấm bốc, bơi, chèo thuyền, các môn bóng. Từ những năm 30 của thế kỷ
XI người ta tổ chức các cuộc thi thường xuyên về các môn thể thao cho học sinh.
+ GDTC ở Việt Nam hiện nay:
Sau khi giành được chính quyền, Ngày 3/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra các nhiệm
vụ cấp bách: Phát động phong trào tăng gia sản xuất, chống giặc đói. Bác đã nêu lên một vấn đề có
tính quốc sách là “phải nâng cao sức khỏe cho toàn dân, một trong những biện pháp tích cực là tập
luyện thể dục – một công việc không tốn kém khó khăn gì”.
Cũng vào thời gian này theo đề nghị của bộ trưởng bộ thanh niên, ngày 30/1/1946 Chủ Tịch
Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 14 về việc thành lập tại bộ thanh niên một Nha Thể dục Trung ương
do ông Dương Đức Hiền phụ trách. Nhiệm vụ được thể hiện ở 3 khẩu hiệu: Phổ thông thể dục; gây
đời sống mới; cải tạo nòi giống.
GDTC trong các trường đại học bắt đầu từ năm 1958 tiến hành giảng dạy chính khóa. Chương
trình quy định 120 tiết, nhưng còn mang tính chất tạm thời, chưa phải là văn bản chính thức.
Năm 1971 thành lập Vụ Thể dục Đời sống thuộc Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, có
nhiệm vụ giúp bộ chỉ đạo công tác TDTT, Y tế và đời sống của học sinh, sinh viên các trường. Ngày
24/6/1971 Bộ ra chỉ thị số 14/TDQS về việc thực hành tiêu chuẩn rèn luyện thân thể theo lứa tuổi,
quy định sinh viên tốt nghiệp đại học phải đạt “tiêu chuẩn chuẩn rèn luyện thân thể cấp II”.
Đến nay, GTDC là môn học bắt buộc trong hệ thống giáo dục từ mầm non đến đại học (Nghị
định số 11/2015/NĐ-CP ngày 31/1/2015). Ở bậc đại học chương trình môn GDTC bao gồm các học
phần bắt và các học phần tự chọn
(Thông tư 25/2015/TT-BGDĐT ngày 14/10/2015). Ngoài ra còn các quy định về hoạt động
TDTT ngoại khóa cho học sinh, sinh viên (Quyết định
72/2008/QĐ-BGDĐT ngày 23/12/2008); đánh giá xếp loại thể lực cho học sinh, sinh viên
(Quyết định số 53/20028/QĐ-BGDĐT ngày 18/09/2008) cũng được quy định cụ thể.
Câu 3: Trình bày hệ thống giáo dục thể chất trong trường đại học?
Là quá trình giáo dục, rèn luyện của nhà trường đối với tất cả các sinh viên nhằm phát triển thể
chất, nhân cách; bồi dưỡng và nâng cao tri thức chuyên môn về lý luận và phương pháp GDTC,
củng cố và phát triển năng khiếu để sinh viên học tập và rèn luyện đạt kết quả cao trong quá trình học tập.
Hệ thống GDTC cho sinh viên trong trường đại học là những quan điểm, mục tiêu hệ thống tri
thức GDTC; cấu trúc, nội dung và hình thức GDTC; phương pháp GDTC; tổ chức quản lý GDTC.
1. Chủ thể và đối tượng GDTC trong trường đại học
- Chủ thể GDTC trong trường đại học:
+ Nhà trường đề ra phương hướng công tác GDTC để thực hiện chương trình giáo dục của Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành.
+ Khoa hoặc bộ môn GDTC chịu trách nhiệm giảng dạy, kiểm tra, giám sát và đánh giá kết quả.
+ Phòng đào tạo, phòng Y tế cùng phối hợp với bộ môn GDTC tham gia vào quản lý, kiểm tra
sức khỏe và thể lực định kỳ đối với sinh viên.
- Đối tượng GDTC trong trường đại học:
Sinh viên các lớp bằng 1 chính quy tập trung bắt buộc phải tham gia các chương trình chính khóa và ngoại khóa.
Sinh viên hệ không tập trung có thể tham gia hoạt động phong trào TD, TT của nhà trường.
*/ Trách nhiệm của sinh viên:
+ Tham gia giờ học theo quy định
+ Kiểm tra sức khỏe và thể lực định kỳ
+ Tích cực tìm hiểu các tài liệu về TD, TT
+ Có chế độ sinh hoạt nghỉ ngơi hợp lý
+ Tích cực tham gia các hoạt động TD, TT
2. Mục đích và nhiệm vụ của GDTC trong trường đại học
- Mục đích của GDTC trong trường đại học:
Thực hiện mục tiêu đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế, văn hóa xã hội,… phát
triển cơ thể hài hòa, có thể chất cường tráng nhằm đáp ứng được yêu cầu chuyên môn, nghề nghiệp
và có khả năng tiếp cận với thực tiễn lao động, sản xuất… trong thời kỳ mới.
- Nhiệm vụ của GDTC trong trường đại học:
Giáo dục đạo đức XHCN cho sinh viên , rèn luyện tinh thần tập thể, ý thức tổ chức kỷ luật,
xây dựng cho họ niềm tin lối sống tích cực lành mạnh, tinh thần tự giác học tập và rèn luyện thân thể.
3. Hình thức và phương tiện GDTC trong trường đại học - Hình thức GDTC:
Giảng dạy phần lý thuyết trên lớp; tập luyện thực hành kỹ thuật ngoài sân vận động được lồng
ghép với lý thuyết chuyên môn; tổ chức các hoạt động ngoại khóa để đẩy mạnh phong trào TD, TT của sinh viên. - Phương tiện GDTC:
+ Phần lý thuyết chung: Phương tiện dạy học được trang bị trong học đường.
+ Phần thực hành kỹ thuật: Sân bãi, nhà tập, phương tiện, dụng cụ… phục vụ cho tập luyện và thi đấu.
Câu 4: Trình bày chức năng giáo dục và chức năng kinh tế của thế thao?
- Chức năng giáo dục:
Tuy chế độ xã hội, quan niệm chính trị, các hình thức tôn giáo, tín ngưỡng và nhận thức của
các quốc gia trên thế giới không giống nhau, nhưng đều rất coi trọng tác dụng của TT trong giáo
dục. Chức năng giáo dục của TT chủ yếu được biển hiện trên hai phương diện: + Trong xã hội:
Do TT có tính hoạt động, tính cạnh tranh, tính nghệ thuật, tính lễ nghĩa và tính quốc tế nên có
thể khêu gợi và kích thích được lòng yêu tổ quốc, tinh thần tự hào, đoàn kết dân tộc. Đây chính là ý
nghĩa của TT trong xã hội. + Trong trường học:
Để thực hiện mục tiêu của sự nghiệp giáo dục và đào tạo của nước ta là tạo nên những con
người mới phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ và lao động thì TT là một bộ phận không thể
thiếu. TT giúp cho việc nâng cao thể chất, giáo dục tinh thần đoàn kết, các phẩm chất đạo đức và tâm lý... cho học sinh.
- Chức năng kinh tế:
Thể dục thể thao và kinh tế có mối quan hệ tương hỗ, đã có nhiều nhà kinh tế cho rằng sức
lao động và sản xuất được nâng cao là tiêu chí quan trọng của sự phát triển kinh tế xã hội. Đặc biệt
khi tiến hành đánh giá giá trị sản xuất thì tố chất của con người lại là tiêu chuẩn vi lượng chủ yếu
nhất. Trong các loại tố chất của con người thì tố chất thể lực đóng một vai trò hết sức quan trọng.
Chính vì vậy, các nước trên thế giới đã rất chú trọng đến tác dụng của thể dục thểthao đối với
việc phát triển thể lực cho người lao động, lấy việc làm giảm thiểu tỷ lệ mắc bệnh làm thành mục
tiêu thúc đẩy sức lao động sản xuất của xã hội. Điều này thể hiện chức năng kinh tế ban đầu của thể dục thể thao.
Câu 5: Trình bày nguyên nhân và cách phòng chống chấn thương trong thể dục thể thao?
Khái niệm: Là các chấn thương xảy ra trong quá trình tập luyện TD, TT.
Chấn thương thể thao khác với các chấn thương trong sinh hoạt và lao động ở chỗ nó có liên
quan trực tiếp với các nhân tố và điều kiện tập luyện TT như các môn TT, kế hoạch huấn luyện,
động tác kỹ thuật, trình độ tập luyện...
- Nguyên nhân của chấn thương
Nguyên nhân gây ra chấn thương TT có rất nhiều. Dựa vào các tư liệu nghiên cứu, tổng hợp
các nguyên nhân chấn thương TT ở trong nước và ngoài nước hiện nay, có thể phân thành hai mặt:
Nguyên nhân cơ bản và nguyên nhân tiềm ẩn (nguyên nhân dẫn dắt).
- Nguyên nhân cơ bản (nguyên nhân trực tiếp hoặc nguyên nhân chung):
+ Tư tưởng không coi trọng hoặc thiếu tri thức đề phòng
+ Thiếu sót trong khởi động.
+ Trình độ huấn luyện kém.
+ Trạng thái cơ thể không tốt.
+ Phương pháp tổ chức không thoả đáng. + Vi phạm quy tắc TT.
+ Sân bãi dụng cụ, trang phục không phù hợp yêu cầu vệ sinh an toàn, khí hậu thời tiết xấu.
- Nguyên nhân tiềm ẩn của chấn thương (Nguyên nhân dẫn dắt):
Nguyên nhân dẫn dắt của chấn thương là do hai nhân tố tiềm ẩn về sinh lý, giải phẫu của các bộ
phận cơ thể nào đó và đặc điểm kỹ thuật của bản thân môn TT quyết định. Chỉ khi có sự tác động
của nguyên nhân trực tiếp thì những yếu tố tiềm ẩn này mới trở thành nguyên nhân dẫn tới chấn thương.
Có rất nhiều nhân tố nội tạng khác nhau và quy luật phát sinh chấn thương của mỗi nhân tố này cũng rất khác nhau.
+ Đặc điểm giải phẫu sinh lý.
+ Đặc điểm về lứa tuổi.
+ Đặc điểm của kỹ thuật bản thân môn TT.
4.2.2. Nguyên tắc đề phòng chấn thương
- Tăng cường giáo dục về mục đích của TD, TT:
+ Hiểu những kiến thức có liên quan về vấn đề chấn thương.
+ Tăng cường giáo dục tính tổ chức kỷ luật.
- Sắp xếp hợp lý quá trình tập luyện và thi đấu:
Tìm hiểu kỹ trọng tâm và những nội dung khó của buổi tập. Đối với những nội dung khó nắm
vững, những khâu mà người tập dễ mắc sai lầm hoặc những động tác có nhiều nguy cơ xảy ra chấn
thương thì phải có sự chuẩn bị, dự phòng tốt để đảm bảo an toàn cho tập luyện. - Phải khởi động tốt:
Mục đích của khởi động là nâng cao tính hưng phấn của hệ thống các trung khu thần kinh,
tăng cường chức năng của các hệ thống cơ quan, khắc phục tính ý sinh lý của các chức năng, chuẩn
bị tốt khả năng cơ thể cho phần tập luyện chính.
- Tăng cường bảo hiểm và tự bảo hiểm:
+ Bảo hiểm là một biện pháp quan trọng để ngăn ngừa chấn thương.
+ Người tham gia tập luyện TD, TT cần phải học được phương pháp tự bảo hiểm.
- Tăng cường công tác kiểm tra y học và chú ý vệ sinh sân bãi dụng cụ:
+ Cần phải định kỳ tiến hành kiểm tra thể lực, sức khoẻ...
+ Cần phải tăng cường quan sát, kiểm tra y học và kiểm tra sức khỏe định kỳ.
Câu 6: Phân tích khái niệm thể thao và giáo dục thể chất? - Khái niệm thể thao:
Thể thao được coi là một bộ phận chủ yếu, lớn, nổi bật trong TDTT.
Người ta phân biệt thể thao theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng:
· Theo nghĩa hẹp: TT là một hoạt động mang tính trò chơi, một hình thức thi đấu đặc biệt chủ
yếu và phần nhiều bằng sự vận động thể lực, nhằm phát huy những năng lực chuyên biệt, đạt
thành tích cao, cao nhất được so sánh trực tiếp và công bằng trong những điều kiện chuyên môn như nhau.
Hoạt động thi đấu được hình thành trong xã hội loài người mà thông qua thi đấu con người
phô diễn so sánh khả năng về thể chất và tinh thần. Sự luôn vươn tới những thành tích cao nhất, tính
chuyên biệt hoá, thi đấu và công diễn là những dấu hiệu cơ bản của TT. Tuy vậy mục đích của nó
không chỉ đơn thuần dừng lại ở những thành tích thi đấu trực tiếp. Trong nghệ thuật cũng có lúc có
yếu tố đua tài, thi đấu (như giọng hát hay, thi tay đàn giỏi) nhưng không phải là thường xuyên,
chuyên biệt cơ bản. Mặt khác, diễn biến và kết cục của thi đấu TT thường không biết trước được.
Như vậy, khái niệm này chỉ nêu lên những đặc điểm bên ngoài để phân biệt TT với hiện
tượng khác. Rõ ràng rằng khái niệm như vậy không bao quát hết được những biểu hiện cụ thể,
phong phú của thể thao trong xã hội. Bản chất của TT không chỉ giới hạn ở thành tích thể thao thuần
tuý, là hoạt động tác động toàn diện tới con người.
· Theo nghĩa rộng: trước nhất là bao gồm hoạt động thi đấu, là sự chuẩn bị tập luyện đặc biệt
cho thi đấu. TT là mối quan hệ đặc biệt giữa người với người trong thi đấu cùng với ý nghĩa xã
hội, với thành tích thi đấu gộp chung lại.
TT là hiện tượng xã hội: đối với cá nhân TT là khát vọng của con người không ngừng mở rộng
giới hạn khả năng của mình được thực hiện thông qua nhiệm vụ đặc biệt, tham gia thi đấu gắn liền
với khắc phục khó khăn ngày càng tăng và TT là một thế giới cảm xúc do thắng lợi hay thất bại đem
lại, nó còn là lĩnh vực tiếp xúc độc đáo giữa người với người. TT còn có ý nghĩa sâu sắc hơn thế
nữa, là một trong những hình thức vận động của xã hội thời đại là tổng hợp phức tạp quan hệ giữa
người với người, là một hình thức hoạt động của thời đại mang tính đại chúng.
Để đạt tới thành tích TT cao con người phải tập luyện hệ thống thông qua lượng vận động lớn
khắc phục khó khăn về tâm lý, cho nên thể thao là một phương tiện, phương pháp hữu hiệu nhất để
phát triển thể chất, đạo đức, thẩm mỹ. TT là một trong những phương tiện mở rộng quan hệ hợp tác
quốc tế và hữu hiệu giữa các dân tộc.
Theo cách diễn đạt trên thì khái niệm TT có một phần đồng nghĩa với khái niệm văn hoá thể
chất, nhưng chỉ có một phần mà thôi. Trong quan hệ nhất định khái niệm văn hoá thể chất rộng hơn
khái niệm TT. Văn hoá thể chất không chỉ bao gồm một phần lớn thể thao mà còn gồm nhiều thành
phần khác như thể thao trường học, thể dục chữa bệnh, thể dục vệ sinh .v..v…
Như vậy, văn hoá thể chất có quan hệ rộng rãi với thể thao nhưng không có nghĩa trùng hợp hoàn toàn.
- Khái niệm giáo dục thể chất:
Thuật ngữ đầu có từ lâu trong ngôn ngữ nhiều nước. Riêng ở nước ta, do bắt nguồn từ gốc Hán
- Việt nên cũng có người gọi tắt GDTC là thể dục.
Thông thường, người ta coi GDTC là một bộ phận của TDTT. Nhưng chính xác hơn, đó còn là
một trong những hình thức hoạt động cơ bản có định hướng rõ của TDTT trong xã hội, một quá
trình có tổ chức để truyền thụ và tiếp thu những giá trị của TDTT trong hệ thống giáo dục - giáo
dưỡng chung (chủ yếu trong các nhà trường).
GDTC là một loại hình giáo dục mà nội dung chuyên biệt là dạy học vận động (dạy học động
tác) và phát triển có chủ định các tố chất vận động của con người.
Khái niệm GDTC nằm trong khái niệm giáo dục theo nghĩa rộng là quá trình phát triển toàn
diện và hình thành nhân cách, được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch thông qua các hoạt
động và các mối quan hệ giữa nhà giáo dục và người được giáo dục nhằm truyền đạt và chiếm lĩnh
các kinh nghiệm của xã hội loài người. Điều đó có nghĩa là GDTC là một hiện tượng sư phạm với
đầy đủ ý nghĩa của nó (vai trò chủ đạo của nhà sư phạm, tổ chức hoạt động của thầy giáo và học
sinh phù hợp với các nguyên tắc sư phạm..). Đặc điểm nổi bật nhất của GDTC là một quá trình sư
phạm nhằm tác động lên các đối tượng giáo dục để đạt được các nhiệm vụ:
- Giáo dục các tố chất thể lực.
- Giáo dục phẩm chất ý chí, đạo đức, nhân cách. - Giáo dưỡng.
- Trang bị kỹ năng, kỹ xảo vận động.
- Rèn luyện thói quen nếp sống lành mạnh.
Tổng hợp những quá trình đó xác định khả năng thích nghi thể lực của con người.
GDTC có hai đặc trưng cơ bản đó là:
- Đặc trưng cơ bản chuyên biệt thứ nhất của giáo dục thể chất là dạy học vận động (thể
hiện qua các động tác). Nói rõ và đầy đủ hơn, đó là sự truyền thụ và tiếp thu có hệ thống
những cách thức điều khiển hợp lý sự vận động của con người, qua đó sẽ hình thành những
kỹ năng kỹ xảo vận động cơ bản cần thiết và những hiểu biết có liên quan.
- Đặc trưng thứ hai là sự tác động có chủ đích đến sự phát triển theo định hướng các tố
chất vận động nhằm nâng cao năng lực vận động của con người.
GDTC có thể định nghĩa: là một hình thức giáo dục nhằm trang bị kỹ năng, kỹ xảo vận động
và những tri thức chuyên môn (giáo dưỡng). Phát triển tố chất thể lực, tăng cường sức khỏe.
Như vậy, GDTC là một loại hình giáo dục mà nội dung chuyên biệt là dạy học vận động (dạy
học động tác) và phát triển có chủ định các tố chất thể lực của con người. Nhưng việc dạy học động
tác và việc phát triển các tố chất thể lực có liên quan chặt chẽ, là tiền đề cho nhau thậm chí có thể
chuyển lẫn nhau. Nhưng chúng không bao giờ đồng nhất và có quan hệ khác biệt trong các giai đoạn
phát triển chất và GDTC khác nhau. Quan niệm như thế, chúng ta có thể coi phát triển thể chất là
một phần hệ quả của GDTC. Quá trình phát triển thể chất có thể chỉ là do bẩm sinh tự nhiên (sự
phát triển thể chất tự nhiên của trẻ khi đang lớn), hoặc còn có thêm các động cơ, chủ đích hợp lý của GDTC đem lại.
Trong hệ thống giáo dục, nội dung đặc trưng ấy của GDTC được gắn liền với trí dục, đức dục,
mỹ dục và giáo dục lao động. Trong hệ thống giáo dục cộng sản chủ nghĩa, GDTC có ý nghĩa như
một trong những nhân tố giáo dục nhân cách hoàn thiện.
Câu 7: Phân tích cấu trúc một buổi tập thể dục, thể thao. Để một buổi tập có hiệu quả cần lưu ý đến yếu tố nào? Tại sao?
- Một buổi tập được chia làm 3 phần, yêu cầu người tập phải tuân theo để bảo đảm luyện tập có
khoa học, có hệ thống và để thể lực cùng thành tích thể thao được nâng cao dần, đồng thời giảm tối
đa các phản ứng xấu, chấn thương có thể xảy ra cho người tập. 1. Phần chuẩn bị
- Khởi động chung: Nhằm đưa cơ thể từ trạng thái bình thường sang trạng thái vận động và vận
động cường độ cao. Gồm các bài tập thể dục tay không chạy, nhảy, các khớp...
- Khởi động chuyên môn: Gồm những bài tập chuẩn bị cho phần chính (Cơ bản), những bài tập này
gần giống hoặc là phân đoạn của nội dung chính, có khi là những kỹ năng vận động.
- Mục đích: Bổ trợ cho nội dung chính trong phần cơ bản và ôn tập những nội dung hoàn thiện. 2. Phần cơ bản
- Phần cơ bản là phần chính của buổi tập, gồm những bài tập mới (động tác mới) nên tập đầu tiên
sau đó là những bài tập đang hoàn thiện để trở thành KNKX vận động. Cuối cùng giành 10-15 phút
tập thể lực. Các bài tập nâng cao sức bền sắp xếp vào cuối buổi tập, không tập tăng tốc độ và các bài
tập khéo léo khi cơ thể mệt mỏi.
- Trong phần cơ bản, LVĐ là vấn đề người tập phải lưu ý. Hai yếu tố cường độ vận động và khối
lượng vận động liên quan với nhau quyết định LVĐ lớn hay nhỏ. LVĐ phải phù hợp với sức khỏe
từng người. Nếu LVĐ nhỏ thì buổi tập ít tác dụng. LVĐ hợp lý, vừa với sức chịu đựng, người tập
không phải gắng sức tối đa, tác dụng buổi tập có kết quả tốt. LVĐ quá cao gây mệt mỏi quá sức
chịu đựng, nếu kéo dài nhiều buổi tập có thể gây ra chấn thương, mệt mỏi quá độ, sức khỏe giảm sút
dẫn tới không tập luyện tiếp tục được, có khi phải nghỉ dài, điều trị an dưỡng. 3. Phần kết thúc
- Sử dụng các bài tập thả lỏng cơ bắp, hồi tĩnh, tập thở, trò chơi làm giảm căng thẳng, xoa bóp, tắm nước nóng, tắm hơi...
- Mục đích: Đưa cơ thể dần chuyển về trạng thái bình thường để hồi phục thể lực chuẩn bị cho ngày
học tập và làm việc tiếp theo.
- Xác định mục tiêu tập luyện cụ thể, từ đó mới chọn ra bài tập và chế độ dinh dưỡng thích hợp,
tránh trường hợp tập sai hướng, sai mục tiêu, mất thời gian và không đạt được kết quả như mong đợi.
- Khởi động kỹ trước khi bước vô tập luyện, đây là điều quan trọng bạn nên thực hiện để giảm tình
trạng bị chấn thương trong lúc tập.
- Chọn bài tập nhẹ nhàng, đúng kỹ thuật rồi sau đó tăng mức độ tập luyện lên từ từ, để các nhóm cơ
quen dần với cường độ tập luyện.
- Không nghỉ giữa chừng hoặc nghỉ quá lâu, điều này khiến bạn hay chán nản dễ bỏ tập, chỉ nên
nghỉ tối đa tầm 90s tùy mức độ tập luyện hôm đấy nhiều hay ít.
- Cần ngủ đủ giấc, không nên thức quá khuya để cơ thể nghỉ ngơi tuyệt đối sau mỗi buổi tập, các cơ
cũng sẽ được phục hồi nhanh hơn.
- Tránh các chất kích thích ảnh hưởng đến sức khỏe và kết quả tập luyện như rượu, bia, thuốc lá,...
- Cung cấp nhiều dưỡng chất cần thiết, thực hiện bổ sung trước và sau buổi tập đúng kế hoạch luyện tập.
- Uống thật nhiều nước lọc, cơ thể luôn cần nước trong quá trình tập luyện với công suất cao. Hãy
mang theo một bình nước riêng để kịp thời cấp nước, không nên uống các loại nước ngọt có gas chứa nhiều đường.
Câu 8: Phân tích kỹ năng vận động, các quá trình hình thành kĩ năng vận động? - Khái niệm:
Kỹ năng vận động là một hình thức hành động, được hình thành theo cơ chế phản xạ có điều kiện,
nhờ quá trình tập luyện thường xuyên.
Nói một cách đơn giản, kỹ năng vận động là các động tác được thực hiện một cách tự động do đã trở
thành thói quen. Đi, đứng, ngồi, chạy, nhảy,... là các kỹ năng vận động cơ bản. Tất cả các kỹ thuật
thể thao cũng đều là các kỹ năng vận động.
Do yêu cầu của mục đích vận động và để thích nghi với điều kiện sống các phản xạ vận động được
phối hợp lại với nhau thành một tổ hợp các động tác có ý nghĩa và trở thành kỹ năng vận động.
- Quá trình hình thành kĩ năng vận động:
Kỹ năng vận động được hình thành dần dần, theo 3 giai đoạn: Lan tỏa, tập trung và tự động hóa.
+ Trong giai đoạn lan tỏa, hưng phấn lan rộng trên vỏ đại não vì chưa hình thành được tổ hợp
vận động tối ưu. Nhiều nhóm cơ vận động cần thiết cũng tham gia vào vận động. Động tác vì vậy
không chính xác, nhiều cử động thừa, không tinh tế.
+ Sau một thời gian lặp lại, giai đoạn lan tỏa chuyển sang giai đoạn tập trung. Trong giai đoạn
này hưng phấn tập trung ở những vùng nhất định trên vỏ não, cần thiết cho vận động.
Các động tác thừa mất đi, cơ căng và co bóp ở mức độ hợp lý, động tác trở nên nhịp nhàng, chính
xác và thoải mái hơn. Kỹ năng vận động đã được hình thành tương đối ổn định.
+ Trong giai đoạn tự động hóa (Kỹ xảo vận động), kỹ năng vận động được củng cố đến mức
được thực hiện hầu như tự động, không cần sự chú ý của ý thức. Kỹ năng vận động cho phép thực
hiện nhiều động tác khác nhau cùng một lúc.
Câu 9: Phân tích sự ảnh hưởng của tập luyện thể dục, thể thao đối với chức tuần hoàn và hô hấp của con người?
Đối với hệ tuần hoàn:
- Khi con người tập luyện TDTT thì hoạt động của các cơ tăng lên, cơ thể yêu cầu phải cung cấp
thêm chất dinh dưỡng và oxy nhiều hơn lúc bình thường để duy trì hoạt động, vì vậy bộ máy tuần
hoàn tăng cường hoạt động để đáp ưng nhu cầu của cơ thể.
- Người thường xuyên tập luyện thì cơ tim dày và chắc hơn, sức co bóp của tim mạnh hơn và nhịp
đập của tim trong mỗi phút ít hơn. Ngược lại, người ít tập luyện khi lao động tim sẽđập nhanh,
người mau mệt, dễ xỉu…
- Tập luyện TDTT làm tăng tính đàn hồi của máu, toàn bộ mạch máu đều co giãn tốt. Cho nên người
tập TDTT thường xuyên khi về già ít bị chứng căng mạch máu, là nguyên nhân sinhra bệnh cao huyết áp.
- Tập luyện TDTT thì hồng cầu tăng lên từ 4 triệu lên 4 triệu rưỡi - 5 triệu, bạch cầu tăng từ 6000
lên 10.000. Hồng cầu làm nhiệm vụ vận chuyển oxy và CO2, bạch cầu làm nhiệm vụbảo vệ cơ thể.
- Da thịt VĐV luôn thắm đỏ hơn người bình thường.
Đối với hệ hô hấp:
- Khi tập luyện, cơ thể sản sinh ra nhiều axit lactic làm ảnh hưởng đến hoạt động của cơ nên cần có
khối lượng oxi lớn để oxy hóa nó. Khi tập luyện càng nặng thì cơ thể yêu cầu oxy càng nhiều. Song
lượng oxy hít vào chưa đáp ứng đủ yêu cầu cơ thể nên axit lactic chưa được oxy hóa hết gây nên
hiện tượng mỏi cơ và thở gấp.
- Các em thanh thiếu niên tập luyện thường xuyên thì lồng ngực sẽ nở, dung tích sống được tăng
lên, số lần hô hấp sẽ giảm đi, hiện tượng nợ dưỡng khí sẽ giảm đi, do đó cơ thể hồi phục nhanh
chóng trở về trạng thái bình thường, phổi sẽ làm việc thong thả hơn.
- Người không tập luyện thì khi hoạt động sẽ thở gấp, nông, cảm thấy mau mệt mỏi…
- Dung tích sống tăng lên, tăng cường hấp thụ O2 và thải CO2. Dung tích sống là một chỉ tiêu quan
trọng đánh giá trình độ sức khoẻ và sự sinh trưởng phát dục của thiếu niên nhi đồng. Thường xuyên
tập luyện thể dục thể thao đặc biệt là làm các động tác gập duỗi ngực có thể làm cho sức mạnh của
cơ hô hấp được tăng cường, lồng ngực to lên điều này có lợi cho sự sinh trưởng phát dục của tổ
chức phổi, cũng như sự khuyếch trương của phổi từ đó làm cho dung tích sống tăng lên.
- Tăng cường độ sâu hô hấp. Ở người bình thường hô hấp nông và nhanh, khi yên tĩnh tần số yên
tĩnh khoảng 12-18 lần/ phút, ở người thường xuyên tập luyện thể dục thể thao hô hấp sâu và chậm
lúc yên tĩnh tần số hô hấp khoảng 8-12 lần/ phút. Như vậy có nghĩa là các cơ hô hấp có nhiều thời
gian để nghỉ ngơi. Sự khác biệt này còn biểu hiện rõ nét hơn trong khi vận động.
Câu 10: Phân tích cơ sở sinh lý để phát triển các tố chất vận động?
Khái niệm tố chất vận động:
+ Trong sinh hoạt, lao động, cũng như tập luyện TD, TT, con người có lúc phải vận động rất nhanh,
có lúc cần phải làm việc lâu dài với lực tương đối nhỏ, có lúc phải thực hiện các động tác mang vác
rất nặng, tức là phải thực hiện các mặt khác nhau của khả năng vận động. Các mặt khác nhau của
khả năng vận động được gọi là các tố chất vận động hay tố chất thể lực.
+ Khả năng vận động của con người có thể hiện 4 loại tố chất: Sức nhanh, sức mạnh, sức bền và
khéo léo. Trong bất kỳ hoạt động thể lực nào, các tố chất vận động không thể hiện riêng lẻ, mà luôn
kết hợp hữu cơ với nhau. Đồng thời trong các hoạt động thể lực cụ thể, bao giờ cũng có một hoặc
vài tố chất thể lực thể hiện rõ hơn, quyết định thành tích của toàn bộ hoạt động.
+ Các tố chất vận động được phát triển thống nhất với kỹ năng vận động. Sự hình thành kỹ năng vận
động bao giờ cũng phụ thuộc vào mức độ phát triển của các tố chất vận động. Và ngược lại kỹ năng
vận động góp phần làm cho các tố chất vận động được hoàn thiện dần và thể hiện có hiệu quả hơn. Sức mạnh:
+ Là khả năng khắc phục lực cản bên ngoài của cơ bắp. Sức mạnh cơ bắp phụ thuộc vào đặc tính
của quá trình thần kinh điều khiển sự co cơ và vào số lượng các đơn vị chứa trong cơ. Để phát huy
được sức mạnh tối đa, cần phải huy động được số lượng tối đa các đơn vị vận động tham gia vào
hoạt động. Trong nhiều động tác thể thao tốc độ và sức mạnh liên quan chặt chẽ với nhau. Mức độ
phát triển sức mạnh ảnh hưởng rõ rệt đến tốc độ. Sức nhanh:
+ Các cơ sở sinh lý để phát triển tốc độ là: tăng cường độ linh hoạt và tốc độ lan tỏa hưng phấn ở
trung tâm thần kinh, tăng cường tốc độ co cơ, tăng cường tính đồng bộ trong hoạt động của các cơ
khác nhau, tăng tốc độ thả lỏng cơ
Trong quá trình tập luyện sức nhanh phát triển tương đối chậm so với sức mạnh và sức bền. Lứa
tuổi tốt nhất là tuổi thanh thiếu niên. Sức bền:
+ Là khả năng thực hiện hoạt động trong thời gian dài. Nó thể hiện khả năng chống đỡ của cơ thể
với những biến đổi bên trong, xảy ra do hoạt động cơ bắp kéo dài. Sự phát triển sức bền phụ thuộc
vào mức độ hoàn thiện của sự phối hợp giữa chức năng vận động và chức năng dinh dưỡng, vào độ
bền vững chức năng của các cơ quan nội tạng. Đặc biệt là hệ hô hấp và tim mạch, là những hệ đảm
bảo việc cung cấp oxy cho cơ thể.
+ Các cơ sở sinh lý chủ yếu để phát triển sức bền là: mức độ phát triển của tim mạch và hô hấp. Đó
là trạng thái máu; dự trữ chất dinh dưỡng trong cơ thể và khả năng sử dụng chúng, công suất của
các quá trình trao đổi năng lượng có và không có oxi; đặc điểm của quá trình điều nhiệt, trạng thái
của các tuyến nội tiết. Khéo léo:
+ Là khả năng thực hiện những động tác về phối hợp vận động trong điều kiện môi trường thay đổi.
+ Cơ sở sinh lý của tố chất này là phản xạ phối hợp phức tạp. Vì vậy, mức độ phát triển khéo léo
phụ thuộc vào trạng thái hệ thần kinh trung ương, tốc độ xử lý thông tin và hình thành các chương trình hành động.
+ Tố chất khéo léo phụ thuộc tất chặt chẽ với mức độ phát triển của các tổ chất khác như: Sức
mạnh, sức nhanh, sức bền và kỹ năng vận động.
- Tập luyện TD, TT có hệ thống phát triển tất cả các tố chất vận động. Các tố chất vận động có
nhiều điểm giống nhau về cơ chế phát triển. Vì vậy khi hoàn thiện một tố chất thì các tố chất khác ở
một mức độ nhất định cũng biến đổi theo. Ảnh hưởng hỗ trợ đó thể hiện rất rõ khi mới bắt đầu tập
luyện thường xuyên. Tuy nhiên, một số bài tập thể lực có thể gây ảnh hưởng xấu đối với việc phát
triển một tố chất vận động.
VD: Tập tạ để phát triển sức mạnh lâu dài có thể ảnh hưởng đến sức bền trong chạy cự ly.
+ Khi ngừng tập luyện có hệ thống, các tố chất vận động cũng ngừng phát triển, các tố chất sẽ thoái
hóa về trạng thái ban đầu. Tố chất sức nhanh sẽ giảm sớm nhất rồi sau đó là sức mạnh và cuối cùng là sức bền.
+ Các tố chất thể lực giáo động trong khoảng 15 – 30% trong ngày đêm. Tố chất vận động thấp nhất
trong khi đi ngủ và khi thức dậy sớm.
Câu 11: Đưa ra một lượng vận động bên ngoài. Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến vận động đó?
1. Lượng vận động bên ngoài:
Là LVĐ tác động lên cơ thể người tập thông qua bài tập thể lực. Có thể xác địnhbằng những thông
số vận động theo các hệ số đo lường như thời gian, độ dài, trọnglượng, LVĐ bên ngoài
Bao gồm 3 thành phần cơ bản là: khối lượng, cường độ vận động và quãng nghỉ
-> Khối lượng vận động: là độ kéo dài thời gian của động tác như tổng cự ly chạy, tổngtrọng lượng
gánh vác, tổng số lần lặp lại,... và được đo bằng đơn vị: km, kg, tấn tạ,...
-> Cường độ: là mức căng thẳng chức năng do bài tập gây ra trong một khoảng thời giantác động cụ
thể nào đó, có đơn vị là: mục đích/giây, giây, ...
-> Quãng nghỉ: là thời gian nghỉ ngơi giữa các lần tập, các bài tập, buổi tập, chu kỳ huấn luyện,…
Ví dụ: Bài tập chạy 5 lần x 60m với 85% sức, quãng nghỉ 3-5 phút. Vậy bài tập trên có khối lượng
là (5 lần x 60m), cường độ là chạy 85% sức, quãng nghĩ là 4 phút
Nếu cường độ tăng từ 85 – 95 thì lvđ cũng tăng. Pp này gduc sức nhanh.
Nếu khối lượng tăng từ 5 lần x 60 m lên 6 lần x 60m thì lvđ cũng tăng. Pp này gduc sức mạnh.
Nếu giảm tgian nghỉ giữa mỗi vòng chạy từ 4 phút xuống còn 2 phút thì lvđ cũng tăng. Pp này gduc sức bền.
Câu 12: Hãy áp dụng phương pháp tập luyện vòng tròn nhằm giáo dục tố chất sức bền thực tiễn tập
luyện thể dục, thể thao? Cho ví dụ
- Phương pháp tập luyện vòng tròn:
Quá trình thực hiện các bài tập theo thứ tự từng nhóm với những bài tập đã được lựa chọn và
hợp nhất lại thành bài tập liên hợp. Các bài tập được thực hiện theo từng trạm kế tiếp nhau, các trạm
được bố trí theo dạng vòng tròn. Tại mỗi trạm người tập thực hiện một loạt các động tác hoặc những
hành động nhất định. Số lần lặp lại ở mỗi trạm được xác định theo đặc điểm của người tập, thông
thường số lần lặp lại được thực hiện 1/3 đến 2/3 số lần lặp lại tối đa.
Hình thức tập luyện vòng tròn nhằm giáo dục các tố chất thể lực, khi thực hiện tập luyện theo
PP vòng tròn thường sử dụng những bài tập có kĩ thuật đơn giản và người tập đã nắm vững các kĩ
thuật động tác trước đó.
Ưu điểm của PP vòng tròn là những ưu điểm của tác động chọn lọc được kết hợp với tác động
chung, tác động ổn định được kết hợp với tác động biến đổi. Đặc biệt là hiệu quả của sự chuyển
(thay đổi hoạt động) quãng được sử dụng rộng rãi. Nhờ vậy phát huy được khả năng vận động thể
lực và cảm xúc tích cực.
+ PP tập kéo dài liên tục (chủ yếu được sử dụng để phát triển sức bền chung).
+ PP giãn cách với quãng nghỉ ngắn (được sử dụng chủ yếu để phát triển sức bền tốc độ và sức mạnh bền).
- Khái niệm sức bền:
Là khả năng thực hiện hoạt động trong thời gian dài. Nó thể hiện khả năng chống đỡ của cơ
thể với những biến đổi bên trong, xảy ra do hoạt động cơ bắp kéo dài.
Sự phát triển sức bền phụ thuộc vào mức độ hoàn thiện của sự phối hợp giữa chức năng vận
động và chức năng dinh dưỡng, vào độ bền vững chức năng của các cơ quan nội tạng. Đặc biệt là hệ
hô hấp và tim mạch, là những hệ đảm bảo việc cung cấp oxy cho cơ thể.
Các cơ sở sinh lý chủ yếu để phát triển sức bền là: mức độ phát triển của tim mạch và hô hấp.
Đó là trạng thái máu; dự trữ chất dinh dưỡng trong cơ thể và khả năng sử dụng chúng; công suất
của các quá trình trao đổi năng lượng có và không có oxi; đặc điểm của quá trình điều nhiệt, trạng
thái của các tuyến nội tiết. - Ví dụ:
Câu 13: Vận dụng nguyên tắc tăng tiến vào thực tiễn tập luyện thể dục, thể thao? Cho ví dụ
1, Cần thường xuyên đổi mới nhiệm vụ vận động và LVĐ
Trong quá trình GDTC không ngừng tăng số lượng và chất lượng KNKX
Tăng LVĐ là tăng vốn KNKX. Mức độ biến đổi thích nghi trong cơ thể dưới sự tác động của bài tập
thể chất trong những giới hạn nhất định tỷ lệ thuận với cường độ và khối lượng.
Vậy LVĐ lớn sẽ tạo nên sự biến đổi thích nghi lớn và quá trình hồi phục vượt mức ngày càng cao,
cho nên LVĐ là nguyên nhân của sự phát triển, vì sử dụng một LVĐ nào đó trong một thời gian dài
sẽ dẫn đến những phản ứng thích nghi của cơ thể.
2. Các điều kiện tăng lượng vận động
Tăng LVĐ phải đảm bảo các yêu cầu:
+ Yêu cầu nêu trong nguyên tắc vừa sức, nguyên tắc hệ thống, đảm bảo tính kế thừa của bài
tập đó, lứa tuổi, giới tính, trình độ tập luyện, trạng thái sức khoẻ.
+ Đảm bảo luôn phiên hợp lý giữa vận động và nghỉ ngơi.
+ Tăng LVĐ phải đảm bảo cho kỹ xảo cũ được củng cố vững chắc.
+ Tăng LVĐ phải vừa sức với người tập vì những biến đổi trong cơ thể xảy ra chậm phải trải
qua một quá trình nhất định để kịp xảy ra những biến đổi thích nghi
Do đó tăng LVĐ phải tăng từ từ, dần dần.
3 Các hình thức tăng lượng vận động
- Hình thức tăng lên thẳng
Với hình thức này yêu cầu tăng LVĐ từ từ được đảm bảo lượng gia tăng nhỏ:
- Hình thức bậc thang
LVĐ được ổn định trong một thời gian tương đối dài khi quan sát thấy những biến đổi thích nghi
thì tăng một LVĐ mới lớn hơn ban đầu hay còn gọi là hình thức nhảy vọt hình thức này cho phép tăng LVĐ lớn hơn.
- Hình thức làn sóng:
Đặc điểm tiêu biểu của hình thức làn sóng là việc phối hợp tăng LVĐ tương đối từ từ với việc tăng
cao nhanh tiếp theo là giảm LVĐ. Sau đó “sóng” này lại được lặp lại ở trình độ cao hơn.
*/ Ưu điểm của hình thức làn sóng:
+ Phù hợp với nhịp sinh học của một quá trình sinh lý cũng như chế độ sống và hoạt động của con người
+ Phù hợp với quy luật thích nghi chậm của cơ thể trong quá trình tập luyện
+ Giải quyết được mâu thuẫn giữa tăng khối lượng và cường độ.
Ví dụ: Một học sinh được tham gia vào đội tuyển bơi lội của trường, tuy có kỹ thuật bơi nhưng thể
lực còn yếu kém. Chính vì thế việc rèn luyện thể lực của em học sinh đó cần phải tuân theo nguyên
tắc tăng tiến đó là: Những buổi tập đầu tiên em chỉ chạy 2 vòng sân, mỗi vòng 200m và được nghỉ 5
phút sau mỗi vòng. Những ngày sau đó số vòng sẽ được tăng dần theo mức độ nhất định và kết hợp
với những bài tập rèn luyện thể lực khác.
Câu 14: Áp dụng các biện pháp khắc phục hiện tượng chuột rút và say nắng trong tập luyện thể dục, thể thao? Chuột rút - Chuột rút là gì?
+ Đây vốn là khái niệm được dùng để chỉ những cơn đau, co mạnh và thắt chặt các cơ xuất hiện đột
ngột trong một thời điểm nào đó. Cảm giác đau, co cơ thường kéo dài từ vài giây cho đến vài phút.
+ Chuột rút có thể xuất hiện ở nhiều bộ phận trên cơ thể nhưng phổ biến nhất vẫn là chuột rút chân.
Khi ấy, cơn đau thường khởi phát từ cơ bắp chân, phía dưới hoặc phía sau đầu gối. Bị chuột rút bắp
chân thường gây đau đớn trong vài giây, vài phút, nhưng trong một số trường hợp, cơn đau có thể
kéo dài lên đến 10 phút. - Vì sao bị chuột rút?
+ Bị chuột rút bắp chân khi chơi thể thao là điều không còn xa lạ với những người thường xuyên
luyện tập. Có rất nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến hiện tượng này và dưới đây là những lý do
cơ bản hàng đầu trong số đó.
Bỏ qua bước khởi động khi chơi thể thao Tập luyện quá sức
Tập luyện trong đkien nóng bức Mất nước - Cách khắc phục:
+ Tạm ngưng việc chơi thể thao ngay lập tức và di chuyển đến nơi thoáng mát để nghỉ ngơi.
+ Xoa bóp nhẹ vùng cơ chân bị đau, thực hiện các động tác kéo giãn cơ, giữ chân cho đến khi tình
trạng chuột rút biến mất. Bạn nên nhờ người khác giúp bạn thực hiện động tác này.
+ Thực hiện chườm nóng lên vùng cơ đang rút căng trước. Sau đó, bạn tiếp tục chườm lạnh lên vùng cơ đau.
+ Bổ sung nước, muối và chất điện giải thông qua các loại nước thể thao hoặc ăn chuối
+ Trong trường hợp hiện tượng chuột rút thường xuyên xuất hiện khi chơi thể thao, trong thời gian
dài và khó cải thiện bằng các giải pháp nói trên. Các bạn nên thăm khám các bác sĩ chuyên khoa y học thể thao. Say nắng:
- Say nắng là tình trạng cơ thể tăng nhiệt độ cao (trên 40 độ C), thường kết hợp với mất nước. Hệ
quả là hệ thống điều hòa nhiệt của cơ thể bị mất kiểm soát, gây ra những rối loạn hệ hô hấp, thần
kinh, tuần hoàn… Nguyên nhân là do tác động của nắng nóng hay các hoạt động thể lực quá mức.
Tình trạng say nắng thường đi kèm với say nóng.
- Nguyên nhân gây say nắng, say nóng :
+ Không uống đủ nước khi thời tiết nắng nóng, không khí lưu thông kém trong nhà, ánh nắng mặt
trời chiếu trực tiếp vào nơi ở. Nếu tiếp xúc với ánh nắng quá nhiều có thể làm tăng thêm chỉ số nhiệt
cơ thể lên tới 15 độ. Ngoài ra, sốc nhiệt cũng có mối liên quan với chỉ số nhiệt. Độ ẩm tương đối từ
60% trở lên sẽ gây cản trở sự bay hơi của mồ hôi và khả năng tự làm mát của cơ thể.nhiệt độ tăng cao vào mùa hè
+ Nhiệt độ môi trường tăng cao, nhất là thời điểm mùa Hè khiến nhiều người rơi vào tình trạng say nắng
- Cách xử trí khi gặp người bị say nắng, say nóng:
Khi nhận thấy một người có dấu hiệu bị say nắng bạn nên:
+ sơ cứu người bị say nắng say nóng, 6 bước sơ cứu người bị say nắng :
Bước 1: Nhanh chóng gọi dịch vụ cấp cứu khẩn cấp 115 hoặc y tế địa phương.
Bước 2: Trong thời gian chờ xe cấp cứu, di chuyển người bị say nắng đến nơi râm mát.
Bước 3: Cởi bỏ bớt quần áo không cần thiết.
Bước 4: Thường xuyên kiểm tra nhiệt độ cơ thể.
Bước 5: Làm mát cơ thể bằng bất cứ cách nào như: xịt mát cơ thể bằng nước, dùng quạt phun
sương; đặt túi nước đá hoặc khăn mát lên vùng cổ, nách và bẹn; cho người say nắng uống nước mát
để bù nước (nếu có thể)…
Bước 6: Đánh giá mức độ tỉnh táo người say nắng (lay gọi, tiếp xúc…).
Nếu nạn nhân tỉnh táo thì cho nạn nhân uống bổ sung nước, chất điện giải… Nếu nạn nhân chưa
tỉnh táo tiếp tục làm mát cơ thể trong khi chờ xe cấp cứu. Nếu nạn nhân bất tỉnh, không có dấu hiệu
tuần hoàn (thở, ho hoặc cử động) thì thực hiện hô hấp
Câu 15: Hãy dựa vào nguyên tắc vệ sinh cá nhân để xây dựng một thời gian biểu phù hợp cho bản thân?
- Vệ sinh cá nhân, về bản chất là xây dựng được một lối sống vệ sinh lành mạnh, mà nội dung chính
của nó là sắp xếp hợp lý giữa lao động và nghỉ ngơi, có vệ sinh tập luyện TDTT, vệ sinh ăn uống, vệ
sinh ngủ, vệ sinh thân thể, trang phục, khắc phục các thói hư tật xấu. Sắp xếp thời gian biểu hợp lý
giữa lao động và nghỉ ngơi dựa trên một quy luật quan trọng của tự nhiên đó là nhịp sinh hóa.
- Ví dụ về thời gian biểu:
5r – 5h50: thức dậy + vscn
11h30 – 11h50: giải lao, giải trí 5h50 – 6h20: thể dục 11h50 – 12h30: ăn trưa 6h20 – 7h30: ăn sáng 12h30 – 13h: ngủ trưa 7h30 – 11h30: làm việc
13h – 13h15: thức dậy + vscn 13h15 – 16h45: làm việc 19h30 – 22h30: làm việc 16h45 – 18h15: thể dục
22h30 – 23h30: đọc sách, thư giãn
18h15 – 19h: vệ sinh, giải trí 23h30 – 5h30: đi ngủ 19h – 19h30: ăn tối