



















Preview text:
LÝ THUYẾT
I. Giá trị thặng dư
1. Nguồn gốc của giá trị thặng dư:
Nguồn gốc của giá trị thặng dư nằm ở việc sử dụng hàng hóa sức lao động – một loại
hàng hóa đặc biệt. Hàng hóa này có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của
sức lao động được quyết định bởi thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản
xuất ra nó, bao gồm các chi phí sinh hoạt cần thiết, phí tổn đào tạo, và chi phí nuôi dưỡng
con cái của người lao động. Điểm đặc biệt của giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động là
trong quá trình sử dụng, nó không chỉ bảo toàn giá trị mà còn tạo ra giá trị lớn hơn. Nhà tư
bản mua sức lao động và sử dụng nó để tạo ra lượng giá trị vượt quá giá trị của chính sức
lao động, làm phát sinh giá trị thặng dư – nguồn gốc cơ bản của lợi nhuận trong nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa.
2. Sự sản xuất của giá trị thặng dư:
Sự sản xuất giá trị thặng dư là quá trình lao động trong đó người lao động tạo ra giá trị
vượt quá giá trị sức lao động của mình. Trong thời gian lao động tất yếu, công nhân tạo ra
giá trị đủ để bù đắp giá trị hàng hóa sức lao động đã được nhà tư bản mua. Sau đó, trong
thời gian lao động thặng dư, công nhân tiếp tục lao động mà không nhận thêm tiền công, tạo
ra giá trị mới vượt lên trên giá trị sức lao động, gọi là giá trị thặng dư. Nhà tư bản, với tư
cách là chủ sở hữu tư liệu sản xuất, chiếm đoạt giá trị này. Giá trị thặng dư là sản phẩm của
lao động không công của công nhân, phản ánh bản chất bóc lột trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Đây là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản, là cơ sở của sự tồn tại và phát
triển của chủ nghĩa tư bản.
Để tiến hành sản xuất, nhà tư bản cần mua tư liệu sản xuất và hàng hóa sức lao động.
Tư bản bất biến và tư bản khả biến là hai khái niệm quan trọng trong lý thuyết giá trị thặng dư của C. Mác.
Tư bản bất biến (ký hiệu là c) là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản
xuất, như máy móc, nguyên liệu, và vật liệu. Giá trị của tư bản này không thay đổi trong
quá trình sản xuất, mà được chuyển nguyên vẹn vào giá trị sản phẩm cuối cùng. Mặc dù tư
bản bất biến không trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư, nhưng nó là điều kiện cần thiết để quá
trình tạo ra giá trị thặng dư diễn ra. Không có tư liệu sản xuất, quá trình tạo ra giá trị sẽ không thể diễn ra.
Tư bản khả biến (ký hiệu là v) là bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động. Giá trị
của tư bản khả biến được chuyển cho công nhân làm thuê, nhưng trong quá trình lao động,
công nhân sẽ tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của sức lao động đã bỏ ra. C. Mác nhấn mạnh
rằng tư bản khả biến, qua lao động trừu tượng, tăng lên về số lượng trong quá trình sản xuất
và tạo ra giá trị thặng dư.
Tổng giá trị hàng hóa (G) có thể được công thức hóa như sau: G=c+(v+m) Trong đó:
c là giá trị của tư liệu sản xuất đã được sử dụng, chuyển vào giá trị sản phẩm.
(v + m) là giá trị mới tạo ra, bao gồm giá trị của sức lao động (v) và giá trị thặng dư
(m) do lao động không công của công nhân.
3. Bản chất của giá trị thặng dư:
Bản chất của giá trị thặng dư là kết quả của sự hao phí sức lao động trong quá trình
sản xuất dưới mối quan hệ kinh tế - xã hội giữa nhà tư bản (người mua sức lao động) và
công nhân (người bán sức lao động). Giá trị thặng dư được tạo ra khi công nhân lao động
vượt qua thời gian cần thiết để tái tạo giá trị sức lao động, tức thời gian lao động thặng dư,
và phần giá trị mới này thuộc về nhà tư bản do họ sở hữu tư liệu sản xuất. Mặc dù tuân theo
quy luật trao đổi ngang giá, bản chất của giá trị thặng dư là sự bóc lột, phản ánh quan hệ
giai cấp trong xã hội tư bản.
Nhằm đo lường mức độ khai thác lao động, C. Mác đưa ra hai chỉ số:
Tỷ suất giá trị thặng dư (m'), biểu thị tỷ lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư (m) và tư
bản khả biến (v) để sản xuất ra giá trị thặng dư đó. Tỷ suất thặng dư cũng có thể tính theo tỉ
lệ phần tram giữa thời gian lao động thặng dư (t’) và thời gian lao động tất yếu (t): m m' ×100 % ' t' =
hoặc m = ×100 % v t
Khối lượng giá trị thặng dư (M), phản ánh giá trị thặng dư bằng tiền mà nhà tư bản
thu được, tính bằng tích của tỷ suất giá trị thặng dư và tổng tư bản khả biến.
Tỷ suất giá trị thặng dư thể hiện mức độ khai thác lao động, trong khi khối lượng giá
trị thặng dư phản ánh quy mô giá trị mà nhà tư bản chiếm hữu.
II. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường Tư bản chủ nghĩa
1. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối:
Khái niệm: Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao
động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động
và thời gian lao động tất yếu không thay đổi( Phạm Văn Linh, 2021).
Ví dụ: Ngày lao động là 8 giờ.
Thời gian lao động tất yếu là 4 giờ.
Thời gian lao động thặng dư 4 giờ.
Ta có tỷ suất giá trị thặng dư .
m'= 4 X 100 %=100 % 4
Nếu ngày lao động được kéo dài ra 12 giờ, thời gian lao động cần thiết không
đổi, ngày lao động sẽ được chia như sau:
Thời gian lao động tất yếu : 4 giờ.
Thời gian lao động thặng dư: 8 giờ.
Tỷ suất giá trị thặng dư: 200%. 8 m'= X 100 %=200 % 4
Trong phương pháp này có:
Những nhân tố cố định sau:
Năng suất lao động không đổi.
Thời gian lao động cần thiết không đổi.
Những nhân tố biến đổi:
Ngày lao động được kéo dài ra (cường độ lao động tăng lên).
Thời gian lao động thặng dư tăng lên.
Tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên.
Làm kiệt quệ sức lao động của công nhân.
Phương pháp này được áp dụng trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất
chủ yếu bằng công cụ thủ công, năng suất lao động xã hội thấp. Tuy nhiên, ngày lao động
chịu giới hạn về mặt sinh lý (công nhân phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí) nên
không thể kéo dài bằng ngày tự nhiên, còn cường độ lao động cũng không thể tăng vô hạn
quá sức chịu đựng của con người. Hơn nữa, công nhân kiên quyết đấu tranh đòi rút ngắn
ngày lao động. Quyền lợi hai bên có mâu thuẫn, thông qua đấu tranh, tuỳ tương quan lực
lượng mà tại các dân tộc trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể có thể quy định độ dài nhất định
của ngày lao động. Tuy vậy, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu và cũng
không thể vượt giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động. (Mai Huong Nguyen, 2022).
2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối:
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được nhờ rút ngắn thời gian lao
động tất yếu; do đó kéo dài thời gian lao động thặng dư trong khi độ dài ngày lao động
không thay đổi hoặc thậm chí rút ngắn.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối cho phép nhà tư bản tăng cường lợi
nhuận mà không cần phải kéo dài thời gian làm việc của người lao động. Thay vào đó, họ
tập trung vào việc cải thiện năng suất lao động và giảm giá trị sức lao động, từ đó tạo ra
nhiều giá trị thặng dư hơn. Phương pháp này phản ánh sự cạnh tranh trong nền kinh tế tư
bản, nơi mà các nhà tư bản luôn tìm cách tối ưu hóa quy trình sản xuất để tối đa hóa lợi nhuận.
Ví dụ: Ngày lao động 10 giờ, với 5 giờ lao động tất yếu, 5 giờ lao động thặng dư, tỷ
suất giá trị thặng dư là 100%. Nếu giá trị sức lao động giảm khiến thời gian lao động tất yếu
rút xuống còn 3 giờthì thời gian lao động thặng dư sẽ là 7 giờ. Khi đó:
Nếu ngày lao động giảm xuống còn 8 giờ nhưng giá trị sức lao động giảm khiến thời
gian lao động tất yếu rút xuống còn 2 giờ thì thời gian lao động thặng dư sẽ là 6 giờ. Khi đó:
Tăng năng suất sẽ làm giảm thời gian lao động cần thiết, mà giảm TGLĐCT sẽ làm
giảm giá trị hàng hóa, và sẽ làm giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết. Từ đó
giá trị sức lao động sẽ giảm và làm tăng tỷ suất giá trị thặng dư.
Để tăng năng suất thì các nhà tư bản phải ra sức cải tiến kĩ thuật, không ngừng
nâng cao công nghệ sản xuất. Khi công cụ kĩ thuật ngày càng tân tiến thì sản phẩm
được sản xuất ra có giá trị cá biệt thấp hơn so với giá trị xã hội. Từ đó các nhà sản
xuất sẽ thu được phần giá trị thặng dư vượt trội hơn so với các nhà sản xuất khác.
Phần giá trị thặng dư hơn gọi là giá trị siêu ngạch (KIẾN THỨC KINH TẾ, 2019).
Hay nói cách khác, giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá thặng dư thu được do tăng
năng suất lao động cá biệt, làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị thị trường của nó.
Ví dụ, một nhà máy sản xuất giày dép, lương công nhân 5 triệu đồng/tháng. Trong một
tháng giá trị mà công nhân tạo ra là 10 triệu đồng.
Khi chưa nâng cấp máy móc, công nghệ:
Giá trị thặng dư = Giá trị sản phẩm – Giá trị sức lao động = 10 – 5 = 5 triệu đồng.
Giả sử nhà máy áp dụng các biện pháp để tăng năng suất lao động, chẳng hạn như đầu
tư vào công nghệ mới, cải tiến quy trình sản xuất, … mà không tăng lương. Khi đó giá trị
mà công nhân tạo ra một tháng sẽ là 15 triệu đồng.
Giá trị thặng dư mới = Giá trị sản phẩm mới – Giá trị sức lao động = 15 – 5 = 10 triệu đồng.
Trong trường hợp này phần giá trị thặng dư tăng thêm (5 triệu đồng) gọi là giá trị siêu ngạch.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối là đặc trưng của nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa vì bản chất của nó là làm tăng năng suất lao động khiến cho thời gian lao động cá
biệt giảm xuống, dẫn đến thời gian lao động tất yếu giảm từ đó làm tăng đáng kể trình độ
bóc lột. Phương pháp này được áp dụng trong suốt thời kỳ chủ nghĩa tư bản, phù hợp với
khả năng lao động của công nhân và mang lại lợi nhuận cao (Ôn thi nhàn, Kết quả cao, 2024).
3. So sánh phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư tương đối. Giống nhau:
Mục đích: đều tăng m, tức là kéo dài thời gian lao động thặng dư.
Cả hai phương pháp đều làm tăng tỷ suất giá trị thặng dư, do đó đều nâng cao trình độ
bóc lột của tư bản đối với lao động làm thuê. Khác nhau: Tiêu chí
Sản xuất GTTD tuyệt đối
Sản xuất GTTD tương đối
Kéo dài thời gian lao động trong
Rút ngắn thời gian lao động cần Cách thức
khi năng suất, giá trị sức lao động, thiết trong khi độ dài ngày lao động thực hiện
thời gian lao động tất yếu không
không đổi hoặc thậm chí rút ngắn. đổi. Kết quả Tạo ra ít thặn dư hơn Tạo ra nhiều thặng dư
Thời gian áp
Khi kĩ thuật chưa tiến bộ
Khi máy móc, kĩ thuật đã tiến bộ dụng
Bóc lột bằng cách kéo dài tuyệt
Bóc lột bằng cách hạ thấp giá trị
Cơ sở thực
đối ngày lao động, tăng cường độ
sức lao động, thông qua giảm giá trị hiện lao động
tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần
thiết cho người công nhân
Giới hạn về thời gian lao động
Giới hạn về công nghệ và áp lực Giới hạn
và tác động tiêu cực đến sức khỏe
đối với người lao động.
và tinh thần của công nhân
III. Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường
Việc nghiên cứu các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư thực chất là phân tích
quan hệ lợi ích giữa các nhà tư bản, giữa nhà tư bản với địa chủ trong việc phân chia giá trị
thặng dư thu được từ lao động làm thuê.
1. Lợi nhuận
a. Chi phí sản xuất:
Khái niệm: Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là phần giá trị hàng hóa bù lại giá trị tư
liệu sản xuất đã tiêu dùng (c) và giá cả sức lao động (v) đã được sử dụng để sản xuất ra
hàng hóa ấy. Kí hiệu là k
Về mặt lượng: k=c+v
Khi xuất hiện phạm trù chi phí sản xuất thì giá trị hàng hóa G= c+ (v+m) sẽ biểu hiện thành G=k+m
Chi phí sản xuất bù đắp giá trị và hiện vật cho tái sản xuất, là căn cứ cạnh tranh về giá bán.
b. Bản chất lợi nhuận:
Lợi nhuận (p) là phần chênh lệch giữa giá trị hàng hóa (G) và chi phí sản xuất (k) Giá
trị hàng hóa được viết là: G=k+p Suy ra p=G−k
Lợi nhuận là hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư trên bề mặt nền kinh tế thị trường.
Với nhà tư bản, lợi nhuận được coi là kết quả từ tư bản ứng trước.
c. Tỷ suất lợi nhuận (p'):
Tỷ lệ phần trăm giữa lợi nhuận (p) và toàn bộ tư bản ứng trước (c+v) Tỷ p
suất lợi nhuận được tính theo công thức: p' = × 100 % c +v
Tỷ suất lợi nhuận phản ánh mức độ hiệu quả của đầu tư tư bản, được coi là động cơ
chính của cạnh tranh tư bản chủ nghĩa.
❖ Nhân tố ảnh hưởng tới tỷ suất lợi nhuận:
Tỷ suất giá trị thặng dư (m'): Tăng m' → p' tăng.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản (c/v): c/v cao → giảm p'.
Tốc độ chu chuyển tư bản: Tốc độ nhanh → p' tăng.
Tiết kiệm tư bản bất biến (c): Giảm c → tăng p'.
d. Lợi nhuận bình quân
Khái niệm và cách hình thành:
Cạnh tranh giữa các ngành là cơ chế hình thành lợi nhuận bình quân. Lợi nhuận bình
qp uâ n (p ) là mức lợi nhuận bằng nhau của những tư bản như nhau đầu tư vào các ngành khác nhau.
Cạnh tranh giữa các ngành làm dịch chuyển tư bản đến ngành có tỷ suất lợi nhuận cao,
dẫn đến hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân ( p').
Về cách tính, lợi nhuận bình quân ( p ¿ được tính theo tỷ suất lợi nhuận bình quân : (
p' ).Tỷ suất lợi nhuận bình quân được tính bằng số bình quân gia quyền của các tỷ suất lợi nhuận như nhau.
Công thức tính tỷ suất lợi nhuận bình quân:
p' = Σp × 100 %
Σ (c + ν )
Nếu kí hiệu giá trị tư bản ứng trước là K thì lợi nhuận bình quân được tính như sau:
p= p' ×K
Khi lợi nhuận chuyển hóa thành lợi nhuận bình quân thì giá trị của hàng hóa chuyển
hóa thành giá cả sản xuất: GCSX =k + p
e. Lợi nhuận thương nghiệp
Khái niệm: Lợi nhuận thương nghiệp là phần chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng hóa.
Nguồn gốc: Một phần giá trị thặng dư nhà tư bản sản xuất chuyển cho nhà tư bản
thương nghiệp để họ thực hiện chức năng lưu thông hàng hóa.
Cơ chế: Nhà tư bản sản xuất bán hàng cho nhà tư bản thương nghiệp với giá cao hơn
chi phí sản xuất, nhưng thấp hơn giá trị hàng hóa.
Nhà tư bản thương nghiệp bán hàng hóa đúng giá trị và thu lợi nhuận thương nghiệp từ phần chênh lệch.
f. Vai trò lợi nhuận trong kinh tế thị trường
Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận là động lực thúc đẩy cạnh tranh, cải tiến sản xuất, phân
bổ nguồn lực hiệu quả.
Lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất là cơ sở để doanh nghiệp quyết định chiến lược kinh doanh. 2. Lợi tức
Trong nền kinh tế thị trường, lợi tức là một trong những hình thái biểu hiện của giá trị
thặng dư, xuất hiện trong mối quan hệ giữa người cho vay và người đi vay.
Khái niệm: Lợi tức là phần lợi nhuận bình quân mà người đi vay (tư bản đi vay) phải
trả cho người cho vay (tư bản cho vay) vì đã sử dụng lượng tiền nhàn rỗi của người cho vay.
Nguồn gốc: Lợi tức thực chất là một phần giá trị thặng dư mà người đi vay (tư bản đi
vay) thu được thông qua việc sử dụng tiền vay.
❖ Tư bản cho vay trong chủ nghĩa tư bản có đặc điểm:
Thứ nhất, quyền sử dụng tách khỏi quyền sở hữu.
Chủ thể sở hữu tư bản không phải là chủ thể sử dụng, chủ thể sử dụng tư bản chỉ được
sử dụng trong một thời hạn nhất định và không có quyền sở hữu.
hứ hai, tư bản cho vay là hàng hóa đặc biệt.
Người bán không mất quyền sở hữu, người mua chỉ được quyền sử dụng trong một
thời gian. Sau khi sử dụng, tư bản cho vay không mất giá trị sử dụng và giá trị mà được
bảo tồn, thậm chí còn tăng thêm.
Giá cả của tư bản cho vay được quyết định bởi giá trị sử dụng của nó là khả năng thu
được lợi nhuận bình quân, do đó không những không được quyết định bởi giá trị, mà còn
thấp hơn nhiều so với giá trị.
Thứ ba, tư bản cho vay là hình thái tư bản phiến diện nhất, song cũng được sùng bái nhất.
Tư bản cho vay vận động theo công thức T - T’, tạo ra ảo tưởng là tiền đẻ ra tiền
không phản ánh rõ nguồn gốc của lợi tức cho vay.
Tỷ suất lợi tức (z′) là tỉ lệ phần trăm giữa lợi tức (z) và tư bản cho vay (TBCV) z
Công thức tính tỷ suất lợi tức: z ' = × 100 % TBCN
❖ Tỷ suất lợi tức chịu ảnh hưởng chủ yếu bởi các nhân tố là:
Tỷ suất lợi nhuận bình quân: Tỷ suất này là giới hạn tối đa của lợi tức.
Quan hệ cung - cầu về tư bản cho vay: Khi nhu cầu vay cao, lợi tức sẽ tăng và ngược lại.
Tư bản giả và thị trường chứng khoán.
Tư bản giả:
Là tư bản được hình thành từ cổ phiếu, trái phiếu – các giấy tờ đại diện quyền sở hữu
tư bản. Nó được giao dịch tách biệt tương đối với quá trình sản xuất kinh doanh thực tế. Tư
bản giả được mua bán trên thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán:
Thị trường chứng khoán ngày càng phát triển mạnh mẽ do nhu cầu giao dịch mua bán
tư bản giả. Các công ty chứng khoán phát hành chứng quyền và giao dịch trên thị trường,
tạo thêm thu nhập cho người sở hữu.
3. Địa tô tư bản chủ nghĩa
Địa tô tư bản chủ nghĩa là hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư trong lĩnh vực nông
nghiệp, thể hiện mối quan hệ kinh tế giữa địa chủ và nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp.
Khái niệm địa tô
Địa tô: Là phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình
quân mà các nhà tư bản kinh doanh trên lĩnh vực nông nghiệp phải trả cho địa chủ (ký hiệu là R).
Nguồn gốc: Hình thành từ lợi nhuận siêu ngạch mà nhà tư bản kinh doanh nông
nghiệp thu được ngoài lợi nhuận bình quân.
❖ Theo C.Mác, có các hình thức địa tô như:
Địa tô chênh lệch I: Thu được do ruộng đất màu mỡ, điều kiện tự nhiên thuận lợi.
Địa tô chênh lệch II: Thu được nhờ đầu tư thâm canh, cải thiện độ màu mỡ đất.
Địa tô tuyệt đối: Thu từ mọi mảnh đất cho thuê, không phụ thuộc vào độ màu mỡ hay
điều kiện tự nhiên. Là phần lợi nhuận siêu ngạch dồi ra ngoài lợi nhuận bình quân được
tính bằng số chênh lệch giữa giá trị nông sản và giá cả sản xuất chung của nông sản.
Trong thực tế đời sống kinh tế, địa tô là một trong những căn cứ để tính toán giá cả
ruộng đất khi thực hiện bán quyền sử dụng đất cho người khác.
Về nguyên lý, giá cả ruộng đất được tính trên cơ sở so sánh với tỷ lệ lãi suất ngân hàng, theo công thức:
Giá cả đất đai: Giá cả đất đai = Địa tô/ Tỷ suất lợi tức nhận gửi của ngân hàng
❖ Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của địa tô
Lý luận địa tô tư bản chủ nghĩa của C. Mác không những chỉ rõ bản chất quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp mà còn là cơ sở khoa học để xây dựng các chính
sách kinh tế liên quan đến thuế, đến điều tiết các loại địa tô, đến giải quyết các quan hệ đất
đai... nhằm kết hợp hài hoà các lợi ích, khuyến khích thâm canh, sử dụng đất đai tiết kiệm,
phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá bền vững.
IV. Vận dụng 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nhằm phát triển doanh
nghiệp và nền kinh tế trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
1. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam:
Kinh Tế Thị Trường là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao, trong đó các yếu tố
đầu vào, đầu ra của sản xuất đều được thực hiện thông qua thị trường; tuân theo nguyên tắc
và quy luật thị trường.
Do khác nhau về điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội, nên mỗi quốc gia có những mô
hình kinh tế thị trường khác nhau như:
Hình ảnh các nền kinh tế của một số quốc gia trên thế giới
Mô hình kinh tế thị trường tự do mới ở Mỹ ( Hoa Kỳ).
Kinh tế thị trường xã hội ở Cộng Hòa Liên Ban Đức.
Kinh tế thị trường ở Nhật.
Kinh tế thị trường ở Trung Quốc.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Mục tiêu: là mô hình kinh tế thị trường đặc thù của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Vừa chứa đựng những đặc điểm của kinh tế thị trường
nói chung, vừa chứa đựng những đặc điểm của định hướng xã hội dân giàu, nước mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh của Kinh Tế Thị Trường ở Việt Nam.
Tính hiện đại và hội nhập quốc tế, kế thừa có chọn lọc những thành tựu phát triển
Kinh Tế Thị Trường của nhân loại, có hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách phù hợp với
thông lệ, nguyên tắc, chuẩn mực phổ biến của quốc tế và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Vai trò của nhà nước: Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế; sử dụng các công cụ
chính sách và nguồn lực nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất
kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện phát triển xã hội.
Vai trò của thị trường: Huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, là động lực
chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế vận hành
theo các quy luật của thị trường, đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã
hội mà ở đó, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; có sự điều tiết của Nhà
nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
2. Vận dụng 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng dư để phát triển doanh nghiệp và
nền kinh tế
Trong bối cảnh cạnh tranh của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
các thành phần kinh tế nên vận dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư mà các nhà
tư bản đã sử dụng để phát triển sản xuất.
a. Vận dụng phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối
Phát triển doanh nghiệp:
Vào các giai đoạn sản xuất cao điểm, lượng hàng hóa có thể tăng cao. Doanh nghiệp
lúc này cần áp dụng cơ chế tăng giờ làm việc một cách hợp lý. Đưa ra các chính sách
khuyến khích làm thêm giờ nhưng phải đảm bảo quyền lợi và sức khỏe cho người lao động
(Tăng giờ làm thêm: Cần bảo đảm quyền lợi, sức khỏe người lao động, 2022).
Hình 4.2.1: Công nhân và doanh nghiệp đều có nhu cầu tăng ca trong giai đoạn hiện nay
Việc sắp xếp lại các ca làm, phân công nhiệm vụ một cách khoa học để tận dụng tối đa
sức lao động mà không cần tăng số lượng nhân viên là vô cùng cần thiết. Tuy phải tìm mọi
cách để kéo dài ngày lao động và tăng cường độ lao động nhưng cường độ lao động không
thể tăng vô hạn quá sức chịu đựng của con người.
Để tăng thu nhập thì doanh nghiệp cần phải đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ, tận
dụng nguồn lao động sẵn có để phát triển thêm các dòng sản phẩm hoặc dịch vụ mới.
Phát triển nền kinh tế:
Chính phủ có thể xây dựng các chính sách lao động linh hoạt cho phép doanh nghiệp
và người lao động thỏa thuận về thời gian làm việc một cách tự nguyện và hợp lý.
Đảm bảo các quyền lợi cơ bản cho người sử dụng lao động và người lao động như bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn và hưởng các chế độ phúc lợi khác để phần
nào giúp họ yên tâm làm việc và đóng góp sức lao động của bản thân.
Hình 4.2.2: Các phúc lợi cho nhân viên
Bên cạnh đó, cần tăng cường kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các quy định về lao
động và đảm bảo điều kiện làm việc an toàn, công bằng nhất cho người lao động.
Tác động tích cực đến nền kinh tế như tăng trưởng sản xuất sẽ dẫn đến tăng trưởng
GDP, tạo ra nhiều việc làm và nâng cao đời sống. Cải thiện năng suất lao động sẽ giúp nền
kinh tế dễ dàng tiếp cận cạnh tranh hơn với thị trường quốc tế (Quân, 2024).
b. Vận dụng phương pháp giá trị thặng dư tương đối
Phát triển doanh nghiệp:
Thời đại 4.0 thì doanh nghiệp cần mạnh mẽ đầu tư cho các ứng dụng công nghệ tiên
tiến như tự động hóa, trí tuệ nhân tạo (AI) và phân tích dữ liệu để tăng hiệu quả sản xuất.
Chẳng hạn một nhà máy có thể áp dụng hệ thống sản xuất tự động để giảm thiểu thời gian
sản xuất và tăng sản lượng.
Hình 4.2.3: Các công nghệ tiên tiến được áp dụng vào quá trình sản xuất.
Để một doanh nghiệp phát triển thì nhân sự có vai trò chủ chốt trong việc duy trì các
hoạt động. Vì thế, cần đào tạo cũng như hướng dẫn cải thiện kỹ năng và kiến thức cho họ
thông qua các chương trình đào tạo chuyên sâu.
Nhờ vậy, năng suất lao động sẽ tăng lên và doanh nghiệp có thể tạo ra nhiều sản phẩm
hơn trong cùng một khoảng thời gian.
Hình 4.2.4: Các buổi đào tạo chuyên sâu cho nhân viên.
Các phương pháp quản lý hiện đại như Lean Manufacturing (Vi, 2025), Six Sigma
(Hbr, 2024) sẽ tối ưu hóa quy trình làm việc và giảm thiểu lãng phí.
Hình 4.2.5: Minh họa phương pháp quản lý Lean Manufacturing
Hình 4.2.6: Minh họa phương pháp quản lý Six Sigma
Phát triển nền kinh tế:
Chính phủ có thể hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư vào R&D ( Nghiên cứu và phát
triển) thông qua các chính sách khuyến khích và ưu đãi thuế. Điều này giúp thúc đẩy sáng
tạo và ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất (Nhi, 2025).
Song song đó phải thúc đẩy hợp tác với các quốc gia và doanh nghiệp quốc tế để tiếp
cận công nghệ, kiến thức mới. Sự phát triển của công nghệ và đổi mới sáng tạo sẽ thúc đẩy
nền kinh tế phát triển bền vững và đặc biệt nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Hình 4.2.7: Thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế toàn diện của Việt Nam trong bối cảnh mới
Đẩy mạnh đầu tư vào giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn lực để tạo
ra lực lượng lao động có trình độ cao sẵn sàng đáp ứng nhu cầu thị trường.
Với việc giảm chi phí sản xuất từ đó năng lợi nhuận sẽ tạo ra nhiều cơ hội việc làm và
tăng thu nhập cho người lao động (Huong, 2023).
Nếu đặc biệt chú trọng vận dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối để
nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và phát triển kết hợp với phân
phối theo lao động và hiệu quả kinh tế nhằm cải thiện nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho người lao động. KẾT LUẬN
Việc nghiên cứu các phương thức sản xuất gái trị thặng dư giúp ta hiểu thêm: sản xuất
giá trị thặng dư chỉ là một quá trình tạo ra giá trị vượt quá thời điểm mà ở đó nhà tư bản cho
giá trị sức lao động bằng một vật ngang giá mới. Cũng cho thấy giá trị thặng dư là một bộ
phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm giữ.
Từ một đất nước có nền kinh tế lạc hậu, công cụ sản xuất thô sơ, kém phát triển, Việt
Nam đã và đang dần dần thay đổi diện mạo của mình theo chiều hướng mới, đó chính là xây
dựng nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng đã
nói đến sản xuất hàng hóa thì ở đâu cũng đều sở hữu những đặc tính phổ biến, phải kể đến
giá trị và giá trị thặng dư. Sự khác nhau của chúng chỉ là trong những mối quan hệ kinh tế
khác nhau thì giá trị và giá trị thặng dư mang bản chất xã hội khác nhau. Vì vậy, việc nghiên
cứu và sử dụng phương pháp dựa trên nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa vẫn có ý nghĩa
thực tiễn đối với nền kinh tế mang định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc nghiên cứu và vận dụng phương pháp dựa trên nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ
nghĩa có ý nghĩa thực tiễn đối với nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở khía cạnh
phát triển doanh nghiệp nếu vận dụng linh hoạt cả hai phương pháp trên sẽ giúp doanh
nghiệp gia tăng hiệu quả sản xuất, giảm chi phí và nâng cao lợi nhuận. Từ đó thúc đẩy nền
kinh tế sự phát triển của doanh nghiệp sẽ tạo công ăn việc làm, đóng góp vào ngân sách nhà
nước và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia. Đồng thời nhà nước cũng cần đóng vai trò
hỗ trợ, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thông qua chính sách thuế, đầu tư và
bảo hộ hợp lý, thực hiện trách nhiệm xã hội, đảm bảo quyền lợi cho người lao động.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu cũng chỉ ra việc doanh nghiệp cũng cần phải biết cân nhắc
khi áp dụng công nghệ mới vì không phải công nghệ nào áp dụng cũng có thể tạo ra giá trị thặng dư siêu ngạch.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Mai Huong Nguyen; 2022; Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin Chương 3;
(https://www.studocu.com/vn/document/dai-hoc-kinh-te-quoc-dan/kinh-te-chinh-tri-mac-le-
nin/kinh-te-chinh-tri-mac-le-nin-chuong-3/26327591?origin=home-recent-1)
Phạm Văn Linh, (2021), Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Hà Nội, Nhà xuất
bản chính trị quốc gia sự thật.
GS, TS. NGUYỄN TRỌNG CHUẨN. (2020). Nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và vấn đề con người - tiếp cận từ mục tiêu và động lực của sự phát triển. Retrieved from
https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/
nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-va-van-de-con-nguoi-tiep-can-tu-muc-
tieu-va-dong-luc-cua-su-phat-trien
PGS.TS. Vũ Văn Hà. (2019). Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa - sự sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Retrieved from
https://mof.gov.vn/webcenter/portal/btcvn/pages_r/l/tin-bo-tai-chinh? dDocName=MOFUCM147495
Xuân Khôi. (2024). Phản bác luận điệu cho rằng: “Kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam và Kinh tế thị trường chủ nghĩa tư bản là một”. Retrieved from
https://congan.sonla.gov.vn/phan-bac-luan-dieu-cho-rang-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-
hoi-chu-nghia-o-viet-nam-va-kinh-te-thi-truong-chu-nghia-tu-ban-la-mot/
Nguyễn Phú Trọng. (2007). Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Quan niệm và giải pháp phát triển . Retrieved from
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/2081/kinh-te-thi-truong-dinh-
huong-xa-hoi-chu-nghia---quan-niem-va-giai-phap-phat-trien.aspx#
Hbr, T. d. (2024). LEAN SIX SIGMA - CÁCH TỐI ƯU HÓA MỌI QUY TRÌNH CỦA DOANH NGHIỆP.
Huong, T. (2023). Giảm chi phí sản xuất - giải pháp cho việc tăng trưởng doanh thu . Kiến thức quản trị
Nhi, P. (2025). Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện đột phá phát triển
khoa học, công nghệ, chuyển đổi số. Bộ thông tin và truyền thông.
Quân, T. (2024). Chính phủ cam kết đồng hành, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của doanh nghiệp. Bộ kế hoạch và đầu tư.
Tăng giờ làm thêm: Cần bảo đảm quyền lợi, sức khỏe người lao động. (2022). Báo lao động.
Vi, L. T. (2025). Sản suất tinh gọn (Lean Manufacturing) là gì? Cách áp dụng.
KIẾN THỨC KINH TẾ. (2019). Retrieved from https://vietnambiz.vn/gia-tri-thang-
du-sieu-ngach-extra-surplus-value-la-gi-20191024161643447.htm
Ôn thi nhàn, Kết quả cao. (2024). Retrieved from https://onthisinhvien.com/phan-tich-
2-phuong-phap-san-xuat-gia-tri-thang-du-trong-chu-nghia-tu-ban-tai-sao-noi-phuong-phap-
san-xuat-tuong-doi-la-dac-trung-co-ban-cua-nen-san-xuat-tu-ban-chu-nghia-va-gia-tri-
thang-du-sieu-ngach-la-hinh-thuc-bien-tuong-cua-