Lý thuyết mối quan hệ pháp luật đất đai | Trường Đại học Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Quan hệ pháp luật ở Việt Nam mới chỉ được nghiên cứu ở mức độnhất định của khoa học lý luận chung và khoa học pháp lý chuyên ngành.Khái niệm quan hệ pháp luật chưa được chính thức thừa nhận là mộtkháiniệmnềntảngcủahệthốngcác kháiniệmcủakhoahọcpháp lý. Tài liệu giúp bạn tham khảo và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Pháp luật đất đai - môi trường
Trường: Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45988283 Luật Đất Đai
Chủ đề: Mối quan hệ pháp luật đất đai
1. Khái niệm: Quan hệ pháp luật đất đai là gì ?
a. Quan hệ pháp luật:
Quan hệ pháp luật là một trong những khái niệm cơ bản thuộc phạm vi
nghiên cứu của khoa học lý luận chung về nhà nước và pháp luật và
được cụ thể hoá trong các môn khoa học pháp lý chuyên ngành.
Quan hệ pháp luật ở Việt Nam mới chỉ được nghiên cứu ở mức độ
nhất định của khoa học lý luận chung và khoa học pháp lý chuyên ngành.
Khái niệm quan hệ pháp luật chưa được chính thức thừa nhận là một
khái niệm nền tảng của hệ thống các khái niệm của khoa học pháp lý.
Do chưa có sự thống nhất trong nhận thức nên cách tiếp cận đối với
quan hệ pháp luật đã hình thành nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm quan hệ pháp luật:
Quan điểm thứ nhất: là hình thức pháp lý của các quan hệ xã hội.
Hình thức pháp lý này xuất hiện trên cơ sở sự điều chỉnh của pháp luật
đối với các quan hệ xã hội tương ứng và các bên tham gia quan hệ pháp
luật đó đều mang những quyền và nghĩa vụ pháp lý được quy phạm pháp luật quy định.
Quan điểm thứ hai: là những quan hệ xã hội được quy phạm pháp luật điều chỉnh.
Quan điểm thứ ba: là những quan hệ xã hội đặc biệt nảy sinh do sự
tác động hữu cơ giữa quy phạm pháp luật và sự kiện pháp lý.
Quan điểm thứ tư: là quan hệ có tinh chất tác động qua lại về mặt xã
hội trên cơ sở những sự kiện pháp lý nhất định để qua đó chủ thể đạt
được những mục đích của mình do pháp luật quy định.
Có nhiều quan điểm trên về cùng một vấn đề nhưng điểm cốt lõi mà
tất cả đều hướng đến khẳng định là:
Thứ nhất: quan hệ pháp luật là một dạng quan hệ xã hội
Thứ hai: các bên tham gia quan hệ pháp luật đều có quyền và nghĩa vụ pháp lý
Thứ ba: việc thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể trong
quan hệ pháp luật được đảm bảo bằng các biện pháp Nhà nước
Thứ tư: trong điều kiện văn bản quy phạm pháp luật là nguồn pháp
luật cơ bản tạo nên cơ sở pháp lý của quan hệ pháp luật thì sự xuất hiện, lOMoAR cPSD| 45988283
thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật chủ yếu dựa trên quy phạm pháp luật.
➔ Quan hệ pháp luật là một dạng quan hệ xã hội được hình thành, tồn tại
và phát triển trên cơ sở của pháp luật và được đảm bảo bằng các biện
pháp của Nhà nước, đặc trưng bởi sự hiện diện và tương tác của
quyền, nghĩa vụ pháp lý của chủ thể.
b. Quan hệ pháp luật đất đai:
Quan hệ đất đai là quan hệ giữa người với người với nhau trong việc sở
hữu, quản lý và sử dụng đất đai. Các quan hệ này rất đa dạng và phức tạp, nó
xuất hiện trên cơ sở chế độ sở hữu đất đai của mỗi chế độ kinh tế, xã hội.
Quan hệ pháp luật đất đai bao gồm những quan hệ xã hội hình thành
trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai được quy phạm pháp luật
đất đai điều chỉnh, được đảm bảo bằng các biện pháp của Nhà nước.
Đối với người sử dụng đất tham gia quan hệ pháp luật đất đai sẽ có các
quyền và nghĩa vụ pháp lý. Có ba quan hệ cơ bản được thiết lập trong
quan hệ pháp luật đất đai đối với người sử dụng đất:
+ Một, Những quan hệ phát sinh quyền và nghĩa vụ chung nhất của
mọi chủ thể sử dụng đất, đối tượng sử dụng đất mà không phân biệt
hình thức sử dụng đất do Nhà nước xác lập.
+ Hai, Các quan hệ mà cho phép quyền lựa chọn hình thức sử dụng
đất. Trong quan hệ này, nó gắn liền với những nghĩa vụ phù hợp với hình
thức sử dụng đất mà các chủ thể sử dụng đất lựa chọn.
+ Ba, Những quan hệ phát sinh quyền và nghĩa vụ cụ thể của người
sử dụng đất khi thực hiện giao dịch dân sự, thương mại về đất đai.
Quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên được đảm bảo thực hiện bằng
biện pháp cưỡng chế Nhà nước.
2. Các yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật đất đai:
Một quan hệ pháp luật đất đai được cấu thành bởi các yếu tố: chủ thể, nội
dung và khách thể của quan hệ pháp luật đất đai.
a. Chủ thể quan hệ pháp luật đất đai
Chủ thể của quan hệ pháp luật đất đai là các chủ thể dựa trên cơ sở các
quy phạm pháp luật mà tham gia vào một quan hệ pháp luật đất đai để
hưởng quyền và làm nghĩa vụ trong quan hệ đó.
Nhà nước và người sử dụng đất là hai chủ thể quan trọng trong quan
hệ pháp luật đất đai. lOMoAR cPSD| 45988283
Đất đai được Nhà nước quản lý bằng quy hoạch và pháp luật. Nhà
nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu đã thống nhất và quản lý toàn
bộ lãnh thổ quốc gia. Nhà nước tham gia vào các quan hệ pháp luật
thông qua hệ thống cơ quan nhà nước ở trưng ương và địa phương.
Nhà nước là chủ thể thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu cũng đồng
thời là chủ thể quản lý đất đai.
Trong quá trình sử dụng đất, địa vị pháp lý của người sử dụng đất tham
gia quan hệ pháp luật đất đai có thể khác nhau, có quyền và nghĩa vụ
khác nhau. Người sử dụng đất hợp pháp và người sử dụng đất hợp lệ
trong quan hệ pháp luật đất đai có địa vị pháp lý khác nhau.
Ba dạng chủ thể người sử dụng đất cơ bản:
Chủ thể thứ nhất là người sử dụng đất được Nhà nước công nhận
quyền sử dụng đất:
Thực tế đối tượng này không đủ giấy tờ để làm thủ tục cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng việc họ sử dụng đất đã được nhân
dân, UBND xã, phường, thị trấn xác nhận về thời điểm sử dụng đất, phù
hợp với quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất, đất không có khiếu nại và
làm thủ tục để được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất. Việc công
nhận này chính là sự thể hiện vai trò đại diện chủ sở hữu toàn dân có
trách nhiệm bảo hộ, xem xét hướng dẫn cho người dân đến công nhận quyền sử dụng đất.
Chủ thể thứ hai là người sử dụng đất có giấy tờ hợp lệ về quyền sử dụng đất:
Tính hợp lệ của các giấy tờ đó thể hiện tư cách chủ thể của người
sử dụng đất. Giấy tờ hợp lệ là các loại giấy tờ do Nhà nước cấp cho
người sử dụng thể hiện thông qua các quyết định hành chính về giao
đất, cho thuê đất của cơ quan quản lí đất đai,bản án của Toà án nhân
dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án đã có hiệu lực pháp
luật hoặc thông qua nguồn gốc hợp pháp của quyền sử dụng đất được
chính quyền cơ sở xác nhận như giấy giao nhà tinh nghĩa, bản án hoặc
quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật…. Các trường hợp này được
quy định tại Điều 100 Luật Đất đai năm 2013. Người sử dụng đất có giấy
tờ hợp lệ cần phải làm thêm các thủ tục hành chính, nộp tiền sử dụng
đất có thời hạn thì mới được trở thành người sử dụng đất hợp pháp.
Chủ thể thứ ba là người sử dụng đất có giấy tờ hợp pháp về quyền sử dụng đất: lOMoAR cPSD| 45988283
Người sử dụng đất hợp pháp là người có Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Người
sử dụng đất hợp pháp được thực hiện đầy đủ các quyền năng trao cho
họ, được Nhà nước bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp. Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất được cấp theo Luật Đất đai và theo các mẫu
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cơ quan quản lí đất đai trung
ương ở mỗi giai đoạn lịch sử pháp hành. Các loại giấy tờ này có giá trị
pháp lí như nhau, không có sự phân biệt về mặt quyền lợi.
Năng lực pháp luật của chủ thể quan hệ pháp luật đất đai là tổng
thể quyền và nghĩa vụ mà Nhà nước quy định cho chủ thể đó. Năng lực
pháp luật đất đai của người sử dụng đất chính là tổng thể các quy định
về quyền và nghĩa vụ mà Nhà nước công nhân, trao quyền cho người sử dụng đất.
Năng lực hành vi của chủ thể quan hệ pháp luật đất đai: các chủ
thể là người sử dụng đất bằng hành vi của mình xác lập quyền và nghĩa
vụ trong thời hạn được Nhà nước giao đất, cho thuê đất.
b. Khách thể quan hệ pháp luật đất đai
Khách thể của quan hệ pháp là luật là một trong ba yếu tố cấu
thành quan hệ pháp luật và yếu tố khiến cho các bên chủ thể thiết lập
quan hệ pháp luật với nhau, yếu tố này có thể mang lại những lợi ích
nhất định về vật chất hoặc tinh thần.
Khách thể của quan hệ pháp luật có thể bao gồm một hoặc nhiều
yếu tố có nghĩa là quan hệ pháp luật có thể có một hoặc nhiều khách thể.
VD: Trong quan hệ pháp luật mua bán tài sản, khách thể là quyền sở
hữu tài sản; trong quan hệ pháp luật giữa Toà án với bị cáo, khách thể có
thể bao gồm trật tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích của người bị hại, lợi ích của Nhà nước,…
Khách thể của quan hệ pháp luật rất đa dạng tuỳ thuộc vào từng
loại quan hệ pháp luật khác nhau.
VD: Khách thể của quan hệ thừa kế, mua bán, tặng, cho tài sản là
quyền sở hữu tài sản; khách thể của quan hệ thuê, mượn tài sản là
quyền sử dụng tài sản;…
Khách thể của quan hệ pháp luật phản ánh vấn đề lợi ích trong xã
hội, đó có thể là lợi ích của chính các bên trong quan hệ pháp luật, cũng
có thể là lợi ích của bên thứ ba (nhà nước, cộng đồng, cá nhân, tổ chức). lOMoAR cPSD| 45988283
VD: Trong quan hệ thuê tài sản, quyền sử dụng tài sản là lợi ích của
các bên chủ thể, còn trong quan hệ pháp luật giữa vợ chồng, khách thể
không chỉ bao gồm lợi ích của vợ chồng mà còn có thể bao gồm lợi ích của các con…
Khách thể của quan hệ pháp luật đất đai là những gì mà các bên
mong muốn đạt được khi tham gia vào quan hệ đất đai. Khách thể của
quan hệ pháp luật đất đai là lợi ích vật chất hoặc tinh thần mà các chủ
thể tham gia quan hệ pháp luật đất đai hướng tới. Khách thể của quan
hệ pháp luật đất đai có thể là tài sản vật chất, là hành vi xử sự của con
người hay các lợi ích phi vật chất khác mà các chủ thể pháp luật mong
muốn đạt được khi tham gia quan hệ pháp luật đất đai. Khách thể của
quan hệ pháp luật đất đai có thể là lợi ích chính trị, lợi ích vất chất, lợi
ích tinh thần, cũng có thể là sản phẩm của sáng tạo tinh thần, lợi ích phi
vật chất như cuộc sống, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm và các hành vi
của các chủ thể quan hệ pháp luật đất đai. Khách thể của quan hệ pháp
luật đất đai chính là cái mà vì nó các bên có thể thiết lập quan hệ pháp luật
c. Nội dung của quan hệ pháp luật đất đai
Nội dung của quan hệ pháp luật đất đai là tổng thể quyền hạn và
nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai. Các quyền
hạn, nghĩa vụ này được pháp luật quy định và bảo vệ.
Luật Đất đai năm 2013 có quy định về quyền và nghĩa vụ pháp lý của
người sử dụng đất. Tuỳ theo từng loại chủ thể, các quyền và nghĩa vụ
pháp lý của người sử dụng đất có khác nhau. Căn cứ về địa vị pháp lý của
chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đất đai mà Nhà nước có quy định
nội dung quan hệ pháp luật đất đai. Căn cứ vào các quyền của người sử
dụng đất mà Nhà nước công nhận hoặc trao cho thì Nhà nước đã quy
định quyền định đoạt trong các văn bản pháp luật có liên quan đến lĩnh
vực đất đai. Kết cấu về quyền và nghĩa vụ chia thành bốn phần:
Một, những quyền và nghĩa vụ chung của người sử dụng đất khi
thực hiện các giao dịch dân sự
Hai, các quyền và nghĩa vụ cụ thể của người sử dụng đất khi thực
hiện các giao dịch dân sự
Ba, người sử dụng đất có quyền lựa chọn các hình thức tả tiền sử
dụng đất như trả tiền một lần cho cả thời gian thuê hoặc trả tiền thuê đất hàng năm… lOMoAR cPSD| 45988283
Bốn, quyền và nghĩa vụ của chủ thể trong nước hoặc chủ thể có
yếu tố nước ngoài có sự khác nhau hoặc chủ thể giao đất có thu tiền
hoặc không thu tiền cũng khác nhau.