



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 60820047
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ GIÁO DỤC THỂ CHẤT
I/ MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN:
1/ Giáo dục thể chất:
Là quá trình sư phạm nhằm giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ, hoàn thiện về thể chất và
nhân cách, và nâng cao khả năng làm việc và kéo dài tuổi thọ của con người. Trong
quá trình giáo dục thể chất, hình thái và chức năng các cơ quan trong cơ thể từng bước
được hoàn thiện, hình thành và phát triển các tố chất thể lực, kỹ năng kỹ xảo vận động
và hệ thống tri thức chuyên môn. Giáo dục thể chất có vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc hình thành năng lực vận động của con người.
Giáo dục thể chất là một phạm trù biện chứng, nó tồn tại từ khi xuất hiện xã hội loài
người và tồn tại tự nhiên như một nhu cầu hết sức cấp bách trong những điều kiện của
nền kinh tế xã hội và đời sống con người.
Giáo dục thể chất là một bộ phận hợp thành quan trọng của nội dung giáo dục toàn
diện nhằm giúp thế hệ trẻ có những kiến thức cơ bản về thể chất con người, giúp hình
thành các kỹ năng vận động và thói quen rèn luyện và củng cố sức khoẻ để làm cho cơ
thể phát triển cân đối, khoẻ mạnh. GDTC là một loại hình giáo dục chuyên biệt với đặc
trưng cơ bản chủ yếu là dạy học động tác và phát triển các tố chất thể lực của con
người, tiếp thu có hệ thống những cách thức điều khiển hợp lý động tác, qua đó hình
thành những kĩ năng, kĩ xảo vận động cơ bản và những hiểu biết có liên quan. Giáo
dục các tố chất thể lực là một quá trình tác động có chủ đích nhằm nâng cao năng lực
vận động của con người.
Giáo dục thể chất là một trong những hình thức hoạt động cơ bản có định hướng sư
phạm của TDTT trong xã hội, một quá trình tổ chức truyền thụ và tiếp thu những giá
trị của TDTT trong hệ thống giáo dục chung.
2/ Văn hóa thể chất:
Là một bộ phận của nền văn hóa chung, là tổng hòa các giá trị vật chất và tinh thần của
xã hội được sáng tạo nên và sử dụng hợp lí nhằm hoàn thiện thể chất của con người,
góp phần làm phong phú sinh hoạt văn hóa tin thần của con người.
3/ Thể thao: Là dạng hoạt động của văn hóa thể chất mang tính đặc biệt; là hoạt động
văn hóa xã hội; là phương tiện và phương pháp hiệu quả củng cố sức khỏe và hoàn
thiện thể chất, chuẩn bị cho con người trong lao động và hoạt động xã hội, phát triển
phầm chất, ý chí, đạo đức và giáo dục thẩm mĩ, mở rộng quan hệ quốc tế, củng cố hòa
bình và hữu nghị giữa các dân tộc, các quốc gia.
Theo Michael Mandel (PublicAffairs, 2004) và Tạp chí Journal of the Philosophy of
Sport, thể thao là tất cả các loại hình hoạt động thể chất và trò chơi có tính cạnh tranh,
với mục đích sử dụng, duy trì và cải thiện các kĩ năng và năng lực thể chất, đem lại
niềm vui, hứng khởi cho những người tham gia và sự giải trí cho người xem.
Còn SportAccord cho rằng một môn thể thao cần phải hội tụ đủ: - Mang tính cạnh tranh; lOMoAR cPSD| 60820047
- Không gây hại tới bất kì sinh vật nào; - Không độc quyền;
- Không phụ thuộc vào yếu tố "may mắn".
Thuật ngữ “thể thao” dần còn được áp dụng cho các hình thức phi thể chất khác như
video game, hay còn gọi là e-sports, nhờ sự tham gia cùng số lượng giải đấu đông đảo,
tuy nhiên vẫn không được nhiều tổ chức thể thao chính thống công nhận.
Thể thao còn được hiểu theo 2 nghĩa, bao gồm nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Khái niệm thể
thao theo nghĩa hẹp là một hoạt động thi đấu. Mà thông qua hoạt động thi đấu đấy con
người phô diễn, so sánh khả năng về thể chất và tinh thần.
Còn theo nghĩa rộng, thể thao là một chuỗi các hoạt động, bao gồm chuẩn bị luyện tập
cho thi đấu, là hoạt động thi đấu, là mối quan hệ giữa người với người trong thi đấu,
cũng như việc xây dựng hình ảnh trong xã hội.
4/ Thể thao thành tích cao:
Là việc sắp xếp một cách có hệ thống các bài tập, chu kỳ huấn luyện, phương tiện
hướng dẫn và các cuộc thi đấu với mục tiêu nhằm giải quyết nhiệm vụ nâng cao tối đa thành tích thể thao
Thể thao thành tích cao là hoạt động tập luyện và thi đấu của vận động viên; trong đó,
thành tích cao, kỷ lục thể thao được coi là giá trị văn hóa, là sức mạnh và năng lực của
con người; nhà nước phát triển thể thao thành tích cao nhằm phát huy tối đa khả năng
về thể lực, ý chí và trình độ kỹ thuật của vận động viên để đạt được thành tích cao trong thi đấu thể thao.
Thể thao thành tích cao có vị trí quan trọng trong việc phát triển TDTT nói chung, nâng
cao sức khỏe và năng lực con người, có tác dụng to lớn trong việc tăng cường tình đoàn
kết hữu nghị giữa các quốc gia, dân tộc và góp phần nâng cao uy tín của địa phương, đất nước.
Thể thao thành tích cao có mối quan hệ biện chứng với TDTT nói chung và với phong
trào thể thao quần chúng nói riêng. Ngày nay, ở các quốc gia phát triển, thể thao thành
tích cao đã trở thành một ngành kinh tế - công nghiệp thể hiện ở một số lĩnh vực như
Bóng đá, Bóng rổ, Quần vợt, Đua xe mô tô, ôtô … và đã trở thành nghề nghiệp của một bộ phận xã hội.
5/ Thể thao quần chúng:
Là các bài tập về một số môn thể thao theo hướng tích cực về mở rộng phạm vi số
lượng người tập, gồm những bài tập thể chất dưới các hình thức đa dạng như: Thể dục
thể hình, điền kinh nhẹ, bơi lội, du lịch, các bài tập theo tiêu chuẩn rèn luyện thân thể...
Với mục đích nghỉ ngơi tích cực, loại trừ căng thẳng thần kinh, củng cố sức khỏe, nâng
cao khả năng làm việc và đạt được sự hoàn thiện về thể chất, trên cơ sở tiêu chuẩn rèn
luyện thân thể và đẳng cấp vận động viên 6/ Phong trào thể thao:
Là một hình thức hoạt động đặc biệt của các hoạt động xã hội, có nhiệm vụ phối hợp
nâng cao trình độ văn hóa thể chất và phát triển thể thao trong nhân dân. Phong trào
thể thao là hoạt động có tính mục đích của các tổ chức nhà nước, xã hội, nhằm phát lOMoAR cPSD| 60820047
triển thể dục thể thao. Nó có vị trí và chức năng quan trọng trong giáo dục hài hòa về
nhân cách và thể chất con người.
II/ HỆ THỐNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TDTT:
1/ Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch:
Là cơ quan ngang bộ trực thuộc chính phủ đảm nhận chức năng quản lý nhà nước
vể TDTT. Cấp trung ương còn hình thức quản lý nhà nước về TDTT ở ngành đào tạo,
quốc phòng, công an. Các cơ quan này chịu sự lãnh đạo chực tiếp của chính phủ và bộ
chủ quản về TDTT. Các cơ quan trên cần phối hợp với UBTDTT và chịu sự kiểm tra,
giám sát của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
2/ Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh - thành
Là cơ quan quản lý nhà nước về TDTT chịu sự lãnh đạo trực tiếp của UBND
tỉnh, thành. Đồng thời chịu sự lãnh đạo kiểm tra, giám sát về chuyên môn và một số
lĩnh vực (tài chính, kế hoạch, quốc tế) của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Cơ quan Giáo dục - Đào tạo, công an, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh đều xác lập
cơ quan quản lý về TDTT. Ngoài chức năng chăm lo công tác giáo dục thể chất còn
cần phải phối hợp chặt chẽ với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch để xúc tiến hoạt động
khác của TDTT trong toàn tỉnh, thành.
3/ Phòng Văn hóa, thể thao quận, thị, huyện:
Là cơ quan quản lý nhà nước về TDTT chịu sự lãnh đạo của UBND quận,
thị, huyện đồng thời chịu sự chỉ đạo, lãnh đạo về chuyên môn của Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch do UBND bổ nhiệm. -
Có đầy đủ chức năng quản lý nhà nước về TDTT trong phạm vi quận, thị,huyện. -
Ở các phòng Giáo dục – Đào tạo, bộ chỉ huy quân sự, công an huyện có
cánbộ phụ trách công tác TDTT.
4/ Ban văn hóa – thể thao xã, phường, thị trấn:
Là cơ quan quản lý nhà nước về TDTT chịu sự lãnh đạo trực tiếp của UBND
xã, phường, thị trấn và chịu sự chỉ đạo, lãnh đạo về chuyên môn của phòng văn hóa,
thể thao quận, thị do UBND bổ nhiệm. Để làm tốt công tác TDTT cần phối
hợp chặt chẽ các giáo viên TDTT cơ quan, xí nghiệp… III/
HỆ THỐNG QUẢN LÝ XÃ HỘI VỀ TDTT:
Hệ thống này gồm các tổ chức, cơ quan TDTT được thành lập theo tính tự nguyện,
tự quản và theo luật của tổ chức đó. Hệ thống này cũng xây dựng theo 4 cấp tương
xứng với hệ thống quản lý nhà nước về TDTT và tuân theo nguyên tắc tập trung dân
chủ và nguyên tắc quản lý kết hợp lãnh thổ – ngành.
1/ Ban chấp hành các liên đoàn thể thao trung ương:
- Do liên đoàn bầu ra, theo luật tổ chức của liên đoàn.
- Liên đoàn hoạt động theo pháp luật của Việt Nam, chịu sự kiểm tra, giám
sát một số mặt của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
- Chức năng liên đoàn là quản lý xã hội về TDTT. lOMoAR cPSD| 60820047
- Chịu trách nhiệm về sự phát triển toàn diện môn thể thao đó trong phạm vi cả nước.
2/ Ban chấp hành liên đoàn thể thao cấp tỉnh, thành do bầu ra:
- Hoạt động theo luật của Việt Nam, chịu sự kiểm tra giám sát của UBND
tỉnh, thành và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
- Chịu sự lãnh đạo và chỉ đạo về chuyên môn của BCH liên đoàn cấp trung ương.
- Có đầy đủ chức năng quản lý xã hội về TDTT. Chịu trách nhiệm sự phát
triển môn thể thao đó trong tỉnh, thành.
3/ Ban chấp hành liên đoàn thể thao quận, huyện do bầu ra:
- Hoạt động theo luật của Việt Nam.
- Chịu sự lãnh đạo của UBND quận, huyện và chịu sự chỉ đạo về chuyên
môn của BCH liên đoàn thể thao tỉnh.
- Có đầy đủ chức năng quản lý xã hội về TDTT. Chịu trách nhiệm sự phát
triển môn thể thao đó trong quận, huyện.
4/ Ban chấp hành đơn vị TDTT cơ sở (Ban lãnh đạo CLB TDTT):
Được thành lập do nhu cầu của nhân dân, và phát triển thành tích môn này ở
địa phương (Xí nghiệp, trường học, cơ quan, HTX…).
- Chủ nhiệm CLB do bầu ra hoặc do bổ nhiệm (nếu là đơn vị tư nhân).
- Hoạt động theo luật của Việt Nam và theo luật tổ chức riêng của liên đoàn và đơn vị đó.
- Chịu sự kiểm tra, chỉ đạo của BCH liên đoàn thể thao cấp quận, huyện và
UBND phường, xã, lãnh đạo xí nghiệp, cơ quan v.v…
- Có trách nhiệm tổ chức tập luyện, lôi cuốn mọi người tham gia tập luyện
và phát triển VĐV năng khiếu.
GIÁO DỤC THỂ CHẤT TRONG CÁC
TRƯỜNG CAO ĐẲNG ĐẠI HỌC
I/ GIÁO DỤC THỂ CHẤT TRONG CÁC TRƯỜNG Cao đẳng- Đại học
1/ Mục đích và nhiệm vụ của giáo dục thể chất cho sinh viên
Là góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật cho đất nước có thể chất
cường tráng, có tri thức và tay nghề cao, có nhân cách của con người Việt Nam, đáp
ứng được nhu cầu của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
GDTC là một mặt giáo dục toàn diện cho sinh viên, tạo cho đất nước lớp người
phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, trong sáng về đạo đức, phong phú về
tinh thần, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2/ Nhiệm vụ của GDTC cho sinh viên lOMoAR cPSD| 60820047 -
Giáo dục đạo đức XHCN, rèn luyện tinh thần tập thể, ý thức tổ chức kỷ luật,xây
dựng niềm tin, lối sống tích cực lành mạnh. Giáo dục tinh thần tự giác học tập
và rèn luyện thân thể, chuẩn bị sẵn sàng phục vụ sản xuất và bảo vệ Tổ quốc. -
Cung cấp cho sinh viên những kiến thức lý luận cơ bản về nội dung vàphương
pháp tập luyện TDTT, kỹ năng vận động và kỹ thuật cơ bản một số môn thể thao
thích hợp. Trên cơ sở đó, bồi dưỡng khả năng sử dụng các phương tiện để rèn
luện thân thể, tham gia tích cực vào việc tuyên truyền và tổ chức các hoạt động TDTT ở cơ sở. -
Góp phần duy trì và củng cố sức khoẻ của sinh viên, phát triển cơ thể mộtcách
hài hoà, xây dựng thói quen lành mạnh và khắc phục những thói xấu, tệ nan
trong cuộc sống. Nhằm tận dụng thời gian và công việc có ích đạt kết quả cao
trong quá trình học tập, đạt được những chỉ tiêu thể lực quy định cho từng đối
tương trên cơ sở tiêu chuẩn rèn luyện thân thể theo lứa tuổi. -
Giáo dục óc thẩm mỹ, tạo điều kiện nâng cao trình độ thể thao, các tố chất thể lựccho sinh viên -
Bồi dưỡng cho sinh viên những kiến thức cơ bản về đặc điểm tâm lý sinh lý lứa
tuổihọc sinh trong hoạt động thể dục thể thao, kiến thức, vệ sinh trong tập luyện
thi đấu thể dục thể thao và các vấn đề có liên quan đối với công tác giáo dục thể
chất. - Bồi dưỡng và rèn luyện cho sinh viên những kỹ thuật và kỹ năng vận
động cơ bản của một số môn: thể dục, điền kinh, môn thể thao tự chọn. -
Góp phần bồi dưỡng nâng cao phẩm chất đạo đức, tính tổ chức kỹ luật, tinh thần
tậpthể, lòng tự tin, sẵn sàng khắc phục khó khăn hoàn thành tốt các nhiệm vụ
được giao trong học tập, lao động và bảo vệ Tổ quốc. 3/ Yêu Cầu: -
Có kiến thức cơ bản về giáo dục thể chất, vệ sinh trong tập luyện thể dục
thể thao, thấy rõ vai trò và vị trí quan trọng của giáo dục thể chất trong quá trình giáo
dục toàn diện thế hệ trẻ. -
Có kiến thức, kỹ năng hoạt động cơ bản của thể dục thể thao, và nhữngnội dung
giáo dục khác để có đủ sức đảm nhiệm công tác giáo dục, giảng dạy sau này. -
Có sức khỏe, phải đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể (theo qui định của nhà
nước), trừ trường hợp đặc biệt đã được y, bác sĩ chuyên khoa cho phép.
4/ Các hình thức GDTC cho sinh viên
GDTC trong các trường đại học được tiến hành bằng các hình thức sau: - Giờ GDTC -
Các bài tập TD về vệ sinh và chống mệt mỏi hàng ngày -
Các hình thức hoạt động thể dục thể thao quần chúng của sinh viên -
Giờ tự tập của sinh viên
4.1. Giờ GDTC (giờ học GDTC nội khoá và giờ học TDTT ngoại khoá) -
Giờ học GDTC nội khóa là hình thức cơ bản nhất của GDTC, được tiến hành
trong quá trình dạy học với thời gian 90 tiết đối với hệ Cao đẳng và 150 tiết đối với hệ Đại học lOMoAR cPSD| 60820047
Đối với hệ CĐ được phân ra trong 3 học kỳ đầu của khóa học, 60 tiết trong năm
học đầu tiên ( giai đoạn I ) với nội dung của 2 học phần, 30 tiết trong học kỳ 1 của
năm tiếp theo (giai đoạn II) ứng với nội dung của một học phần
Đối với hệ ĐH được phân ra trong 5 học kỳ đầu của khóa học, 60 tiết trong
năm học đầu tiên (giai đoạn I) với nội dung của 2 học phần, 60 tiết trong năm học
thứ 2 (giai đoạn II), 30 tiết trong học kỳ 1 của năm tiếp theo (giai đoạn III) ứng với
nội dung của 1 học phần -
Giờ học TDTT ngoại khóa nhằm củng cố và hoàn thiện các bài học nội khóa
được tiến hành vào giờ tự học của sinh viên với thời gian là 90 và 150 tiết tùy
theo hệ, phân ra trong các học kỳ đầu của khóa học, dưới sự hướng dẫn của giáo viên TDTT.
4.2. Các bài tập thể dục vệ sinh và chống mệt mỏi hàng ngày
Bài thể dục chống mệt mỏi do cá nhân hoặc lớp tổ chức và được tiến hành hàng
ngày (ở nhà, ký túc xá, giữa giờ học). Đây là hình thức hỗ trợ cho công tác GDTC đối với sinh viên
4.3. Các hình thức hoạt động TDTT quần chúng của SV
Ngoài giờ học, bao gồm việc luyện tập theo các CLB thể thao, các đội đại biểu
thể thao của lớp, khoa, trường. Thông thường đây là những hạt nhân để tham gia
hoạt động thi đấu thể thao trong trường và ngoài trường, họ cũng là những người
góp phần nâng cao chất lượng phong trào thể dục thể thao quần chúng cho sinh viên
Để đánh giá chất lượng công tác GDTC của SV thường sử dụng 2 chỉ tiêu cơ
bản là: điểm môn học GDTC trong trường và điểm kiểm tra tiêu chuẩn rèn luyện
thân thể theo quy định của Bộ
Để đánh giá phòng trào TDTT quần chúng trong nhà trường, thường có chỉ tiêu
về số câu lạc bộ thể thao, số VĐV thể thao là SV cũng như cơ sở vật chất của TDTT ở mỗi trường.
4.4. Giờ tự tập của SV
Là hoạt động không bắt buộc, được tiến hành theo sở thích, nhu cầu của SV. Các
cá nhân có thể tự tập hoặc tập theo nhóm, các hoạt động bao gồm: các môn thể thao,
du lịch, tham quan... đều được coi là tự tập của sinh viên.
5/ Trách nhiệm của sinh viên -
Tham gia đầy đủ các buổi học TDTT ( lý luận và thực hành ) theo thời khóa biểu
và kế hoạch dạy và học của nhà trường. -
Kiểm tra sức khỏe và thể lực định kỳ ( thực hiện các thử nghiệm cần thiết để xác
định trình độ thể lực và tình trạng sức khỏe các cơ quan chức năng của cơ thể). -
Tích cực học tập và tìm hiểu các tài liệu về TDTT, tạo điều kiện tiếp thu kiến
thức về lý luận và phương pháp GDTC. -
Có chế độ sinh hoạt , học tập và nghỉ ngơi hợp lý. -
Thường xuyên tập thể dục buổi sáng, TD giữa giờ và tự tập luyện để phát triển
thể lực theo sự hướng dẫn của giáo viên TDTT. lOMoAR cPSD| 60820047 -
Củng cố sức khỏe, nâng cao trình độ thể lực trên cơ sở tiêu chuẩn rèn luyện thân
thể theo lứa tuổi và hoàn thiện kỹ thuật các môn thể thao. -
Tích cực tham gia các hoạt động thể thao quần chúng từ lớp, khoa, trường và ngoài trường.
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA GDTC
I/ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA GDTC
Một số nguyên tắc cơ bản trong tập luyện TDTT:
1. Nguyên tắc hệ thống:
Tập luyện thường xuyên, có hệ thống sẽ có tác dụng củng cố chắc chắn các
động tác cũ, dễ dàng hơn trong tiếp thu, hoàn thiện và phát triển các bài tập mới. Khi
ngừng tập luyện, các mối liên hệ phản xạ có điều kiện vừa được thành lập bị dập tắt,
mức độ thích nghi, phát triển của các cơ quan và cơ bắp bị giảm xuống. Trong điều
kiện này, khi tham gia tập luyện trở lại, người tập sẽ cảm thấy khó khăn hơn, dễ xảy ra
chấn thương, hoặc mệt mỏi quá độ do phải gắng sức.
Tập luyện không thường xuyên sẽ không thể hình thành và củng cố chắc
chắn các động tác cũng như phát triển các tố chất thể lực.
Nguyên tắc tập luyện thường xuyên, có hệ thống là nguyên tắc quan trọng
trong GDTC, nhất là đối với tuổi học sinh. Đây cũng là nguyên tắc vệ sinh cơ bản trong tập luyện TDTT.
2. Nguyên tắc tập luyện tăng dần:
Nguyên tắc này chính là tăng dần liều lượng của các phương pháp tập
luyện, đó cũng là điều kiện bắt buộc để tập luyện có hiệu quả.
Quá trình tập luyện phải đi từ dễ đến khó, từ nhẹ đến nặng, từ đơn giản đến phức tạp.
Trong quá trình tập luyện, các tố chất thể lực được phát triển dần dần từ
buổi tập này sang buổi tập khác thông qua các bài tập được thực hiện từ dễ đến khó, từ
nhẹ đến năng, từ đơn giản đến phức tạp. Việc nâng dần lượng vận động là việc đặc biệt
quan trọng trong huấn luyện TDTT cho lứa tuổi thiếu nhi, vì chức năng của các cơ
quan trẻ phát triển chưa hoàn thiện và không đồng bộ. Chức năng hệ tim mạch và hệ
hô hấp phát triển chậm hơn hệ vận động, hệ thần kinh phát triển chưa hoàn thiện, vì
vậy cần có thời gian để các hệ thống cơ quan trong cơ thể thích ứng dần nên phải tập
luyện tuần tự từng bước.
Tuân thủ nguyên tắc tập luyện này nhằm mục đích để cơ thể dần thích ứng
được với khối lượng, cường độ vận động và các kĩ thuật động tác, do đó sẽ hạn chế
được những ảnh hưởng xấu, các chấn thương do tập luyện gây nên.
Vi phạm nguyên tắc tập luyện tăng dần là vi phạm nguyên tắc sư phạm
giáo dục thể chất, và cũng là vi phạm một trong các nguyên tắc vệ sinh cơ bản trong tập luyện TDTT.
3. Nguyên tắc tập luyện theo đặc điểm cá nhân (nguyên tắc đối đãi cá biệt): lOMoAR cPSD| 60820047
Đối đãi cá biệt không chỉ là nguyên tắc sư phạm mà còn là một trong
những nguyên tắc vệ sinh tập luyện quan trong. Việc lập chương trình tập luyện, kế
hoạch và nội dung tập luyện phải căn cứ vào đặc điểm cá nhận cụ thể của người tập.
Đó là những đặc điểm về lứa tuổi, giới tính, tình trạng sức khỏe và mức độ phát triển thể chất.
- Căn cứ vào tình trạng sức khỏe người tập:
Nếu phương pháp tập luyện, LVĐ không phù hợp với trạng thái sức khỏe
người tập thì người tập sẽ luôn ở tình trạng gắng sức, mệt mỏi, vì vậy phải thường
xuyên kiểm tra y học cho người tập trong quá trình tập luyện và thi đấu.
Kiểm tra y học trước tiên bao gồm việc kiểm tra bước đầu cho tất cả những
người lần đầu tham gia tập luyện TDTT. Trên cơ sở các kết quả kiểm tra toàn diện về
trạng thái sức khỏe, đặc điểm phát triển thể chất (đặc điểm thể hình và đặc điểm trạng
thái chức năng các cơ quan), các nhà chuyên môn sẽ quyết định cho phép tập luyện và
đề ra những định hướng ban đầu về nội dung và LVĐ tập luyện.
Kiểm tra y học thường xuyên là một điều kiện cần thiết, bắt buộc đối với
việc tập luyện thể thao. Việc kiểm tra này sẽ cung cấp cho người tập và HLV, giáo viên
TDTT những thông tin cần thiết và chính xác hiệu quả tập luyện.
+ Cần coi trong phương pháp kiểm tra y học sư phạm trong quá trình huấn
luyện để kịp thời điều chỉnh giáo án cho phù hợp.
+ Trong huấn luyện thể thao, kiểm tra y học bao gồm cả tự kiểm tra của VĐV.
Sự theo dõi thường xuyên của VĐV về tình trạng sức khỏe của bản thân sẽ bổ sung
những thông tin cần thiết cho các nhà chuyên môn có cơ sở để phân tích các phương
pháp huấn luyện, đánh giá những biến đổi và tình trạng sức khỏe, trạng thái chức năng của VĐV.
Phân tích, tổng hợp kết quả của các hình thức kiểm tra y học cho phép
chúng ta có thể điều khiển có hiệu quả quá trình tập luyện, và chỉ có như vậy mới đảm
bảo được ý nghĩa tăng cường sức khỏe của TDTT.
- Căn cứ vào đặc điểm giới tính:
Do đặc điểm cấu tạo giải phẫu và chức năng sinh lý của nam và nữ khác
nhau nên nội dung tập luyện áp dụng cho nam và nữ cũng phải phù hợp với đặc điểm giới tính.
- Căn cứ vào lứa tuổi:
Ơ mỗi một lứa tuổi, sự phát triển cơ thể có những đặc điểm riêng nên nội
dung tập luyện áp dụng cho từng lứa tuổi phải phù hợp với đặc điểm phát triển cơ thể của lứa tuổi đó.
II/ MỘT SỐ NGUYÊN TẮC VỆ SINH CHUNG TRONG TẬP LUYỆN VÀ THI ĐẤU THỂ THAO
1. Nguyên tắc vệ sinh của khởi động:
1.1. Ý nghĩa và tác dụng của khởi động:
Khởi động là quá trình chuẩn bị cho cơ thể bước vào tập luyện và thi đấu, lOMoAR cPSD| 60820047
làm cho cơ thể nhanh chóng thích nghi với vận động. Nội dung khởi động phải phù
hợp với nội dung trong phần trọng động.
Khởi động bao gồm khởi động chung và khởi động chuyên môn: lOMoAR cPSD| 60820047
- Khởi động chung: nhằm tăng cường các chức năng cơ thê như: tăng
cường khả năng hưng phấn của hệ thần kinh trung ương, của hệ vận động, tăng cường
trao đổi chất, điều hòa thân nhiệt (làm ấm cơ thể) và các chức năng thực vật như hô
hấp, tuần hoàn tạo điều kiện thuận lợi để chuyển cơ thể từ trạng thái tĩnh sang trạng thái động.
- Khởi động chuyên môn: tạo nên tình trạng hưng phấn
thích hợp nhất của các phần của hệ vận động tham gia vào các hoạt
động sắp tới. Các động tác trong khởi động chuyên môn cần phải
phù hợp với động tác sắp tập trong buổi tập về mặt phối hợp động
tác, kết cấu biên độ, nhịp độ, sức mạnh. Đó là phần diễn tập của hoạt động sắp tới.
Phần khởi động chung đối với các môn thể thao có thể tương tự như nhau,
nhưng phần khởi động chuyên môn phải phù hợp với các hoạt động sắp tới của từng môn thể thao.
1.2. Nguyên tắc vệ sinh của khởi động:
- Tất cả mọi người tham gia tập luyện đều phải tiến hành khởi động. Khởi
động đầy đủ kể cả khởi động chung lẫn khởi động chuyên môn.
Trình độ tập luyện càng cao cần phải chú ý khởi động cho tốt, tránh khởi
động qua loa. Khởi động hợp lí sẽ góp phần cho thi đấu tốt, đạt thành tích cao, hạn chế chấn thương.
- Các động tác tập trong phần khởi động phải nhẹ
nhàng, tập từ từ, LVĐ, biên độ, sức mạnh dần dần tăng lên. Tránh
thực hiện các động tác mạnh đột ngột. Nên tập trung khởi động các
động tác linh hoạt toàn thân, các động tác làm dẻo khớp.
- Thời gian khởi động tuỳ thuộc vào môn thể thao, vào điều kiện môi
trường vào trình độ thể lực và trạng thái trước vận động của người tập.
Thường thường khởi động kéo dài từ 10-30 phút. Tốt nhất là theo dõi cảm
giác, khi thấy xuất hiện mô hôi (nghĩa là cho đến khi cơ thể điều nhiệt đã được chuẩn
bị sẵn sàng để bước vào vận động), người cảm thấy hưng phấn, thở khoan khoái thì kết thúc khởi động.
- Cần phải tiến hành liên tục giữa khởi động chung và
khởi động chuyên môn. Khởi động không được gây ra hưng phấn
quá mức và nhất là không được gây ra mệt mỏi. Vì vậy, khối lượng
vận động ở phần khởi động phải phù hợp với từng cá nhân.
Khoảng cách thời gian từ khi kết thúc khởi động đến khi bắt đầu hoạt động
vào khoảng từ 3-8 phút là thích hợp nhất (nếu khởi động thật kỹ thì khoảng thời gian
này là 12-15 phút). Thường thì trong thực hành TDTT, khoảng thời gian này có thể kéo lOMoAR cPSD| 60820047
dài hơn. Trong trường hợp này, trước khi xuất phát, VĐV cần làm thêm vài động tác
đặc trưng cho hoạt động sắp tới.
2. Nguyên tắc vệ sinh phần trọng động:
Trọng động là phần cơ bản của buổi tập, là phần tập trung nhiều sức lực
nhất, yêu cầu chất lượng tập luyện cao, cơ thể phải nỗ lực lớn để hoàn thành nhiệm vụ
vận động. Trong giai đoạn này thường xảy ra chấn thương, do đó cần phải tập trung chú ý:
* Những nguyên tắc vệ sinh chung của trọng động:
Để có thể tham gia được phần trọng động cần chú ý: -
Cần kiểm tra y học trước cho người tập (nhất là trước thi đấu). -
Tuân thủ các nguyên tắc tập luyện. - Không thi đấu “non”. -
Coi trọng các nguyên tắc vệ sinh ăn uống trong tập luyện. Trong lúc tập
không được uống quá nhiều nước và nhất là không được uống các loại nước ngọt. -
Không nên nghỉ giữa quãng quá lâu. -
Trong buổi tập cần tập trung toàn tâm, toàn ý vào từng động tác, từng
chi tiết nhỏ của bài tập. -
Tránh tư tưởng cay cú, nóng vội, coi trọng việc bảo hiểm trong tập luyện. -
Tuỳ theo đặc thù kỹ thuật của từng môn thể thao mà đề ra
các biện pháp đề phòng chấn thương.
* Đối với HLV và giáo viên TDTT: -
Cần nắm vững đặc điểm, tình trạng sức khỏe của người tập. Chú trọng
kiểm tra y học sư phạm trong huấn luyện. -
Nắm vững các kiến thức về sinh lí học TDTT, y học TDTT và tâm lý thể thao.
3. Nguyên tắc vệ sinh hồi phục:
Hồi phục là phần không thể thiếu trong tập luyện và thi đấu.
Sau khi ngừng hoạt động, để cơ thể trở về trạng thái bình thường trước vận
động thì các cơ quan, các hệ cơ quan phải trải qua một quá trình biến đổi để đưa cơ
quan đó về trạng thái trước vận động. Các biến đổi như vậy gọi là quá trình hồi phục.
Trạng thái cơ thể khi các quá trình hồi phục còn đang diễn ra gọi là trạng thái hồi phục.
Trong trạng thái hồi phục, cơ thể đào thải các sản phẩm trao đổi chất sinh ra trong vận
động, phục hồi năng lượng các chất dinh dưỡng và các men đã tiêu hao trong thời gian vận động cơ. lOMoAR cPSD| 60820047
Thực hiện tốt quá trình hồi phục, cơ thể VĐV mau chóng trở lại bình
thường và hạn chế được các chấn thương, bệnh tật có thể xảy ra trong quá trình tập luyện.
Không tôn trọng quá trình hồi phục sẽ gây tác hại cho cơ thể, làm suy
nhược cơ thể và phát sinh một số chứng bệnh khác.
Như vậy, phần hồi phục là phần nối tiếp của buổi tập luyện. Thực hiện tốt
phần hồi phục là một nguyên tắc vệ sinh TDTT cơ bản, có tính chất bắt buộc.
* Nguyên tắc vệ sinh phần hồi phục:
- Sắp xếp chế độ tập luyện và chế độ sinh hoạt của VĐV một cách khoa học, hợp lí.
- Tất cả những người tham gia tập luyện và VĐV, sau khi kết thúc buổi
tập đều phải thực hiện tốt phần hồi phục sau vận động.
- Nội dung hồi phục rất đa dạng, tuy nhiên cần chú ý đến các yêu cầu sau:
+ Các động tác thực hiện trong phần hồi phục cần nhẹ nhàng, có sự
phối hợp toàn thân, đặc biệc chú trọng đến thả lỏng cơ bắp và thở sâu.
- Các biện pháp, phương pháp hồi phục được sử dụng sau cho phù hợp, ưu
tiên hồi phục cơ bắp, trả nợ ôxi và tạo cảm giác thoải mái sau tập luyện để bước vào giai đoạn nghỉ ngơi.
Có thể chia các biện pháp hồi phục ra làm 3 nhóm chính là:
+ Các biện pháp sư phạm. + Các biện pháp tâm lý.
+ Các biện pháp y, sinh học.
Ba nhóm này có liên quan mật thiết với nhau, mỗi nhóm lại có các biện
pháp cụ thể phụ thuộc vào đặc tính của các yếu tố tác động đến cơ thể. lOMoAR cPSD| 60820047 VỆ SINH CÁ NHÂN I/ VỆ SINH CÁ NHÂN 1/ Khái niệm:
Vệ sinh cá nhân là một chuyên ngành khoa học của vệ sinh học chuyên nghiên
cứu về cơ sở lý luận, xây dựng và đề xuất các chế độ sinh hoạt của cá nhân một cách
khoa học trong các hoạt động sống nhằm giữ gìn và nâng cao sức khỏe, nâng cao hiệu
suất lao động, chất lượng cuộc sống và kéo dài tuổi thọ.
Vệ sinh cá nhân, về bản chất, chính là việc hiểu biết và xây dựng được một nếp sống
khoa học, lành mạnh, sắp xếp hợp lý giữa lao động và nghỉ ngơi, trong đó có áp dụng
biện pháp nghi ngời tích cực là tập luyện TDTT. Như vậy, vệ sinh cá nhân vừa dựa trên
những cơ sở khoa học chung nhất về quy luật thích nghi của con người, nhưng đồng
thời có tính đến đặc điểm hoạt động sống và đặc điểm năng lực thích nghi của cá thể
và những yếu tố tác động của môi trường sống khi xây dựng các chế độ sinh hoạt.
Sức khoẻ con người là vốn quý trong mỗi gia đình và xã hội, cho nên mọi người phải
chăm lo sức khỏe cho chính bản thân mình. Việc bồi dưỡng sứ khỏe có rất nhiều hình
thức, nhưng hình thức rèn luyện TDTT là hình thức nhiên nhất, tích cực nhất, đơn giản
nhất và đem lại hiệu quả nhất. 2/. Ý nghĩa
Vệ sinh cá nhân là một trong những điều kiện để bảo vệ và tăng cường sức khoẻ. Nếu
không thực hiện tốt được yêu cầu vệ sinh cá nhân thì chẳng những không mang lại sức
khoẻ mà còn tạo nguy cơ mắc nhiều bệnh tật nguy hiểm cho con người và xã hội. Vì
vậy, việc giữ gìn vệ sinh cá nhân có một ý nghĩa to lớn trong công tác phòng và chữa bệnh.
Vệ sinh cá nhân giúp mỗi người hiểu biết cách thức tự bảo vệ sức khỏe cho mình
trong các công việc thường ngày như: xây dựng thói quen sinh hoạt có giờ giấc, giữ
gìn vệ sinh thân thể, trang phục vv... Đây là kiến thức cơ bản nhất đối với công tác
phòng bệnh, phòng dịch và nâng cao sức khỏe.
Đối với VĐV thì việc giữ vệ sinh cá nhân có ý nghĩa quyết định đến sự hình thành
và phát triển thành tích thể thao. Bởi bất kỳ một nguyên nhân nào ảnh hưởng đến sức
khoẻ của VĐV cũng đều dẫn đến suy giảm thành tích tập luyện và thi đấu.
3/ Cấu trúc nội dung cơ bản của vệ sinh cá nhân
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và sự tác động ngày càng đa dạng và
phức tạp của các yếu tố môi trường tự nhiên và xã hội đã dẫn đến nội dung nghiên cứu
của vệ sinh cá nhân ngày càng mở rộng.
Trong lĩnh vực hoạt động TDTT, với quan điểm truyền thống, các nội dung cơ bản
thường được quan tâm nghiên cứu sâu bao gồm: Vệ sinh thân thể; Vệ sinh trang phục
thể thao; Chế độ sinh hoạt; Vệ sinh nữ trong hoạt động TDTT.
II/ VỆ SINH THÂN THỂ
2.1. Khái niệm và ý nghĩa: lOMoAR cPSD| 60820047
Vệ sinh thân thể là nội dung nghiên cứu về cơ sở lý luận khoa học và đề xuất xây
dựng các biện pháp tự giữ gìn và bảo vệ cơ thể trước các tác động của yếu tố môi
trường nhằm đảm bảo các yêu cầu tối ưu cho sự phát triển thể chất và sức khỏe của cá
nhân trong hoạt động sống.
Vệ sinh thân thể là tổ hợp những biện pháp đơn giản, được tiến hành thường xuyên
trong các hoạt động sống của mỗi cá thể.
Vệ sinh thân thể có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp cho cơ thể hoạt động tốt hơn,
tăng cường quá trình trao đổi chất, nâng cao năng lực làm việc trí óc và chân tay, và
đặc biệt hiệu quả trong việc đề phòng bệnh tật.
2.2. Vệ sinh chăm sóc da:
Da là cơ quan phức tạp và quan trọng của cơ thể, đảm nhiệm nhiều chức năng như
chức năng bảo vệ môi trường bên trong cơ thể, bài tiết các sản phẩm trao đổi chất, điều
hòa thân nhiệt. Ở da có rất nhiều nút tận cùng thần kinh đảm bảo cung cấp cho cơ thể
thông tin thường xuyên về tác động của các yếu tố môi trường tự nhiên, thực hiện một
phần chức năng cảm thụ giúp cơ thể có phản ứng tự vệ kịp thời và thích ứng giữ cân
bằng trước tác động của môi trường bên ngoài.
Cách chăm sóc da cơ bản và đơn giản nhất là tắm rửa thường xuyên, ít nhất là 3 - 4
lần một ngày đối với các bộ phận trực tiếp tiếp xúc với các yếu tố môi trường tập luyện.
Các bộ phận nhiễm bẩn nhiều như cổ, mặt cần phải rửa mỗi buổi sáng, chiều và trước
khi ngủ, đối với chân tay thì việc tắm rửa càng phi thường xuyên sau mỗi lần tiếp xúc
với các dụng cụ tập luyện và bề mặt mổ trường.
Tập luyện TDTT làm cho da nhiễm bẩn hơn mức bình thường. Vì vậy, sau mỗi buổi
tập luyện TDTT nhất thiết phải tắm nước ấm. Tắm nước ấm không chị làm sạch thân
thể mà còn có tác dụng hồi phục đối với hệ thần kinh và tim: mạch, tăng cường trao
đổi chất, thúc đẩy nhanh quá trình hồi phục do nước ấm có tác dụng giảm hưng phấn
thần kinh, đồng thời gây giãn mạch ngoại biên làm tăng tốc độ dào thải các sản phẩm
trao đổi chất ở da cũng như đẩy nhanh tốc độ trao đổi chất cục bộ tại các tổ chức cơ, dây chằng và khớp.
Trong tập luyện một số môn thể thao cần phải chú ý đặc biệt đến việc chăm sóc
tay và chân. Trong tập luyện thể thao, tay và chân là những bộ phận cơ thể tiếp xúc
trực tiếp, thường xuyên với dụng cụ tập luyện có thể tạo ra vết chai ở tay chân. Về bản
chất đó là sự biến đổi thích nghi sinh lý của tổ chức da với sự cọ xát thường xuyên của dụng cụ.
Để bảo vệ tay cần phải sử dụng đệm da bảo vệ, khi đã có chai tay, có thể cắt vết chai
bằng dao mỏng sau khi đã bôi vaselin y tế để làm mềm da. Vết chai có thể hình thành
ở chân nếu đi giày chật. Đối với VĐV, khi có các vết chai hoặc các vết trầy da do giầy
tập, trang phục gây nên tốt nhất là nên tham khảo ý kiến các bác sỹ của cơ sở để có
biện pháp xử lý thích hợp, bởi vì các tổn thương có vẻ là nhỏ đó có thể gây nên các
hậu quả rất đáng tiếc nếu xử lý không đúng và kịp thời.
2.3. Vệ sinh miệng: lOMoAR cPSD| 60820047
Răng là cơ quan chức năng quan trọng giúp cho việc tiêu hoá thức ăn và tạo nên nét
đẹp của khuôn mặt. Khi bị bệnh về răng miệng không chỉ các chức năng nêu trên bị
ảnh hưởng mà bệnh răng miệng còn là nguồn gốc gây nên những bệnh nhiễm khuẩn
nặng khác như sâu răng, viêm nha chu, thậm chí gây viêm xoang và tủy xương. Để
bảo vệ cần phải giữ răng miệng thường xuyên sạch sẽ. Trước khi đi ngủ và buổi sáng
phải đánh răng bằng bàn chải. Sau khi ăn xong phải xúc miệng. Thức ăn quá cứng, quá
nóng, quá lạnh đều có thể làm hỏng lớp men răng. Cần tổ chức kiểm tra răng miệng
thường xuyên cho VĐV và điều trị kịp thời khi có các bệnh về răng.
2.4. Vệ sinh mũi, họng:
Mũi là cửa ngõ của đường hô hấp, đồng thời là cơ quan khứu giác. Hốc mũi có nhiều
lông và chất nhầy tiết ra để ngăn và giữ bụi trong không khí trước khi vào phổi. Phía
trong, hốc mũi chia làm hai vùng:
Vùng dưới ngoài có nhiều mạch máu và tiết nhiều chất nhầy giúp cho không khí đi
qua vùng này được sưởi ấm, điều hoà nhiệt độ, thanh lọc bụi nhỏ và đào thải ra bên
ngoài (gọi là mũi thở).
Vùng trên trong niêm mạc có chứa nhiều tế bào thần kinh khứu giác (gọi là mũi ngửi).
Cuối cùng mũi thông với họng, ở thành trên của họng có vòi Eustas thông với xoang
tai giữa. Ở họng, phần tiếp giáp với mũi có những tổ chức dễ bị sưng viêm gọi là A.
Ngoài ra hốc mũi còng tiếp giáp với ba xoang: xoang trán, xoang hàm và xoang sàng.
Khi mũi bị viêm thì bệnh dễ lan rộng và gây ra viêm các xoang ở xung quanh.
2.5. Vệ sinh bảo vệ tai:
Tai là cơ quan cảm nhận âm thanh, vành tai và ống tai ngoài hướng âm thanh truyền
qua màng nhĩ vào tai giữa. Tại giữa là một khoang rỗng, khoang này có một vài thông
với khoang mũi hầu gọi là vòi Eustas. Trong tai giữa có xương búa, xương đe, xương
bàn đạp, âm thanh được dẫn truyền và làm giảm biên độ dao động khi dẫn truyền vào
tai trong. Khi đến tai trong dao động âm thanh đã giảm đi đáng kể, tránh cho tai trong
khi bị thương tổn. Nhờ có dây thần kinh thính giác tại trong, vỏ não cảm nhận được
biên độ, tần số, khoảng cách các âm thanh. Tiền đình và ba ống bán khuyên đảm nhiệm
giữ chức năng cảm thụ thăng bằng (cảm thụ tư thế cơ thể trong không gian cho cơ thể
khi chuyển động trong không gian. Chính vì tai có các chức năng quan trọng như vậy
nên việc giữ gìn vệ sinh cho tai có ý nghĩa vô cùng quan trọng. 2.6. Vệ sinh mắt
Giữ vệ sinh mắt chủ yếu để chống lại các bệnh viêm nhiễm mắt. Việc giữ vệ sinh mắt
rất đơn giản nhưng cần có ý thức của cá nhân kết hợp với tổ chức vệ sinh xã hội. Mỗi
người cần có khăn mặt riêng, nước để tắm giặt, nhất là nước để rửa mặt phải là nước
sạch. Trước khi rửa mặt phải vò, giặt khăn bằng xà phòng, chậu rửa phải đảm bảo sạch
sẽ, rửa mặt xong phải phơi khăn dưới ánh nắng. Trong khi đang có dịch đau mắt tuyệt
đối không được dùng chung khăn mặt, chung chậu rửa hay dùng lại nước rửa.
Không được dùng các khăn bẩn lau mặt, lau mắt, tay bẩn dụi mắt. Khi bị đau mắt cần
nhỏ các loại thuốc tra mắt nước, thuốc mỡ theo sự chỉ dẫn của bác sỹ. lOMoAR cPSD| 60820047
VỆ SINH TẬP LUYỆN TDTT 1/ Khái niệm:
Vệ sinh là khoa học về sức khỏe và xây dựng các điều kiện thích hợp nhằm tăng cường
sức khỏe của con người, đề phòng bệnh tật. Mục đích của vệ sinh là nghiên cứu những
ảnh hưởng của môi trường sống và lao động đối với sức khỏe, đảm bảo những điều
kiện tối ưu để duy trì sức khỏe và kéo dài tuổi thọ của con người 2/ Nhiệm vụ:
Xây dựng cơ sở khoa học và đề xuất những tiêu chuẩn, quy định về các biện pháp vệ
sinh để khắc phục tác hại của môi trường đối với cơ thể con người.
Xây dựng tiêu chuẩn, quy tắc nâng cao khả năng đề kháng của cơ thể đối với những
ảnh hưởng xấu của môi trường nhằm góp phần nâng cao sức khỏe và khả năng làm việc
Trong quá trình phát triển, vệ sinh học chia ra làm nhiều phân môn để giải quyết các
nhiệm vụ cụ thể: vệ sinh lao động, vệ sinh học đường, vệ sinh thực phẩm, vệ sinh thể dục thể thao...
3/ Vệ sinh trang phục TDTT
Trang phục thể thao là quần áo, giầy, tất dành riêng cho việc tập luyện và thi đấu thể
thao, là một phần trong trang bị cá nhân của VĐV.
Trang phục phải bảo vệ được cơ thể khỏi các tác động xấu của môi trường tập luyện
và thi đấu, tránh được các tổn thương cơ học, giữ cho cơ thể sạch sẽ và tạo điều kiện
thuận lợi nhất cho phép cơ thể hoạt động với biên độ và cường độ cao trong các điều
kiện khí hậu thời tiết khác nhau. Đồng thời, trang phục phải phù hợp với các đặc điểm
chuyên môn của từng môn thể thao và các quy định của luật thi đấu, cũng như đảm bảo
các yêu cầu tương ứng về vệ sinh học.
Yêu cầu:Quần áo thể thao phải nhẹ , thuận tiện, không cản trở đối với hoạt động vận
động, vừa với số đo của người sử dụng và tạo ra được vùng vi khí hậu cần thiết quanh
bộ phận cơ thể được che phủ, vì vậy trang phục phải đảm bảo các tính chất thoáng khí,
điều nhiệt, thấm nước và các tính chất vật lý khác như tính mền mại, thun giãn phù hợp
với đặc điểm hoạt động vận động trong từng môn thể thao. Trang phục phải phù hợp
với yêu cầu sử dụng và điều kiện thời tiết khí hậu cụ thể, đảm bảo sạch và đẹp, có màu sắc phù hợp.
Trong phần lớn các môn thể thao, ngoại trừ thể thao dưới nước, VĐV tập luyện và
thi đấu có đi giầy không chỉ nhằm mục đích hạn chế chấn thương mà còn có tác dụng
nâng cao thành tích thi đấu. Các yêu cầu vệ sinh đối với giày thể thao có nhiều điểm
tưng tự như đối với quần áo. Giày thể thao phải thuận tiện, nhẹ, bền, mềm mại và thun
giãn tốt. Chúng phải không thấm nước, tương đối thoáng khí, không bị biến dạng và
thay đổi tính chất vật lý khi bị ngâm nước. Cần sử dụng giày thể thao phù hợp với điều
kiện thời tiết và đặc điểm của môn thể thao.
Tuy nhiên, dù trang phục có hiện đại và hoàn hảo đến mức nào đi nữa, chúng vẫn
cần phải được sử dụng theo đúng các nguyên tắc vệ sinh chung và cách thức bảo quản
nhất định mới có thể phát huy được các ưu điểm. Trang phục phải luôn được giữ gìn
vệ sinh sạch sẽ. Quần áo, giày, tất bẩn trước tiên ảnh hưởng đến các tính chất lý hoá lOMoAR cPSD| 60820047
của vật liệu, và nhiễm nhiều sinh vật gây bệnh hơn. Vị trùng và nấm chứa trong trang
phục bẩn có thể xâm nhập vào da khi cọ sát làm nhiễm trùng da và gây nên các bệnh
ngoài da như nấm, hắc lào.... Ngoài ra, dưới tác dụng của vi khuẩn, nấm, các chất hữu
cơ chứa trong trang phục bị phân giải sinh ra mùi hôi khó chịu. Cách giữ gìn trang phục
sạch sẽ đơn giản nhất là giặt thường xuyên ngay sau mỗi buổi tập hoặc thi đấu.
4/ Chế độ sinh hoạt của người tập luyện TDTT
Do điều kiện sống, sinh hoạt và lao động khác nhau, khó có thể xây dựng một thời gian
biểu chung cho mọi người. Song các nguyên tắc vệ sinh cơ bản của thời gian biểu hằng
ngày phải được đảm bảo đầy đủ. Đó là những nguyên tắc sau:
- Hằng ngày ngủ dậy vào một giờ nhất định
- Có tập thể dục buổi sáng và làm vệ sinh thân thể ( rửa mặt, đánh răng, tắm...)
- Ăn vào một giờ nhất định , không ít hơn 3 bữa 1 ngày
- Ở ngoài trời tối thiểu 2h một ngày
- Học tập, làm việc hàng ngày vào những giờ nhất định
- Tập luyện TDTT hợp lý ít nhất 2 lần 1 tuần, mỗi lần 2h
- Hàng ngày ngủ ít nhất 8h. Đi ngủ vào một giờ nhất định. Trong thời gian biểu
hàng ngày cần dành thời gian cho nghỉ ngơi. Việc xây dựng và thực hiện thời
gian biểu hàng ngày còn có ý nghĩa to lớn trong việc giáo dục và rèn luyện ý chí,
tính tổ chức và kỷ luật.
Chăm sóc và giữ gìn cơ thể.
Khi tập luyện chúng ta thường ra nhiều mồ hôi. Mồ hôi và ghét bẩn tạo điều kiện cho
các vi trùng gây bệnh xâm nhập vào cơ thể. Vì thế, cần tắm rửa sạch sẽ sau mỗi buổi
tập. Nếu ở chỗ tập không có điều kiện để tắm thì ít nhất cũng phải rửa mặt, lâu cổ và
tay. Sau đó về nhà cần tắm rửa kỹ càng.
Sau mỗi buổi tập cần phải thay quần áo tập đã ngấm mồ hôi và không nên dùng chúng thay cho quần áo lót.
Rèn luyện để chống lạnh
Qua rèn luyện cơ thể cần có khả năng chống cảm lạnh và tránh được các bệnh cảm
lạnh để không phải bỏ học và bỏ tập.
Có thể rèn luyện bằng cách thay đổi các kích thích nóng và lạnh trên mặt da như tắm
bằng nước nóng và nước lạnh dưới hương sen (lúc thì vặn nước nóng lúc thì vặn nước
lạnh thay đổi nhau). Khi tắm như vậy cơ thể phải điều chỉnh để thích nghi với sự thay
đổi nhiệt độ và do có khả năng chống được lạnh và cảm lạnh. Sau khi tắm cần phải lau
khô và chà sát mạnh vào người.
Ánh nắng mặt trời, không khí và nước đều có tác dụng tốt đối với việc rèn luyện.
Song, cần chú ý là khi bơi và phơi nắng cơ thể bị mất rất nhiều nhiều mà bạn không
cảm thấy. Vì vậy cần tăng dần thời gian bơi và phơi nắng và không nên ngâm mình quá
lâu dưới nước. Khi phơi nắng, cần tránh nằm yên một chỗ mà nên hoạt động bằng các
môn thể thao hoặc bằng các trò chơi. Cơ thể cần hoạt động sẽ tạo ra nhiệt, chống được
sự mất nhiệt và lạnh. lOMoAR cPSD| 60820047
Về mùa hè mặc quần áo tập dài cũng không phải là thừa. Bộ quần áo tập dài này giúp
cho khởi động tốt và giữ được nhiệt cho cơ thể, tạo điều kiện tốt cho hoạt động của cơ
bắp với một thân nhiệt thích hợp và tránh được các chấn thương và rách cơ. Đối với
việc rèn luyện chống lạnh, tắm hơi là biện pháp đặc biệt tốt. Tuy nhiên cần tắm hơi
theo sự chỉ dẫn của các bác sĩ thể thao.
Ăn như thế nào cho khỏe và đủ chất
Vận động viên không thể nâng cao được thành tích của mình nếu ăn nhiều. Song,
việc định lượng và nấu nướng thức ăn đúng mức lại rất quan trọng đối với việc nâng
cao thành tích. Nói chung thức ăn có chứa năng lượng. Vì thế không cần phải ăn nhiều quá mức bình thường.
Hàng ngày cần cân vào 1 giờ nhất định và ghi trọng lượng cơ thể vào nhật kí luyện
tập để theo dõi sự phát triển của cơ thể. Nếu bị xuống cân liên tục cần phải gặp bác sĩ thể thao ngay
Những vấn đề cần chú ý khi ăn, uống.
Cần ăn uống điều đặn hoa quả và các thức ăn tươi sống hợp vệ sinh (không cần nấu
chín). Đặc biệt về mùa đông cần ăn thức ăn có chứa nhiều sinh tố (vitamin). Nếu thiếu
sinh tố sức khỏe và thành tích của bạn sẽ bị ảnh hưởng
Không nên tập ngay sau khi ăn. Cần ăn đúng giờ (ít nhất là một giờ trước khi thi đấu).
Sau khi ăn có thời gian để thức ăn tiêu hóa, tránh làm việc ngay. Khi tập luyện và thi
đấu vận động viên mất rất nhiều sức vì đó là công việc rất nặng nhọc. Do đó không nên
bỏ 1 bữa ăn nào. Cần ăn những thức ăn quen thuộc; nếu ăn những thức ăn lạ, hoạt động
của bộ máy tiêu hóa xẽ bị thay đổi. Không nên ăn quá nhiều vi khi dạ dày quá căng sẽ
ảnh hường tới trạng thái sức khỏe và thành tích Cần dành đủ thời gian để ăn, không
nên ăn vội vàng để tránh bị rối loạn tiêu hóa Tránh uống nhiều nước và trong khi
luyện tập thi đấu. Cơ thể sẽ bị ảnh hưởng khi chứa quá nhiều chất lỏng. Không nên
uống nước lạnh khi cơ thể đang bị nóng do luyện tập và thi đấu
5/ Tác hại của một số thói quen độc hại đối với người tập luyện TDTT
Các thói quen sử dụng thuốc lá, thuốc lào, rượu, bia và nhất là ma tuý rất có hại cho
sức khỏe và khả năng làm việc, đặc biệt những thói quen này còn là nguyên nhân dẫn
đến nhiều bệnh nguy hiểm và những bất hạnh sâu sắc về xã hội. Đối với người tập
luyện TDTT, các thói quen độc hại có ảnh hưởng rõ rệt và trực tiếp đến thành tích thi đấu
Hút và nghiện thuốc lá, thuốc lào là thói quen độc hại tương đối phổ biến, hình thành
theo cơ chế phản xạ có điều kiện. Trong khói thuốc lá, kể cả thuốc đã có đầu lọc, chứa
rất nhiều chất độc như nicotin, oxit carbon... (tổng số hơn 40 loại chất độc), đặc biệt là
nicotin, một loại chất độc cực mạnh với liều gây tử vong chỉ là 50 mg, tương ứng với
lượng nicotin chứa trong 50 điếu thuốc lá có độ nặng trung bình. cũng như đường dẫn
khí, kể cả nguy cơ gây ung thư. Thống kê đã chứng minh rằng, 95% các trường hợp
ung thư đường hô hấp là do hút thuốc.
Nghiện rượu, bia và các đồ uống có cồn khác cũng làm ảnh hưởng rõ rệt đến sức
khoẻ và khả năng làm việc. Sau khi uống rượu, bia khả năng hoạt động trí óc giảm, lOMoAR cPSD| 60820047
người uống rượu, bia không thể suy nghĩ nhanh, thiếu tập trung, dễ phạm sai lầm. Khả
năng làm việc cơ bắp cũng rối loạn, tốc độ của động tác giảm, lực co cơ giảm, độ chính
xác của động tác giảm rõ rệt do sự phối hợp giữa các cơ bị rối loạn. Uống rượu, bia là
nguyên nhân của rất nhiều tai nạn trong sản xuất cũng như trong sinh hoạt, giao thông.
Nếu uống rượu, bia nhiều đến mức nghiện g dẫn đến nhiều bệnh tật về cơ, hệ tim mạch,
gan, đường tiêu hoá và các cơ quan khác. Xơ gan do nghiện rượu gây tỷ lệ tử vong cao.
Nghiện rượu là nguyên nhân gây tử vong đứng thứ ba trong tất cả các nguyên nhân,
chỉ sau các bệnh tim mạch và ung thư.
Rượu, bia làm giảm hiệu quả tập luyện TDTT. Nghiên cứu khoa học cho thấy, tốc độ
của VĐV giảm 20% sau khi uống 1/2 lít bia, thành tích thi đấu giảm khoảng 20 30%.
Nói chung, toàn bộ các tố chất thể lực và kỹ năng vận động đều bị giảm sút ở mức độ
khác nhau dưới tác dụng trực tiếp của rượu, bia.
6/ Đặc điểm sinh lý nữ
Một đặc điểm sinh lý đặc trưng chỉ có ở nữ giới là hiện tượng kinh nguyệt. Kinh
nguyệt là một hiện tượng sinh lý bình thường mỗi tháng, bắt đầu xuất hiện khi bước
vào tuổi dậy thì và kết thúc ở thời kỳ mãn kinh. Huyết kinh thường kéo dài 4 ngày với
lượng máu trung bình là 100 ml. Huyết kinh từ tử cung chảy ra ngoài không đông và
có thể đọng lại trong âm đạo, âm hộ tạo ra môi trường tốt cho vi khuẩn phát triển.
Ngoài ra sự bài tiết nước tiểu của người phụ nữ cũng làm cho vùng âm hộ khó được
giữ sạch. Vì vậy, nếu không giữ gìn vệ sinh thì rất dễ bị nhiễm khuẩn tại chỗ hoặc
nhiễm khuẩn lan lên âm đạo, tử cung... được gọi chung là bệnh phụ khoa.
7/ Hiện tượng loãng xương sớm ở nữ vận động viên
Chúng ta đều biết rằng, tập luyện TDTT thường xuyên với liều lượng hợp lý là biện
pháp hữu hiệu phòng chống sự phát triển của bệnh loãng xương. Bệnh loãng xương
thường hay gặp ở phụ nữ, đặc biệt ở thời kỳ mãn kinh. Khi bị loãng xương, xương mất
nhiều chất khoáng, chủ yếu là canxi, và xương trở nên giòn, xốp, dẫn đến một chấn
thương bình thường cũng có thể gây gẫy xương.
Giảm khối lượng xương có thể do mất kinh, hiếm kinh trong thời gian dài, hoặc do
chế độ dinh dưỡng không cân đối, thiếu canxi, hay trạng thái tiền mãn kinh.
Đối với những VĐV nữ có chu kỳ kinh nguyệt hay bị rối loạn như không có kinh
trong nhiều tháng liền, giảm hàm lượng Estrogen liên quan đến rối loạn kinh nguyệt,
tập luyện với công suất và khối lượng vận động cao dễ dẫn đến căng thắng quá độ hay
mệt mỏi quá mức. Trong số VĐV nữ hoàn toàn mất kinh 12 tháng liền và hơn thì tỷ lệ
gẫy xương tăng gấp 2 - 3 lần.
Giảm quá mức tỷ lệ mỡ trong cơ thể (dưới 17 % trọng lượng cơ độ ăn kiêng có lượng
kalo thấp, kết hợp với lượng canxi trong khẩu phần ăn không đủ là nguyên nhân của
chứng mất kinh và loãng xương sớm ở nữ VĐV. 8/ Các yêu cầu vệ sinh đối với sân bãi, dụng cụ TDTT:
Sân bãi, phòng - nhà tập và cây trồng
Đối với những người tham gia luyện tập TDTT thì việc đảm bảo vệ sinh sân bãi có ý
nghĩa vô cùng quan trọng. Sân bãi tập luyện đảm bảo được các yêu cầu vệ sinh sẽ góp lOMoAR cPSD| 60820047
phần đảm bảo cho người tập thực hiện tốt, chính xác các yêu cầu kỹ - chiến thuật, phát
huy tối đa khả năng của bản thân, nâng cao tính hứng thú, giảm mệt mỏi do phải khắc
phục những cản trở xuất hiện từ sân bãi không đạt được các tiêu chuẩn vệ sinh, từ đó
nâng cao được thành tích thể thao, đồng thời còn giúp phòng tránh được các chấn
thương không đáng có. Để đạt được điều đó yêu cầu sân bãi tập phải đạt được những yêu cầu vệ sinh sau:
Sân bãi tập cần đủ rộng, tiêu chuẩn trung bình là 9m2 cho một người, tối thiểu phải
đạt được 4 - 5m2 cho 1 người.
Yêu cầu vệ sinh tối thiểu: sân bãi tập không bị nhiễm bẩn bởi các chất thải hữu cơ và
vô cơ, bằng phẳng, không có vũng nước tù đọng, những hố, không có những vật sắc
nhọn, cứng có thể gây chấn thương, tai nạn cho những người tham gia tập luyện. Trong
khu tập luyện phải bố trí phòng vệ sinh, hoặc nằm gần các khu vệ sinh chung. Sân
bãi tập cần thoáng mát về mùa hè, tránh lầy lội về mùa đông. Bãi tập nên trồng cỏ để
chống bụi, chống lầy và tạo được độ êm khi tiếp xúc. Xung quanh sân bãi trồng nhiều
cây bóng mát để chống bức xạ nhiệt về mùa hè, ngăn cản sự ô nhiễm môi trường, nhưng
không được cản ánh sáng về mùa đông.
9/ Vệ sinh dụng cụ và phương tiện tập luyện
Dụng cụ và phương tiện tập luyện cần phải đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật được
quy định chi tiết cho từng môn thể thao. Trong một số môn thể thao, một số dụng cụ
tập luyện và thi đấu có thể cho phép điều chỉnh trong phạm vi nhất định để phù hợp
với với đặc điểm hình thái và thói quen của từng VĐV.
Việc tiêu chuẩn hoá dụng cụ và phương tiện tập luyện không chỉ nhằm đảm bảo phát
huy tối đa hiệu quả hoạt động, nâng cao thành tích thể thao mà còn có vai trò trong
việc bảo vệ cơ thể và phòng tránh các chấn thương xảy ra trong tập luyện. Dưới góc
độ vệ sinh chung thì dụng cụ tập luyện cần được vệ sinh sạch sẽ, không được có cạnh
sắc nhọn, không han gỉ, đảm bảo độ bền vững cơ học và được sản xuất bằng vật liệu
không gây ngộ độc cho người tập. Bài nhảy cao, nhảy xa phải sử dụng cát mịn, độ dày
0,5 -1 m và luôn xới cát cho xốp khi tập luyện nhằm làm tăng khả năng hoãn xung,
giúp giảm ảnh hưởng đến cột sống. Đường chạy phải bằng phẳng, ít bụi bặm, không
có đất đá, vật cứng trên đường chạy và đặc biệt đường chạy không được trơn trượt,
không chỉ làm giảm thành tích thể thao mà còn gây tai nạn cho người tập.
Luôn luôn kiểm tra thiết bị và dụng cụ bể bơi, nước bể bơi phải trong sạch, độ pH
luôn ổn định ở mức trung tính, có độ sâu phù hợp với đối tượng tham gia tập luyện.
10/ Vệ sinh tổ chức tập luyện
Hình thức tổ chức tập luyện, nội dung tập và lượng vận động phải phù hợp với sức
khỏe, tuổi, giới tính, trình độ tập luyện, đồng thời phải phù hợp với điều kiện hoàn
cảnh thực tiễn, phong tục tập quán địa phương, nếp sống…
Địa điểm và thời điểm tổ chức tập luyện cần chú ý tránh tác hại của thời tiết như
nắng, nóng hoặc lạnh quá, tránh tác hại về bụi, hơi khí độc có thể bị nhiễm bởi môi
trường sản xuất công nghiệp và nông nghiệp xung quanh, đặc biệt là các chất thải công