Mặt khách quan và chủ quan của vi phạm pháp luật - Lý luận nhà nước và pháp luật | Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội
Mặt khách quan và chủ quan của vi phạm pháp luật - Lý luận nhà nước và pháp luật | Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Lý luận chung về nhà nước và pháp luật
Trường: Đại Học Kiểm sát Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
1 A. LỜI NÓI ĐẦU
Trong xã hội nước ta hiện nay, hệ thống pháp luật lập ra để bảo vệ lợi ích của
Nhà nước; quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân nhằm xây dựng một xã
hội văn minh, mang lại hạnh phúc cho mọi người. Vì vậy, các quy định của Pháp
luật nước ta hiện nay đã nhận được sự đồng thuận, tuân thủ nghiêm minh từ đông
đảo quần chúng nhân dân.
Tuy nhiên, do nhiều lý do và hoàn cảnh khác nhau, vẫn tồn tại nhiều trường
hợp người dân vi phạm pháp luật nằm trong 04 hình thức (vi phạm hình sự, vi phạm
hành chính, vi phạm dân sự và vi phạm kỷ luật), ảnh hưởng đến lợi ích vật chất và
tinh thần của cả nhà nước, xã hội và cộng đồng. Đây là một vấn đề hết sức nguy
hiểm, nó tác động tiêu cực đến nhiều khía cạnh của cuộc sống xã hội, làm ảnh
hưởng đến công cuộc “xây dựng và bảo vệ xã hội chủ nghĩa” của Nhà nước ta.
Do đó, nghiên cứu về vi phạm pháp luật, đặc biệt là việc phân tích cấu thành
của hành vi này trong đó có mặt chủ quan và mặt khách quan của vi phạm pháp
luật. Từ đó đề xuất những giải pháp, biện pháp hữu hiệu nhằm ngăn chặn và đối
phó với tình trạng vi phạm Pháp luật trong xã hội, cũng như đưa ra những kết luận
đúng đắn và phù hợp nhất, tránh các vấn đề oan sai hay bỏ lọt tội phạm. Việc hiểu
rõ về mặt chủ quan và khách quan của vi phạm pháp luật giúp chúng ta làm sáng tỏ
các vấn đề của hành vi dẫn đến phạm tội, thông qua đó sẽ áp dụng được các biện
pháp ngăn chặn, xử lý hành vi phạm tội một cách chính xác và có hiệu quả. Giúp
xã hội ngày càng trong sạch, văn minh.
Để bản thân hiểu biết hơn về hành vi vi phạm pháp luật. Em mạnh dạn lựa chọn chủ đề sau:
“PHÂN TÍCH MẶT KHÁCH QUAN VÀ MẶT CHỦ QUAN
CỦA VI PHẠM PHÁP LUẬT” 2 B. NỘI DUNG I. PHẦN LÝ LUẬN
1. Một số khái niệm
- Pháp luật là một hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước đặt ra (hoặc thừa
nhận) có tính quy phạm phổ biến, tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức và tính
bặt buộc chung thể hiện ý chí của giai cấp nắm quyền lực Nhà nước và được Nhà
nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội (Nguồn Thư viện Pháp luật).
- Vi phạm pháp luật là hành vi cố ý hoặc vô ý làm trái pháp luật, có lỗi do
chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội
được pháp luật bảo vệ.
- Cấu thành vi phạm pháp luật là toàn bộ những yếu tố, những bộ phận làm
thành một vi phạm pháp luật cụ thể, bao gồm mặt khách quan, chủ thể; mặt chủ quan và khách thể.
- Chủ thể vi phạm pháp luật là cá nhân, tổ chức có năng lực, trách nhiệm
pháp lý đã thực hiện hành vi trái pháp luật và có lỗi. Năng lực trách nhiệm pháp lý
của cá nhân được xác định trên cơ sở độ tuổi và khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của họ.
- Khách thể vi phạm pháp luật là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ nhưng
bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại. Đó chính là những lợi ích chính đáng của cá nhân, tổ
chức trong xã hội, lợi ích của giai cấp cấp cầm quyền cũng như lợi ích của toàn xã hội, của
quốc gia, dân tộc được ghi nhận, bảo vệ, bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại. Vi phạm
pháp luật làm biến đổi tình trạng bình thường của các quan hệ xã hội, gây ra hoặc đe dọa
gây ra những thiệt hại nhất định cho xã hội.
2. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật
- Khái niệm: Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật là những biểu hiện tâm lí
bên trong của chủ thể vi phạm pháp luật, gồm lỗi, động cơ và mục đích vi phạm.
- Lỗi: là trạng thái tâm lí phản ánh thái độ tiêu cực của chủ thể đối với hành 3
vi nguy hiểm cho xã hội mà mình đã thực hiện và hậu quả nguy hiêm hoặc nguy cơ
gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà mình gây ra, thể hiện dưới hai hình thức là
cố ý hoặc vô ý. Lỗi là yếu tố bắt buộc của mọi vi phạm pháp luật.
+ Lỗi cố ý trực tiếp: Người vi phạm pháp luật nhận thức rõ hành vi của mình
là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.
Ví dụ: A dùng dao đâm B liên tục đến khi chắc chắn là B đã chết.
+ Lỗi cố ý gián tiếp: Chủ thể vi phạm pháp luật nhận thức rõ hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó, tuy không mong
muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Ví dụ: A tức lên, dùng dao đâm B một nhát nhưng B chưa tử vong, B cầu
cứu A nhưng A không đưa B đi cấp cứu, sau đó B tử vong vì mất máu quá nhiều.
+ Lỗi vô ý vì quá tự tin: Chủ thể vi phạm pháp luật thấy trước hành vi của
mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ
không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được nên đã thực hiện hành vi trái pháp luật và
gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội.
Ví dụ: Khi đèn đỏ vừa được 2 giây, A cố điều khiển xe máy vượt đèn đỏ, bất
ngờ đụng phải B điều khiển xe máy băng qua đường khiến B ngã và bị thương.
+ Lỗi vô ý do cẩu thả: Chủ thể vi phạm pháp luật đã gây ra hậu quả nguy hại
cho xã hội nhưng do cẩu thả nên không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra
hậu quả đó, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả ấy.
Ví dụ: Chị A là bác sĩ làm ở bệnh viện trong một thị trấn, do vội có việc
riêng nên chị A đã bốc nhầm thuốc cho bệnh nhân khiến bệnh nhân tử vong sau khi dùng thuốc.
- Người thực hiện hành vi trái pháp luật chỉ bị xem là có lỗi khi hành vi mà
chủ thể đã thực hiện là kết quả của sự lựa chọn, quyết định của họ, trong khi người
đó có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn một cách xử sự khác phù hợp với pháp luật. 4
Ví dụ: Chị A phát hiện có người đang đuối nước. Do không biết bơi, chị A
chỉ có thể hô hào gọi mọi người xung quanh tới giúp nhưng không có ai nghe thấy.
Sau khi chị tìm được người tới giúp thì người đó đã tử vong. Trong trường hợp này,
chị A không có lỗi đối với cái chết của người đó.
- Động cơ vi phạm pháp luật:
+ Là động lực bên trong thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
+ Động cơ chỉ có đối với các hành vi vi phạm với lỗi cố ý.
+ Động cơ không phải là yếu tố bắt buộc phải xác định trong mặt chủ quan của vi phạm pháp luật.
Ví dụ: Anh A đột nhập vào nhà bà B lấy trộm tiền. Khi bị bà B phát hiện,
anh A hốt hoảng dùng bình nước thuỷ tinh đập vào đầu bà B khiến bà B chết ngay
tại chỗ. Hành vi của anh A đã cấu thành tội phạm tội trộm cắp tài sản và tội vô ý
làm chết người. Tuy nhiên, anh A chỉ có một động cơ là lấy trộm tài sản và không
có động cơ nào để giết bà B vì việc làm bà B chết là hành vi vi phạm với lỗi vô ý.
- Mục đích vi phạm pháp luật:
+ Là kết quả trong ý thức chủ quan mà chủ thể vi phạm pháp luật đặt ra phải
đạt được khi thực hiện vi phạm pháp luật.
Ví dụ: Công ty A xả nước thải chưa qua xử lí ra sông nhằm mục đích tiết
kiệm chi phí xử lí nước thải.
+ Chỉ được thực hiện trong hành vi vi phạm pháp luật có lỗi cố ý trực tiếp.
3. Mặt khách quan của vi phạm pháp luật
- Khái niệm: Mặt khách quan của vi phạm pháp luật là những biểu hiện ra
bên ngoài thế giới khách quan của vi phạm pháp luật.
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật bao gồm: hành vi trái pháp luật, sự
thiệt hại cho xã hội và quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và sự thiêt hại
cho xã hội và các yếu tố khác như thời gian, địa điểm, công cụ vi phạm,... Trước
hết phải xác định xem vụ việc vừa xảy ra có phải do hành vi của con người hay
không, nếu phải thì hành vi đó có trái pháp luật không, nếu trái pháp luật thì trái 5
như thế nào. Sự thiệt hại cho xã hội là những tổn thất về vật chất hoặc tinh thần do
hành vi trái pháp luật gây ra. Các biểu hiện:
- Hành vi thể hiện bằng hành động hoặc không hành động:
+ Hành vi hành động: là hành vi biểu hiện ra bên ngoài, tác động trực tiếp
lên đối tượng của chủ thể vi phạm pháp luật.
Ví dụ: A dùng búa đập vào đầu B, vượt đèn đỏ,...
+ Hành vi không hành động: là hành vi không biểu hiện ra bên ngoài nhưng
vẫn gây ra hậu quả và có tính chất nguy hiểm cho xã hội.
Ví dụ: không tố giác tội phạm, không tuân thủ nghĩa vụ báo cáo tài chính đầy đủ và chính xác.
- Hành vi trái pháp luật: là xử sự nguy hại cho xã hội của con người ra thế
giới khách quan ở những mức độ khác nhau, được ý thức của chủ thể kiểm soát và
ý chí của người đó điều khiển; được quy định trong pháp luật. Những biểu hiện của
hành vi trái pháp luật như:
+ Chủ thể làm một việc mà pháp luật cấm.
Ví dụ: Tàng trữ và mua bán trái phép chất ma tuý, giết người,...
+ Chủ thể sử dụng quyền hạn vượt quá giới hạn mà pháp luật cho phép.
Ví dụ: Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, tham nhũng...
+ Chủ thể không thực hiện nghĩa vụ mà Nhà nước bắt buộc.
Ví dụ: Không nộp thuế, không đội mũ bảo hiểm khi điều khiển xe gắn máy,..
- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội: là thiệt hại gây ra cho các quan hệ xã hội
được nhà nước xác lập và bảo vệ của vi phạm pháp luật (đây là dấu hiệu không bắt
buộc phải có trong mọi vi phạm pháp luật). Thiệt hại cho xã hội thể hiện dưới những hình thức:
+ Thiệt hại về thế chất: sức khoẻ, tính mạng của con người.
+ Thiệt hại về tinh thần: danh dự, nhân phẩm, quyền tự do của con người.
+ Thiệt hại về vật chất: tài sản bị tổn thất, hư hại. 6
Ví dụ: Hành vi vu khống cho người khác gây thiệt hại cho danh dự,
nhân phẩm của người bị hại; hành vi cố ý làm lây lan dịch bệnh gây thiệt hại
cho sức khoẻ của cộng đồng; hành vi trộm cắp tài sản làm tổn thất tài sản của người bị hại,...
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật và hậu quả nguy
hiểm cho xã hội là một liên kết cần thiết và tất yếu. Hành vi trái pháp luật không
chỉ chứa đựng các yếu tố có thể tạo nên nguồn gốc của hậu quả, mà còn có thể là
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả đó. Thông thường, hành vi sẽ xảy ra trước
hậu quả theo thời gian, và hậu quả sẽ phản ánh kết quả tất yếu của chính hành vi
đó, không phải của một nguyên nhân khác.
- Các yếu tố khác: Công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian,
địa điểm, hoàn cảnh vi phạm pháp luật là những yếu tố quan trọng khi xác định vi
phạm. Trong đó, hành vi trái pháp luật luôn là yếu tố bắt buộc, còn các yếu tố khác
phụ thuộc vào từng trường hợp. Mối liên quan giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm
cũng được coi là quan trọng, cùng với việc xác định địa điểm và thời gian vi phạm.
Ví dụ: Hành vi bấm còi, rú ga liên tục trên đường bộ bị nghiêm cấm theo
quy định của Luật Giao thông đường bộ, đặc biệt là trong khoảng thời gian từ 22h
đến 5h. Nếu anh A thực hiện hành vi này ngoài khoảng thời gian được quy định
trong luật, thì anh A không vi phạm quy định pháp luật. Điều này là do thời gian vi
phạm là yếu tố bắt buộc quyết định tính chất vi phạm trong trường hợp cụ thể này.
II. PHẦN THỰC TIỄN
1. Tình huống vi phạm pháp luật
- Chị Thanh (40 tuổi, không chồng), có quan hệ với anh Lê Mạnh H (đã có
vợ), và sinh được một đứa con (cháu Minh). Sau khi chấm dứt quan hệ với anh H,
chị luôn bị một người tên Đỗ Thị Kim Duân (43 tuổi) - vợ của H, gọi điện thoại chửi mắng.
- Ngày 06/11/2009, Duân đến nhà chị Thanh (Đông Anh, Hà Nội). Tại đây,
Duân xin được bế đứa trẻ, chị Thanh đồng ý. Lấy cớ nghe điện thoại, Duân bế cháu 7
xuống bếp và dùng chiếc kim khâu lốp dài 7cm mang theo đâm vào đỉnh thóp đầu
cháu. Sợ bị phát hiện, Duân lấy mũ đậy vết đâm lại, nhưng máu chảy quá nhiều,
cháu khóc thét lên nên bị mọi người phát hiện. Sau khi đưa đi cấp cứu, cháu Minh (40 ngày tuổi) qua đời.
- Duân (sinh năm 1974, Đông Anh, Hà Nội) không có bệnh về thần kinh,
chưa có tiền án, là một người làm ruộng.
2. Phân tích mặt khách quan và mặt chủ quan trong tình huống
2.1. Mặt khách quan của vi phạm pháp luật trong tình huống
- Hành vi: việc làm của Duân (dùng kim khâu lốp đâm xuyên đầu đứa trẻ sơ
sinh 40 ngày tuổi) là hành vi dã man, lấy đi tính mạng đứa trẻ, gây nguy hiểm cho
xã hội được quy định tại Bộ luật hình sự.
- Hậu quả: gây nên cái chết của cháu Minh, gây tổn thương tinh thần gia đình
đứa trẻ và bất bình trong xã hội. Thiệt hại được gây ra trực tiếp bởi hành vi trái pháp luật.
- Thời gian: diễn ra vào sáng ngày 06/11/2009
- Địa điểm: tại nhà bếp của chị Thanh.
- Hung khí: là một chiếc kim khâu lốp dài 7cm đã được chuẩn bị từ trước. + Mặt khách thể:
Hành vi của Duân đã xâm phạm tới quyền được bảo đảm về tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân, vi phạm đến quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
2.2. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật trong tình huống
- Lỗi: hành vi của Duân là lỗi cố ý trực tiếp. Bởi Duân là người có đủ năng
lực trách nhiệm pháp lý, biết rõ việc mình làm là trái pháp luật gây hậu quả nghiêm
trọng, nhưng vẫn mong muốn hậu quả xảy ra. Duân có mang theo hung khí và có
thủ đoạn tinh vi (lấy cớ nghe điện thoại, che đậy vết thương của bé Minh).
- Động cơ: Duân thực hiện hành vi này là do ghen tuông với mẹ đứa trẻ.
- Mục đích: Duân muốn giết chết đứa trẻ để trả thù mẹ đứa trẻ. 8 C. KẾT LUẬN
Từ việc phân tích các vấn đề lý luận liên quan đến vi phạm pháp luật và các
yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật thông qua ví dụ cụ thể, đặc biệt là mặt khách
quan và mặt chủ quan của vi phạm pháp luật, có thể nhận thấy rằng không phải mọi
hành vi trái pháp luật đều bị xem là vi phạm pháp luật và khi gây ra cùng một hậu
quả nhưng chế tài xử phạt không giống nhau. Điều này xuất phát từ việc một hành
vi chỉ được coi là vi phạm pháp luật khi và chỉ khi nó đáp ứng đầy đủ các yếu tố
cấu thành của vi phạm pháp luật và các yếu tố khác theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình điều tra vụ án, các cơ quan nhà nước và những người có thẩm
quyền cần áp dụng Luật một cách chính xác, tránh trường hợp bỏ sót tội phạm hoặc
xử phạt sai đối với những người vô tội hay đưa ra các chế tài không phù hợp, thiếu
công bằng cho các chủ thể vi phạm pháp luật. Qua đó tạo niềm tin cho nhân dân
vào pháp luật; bảo vệ các lợi ích hợp pháp của Nhà nước, công dân, tổ chức; tạo sự
công bằng trong pháp luật. Thông qua việc phân tích mặt khách quan và mặt chủ
quan của vi phạm pháp luật chúng ta có cái nhìn tổng quát hơn về các hiện tượng
tiêu cực (hành vi vi phạm pháp luật) từ đó giúp bản thân nhận thức đúng đắn hơn
về việc nhìn nhận những hành vi xung quanh trước khi đưa ra kết luận và ngày
càng hoàn thiện bản thân, trở thành một người công dân, cán bộ có ích cho xã hội. 9
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình pháp luật đại cương dùng cho sinh viên Đại học, Cao đăng
không chuyên ngành luật, NXB Đại học sư phạm năm 2013.
2. Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Đại học Kiểm sát Hà Nội.
3. Giáo trình đại cương về nhà nước và pháp luật, Đại học quốc gia Hà Nội, khoa Luật.
4. Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Đại học luật Hà Nội.