


Preview text:
lOMoAR cPSD| 48704538
Mặt trái của nền kinh tế VN
1. Bóc lột quá sức sức lao động của con người và tài nguyên thiên
nhiên dẫn đến ô nhiễm mỗi trường.
Từ thực tiễn của nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam còn được thể
hiện qua tình trạng bóc lột sức lao động, bấp chấp lợi ích cửa người lao
động. Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi ích tối đa vì đây là
nền kinh tế hướng đến lợi nhuận, vì lợi nhuận nên làm tất cả. Một quan
điểm khó có thể chấp nhận là: Sức lao động trở thành hàng hóa hay nói
cách khác vì để thu lại được lợi nhuận cao hơn các đối tượng lao động phải
làm quá nhiều việc mà vượt quá số tiền mà họ nhận được. Bên cạnh đó họ
còn có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, làm cạn kiệt nguồn tài nguyên
gây ô nhiễm môi trường sống của con người, do đó hiệu quả kinh tế – xã
hội không được đảm bảo. Lượng chất thải (nước thải, khí thải) xả vào môi
trường làm ô nhiễm môi trường nước (đối với nước thải) và ô nhiễm không
khí (đối với khí thải) làm cho Trái Đất nóng dần lên, thủng tầng ozone gây
hại đến sức khỏe con người và các loài động thực vật trên Trái Đất
Việt Nam nằm trong nhóm 10 quốc gia có chất lượng không khí tệ nhất
trên thế giới. Gần đây còn xảy ra các sự việc như nguồn thải lớn từ tổ hợp
nhà máy của Công ty Formosa Hà Tĩnh chứa độc tố tạo thành một dạng
phức hợp, di chuyển vào Nam làm hải sản ở tầng đáy biển chết, hay vụ việc
Công ty, Vedan cán bộ của Công ty Vedan thừa nhận rằng hệ thống đường
ống được lắp đặt để xả chất lỏng nguy hại ra sông Thị Vải đã được vận
hành suốt 14 năm gây nên một mức ô nhiễm độc hại rất lớn.
2. Phá hoại bản sắc văn hóa Việt Nam
Thực tế cho thấy rằng, trong đời sống xã hội đã có những biểu hiện coi
nhẹ những giá trị truyền thống như “tệ sùng bái” nước ngoài, họ không
thích hoặc thờ ơ với các bản nhạc, bài ca cách mạng, không quan tâm đến
các hình thức nghệ thuật, các dòng dân ca truyền thống. Cùng với sự phát
triển của các phương tiện thông tin đại chúng, hàng ngày, hàng giờ, trên
các mạng thông tin toàn cầu liên tục truyền các hình ảnh, tin tức, ấn phẩm
độc hại, không phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc. Chính điều này
đã góp phần hình thành ở một bộ phận thanh, thiếu niên lối sống buông
thả, bạo lực, tình dục,… xa lạ, trái ngược với những giá trị nhân văn lâu
đời của dân tộc, những giá trị đã tạo nên bản sắc văn hóa và đạo đức
truyền thống của con người Việt Nam. Chạy theo lối sống thực dụng, cá
nhân vị kỷ, chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí,
đồng nghiệp. Lối sống tình nghĩa, đậm chất nhân văn kiểu “thương người
như thể thương thân”, “một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”… vốn là một
trong những giá trị đạo đức truyền thống của nền văn hóa làng xã Việt lOMoAR cPSD| 48704538
Nam đã từng tồn tại hàng ngàn năm nay đang bị mai một, mờ nhạt dần.
Đây thực sự là những tín hiệu “báo động đỏ” trong đời sống đạo đức ở nước ta hiện nay. 3.
Lối sống “tiền trao cháo múc” trong xã hội, coi trọng các giá trị
vật chất và coi nhẹ các giá trị tinh thần
Kinh tế thị trường phát triển đồng nghĩa với xuất hiện nhiều hơn khuynh
hướng chạy theo lợi nhuận đơn thuần, hay nguy cơ “thương mại hóa” (cái
gì có tiền mới làm, cái gì không có tiền, dù cần cũng không làm). Kinh tế
thị trường cũng đã kéo theo lối sống “tiền trao cháo múc”. Từ chỗ lấy lý
tưởng, đạo đức làm mẫu mực chuyển sang coi thường đạo đức, phẩm giá;
tuyệt đối giá trị thực dụng, tôn sùng tiện nghi vật chất, tôn sùng đồng tiền,
coi tiền là trên hết, lấy đồng tiền làm thước đo giá trị của con người.
Tiền xâm nhập vào nhiều mối quan hệ đạo đức xã hội, thậm chí thành
nguyên tắc xử thế và tiêu chuẩn hành vi của không ít người. Chính điều
này đã làm cho một bộ phận không nhỏ trong nhân dân, nhất là tầng lớp
thanh niên có tâm lý coi trọng các giá trị vật chất, xem nhẹ các giá trị tinh
thần và dẫn đến sự hình thành lối sống hưởng thụ, thực dụng, xa hoa lãng
phí, xa lạ với lối sống giản dị, tiết kiệm – những phẩm chất truyền thống
quý báu của con người Việt Nam. 4.
Kinh tế thị trường ngày càng tăng khoảng cách giàu nghèo, bất công xã hội
Từ ngày nền kinh tế quy đổi sang hướng thị trường đến nay, người giàu
tăng nhanh dẫn đến giàu nghèo trong xã hội phân hóa. Bởi sự tăng trưởng
của kinh tế thị trường không trọn vẹn tương thích với tiền năng, cũng như
năng lượng của mỗi người, năng lực của mỗi người cũng khác nhau, có
người chớp lấy được thời cơ và xu thế trở nên giàu sang, cũng có người
không bắt kịp thời đại mà dần thụt lùi rồi trở nên nghèo nàn. Dần lâu họ
lại càng có ít có thời cơ tiếp cận và hạn chế bảo vệ những điều kiện kèm
theo sống cơ bản, tối thiểu. Từ đó bất công xã hội cũng từ từ tăng cao bởi
nền kinh tế càng tăng trưởng những dịch vụ hay ngân sách xã hội cũng đa
phần cung ứng những nhu yếu đời sống của người giàu. TS. Phùng Đức
Tùng – viện trưởng viện điều tra và nghiên cứu tăng trưởng Mekong đã
đánh giá và nhận định rằng : “ Tăng trưởng GDP mang lại quyền lợi cho
người giàu còn người nghèo được hưởng lợi rất ít và ngày càng ít đi
Trong 1 giờ người giàu nhất có mức thu nhập cao hơn gần 5.000 lần số
tiền mà 10 % nhóm nghèo nhất chi hàng ngày cho những nhu yếu thiết
yếu. Số liệu thống kê cũng cho thấy nếu năm 1993, chênh lệch giữa nhóm
20 % dân số giàu nhất so với 20 % dân số nhóm nghèo nhất chỉ khoảng
chừng 4,4 lần thì đến năm năm nay đã tăng lên 10 lần. Tuy nhiên, đây lOMoAR cPSD| 48704538
cũng chỉ là số lượng tương đối, trong thực tiễn hoàn toàn có thể cao hơn
nhiều vì thu nhập của người giàu đang rất khó đo đếm được. Kết quả xoá
đói giảm nghèo chưa thật vững chãi, tỷ suất hộ nghèo đã thoát nghèo
nhưng nằm sát chuẩn nghèo rất lớn ( 70,5 – 80 % ) .
5.Kinh tế thị trường làm xuất hiện các tệ nạn xã hội
Vì kinh tế thị trường là nền kinh tế hướng đến lợi nhuận là chủ yếu mà
không chú trọng quan tâm đến các vấn đề xã hội, điều này làm gia tăng
nhanh những hành vi vượt ngoài tầm kiểm soát của pháp luật, các tệ nạn
diễn ra tràn lan và ngày một phổ biến, tác động đến tư tưởng, đạo đức, lối
sống, tâm lí, hành vi của một bộ phận nhân dân, nhất là thanh thiếu niên.
Môi trường đạo đức và văn hóa lành mạnh bị đe dọa nghiêm trọng, có
nguy cơ dẫn tới khủng hoảng tinh thần, mất phương hướng lựa chọn các
giá trị sống và làm mất niềm tin của một bộ phận công chúng. Trong
những năm gần đây tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội trong học sinh, sinh
viên đang có xu hướng gia tăng. Tình trạng phạm tội có tổ chức, tụ tập
nhóm để trộm cắp, cướp giật, đâm thuê, chém mướn, sử dụng ma túy, cờ
bạc, … Khảo sát năm 2010 của vụ văn hóa, ban tư tưởng của trung ương
cho thấy có 13 biểu hiện chưa tốt của học sinh, sinh viên. Thống kê năm
2012 có 600 học sinh, sinh viên nghiện ma túy, năm 2014-2015 tăng lên
800, bên cạnh còn có 8000 vụ vi phạm hình sự. Tình trạng học sinh, sinh
viên bỏ học, sống lang thang, gây rối trật tự gia tăng đến nay lên tới 20 000 đối tượng.