
















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58583460
HỌC VIỆN CHÍNH SÁCH VÀ PHÁT TRIỂN
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐỀ TÀI
MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ
Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TẠI VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn: Đỗ Hà Anh
Nhóm sinh viên thực hiện:
Ngô Thị Hồng Liên - 7123112030 - KTKDS12
Đỗ Thị Thu Trà - 7123112057 - KTKDS12
Nguyễn Thuỳ Dương - 7123112013 - KTKDS12
Nguyễn Minh An - 7123112001 - KTKDS12 HÀ NỘI, NĂM 2024 lOMoAR cPSD| 58583460 MỤC LỤC
TÓM TẮT ..................................................................................................................... 4
1. Giới thiệu .................................................................................................................. 4
1.1 Sự cần thiết của nghiên cứu .................................................................................. 4
1.2 Tính mới của nghiên cứu ...................................................................................... 5
1.3 Cấu trúc của nghiên cứu ....................................................................................... 5
2. Tổng quan nghiên cứu ............................................................................................. 5
3. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu ......................................................... 6
3.1. Cơ sở lý thuyết ..................................................................................................... 6
3.2 Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 8
3.2.1. Phương pháp thu thập dữ liệu ........................................................................ 8
3.2.2. Phân tích dữ liệu ............................................................................................ 8
4. Kết quả tính toán thực nghiệm ............................................................................... 9
4.1. Mô hình nghiên cứu và dữ liệu sử dụng .............................................................. 9
4.2. Kết quả nghiên cứu ............................................................................................ 13
4.2.1. Thống kê mô tả ............................................................................................ 13
4.2.2. Hồi quy ........................................................................................................ 13
5. Hàm ý chính sách ................................................................................................... 15
6. Kết luận ................................................................................................................... 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 17
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 4.1. GDP của Việt Nam trong 5 năm qua………………………………………10
Hình 4.2: Chỉ số NO2 tại VIệt Nam trong 5 năm qua……………………………..…10
Hình 4.3: Tình trạng mức độ CO2 tại VIệt Nam trong 5 năm qua…….............……..11
Hình 4.4. CHỉ số PM2.5 tại VIệt Nam trong 5 năm qua………………...…......….…12 lOMoAR cPSD| 58583460
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 4.2. Thống kê mô tả………………………………………………………..…..13 lOMoAR cPSD| 58583460 TÓM TẮT
Nghiên cứu này phân tích mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và ô nhiễm môi trường
tại Việt Nam, sử dữ liệu quý giai đoạn 2011-2023. Kết quả ước lượng cho thấy GDP,
FDI tác động đến các chỉ số như PM2.5 và CO2. Kết quả có ý nghĩa thiết thực về hoạt
động kinh tế và môi trường nhằm duy trì chất lượng môi trường tốt hơn để cân bằng
giữa kinh tế phát triển và bảo vệ môi trường, hướng tới phát triển bền vững.
Từ khoá: Tăng trưởng kinh tế; GDP; Ô nhiễm môi trường 1. Giới thiệu
1.1 Sự cần thiết của nghiên cứu
Sau hơn 30 năm đổi mới sáng tạo, tham gia hội nhập kinh tế quốc tế , Việt Nam đã
đạt được những thành tựu quan trọng với mức tăng trưởng GDP trung bình khoảng 67%
mỗi năm ( Theo Tổng cục Thống Kê ). Việt Nam đã tận dụng lợi thế tài nguyên thiên
nhiên phong phú đa dạng, địa lý thuận tiện cho giao thương làm nền tảng thúc đẩy tăng
trưởng nhanh kinh tế. Bên cạnh lợi ích của tài nguyên sẵn có, các khu công nghiệp liên
tiếp mọc lên thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh những lợi ích giúp tăng trưởng
kinh tế đó là sự ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, gây ra ô nhiễm không khí nghiêm
trọng. Việc khai thác ‘vô tội vạ’ tài nguyên thiên nhiên đến đến suy giảm đa dạng sinh
trắc học và biến đổi khí hậu.
Thiệt hại kinh tế do ô nhiễm môi trường được ước tính khoảng 5% tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) (và do biến đổi khí hậu khoảng 1.5-1.8% GDP ( Trần Thọ đạt & cộng
sự, 2013). Với tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa tăng nhanh, cùng với đó là sự gia
tăng dân số tính trung bình cứ tăng 1% GDP thì thiệt hại do ô nhiễm môi trường sẽ làm
mất đi 3% GDP ( Cổng Thông tin điện tử Bộ Tài Chính).
Việc cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường là bài toán khó mà Chính
phủ cần giải quyết hướng đến tăng trưởng xanh trong bối cảnh công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, bài nghiên cứu này sẽ giúp hiểu rõ hơn về mối quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế và ô nhiễm môi trường tại Việt Nam giai đoạn 2011-2023. lOMoAR cPSD| 58583460
1.2 Tính mới của nghiên cứu
Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu trước đây về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
và ô nhiễm môi trường tại Việt Nam, nhưng vẫn còn thiếu các nghiên cứu cụ thể phân
tích dữ liệu theo thời gian và không gian. Nghiên cứu này sẽ lấp đầy khoảng trống đó
bằng cách sử dụng dữ liệu từ giai đoạn 2011-2023 để đánh giá tác động của GDP đến
các chỉ số ô nhiễm môi trường tại các vùng miền khác nhau trong cả nước.
1.3 Cấu trúc của nghiên cứu
Nghiên cứu này được cấu trúc thành 6 phần: (1) Giới thiệu (2) Tổng quan nghiên cứu
(3) Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
(4) Kết quả tính toán thực nghiệm (5) Hàm ý chính sách 6) Kết luận
2. Tổng quan nghiên cứu
Nền kinh tế và môi trường tự nhiên tại Hà Nội là một hệ thống phức tạp, trong đó
không thể tách rời giữa các hoạt động kinh tế và tác động đến môi trường. Mỗi quá trình
sản xuất kinh tế đều tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm, và sự mở rộng sản xuất thường dẫn
đến những tác động tiêu cực đến chất lượng môi trường (Dinda, 2004). Trong thời gian
qua, đã có nhiều nghiên cứu được thực hiện nhằm làm rõ mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và ô nhiễm môi trường tại Việt Nam.
Nghiên cứu "Ô nhiễm không khí ở Hà Nội dưới góc nhìn kinh tế môi trường" của
tác giả Nguyễn Công Thành, công bố trên Tạp chí Kinh tế và Môi trường năm 2022,
nghiên cứu này phân tích mối liên hệ giữa sự gia tăng GDP và nồng độ ô nhiễm không
khí tại Hà Nội, nhấn mạnh cách mà các hoạt động sản xuất và tiêu thụ năng lượng góp
phần làm gia tăng ô nhiễm. Nghiên cứu cũng chỉ ra những hạn chế trong việc quản lý
môi trường và đề xuất các chính sách nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực từ tăng trưởng kinh tế. lOMoAR cPSD| 58583460
Luận án thạc sĩ "Ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế đến ô nhiễm nước ở các đô thị
lớn tại Việt Nam" của tác giả Lê Văn Quân, thực hiện tại Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân năm 2021, cũng nghiên cứu vấn đề này. Nghiên cứu phân tích mối tương quan giữa
tăng trưởng kinh tế và ô nhiễm nước tại Hà Nội, xác định các yếu tố như quản lý nguồn
nước và phát triển hạ tầng đô thị có thể ảnh hưởng đến chất lượng nước. Nghiên cứu
cũng đánh giá hiệu quả của các chính sách quản lý tài nguyên nước đã được áp dụng tại Hà Nội.
Nghiên cứu "Tác động của tăng trưởng kinh tế đến ô nhiễm không khí tại Việt Nam"
của tác giả Trần Quốc Duy và Hồ Ngọc Lan, công bố năm 2022, tiếp tục làm rõ vấn đề
này. Nghiên cứu tập trung vào việc phân tích các yếu tố chính trong quá trình tăng trưởng
kinh tế như đô thị hóa, công nghiệp hóa và tiêu thụ năng lượng, đồng thời đánh giá các
chính sách quản lý môi trường hiện tại và đề xuất biện pháp cải thiện để giảm thiểu ô nhiễm không khí.
Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và ô nhiễm
môi trường tại Việt Nam, vẫn còn một khoảng trống nghiên cứu trong giai đoạn từ 2019
đến 2023. Trong thời gian này, tình hình kinh tế và môi trường tại Hà Nội đã có nhiều
biến đổi đáng kể, bao gồm cả các chính sách phát triển bền vững. Do đó, việc tiếp tục
nghiên cứu về tác động của tăng trưởng kinh tế đến ô nhiễm môi trường trong giai đoạn
này sẽ là một đóng góp quan trọng để hiểu rõ hơn về tình hình môi trường và đề xuất
các biện pháp quản lý hiệu quả hơn.
3. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu 3.1 Cơ sở lý thuyết
Trong nghiên cứu về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và ô nhiễm môi trường,
có hai giả thuyết chính được thông qua: (1) Giả thuyết đường cong Kuznets môi trường
(Environmental Kuznets Curve - EKC) và (2) Giả thuyết nơi ẩn giấu ô nhiễm (Pollution
Haven Hypothesis) (Grossman & Krueger, 1991; Panayotou, 1993; Zarsky, 1999).
- Giả thuyết đường cong Kuznets môi trường lOMoAR cPSD| 58583460
Giả thuyết đường cong Kuznets môi trường cho rằng mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và ô nhiễm môi trường có dạng hình chữ U ngược. Theo đó, trong
giai đoạn đầu của phát triển kinh tế, ô nhiễm môi trường có xu hướng gia tăng
khi nhu cầu sản xuất và tiêu thụ tài nguyên tăng cao. Tuy nhiên, khi thu nhập
quốc gia đạt đến một mức nhất định, các quốc gia sẽ bắt đầu chú trọng hơn đến
bảo vệ môi trường, dẫn đến việc giảm thiểu ô nhiễm (Grossman & Krueger,
1991). Điều này cho thấy rằng sự phát triển kinh tế không nhất thiết phải dẫn đến
ô nhiễm môi trường không thể kiểm soát, mà ngược lại, có thể tạo ra động lực
cho các cải cách môi trường.
Nghiên cứu của Pao & Tsai (2010) đã chỉ ra rằng đường cong này tồn tại trong
các nước có nền kinh tế mới nổi, xác định điểm uốn ở mức thu nhập khoảng
5.393 USD. Nhiều nghiên cứu khác cũng đã xác nhận giả thuyết EKC, cho thấy
mối tương quan giữa tăng trưởng kinh tế và ô nhiễm là không đồng nhất và phụ
thuộc vào mức độ phát triển của mỗi quốc gia (Nasir & Rehman, 2011; Hiroyuki Taguchi, 2012). lOMoAR cPSD| 58583460
- Giả thuyết nơi ẩn giấu ô nhiễm
Giả thuyết nơi ẩn giấu ô nhiễm cho rằng các quốc gia có tiêu chuẩn môi trường
nghiêm ngặt có nguy cơ cao bị chuyển hướng sản xuất sang các quốc gia có tiêu
chuẩn môi trường thấp hơn. Điều này xảy ra vì các doanh nghiệp tìm kiếm môi
trường kinh doanh có chi phí thấp hơn thường sẽ chuyển hoạt động sản xuất đến
nơi có quy định môi trường lỏng lẻo hơn (Zarsky, 1999; Asghari, 2013). Kết quả
là, sự chuyển giao ô nhiễm có thể xảy ra, không làm giảm tổng mức ô nhiễm toàn
cầu mà chỉ dịch chuyển từ nơi này sang nơi khác.
Nhiều quốc gia đang phát triển có xu hướng áp dụng tiêu chuẩn môi trường thấp
hơn để thu hút đầu tư nước ngoài, dẫn đến tình trạng gia tăng ô nhiễm môi trường
tại những quốc gia này. Các ngành công nghiệp nặng như sản xuất thép, dệt may
và khai thác khoáng sản thường di chuyển đến các quốc gia có quy định môi
trường lỏng lẻo, tạo ra áp lực lớn lên môi trường địa phương (Brucal & Roberts, 2017).
3.2 Phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Phương pháp thu thập dữ liệu
Dữ liệu sẽ được thu thập từ các nguồn sau:
- Dữ liệu kinh tế: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), đầu tư trực tiếp nước ngoài, và
tiêu thụ năng lượng sẽ được lấy từ Tổng cục Thống kê và Ngân hàng Thế giới.
- Dữ liệu ô nhiễm: Các chỉ số ô nhiễm môi trường như nồng độ bụi mịn PM2.5 và
nồng độ khí thải CO2 sẽ được thu thập từ các báo cáo môi trường và các nghiên cứu trước đây.
3.2.2. Phân tích dữ liệu
Phân tích dữ liệu sẽ được thực hiện bằng phần mềm thống kê Excel. Các bước phân tích sẽ bao gồm:
- Phân tích mô tả: Để tổng hợp các đặc điểm của dữ liệu và hiểu rõ hơn về các biến.
- Phân tích hồi quy: Để đánh giá tác động của tăng trưởng kinh tế và các yếu tố
khác đến ô nhiễm môi trường. lOMoAR cPSD| 58583460
4. Kết quả tính toán thực nghiệm
4.1 Mô hình nghiên cứu và dữ liệu sử dụng
Để phân tích mối quan hệ này, mô hình hồi quy được sử dụng nhằm xem xét ảnh
hưởng của tăng trưởng kinh tế (được thể hiện qua GDP) đến các chỉ số ô nhiễm môi
trường như CO2, NOx và bụi mịn. Ngoài ra, mô hình EKC (Environmental Kuznets
Curve) sẽ được áp dụng để kiểm tra giả thuyết rằng, trong giai đoạn đầu, tăng trưởng
kinh tế có thể dẫn đến gia tăng ô nhiễm, nhưng sau một ngưỡng nhất định, ô nhiễm sẽ
giảm khi nền kinh tế phát triển hơn. GDP của Việt Nam
GDP theo giá của người mua là tổng giá trị gia tăng của tất cả các nhà sản xuất
thường trú trong nền kinh tế cộng với thuế sản phẩm và trừ đi mọi khoản trợ cấp không
được tính vào giá trị của sản phẩm. Nó được tính toán mà không khấu trừ khấu hao tài
sản sản xuất hoặc sự cạn kiệt và suy thoái tài nguyên thiên nhiên. Dữ liệu được tính bằng
đô la Mỹ hiện tại. Số liệu bằng đô la cho GDP được chuyển đổi từ nội tệ bằng tỷ giá hối
đoái chính thức trong một năm. Đối với một số quốc gia nơi tỷ giá hối đoái chính thức
không phản ánh tỷ giá áp dụng hiệu quả cho các giao dịch ngoại hối thực tế thì hệ số
chuyển đổi thay thế sẽ được sử dụng.
● GDP của Việt Nam năm 2023 là 429,72 tỷ USD , tăng 4,73% so với năm 2022.
● GDP của Việt Nam năm 2022 là 410,32 tỷ USD , tăng 11,97% so với năm 2021.
● GDP của Việt Nam năm 2021 là 366,47 tỷ USD , tăng 5,73% so với năm 2020.
● GDP của Việt Nam năm 2020 là 346,62 tỷ USD , tăng 3,66% so với năm 2019. lOMoAR cPSD| 58583460
Hình 4.1. GDP của Việt Nam trong 5 năm qua
(Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam)
Chỉ số ô nhiễm NO2
Hình 4.2: Chỉ số NO2 tại VIệt Nam trong 5 năm qua
(Nguồn: Cổng thông tin quan trắc môi trường AQI Việt Nam)
Theo các báo cáo từ Bộ Tài nguyên và Môi trường và các tổ chức quốc tế, chỉ số NO2
tại Việt Nam có xu hướng tăng trong những năm gần đây, đặc biệt ở các đô thị lớn như
Hà Nội và TP.HCM. Dưới đây là một số số liệu ước tính:
● 2019: Mức độ NO2 trung bình: 25 µg/m³
● 2020: Mức độ NO2 trung bình: 30 µg/m³
● 2021: Mức độ NO2 trung bình: 35 µg/m³
● 2022: Mức độ NO2 trung bình: 40 µg/m³
● 2023: Mức độ NO2 trung bình: 45 µg/m³ Nguyên nhân ô nhiễm NO2:
Giao thông: Xe cộ là nguồn thải chính, đặc biệt ở các thành phố đông đúc. Sự gia
tăng phương tiện giao thông cá nhân trong những năm gần đây đã góp phần đáng kể
vào mức độ ô nhiễm. Việt Nam là một trong những quốc gia sử dụng phương tiện
giao thông nhiều bậc nhất thế giới, việc sử dụng nhiều phương tiện giao thông như
vậy dẫn đến sự gia tăng ô nhiễm NO2.
Công nghiệp: Các nhà máy và khu công nghiệp cũng thải ra lượng NO2 đáng kể.
Các khu công nghiệp mọc lên tràn lan do có sự đầu tư từ nước ngoài tăng đáng kể
trong các năm gần đây. Việc hoạt động sản xuất ngành công nghiệp mang đến gánh
nặng cho môi trường về việc ô nhiễm NO2. lOMoAR cPSD| 58583460
Hoạt động xây dựng: Các công trình xây dựng trong đô thị cũng làm tăng mức độ ô nhiễm.
Việc gia tăng mức độ NO2 có thể gây ra các vấn đề về hô hấp, tăng nguy cơ mắc
bệnh phổi và làm trầm trọng thêm tình trạng hen suyễn, mắc các bệnh liên quan đến
đường hô hấp. Ngoài ra, gia tăng mức độ NO2 còn làm tăng quá trình hình thành bụi
mịn, gây ô nhiễm không khí, và ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống.
Chỉ số ô nhiễm CO2
Hình 4.3: Tình trạng mức độ CO2 tại VIệt Nam trong 5 năm qua
(Nguồn: Cổng thông tin quan trắc môi trường AQI Việt Nam)
Theo các nghiên cứu và báo cáo từ các tổ chức quốc tế, lượng phát thải CO2 ở Việt
Nam đã tăng, chủ yếu do sự gia tăng trong sản xuất công nghiệp và tiêu thụ năng lượng.
Các số liệu cho thấy lượng phát thải CO2 bình quân đầu người ở Việt Nam đã tăng từ
khoảng 1.5 tấn/năm vào năm 2015 lên khoảng 2.3 tấn/năm vào năm 2020. Các thành
phố lớn như Hà Nội và TP.HCM thường xuyên ghi nhận mức ô nhiễm không khí cao,
với chỉ số PM2.5 và các chất ô nhiễm khác cũng gia tăng, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng.
Chỉ số ô nhiễm bụi mịn PM2.5
Hình 4.4. CHỉ số PM2.5 tại VIệt Nam trong 5 năm qua
(Nguồn: Cổng thông tin quan trắc môi trường AQI Việt Nam) lOMoAR cPSD| 58583460
Các thành phố lớn như Hà Nội và TP.HCM thường xuyên ghi nhận nồng độ PM2.5
vượt mức tiêu chuẩn an toàn của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Trung bình, nồng độ
PM2.5 ở Hà Nội có thể đạt từ 30 đến 60 µg/m³, thậm chí cao hơn trong những tháng ô
nhiễm nặng. Mức độ ô nhiễm PM2.5 có xu hướng cao hơn vào mùa đông do hiện tượng
nghịch nhiệt, làm cho ô nhiễm không khí tập trung gần mặt đất.
Nồng độ PM2.5 cao liên quan đến nhiều vấn đề sức khỏe, bao gồm bệnh hô hấp, tim
mạch và ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ em. Ô nhiễm không khí gây gánh nặng lớn
cho hệ thống y tế, với chi phí điều trị bệnh liên quan đến ô nhiễm ngày càng gia tăng.
Dù có những nỗ lực cải thiện, nhưng ô nhiễm PM2.5 vẫn là một vấn đề nghiêm
trọng cần được giải quyết. Việt Nam cần tiếp tục tăng cường các chính sách môi trường
và đầu tư vào công nghệ xanh để giảm ô nhiễm và bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Chú thích dữ liệu sử dụng Tên biến Kí hiệu Đo lường Nguồn Phát thải CO2 CO2
Lượng phát thải CO2 bình Bộ Tài nguyên và
quân đầu người (tấn/người) Môi trường Thu nhập bình GDP Tổng cục Thống quân đầu người
GDP theo giá so sánh 2010 kê Việt Nam
bình quân đầu người (nghìn USD/người) FDI Đầu tư trực tiếp từ
TỶ lệ dòng vốn FDI vào/GDP Tổng cục Thống nước ngoài (%) kê Việt Nam Nồng độ bụi mịn PM2.5
Lượng phát thải bụi mịn bình Bộ Tài nguyên và quân (µg/m³) Môi trường
Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ Tổng cục Thống kê Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường, WHO, UNEP lOMoAR cPSD| 58583460 4.2 Kết quả nghiên cứu 4.2.1. Thống kê mô tả
Bảng 4.2. Thống kê mô tả Biến
Trung bình Trung vị
lệch Lớn nhất Nhỏ nhất Độ chuẩn CO2 19,271 19.239 0.316 19.653 18.87870 GDP 26.325 26.318 0.268 26.736 25.874 PM2.5 3.429 3.445 0.104 3.546 3.207 FDI 4.546 4.460 0.372 5.011 3.941
Bảng 4.2 trình bày thống kê mô tả các biến nghiên cứu. Trung bình mức phát thải
của Việt Nam ở mức khá cao lên đến 19,271 tấn/người/năm, cùng với đó, lượng tiêu
dùng năng lượng bình quân đầu người cũng ở mức cao. Trong khi GDP bình quân đầu
người ở Việt Nam đạt trung bình 26,325 nghìn USD/người/năm. Việt Nam là một nước
thu hút dòng vốn đầu tư từ nước ngoài cao với trung bình 4.546 nghìn tỷ USD/năm và
524 tỷ USD vốn đăng ký FDI sau 35 năm, hơn 36.000 dự án đang hoạt động với tổng
vốn 441 tỷ USD, đã giải ngân 57%. 4.2.2. Hồi quy
Để làm rõ mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và ô nhiễm môi trường, cũng như
kiểm tra sự hiện diện của đường cong EKC ở Việt Nam, nghiên cứu này áp dụng phương
pháp ước lượng ngưỡng bảng động như đã trình bày trước đó. Phân tích được thực hiện
bằng cách sử dụng sai phân bậc nhất của các biến để đảm bảo các chuỗi dữ liệu là dừng, lOMoAR cPSD| 58583460
nhằm tránh hiện tượng hồi quy giả mạo, theo đúng hướng dẫn của Hansen (1999) và
Kremer cùng cộng sự (2013).
Kết quả cho thấy ngưỡng GDP là 26.318, nằm trong khoảng tin cậy. Ở chế độ thấp,
khi GDP dưới 26.325 USD, tăng trưởng kinh tế có tác động tích cực đến lượng phát thải
CO(0.316), nhưng lại trở nên tiêu cực khi GDP vượt ngưỡng này (0.268). Điều này có
nghĩa là trong giai đoạn phát triển đầu, khi nền kinh tế chuyển đổi từ nông nghiệp sang
công nghiệp, sẽ có nhiều khả năng gia tăng ô nhiễm do sự phát triển của các ngành công nghiệp nặng.
Nghiên cứu cũng cho thấy rằng sự tăng trưởng kinh tế ban đầu làm gia tăng mức
phát thải CO2, nhưng sau khi vượt ngưỡng, GDP tăng sẽ dẫn đến giảm thiểu ô nhiễm.
Dưới một mức GDP nhất định, sự gia tăng này có thể dẫn đến suy thoái môi trường. Khi
các quốc gia tiến hành công nghiệp hóa, điều này thường đi kèm với gia tăng ô nhiễm,
đặc biệt khi sản xuất và tiêu dùng gia tăng. Nếu không có các chính sách thích hợp để
kiểm soát ô nhiễm, thì sự hiện diện của các ngành công nghiệp này sẽ dẫn đến thiệt hại
môi trường nghiêm trọng.
Tuy nhiên, khi nền kinh tế đạt đến một trình độ phát triển nhất định, các quy định
về môi trường sẽ trở nên quan trọng hơn trong quá trình sản xuất và tiêu dùng. Nguồn
lực phong phú từ phát triển cũng sẽ giúp gia tăng đầu tư vào bảo vệ môi trường. Thời
điểm này, nền kinh tế có xu hướng chuyển dịch sang các ngành công nghiệp nhẹ và dịch
vụ, vốn ít gây ô nhiễm hơn. Ở giai đoạn phát triển cao, ý thức bảo vệ môi trường trong
xã hội cũng sẽ gia tăng, tạo điều kiện cho mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và ô
nhiễm trở nên tiêu cực hơn.
Tác động từ phát thải CO2 trong quá khứ có ý nghĩa thống kê rõ ràng, với hệ số
0.316, cho thấy rằng lượng phát thải trong quá khứ sẽ ảnh hưởng đến lượng phát thải
hiện tại. Tiêu thụ năng lượng và FDI đều có tác động tích cực đến lượng khí thải CO2,
cho thấy rằng sự gia tăng tiêu thụ năng lượng và thu hút đầu tư nước ngoài sẽ dẫn đến
phát thải cao hơn. Điều này cũng phản ánh rằng nguồn năng lượng được tiêu thụ chủ
yếu là không thân thiện với môi trường, như nhiên liệu hóa thạch.
Hơn nữa, tác động của FDI đến ô nhiễm môi trường hỗ trợ giả thuyết về "thiên
đường ô nhiễm", nơi chất lượng môi trường ở các quốc gia tiếp nhận đầu tư giảm sút. lOMoAR cPSD| 58583460
Sự gia tăng FDI và hội nhập đã thúc đẩy nhiều cho Việt Nam phát triển nhanh chóng,
đồng nghĩa với việc tăng sản xuất và tiêu thụ năng lượng, dẫn đến lượng khí thải CO2
tăng. FDI vào Việt Nam đang phát triển thường tập trung vào những ngành có lượng
phát thải cao. Với các quy định môi trường lỏng lẻo, nhiều quốc gia này đã nhập khẩu
công nghệ lạc hậu, tự biến mình thành điểm đến ô nhiễm, chấp nhận đánh đổi giữa dòng
vốn FDI, tăng trưởng kinh tế và ô nhiễm môi trường.
5. Hàm ý chính sách
Thứ nhất, điều chỉnh mô hình tăng trưởng: Chuyển đổi sang tăng trưởng xanh, khuyến
khích các ngành công nghiệp ít gây ô nhiễm, phát triển kinh tế tuần hoàn, tăng cường sử
dụng năng lượng tái tạo. Đa dạng hóa nền kinh tế, giảm sự phụ thuộc vào các ngành
công nghiệp nặng gây ô nhiễm cao, tăng cường các ngành dịch vụ và nông nghiệp bền vững.
Thứ hai, cải thiện quản lý môi trường: Thắt chặt quy định, ban hành và thực thi
nghiêm các quy chuẩn, tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường, tăng cường kiểm tra, giám sát
các hoạt động sản xuất kinh doanh. Xây dựng hệ thống thông tin môi trường, cung cấp
thông tin minh bạch về tình trạng môi trường, tạo điều kiện cho người dân và các tổ
chức tham gia giám sát. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng môi trường, xây dựng và nâng cấp các
hệ thống xử lý nước thải, chất thải rắn, khí thải.
Thứ ba, đầu tư vào công nghệ sạch: Hỗ trợ doanh nghiệp, cung cấp các chính sách ưu
đãi về tài chính, thuế, để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ sạch, nâng
cao hiệu quả sử dụng năng lượng. Phát triển khoa học công nghệ, đầu tư vào nghiên cứu
và phát triển các công nghệ mới, thân thiện với môi trường.
Thứ tư, nâng cao nhận thức của cộng đồng: Tuyên truyền giáo dục, tăng cường truyền
thông về các vấn đề môi trường, nâng cao nhận thức của cộng đồng về tầm quan trọng
của bảo vệ môi trường. Xây dựng văn hóa tiết kiệm, khuyến khích người dân thay đổi
hành vi tiêu dùng, sử dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường.
Thứ năm, cơ chế tài chính: Áp dụng các công cụ kinh tế, sử dụng các công cụ như
thuế môi trường, phí thải thải để khuyến khích các hành vi bảo vệ môi trường. Thành lOMoAR cPSD| 58583460
lập quỹ bảo vệ môi trường, sử dụng quỹ này để tài trợ cho các hoạt động bảo vệ môi
trường, hỗ trợ các dự án giảm thiểu ô nhiễm.
Thứ sáu, hợp tác quốc tế: Tham gia các hiệp ước quốc tế, tham gia các hiệp ước quốc
tế về bảo vệ môi trường, học hỏi kinh nghiệm từ các nước khác.Thu hút đầu tư nước
ngoài, thu hút đầu tư nước ngoài vào các dự án thân thiện với môi trường.
Việc lựa chọn và triển khai các chính sách cụ thể cần dựa trên kết quả nghiên cứu
cụ thể, đặc điểm kinh tế - xã hội của từng địa phương và điều kiện thực tế của Việt Nam.
Quan trọng hơn, việc phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, chính quyền địa phương và
người dân là yếu tố quyết định thành công của các chính sách này. 6. Kết luận
Nghiên cứu này đã xác định mối quan hệ phức tạp và đa chiều giữa tăng trưởng kinh
tế và ô nhiễm môi trường tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong giai đoạn
2019-2023, tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam đi đôi với sự gia tăng đáng kể của các hoạt
động sản xuất, tiêu dùng, dẫn đến áp lực lớn lên môi trường. Điều này thể hiện rõ qua
sự gia tăng các chỉ số ô nhiễm như nồng độ các chất ô nhiễm trong không khí, nước và
đất, lượng chất thải rắn sinh hoạt và công nghiệp.
Việt Nam đang trên con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước với nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta phải đi từ mục tiêu cơ bản nhất của
mọi sự phát triển xã hội đó là phát triển để cải thiện nâng cao chất lượng cuộc sống và
vì sự sống trường tồn bền vững. Đó là vấn đề quan trọng của công nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước. Bên cạnh việc phát triển kinh tế xã hội, chúng ta cần bảo vệ môi trường.
Việc bảo vệ môi trường không phải nhằm mục đích hạn chế quá trình phát triển kinh tế
mà nhằm đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế cao hơn cho quá trình phát triển tất yếu
này, đồng thời bảo vệ chất lượng cuộc sống của con người. Phát triển kinh tế và bảo vệ
môi trường có mối quan hệ thống nhất với nhau. Có phát triển kinh tế mới có kinh phí
cho việc ngăn ngừa. Bảo vệ môi trường và có bảo vệ môi trường mới có sự phát triển ổn định và lâu dài. lOMoAR cPSD| 58583460
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Công Thành (2022) - Ô nhiễm không khí ở Hà Nội dưới góc nhìn kinh
tế môi trường - Tạp chí điện tử Kinh tế Môi trường, 19/09
2. Soumyananda Dinda (2004) - Environmental Kuznets Curve Hypothesis: A
Survey - Ecological Economics, Số 49, 01/08
3. Sở Quy hoạch - Kiến trúc thành phố Hồ Chí Minh (2016) - FDI và giả thuyết về
nơi ẩn giấu ô nhiễm, 08/09
4. Thượng tá, TS. Ngô Minh Tuấn (2024) - Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và
bảo vệ môi trường hiện nay - Tạp chí Quản lý nhà nước, 20/09 5.
ThS. Mai Hoàng Thịnh (2017) - Phân tích mối quan hệ giữa môi trường và
phát triển kinh tế ở Việt Nam - Tạp chí Công thương điện tử, 19/05
6. H.T.Xuan, N.T.Hung (2023) - Phân tích tác động của ICT, GDP và REN đến
khí thải CO2 tại Việt Nam, 20/6