Mối quan hệ giữa Việt Nam - Trung Quốc - Chính sách đối ngoại Việt Nam | Học viện Ngoại giao Việt Nam

Mối quan hệ giữa Việt Nam - Trung Quốc từ lâu đã được xem là một mối quan hệ điển hình cho tính chất bất cân xứng trong quan hệ quốc tế. Chia sẻ với Trung Quốc hơn 2000 năm lịch sử, Việt Nam đã phải chịu đựng sức nặng của nền văn minh đồ sộ này.

MỤC LỤC
PHẦN 1. MỞ ĐẦU........................................................................................................1
1. Tóm tắt................................................................................................................. 1
2. Đặt vấn đề............................................................................................................ 1
3. Câu hỏi nghiên cứu giả thiết..........................................................................2
4. Giới hạn đề tài..................................................................................................... 2
PHẦN 2. NỘI DUNG....................................................................................................3
1. Mối quan hệ bất cân xứng.................................................................................. 3
1.1. Định nghĩa.................................................................................................... 3
1.2. Các yếu tố trong mối quan hệ bất cân xứng................................................. 3
2. Mối quan hệ bất đối xứng giữa Việt Nam - Trung Quốc.................................4
2.1. Yếu tố bất cân xứng trong mối quan hệ Việt - Trung................................... 5
2.1.1. Sự chênh lệch về tiềm lực.....................................................................5
2.1.2. Quan niệm về bản sắc nước lớn - nước nhỏ........................................ 5
2.2. Yếu tố bất cân xứng tác động đến việc Việt Nam nhận thức về Trung Quốc
trong lịch sử......................................................................................................... 6
2.2.1. duy chủ quyền với Trung Quốc.......................................................6
2.2.2. Chiến thắng Trung Quốc như một tiêu chuẩn cho tính chính danh.....7
2.2.3. Tham vọng “bành trướng quyền” của Trung Quốc........................8
2.2.4. Chủ trương điều hòa mối quan hệ....................................................... 8
3. Yếu tố bất cân xứng tác động như thế nào đến việc Việt Nam nhận thức về
Trung Quốc trong giai đoạn 1979 - 1991...............................................................9
3.1. Tác động từ bạn thành thù............................................................................ 9
3.2. Tác động từ thù thành bạn.......................................................................... 10
3.2.1. Chủ trương bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc......................10
3.2.2. Nhìn nhận Trung Quốc hai mặt: hội chủ nghĩa bành trướng
quyền........................................................................................................11
PHẦN 3. KẾT LUẬN................................................................................................. 13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................14
18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại
about:blank
1/16
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1. Tóm tắt
Mối quan hệ giữa Việt Nam - Trung Quốc từ lâu đã được xem một mối quan
hệ điển hình cho tính chất bất cân xứng trong quan hệ quốc tế. Chia sẻ với Trung
Quốc hơn 2000 năm lịch sử, Việt Nam đã phải chịu đựng sức nặng của nền văn minh
đồ sộ này hình thành những nhận thức mang bản sắc nước nhỏ - để từ đó những
hành động mang tính hệ thống, cấu trúc nhằm điều hòa mối quan hệ với Trung Quốc.
Một trong những dẫn chứng tiêu biểu đó chính mối quan hệ bang giao dưới hình
thức “chính quốc - phiên thuộc”. Những nhận thức mang tính hệ thống cấu trúc về
mối quan hệ bất cân xứng ấy đã tác động đến quá trình thay đổi nhận thức của Việt
Nam về kẻ thù Trung Quốc trong giai đoạn 1979 - 1991: trên cả hai chiều hướng từ
bạn thành thù từ thù thành bạn. Trong đó, ý thức về bảo vệ trọn vẹn độc lập, chủ
quyền lãnh thổ của Việt Nam đã góp phần làm sâu sắc thêm sự thù địch của Việt Nam
dành cho Trung Quốc. Còn những triết về điều hòa mối quan hệ cũng như nhận
thức về sự bành trướng quyền của Trung Quốc đã thúc đẩy tiến trình bình thường
hóa quan hệ giữa hai nước.
2. Đặt vấn đề
Trong bài tập nhóm, em quan tâm tới tác động của yếu tố hệ thống, cấu trúc tới
sự thay đổi nhận thức của Việt Nam về kẻ thù Trung Quốc trong giai đoạn 1979 -
1991 bởi đây yếu tố tính truyền thống, lịch sử liên quan đến sự tồn vong an
ninh. Em tin rằng những sự nhận thức mang tính hệ thống đã ăn sâu trong tâm trí dân
tộc Việt Nam về Trung Quốc sẽ còn tồn tại lâu dài trong tiến trình phát triển, song
hành với các nhân tố mới nổi lên trong quan hệ quốc tế. Trong bài tiểu luận của nhóm,
yếu tố bất đối xứng được đề cập đến như một trong những do chính cho sự nhận
thức “ác quỷ hóa” của Việt Nam về kẻ thù Trung Quốc. Song, em nhận thấy, tính chất
bất đối xứng trong mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đóng vai trò sở chi phối
nhận thức, mang tính hệ thống, cấu trúc tác động tới sự thay đổi nhận thức của
Việt Nam về kẻ thù Trung Quốc trong giai đoạn 1979 - 1991. Nếu chiếu theo cấu trúc
của bài tập nhóm, phần yếu tố hệ thống cấu trúc chưa sự liên kết ràng giữa sở
thực tiễn, phần sở “Ba phương thức tạo ra kẻ thù” chưa đủ để chỉ ra tác động
của yếu tố này tới quá trình thay đổi nhận thức của Việt Nam về kẻ thù Trung Quốc
trong giai đoạn 1979 - 1991. Đồng thời, em thấy rằng thể đào sâu thêm vấn đề theo
lăng kính của mối quan hệ bất cân xứng trong quan hệ Việt - Trung để đúc kết ra
những yếu tố hệ thống cấu trúc trong mối quan hệ giữa hai quốc gia rồi từ đó soi chiếu
1
18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại
about:blank
2/16
vào quá trình thay đổi nhận thức của Việt Nam về kẻ thù Trung Quốc trong giai đoạn
1979 - 1991. Đó do em lựa chọn đề tài này để nghiên cứu đi tới câu hỏi nghiên
cứu như dưới đây.
3. Câu hỏi nghiên cứu giả thiết
Câu hỏi nghiên cứu em lựa chọn để tiếp cận vấn đề này chính là: Yếu tố bất đối
xứng trong mối quan hệ Việt - Trung tác động như thế nào đến sự thay đổi nhận thức
của Việt Nam về kẻ thù Trung Quốc trong giai đoạn 1979 - 1991?
Từ câu hỏi trên, em đặt ra hai giả thiết như sau:
1. Yếu tố bất đối xứng trong mối quan hệ Việt - Trung khiến cho Việt Nam
nhận thức về sự thù địch với Trung Quốc, thúc đẩy mối quan hệ hai nước từ bạn
thành thù.
2. Yếu tố bất đối xứng trong mối quan hệ Việt - Trung khiến cho Việt Nam
nhận thức về sự hòa hiếu với Trung Quốc, thúc đẩy mối quan hệ hai nước từ thù
thành bạn.
4. Giới hạn đề tài
Đề tài của em chỉ tập trung nghiên cứu vào yếu tố hệ thống cấu trúc, chiếm một
trên tổng số ba phần của bài tập nhóm. Em lựa chọn đào sâu thêm về tác động của yếu
tố này tới sự thay đổi về nhận thức của Việt Nam về kẻ thù Trung Quốc trên hai chiều
hướng, chứ không một chiều từ thù thành bạn phần sài như bài tập nhóm.
Trong phạm vi nghiên cứu, em cũng chỉ xét tới những tác động của yếu tố hệ thống
cấu trúc bỏ qua yếu tố khác như yếu tố thời đại về nhận thức ý thức hệ, hay bối
cảnh. Như vậy, bài nghiên cứu sẽ chỉ tập trung vào những khía cạnh nhỏ phù hợp với
yếu tố hệ thống, cấu trúc trong nhận thức của Việt Nam về Trung Quốc trong giai
đoạn này.
2
18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại
about:blank
3/16
PHẦN 2. NỘI DUNG
1. Mối quan hệ bất cân xứng
1.1. Định nghĩa
Bất cân xứng thuật ngữ được sử dụng trong nhiều lĩnh vực để tả tình
trạng không cân đối, không đối xứng hoặc không đồng đều giữa hai phần, hai bên
hoặc hai mặt của một vật thể, hình dạng hoặc hệ thống. Trong quan hệ quốc tế, bất cân
xứng thường được dùng để chỉ tình trạng không đồng đều, không bình đẳng trong
quan hệ song phương giữa hai quốc gia, thường sẽ một bên nhỏ hơn, dễ tổn
thương hơn. Bên còn lại - lớn hơn, sẽ nhiều khả năng chi phối hơn nhưng cũng
không thể đơn phương điều chỉnh mối quan hệ này.
Câu nói nổi tiếng trong của chủ nghĩa hiện thực: “Kẻ lớn làm những họ
muốn, còn kẻ yếu chịu những họ phải chịu.”
1
được Brantly Womack cho không
đúng đắn. Theo thuyết Bất cân xứng về sức mạnh của ông, kẻ mạnh sẽ làm những
họ cho khả thi (có tương quan giữa chi phí bỏ ra lợi ích đạt được) kẻ yếu sẽ
làm những họ thể chứ không cam chịu. Các quốc gia lớn hơn khả năng áp đảo
nước còn lại trong mối quan hệ bất cân xứng, nhưng họ không thường làm như vậy,
đơn giản khi ấy họ sẽ “mất” nhiều hơn “được”, chi phí bỏ ra để áp đảo quốc gia
nhỏ hơn sẽ lớn hơn lợi ích đạt được từ mối quan hệ này rất nhiều.
1.2. Các yếu tố trong mối quan hệ bất cân xứng
Khi xem xét mối quan hệ bất cân xứng giữa hai quốc gia, hai khó khăn
chính ta thể nhận thấy, nổi lên ràng nhất chính sự chênh lệch về tiềm lực
quan niệm về bản sắc nước lớn - nước nhỏ.
2
Thứ nhất, sự chênh lệch về tiềm lực khiến cho nước nhỏ dễ bị tác động bởi
nước lớn trên trường quốc tế. Sự chênh lệch này hầu hết đã xuất phát từ lịch sử, được
hình thành dựa trên một quá trình phát triển lâu dài bao trùm các mặt kinh tế, văn hóa,
hội, quân sự, chính trị, ngoại giao,... Đồng thời, sự chênh lệch về tiềm lực này
thể dẫn đến sự khác biệt về mức độ quan tâm của từng bên dành cho nhau trong mối
quan hệ. Nước nhỏ hơn sẽ rất coi trọng nước lớn, đặt nước lớn vị trí ưu tiên trong
quá trình hoạch định chính sách đối ngoại của mình. Ngược lại, nước lớn nhiều mối
2
Nguyễn Tùng, “Sống chung với nước láng giềng lớn hơn: Thực tiễn chính sách”, Tạp chí Nghiên cứu
Quốc tế số 2, 6/2010, Nội,
https://drive.google.com/file/d/1SOl9F88zgnu5PuBjRpnPGuSwMMMg7Ede/view
1
Hồng Hiệp (dịch), “Cuộc đối thoại Melos”, 23-5-2013,
https://nghiencuuquocte.org/2013/05/23/melian-dialogue/
3
18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại
about:blank
4/16
quan tâm khác tương đương hoặc lớn hơn so với nước nhỏ.
3
Điều này dễ khiến cho hai
quốc gia “hiểu lầm” nhau, xu hướng thổi phồng các vấn đề phát sinh. Nước nhỏ
hơn - dễ bị tổn thương, thường nhạy cảm với sự “thờ ơ” của nước lớn, cho rằng đó
hành vi quyền, thống trị. Về phía nước lớn, sự đề phòng của nước nhỏ thể bị
xem hành vi thách thức sức ảnh hưởng.
Thứ hai, quan niệm về bản sắc nước lớn - nước nhỏ đã bén rễ từ lâu trong quan
hệ hai nước phát triển thành nhận thức dẫn tới những hành vi nước lớn - nước nhỏ
điển hình. Theo đó, quốc gia “lớn hơn” trong mối quan hệ bất cân xứng thường tâm
“đại quốc” từ đó sẽ những hành vi coi thường, chèn ép “tiểu quốc”
4
. Tâm
này thể hiện nhất trong các chính sách không tôn trọng nước nhỏ, coi nước nhỏ như
một “quân cờ” trên bàn cờ chiến lược của mình. Trong mối quan hệ với nước nhỏ,
nước lớn luôn cho rằng mình không bị ràng buộc, quyền “phá lệ”. Vậy nên, nếu
hai quốc gia hợp tác, nước lớn phải chiếm lợi thế lớn hơn; còn nếu xung đột nổ ra,
nước lớn bắt nạt nước nhỏ hơn. Song song với quá trình đó, nước nhỏ cũng đã hình
thành nên nhận thức hành vi của riêng mình. Rằng, các nước nhỏ thường mất niềm
tin vào các nước lớn: (1) sự giúp đỡ của nước lớn bao giờ cũng điều kiện, đó sự
thần phục của nước nhỏ; (2) hành vi không tôn trọng của nước nhỏ thể sẽ dẫn đến
hậu quả xấu; (3) nước lớn thường không sự nhất quán trong lời nói - hành động. Từ
đó, nước nhỏ đi tìm kiếm bên thứ ba để thực hiện chính sách lôi kéo nhằm tự bảo vệ
bản thân nhưng lại khiến cho nước lớn cũng mất niềm tin vào mình.
2. Mối quan hệ bất đối xứng giữa Việt Nam - Trung Quốc
Nắm giữ vị trí địa chính trị quan trọng cửa ngõ Đông Nam Á, như một hình
cánh cung ôm lấy một cạnh Biển Đông, Việt Nam từ thời xưa đã phải gánh trên vai
sức nặng của nền văn minh Trung Hoa. quốc gia duy nhất vừa nằm trên lục địa Á
Châu, chung biên giới trên đất liền với Trung Quốc, vừa phần lãnh thổ tiếp giáp
với Biển Đông, Việt Nam đóng vai trò quan trọng trên con đường đi xuống phía nam
của Trung Quốc cả trên biển hay trên đất liền. Sự cận kề địa đã tạo ra cho Việt Nam
một lời nguyền không thể thay đổi, đó gắn liền với Trung Quốc xuyên suốt
chiều dài lịch sử.
4
Xem Nguyễn Tùng, “Sống chung với nước láng giềng lớn hơn: Thực tiễn chính sách”, Tạp chí Nghiên
cứu Quốc tế số 2, 6/2010, Nội,
https://drive.google.com/file/d/1SOl9F88zgnu5PuBjRpnPGuSwMMMg7Ede/view
3
Xem Elaine Tolentino Myungsik Ham, “The entrapment of asymmetry: the Philippines between the US and
China”, Bandung: Journal of the Global South, 2015.
4
18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại
about:blank
5/16
2.1. Yếu tố bất cân xứng trong mối quan hệ Việt - Trung
2.1.1.Sựchênhlệchvềtiềmlực
Trung Hoa một trong những nền văn minh cổ đại hiếm hoi vẫn còn duy trì
được sự phồn vinh của mình cho tới thời điểm hiện tại, sức ảnh hưởng to lớn tới
các quốc gia dân tộc xung quanh trên nhiều bình diện. Điển hình như văn hóa Trung
Hoa đã chia sẻ với các quốc gia Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam tạo thành khối Đồng
Văn - hay còn gọi Vùng văn hóa Á Đông. So với đồng bằng Sông Hồng, đồng bằng
Trung Nguyên rộng lớn hơn gấp nhiều lần rất thích hợp để canh tác nông nghiệp,
thể nuôi dưỡng cho cả một quân đội lớn. Lãnh thổ Trung Quốc cũng sự mở rộng
đáng kể, từ một vùng nhỏ trung lưu sông Hoàng (khoảng thế kỉ XXI TCN) đến
lãnh thổ rộng lớn đứng thứ ba thế giới (thế kỉ XVIII). Từ lâu, Trung Quốc đã tự xem
mình “trung tâm của thiên hạ”, thế nên không ngừng muốn mở rộng đất đai của
mình ra khắp bốn phương. Về phần Việt Nam, vốn một nước nhỏ, kể cả khi đã phát
triển tới phía nam như ngày nay, diện tích Việt Nam mới chỉ xấp xỉ một tỉnh cỡ trung
của Trung Quốc. Dọc theo chiều dài lịch sử, Trung Hoa luôn hiện lên với hình ảnh
một người hàng xóm khổng lồ về mọi mặt, với tham vọng vươn tay ra khắp tứ phía
xung quanh mình. Về mặt kinh tế, Trung Quốc đủ khả năng tự cung tự cấp từ
lâu đã sự giao thương với các quốc gia khác, điển hình con đường lụa
nguồn gốc từ những năm 100 TCN.
2.1.2.Quanniệmvềbảnsắcnướclớn-nướcnhỏ
Từ thuở khai, Trung Quốc đã mang trong mình tưởng nằm trung tâm
của thế giới, chiếm ưu thế tuyệt đối về văn hóa, hay còn gọi tưởng “phân tách
giữa “Di” Hạ””
5
. Trong đó, “Tứ Di” bao gồm: Nam Man (chỉ Việt Nam - nằm
phía Nam Trung Quốc man di mọi rợ), Bắc Địch, Đông Di Tây Nhung. Ngay từ
tên gọi, Trung Quốc khi chiết tự tách nghĩa cũng “quốc gia nằm trung tâm”, vị
thế cao hơn các quốc gia khác. Việt Nam các quốc gia lân cận khác thời trung đại
đều chịu sự chi phối của “trật tự siêu việt” ấy, hay còn được gọi “Trật tự Hoa Di”.
Theo đó, Trung Quốc không chấp nhận rằng dưới gầm trời này xuất hiện một “thiên
tử” thứ hai, một thực thể chính trị nào khác độc lập với Trung Quốc. Từ đây, chế độ
“chính quốc - phiên thuộc” đã ra đời. Việt Nam cũng đã tự nguyện chấp nhận chế độ
đó qua quan hệ “triều cống” - vua Việt Nam dâng cống phẩm thể hiện sự thần phục
“sắc phong” - ban đạo dụ sắc lệnh của vua Trung Hoa với hình thức “chiếu mệnh” của
5
Sở Thụ Long - Kim Uy, “Chiến lược Chính sách Ngoại giao của Trung Quốc”, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự
thật, Nội, 2013, tr.13
5
18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại
about:blank
6/16
thiên tử cho vua các nước. Bản sắc nước lớn phản ánh rất ràng qua mối quan hệ
“sắc phong - triều cống” này, đồng thời Trung Hoa qua từng thời kỳ cũng nhiều yêu
sách để đòi Việt Nam cống nạp những vật kỳ trân dị bảo, hay nhiều lần cướp đất, đòi
hỏi yêu sách như mượn đường. Về phía Việt Nam cũng luôn luôn duy trì một sự cảnh
giác với người láng giềng khổng lồ, chú trọng xây dựng quân đội để không thất thế
trước những cuộc tấn công của Trung Quốc.
2.2. Yếu tố bất cân xứng tác động đến việc Việt Nam nhận thức về Trung
Quốc trong lịch sử
2.2.1.TưduychủquyềnvớiTrungQuốc
Sống chung với một nước láng giềng khổng lồ như thế nhưng Việt Nam vẫn
quyết tâm giữ vững độc lập - chủ quyền chứ không bao giờ để đất nước rơi vào sự
thôn tính của hoàng đế Trung Hoa. Điều đó phản ánh rất ràng trong duy chủ
quyền của Việt Nam với Trung Quốc. Sau 1000 năm Bắc thuộc, nhà nước Đại Việt
luôn đặt trọng tâm mối quan hệ bang giao với phương Bắc lên hàng đầu, đây việc
hệ trọng can hệ đến tồn vong của cả triều đại dân tộc. Như vậy, ta thể thấy từ
trong lịch sử, chính sách đối ngoại Việt Nam luôn đặt Trung Quốc lên hàng đầu, cho
Trung Quốc khả năng tác động mạnh mẽ nhất tới sinh mệnh của quốc gia. Ngược
lại, Trung Quốc - nằm giữa “trật tự Hoa Di” xem mình vượt xa những quốc gia xung
quanh chỉ xếp Việt Nam vào một trong những quốc gia phiên thuộc. Trong tương
quan bối cảnh đó, Việt Nam đã thực hiện chính sách “trong xưng đế, ngoài xưng
vương” một cách rất hiệu quả, vừa mềm dẻo, linh hoạt vừa độ cứng rắn khi cần
thiết để bảo chủ quyền độc lập dân tộc. “Nước Việt ta cõi đất phía nam thông
hiếu với Trung Hoa, tuy nuôi dân dựng nước quy riêng, nhưng trong thì xưng
đế, đối ngoài thì xưng vương, vẫn chịu phong hiệu, xét thế thực phải như thế”.
6
Đây một lựa chọn tự nguyện của người Việt, tuy ít nhiều sẽ phải chịu o ép, bất bình
đẳng nhưng phù hợp với “thế” “lực” giữa hai nước. Thêm vào đó, Việt Nam luôn
sẵn sàng phát động những cuộc chiến tranh trang chống lại “mưu đồ” bành trướng
của “thiên triều”, bảo vệ lãnh thổ nền độc lập tự chủ của mình.
7
Nhận thức này đã
được phát triển thành triết ngoại giao truyền thống của dân tộc Việt Nam “quyết
tâm bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ”. tưởng “độc lập thật sự, thần
thuộc danh nghĩa” bắt nguồn từ Khúc Thừa Dụ đã được phản ánh sâu sắc qua các diễn
7
Xem Đỗ Thị Thu Thủy, ““Bá quyền văn hóa" - Nhìn từ hiện tượng thơ bang giao Việt - Trung trong bối cảnh
Đông Á Trung đại”, trong Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế: “Việt Nam - Giao lưu văn hóa tưởng phương
Đông”, tr. 36.
6
Xem Phan Huy Chú, Lịch triều Hiến chương Loại chí, tập 2, mục Bang giao chí, Nxb Giáo dục, 2007, Nội,
tr. 533
6
18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại
about:blank
7/16
ngôn, tiêu biểu trong số đó thể kể đến một bài cáo nổi tiếng, được coi bản
Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam, Bình Ngô Đại Cáo. Trong Bình Ngô Đại Cáo đã
chỉ rõ: “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập/ Cùng Hán, Đường, Tống,
Nguyên mỗi bên xưng một phương”
.
8
Triết xuyên suốt này đã được đúc kết trong
nhận định sau: “Lịch sử của đất nước Việt Nam cũng lịch sử khẳng định tính độc
lập với Trung Quốc”.
9
Đằng sau mối quan hệ “chính quốc - phiên thuộc” cả một
tưởng về sự độc lập: Việt Nam gọi mình “Nam triều” - tách biệt với “Bắc triều”
Trung Quốc, trong mối quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam cũng tự gọi “bang giao” -
tức mối quan hệ giữa hai quốc gia đồng cấp.
2.2.2.ChiếnthắngTrungQuốcnhưmộttiêuchuẩnchotínhchínhdanh
một tiêu chuẩn đo lường tính chính danh của các triều đại phong kiến Việt
Nam đã được hình thành thể hiện qua sự công dẫn binh đánh đuổi giặc phương
Bắc của những vị thủ lĩnh. Cả Trưng Trắc, Trưng Nhị (40 - 43), Thường Kiệt
(1019 - 1105), Trần Quốc Tuấn (1285 - 1292), Lợi (1418 - 1433) Quang Trung
(1788 - 1792) đều được dân tộc ta tôn vinh anh hùng dân tộc. Các thành tựu về
ngoại giao quân sự sau những cuộc xung đột với Trung Hoa đã giúp triều đại phong
kiến Việt Nam tạo dựng niềm tin trong lòng dân chúng phục vụ cho công cuộc cai
trị ổn định hội.
Trong cuốn sách “Nước Đại Nam đối diện với Pháp Trung Hoa”, tác giả
Yoshiharu Tsuboi đã đưa ra dụ về hai triều đại lịch sử Việt Nam Triều Hậu
triều Nguyễn. Thái tổ Lợi đã lãnh đạo thành công cuộc khởi nghĩa Lam Sơn,
chấm dứt thời kỳ mười năm bị nhà Minh đô hộ (1407 - 1418) đem lại độc lập cho
dân tộc. Uy danh của ông ngày càng lớn mạnh ông trở thành một trong những anh
hùng dân tộc được tôn kính nhất. Nhờ sự tin yêu của nhân dân, triều đại nhà vẫn
vững vàng, những vị vua kế nhiệm Lợi không phải “minh quân” không
tài cai trị xuất chúng. Triều đại nhà Nguyễn không đạt được uy tín tương tự, họ
không thể khẳng định quyền lực tính chính danh thông qua cuộc chiến với nước
láng giềng to lớn Trung Hoa. vậy, các vua của triều đại nhà Nguyễn không được
dân chúng coi “nguyên thủ quốc gia” (vương), chỉ được coi hậu duệ của các
“quý tộc địa phương” (chúa), những người đã cai trị miền Nam dưới triều đại nhà Lê.
Trong khi đó, những tàn của triều đại nhà vẫn được công nhận tôn trọng bởi
9
Yoshiharu Tsuboi, “Nước Đại Nam đối diện với Pháp Trung Hoa 1847 - 1885”, Hội Sử học Việt Nam,
Nội, tr. 43
8
Nguyễn Trãi, “Bình Ngô đại cáo”, thivien.net,
https://www.thivien.net/Nguy%E1%BB%85n-Tr%C3%A3i/B%C3%ACnh-Ng%C3%B4-%C4%91%E1%BA%
A1i-c%C3%A1o/poem-mLEGY5d9nFI0RH280X-vIQ
7
18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại
about:blank
8/16
dân chúng vùng Bắc Hà, tạo ra thời kỳ kéo dài hơn 50 năm với sự chia cắt giữa Nam
Bắc Việt Nam.
2.2.3.Thamvọng“bànhtrướngbáquyền”củaTrungQuốc
Không một triều đại Việt Nam nào thể được tính chính danh thật sự nếu
không chiến thắng Trung Quốc, cũng không triều đại Trung Quốc nào chưa từng
đem quân sang xâm phạm bờ cõi Việt Nam để thể hiện quyền uy của thiên triều.
vậy, các triều đại Việt Nam đã sớm nhìn nhận được tưởng bành trướng ấy. Hoàng
đế Trung Hoa luôn xem mình “thiên tử” - con trời, quyền cai trị cả “thiên hạ” -
tức toàn bộ vùng đất dưới gầm trời ấy. Trong biểu trần tình được Thái Tổ mượn
danh Trần Cảo dâng lên đoạn: “Suốt cả gầm trời, không đâu không phải đất của
vua; khắp trong cõi đất, không ai không phải tôi của vua.”
10
Các triều đại Việt Nam
ý thức về tưởng bành trướng quyền của Trung Hoa vậy. Bản chất của
tưởng quyền, nhất quyền kiểu Đông Á thể hiện tham vọng chi phối, thậm
chí “hăng hái tiêu diệt” các dân tộc/ nền văn hóa nhỏ hơn.
11
2.2.4.Chủtrươngđiềuhòamốiquanhệ
Không bao giờ một triều đại Việt Nam nào kéo dài sự căng thẳng trong mối
quan hệ với Trung Quốc, bất kể khi đánh đuổi thành công Trung Quốc ra khỏi lãnh
thổ, hay giành lại được độc lập, chủ quyền từ tay Trung Quốc. Hầu như, các vương
triều phong kiến Việt Nam đều cử sứ giả ngay lập tức sang diện kiến “thiên triều” để
thiết lập lại quan hệ ngoại giao “chính quốc - phiên thuộc” sau khi chiến tranh kết
thúc. Tùy vào sức mạnh, tương quan lực lượng giữa hai quốc gia Việt Nam
sự điều chỉnh trong chủ trương này, nhưng tinh thần “cầu hòa” để duy trì mối bang
giao hữu hảo luôn chi phối. nhiều trường hợp, Việt Nam còn xuống nước hơn nữa
để thể ứng biến linh hoạt. Năm 1265, thái thượng hoàng Trần Thái Tông đã “xuống
nước” viết một bài thơ tiễn sứ giả nhà Nguyên Trương Hiển Khanh về nước: “Nghĩ
không ngọc quỳnh đáp lại, lòng tự thẹn.” Chữ “thẹn” thể hiện sự nhún nhường của
một bậc quân vương khi phải tiễn đưa một viên sứ giả về nước. Tuy nhiên, hành động
ấy cũng để điều hòa mối quan hệ với Trung Quốc, tránh những xung đột không
đáng có.
11
Xem Đỗ Thị Thu Thủy, ““Bá quyền văn hóa” - Nhìn từ hiện tượng thơ bang giao Việt - Trung trong bối cảnh
Đông Á Trung đại”, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế: “Việt Nam - Giao lưu văn hóa tưởng phương Đông”,
tr. 41
10
Xem Phan Huy Chú, “Lịch triều Hiến chương Loại chí”, tập 2, mục Bang giao chí, Nxb Giáo dục, 2007,
Nội, tr. 543
8
18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại
about:blank
9/16
3. Yếu tố bất cân xứng tác động như thế nào đến việc Việt Nam nhận thức
về Trung Quốc trong giai đoạn 1979 - 1991.
Cần thừa nhận rằng, trong giai đoạn từ 1979 - 1991, quan niệm về bạn - thù
trong quan hệ quốc tế của Việt Nam bị chi phối phần nhiều sự phân hóa bởi ý thức hệ.
Chính quyền Việt Nam coi sự thù địch với các nước TBCN đúng đắn, xem Mỹ kẻ
thù bản, lâu dài - để tiêu diệt cần nhiều thời gian chứ không phải một sớm một
chiều. Song, yếu tố mang tính hệ thống cấu trúc trong mối quan hệ Việt Nam - Trung
Quốc cũng phần nào khiến ta nhìn nhận họ như “kẻ thù” hay “láng giềng thân cận”,
xác định mối quan hệ “thù địch” hay “hợp tác hữu nghị”. Những yếu tố mang
tính hệ thống - cấu trúc thể hiện qua mối quan hệ bất cân xứng đã tạo thành sự nhận
thức về Trung Quốc trong lịch sử, tác động đến cả giai đoạn 1979 - 1991. Năm
1990, TBT Nguyễn Văn Linh từng khẳng định: “Việt Nam nước nhỏ, ĐCSVN
đảng nhỏ, rất cần sự ủng hộ giúp đỡ của một nước lớn, đảng lớn như Trung
Quốc.”
12
3.1. Tác động từ bạn thành thù
Ngày 1/1/1979, Mỹ Trung Quốc chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao.
Ngày 7/2/1979, Trung Quốc tấn công Việt Nam trên toàn biên giới phía Bắc nước ta
dưới sự chỉ đạo của Đặng Tiểu Bình “Dạy cho Việt Nam một bài học”. sự chi phối
của mối quan hệ bất cân xứng, cuộc chiến tranh biên giới Việt Nam năm 1979 thể
chỉ một cuộc chiến nhỏ với Trung Quốc với mục đích thắng lợi nhằm đơn phương
áp đặt quyền lợi của mình lên Việt Nam - hay giống như Đặng Tiểu Bình diễn tả, để
dạy một bài học cho Việt Nam. Nhưng với Việt Nam thì bắt buộc phải chiến thắng
cuộc chiến này nhằm bảo vệ chủ quyền bản sắc của mình trước tay Trung Quốc.
Đương nhiên, chính quyền Việt Nam không bao giờ chấp nhận Trung Quốc thể
xâm phạm tới biên giới nước mình. Ngay lập tức, một cuộc hành quân đã diễn ra,
quân đội ta nhanh chóng ứng chiến với 60 vạn quân Trung Quốc tiến vào biên giới
Việt Nam. Ngày 18/2, Việt Nam ra “Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa hội
chủ nghĩa Việt Nam về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của những người cầm
quyền Trung Quốc” trên báo Nhân dân trong đó nêu rõ: “Những người cầm quyền
Trung Quốc đã đi theo con đường của bọn phong kiến Trung Quốc bọn đế quốc
thực dân, tiến hành xâm lược Việt Nam, một nước độc lập chủ quyền”
13
. Điều này
13
“Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam
của những người cầm quyền Trung Quốc”, Báo Nhân dân, Nội, 18/12/1979.
12
Gia Trung, Nguyên Hải (dịch), “Nội tình cuộc gặp lãnh đạo Trung - Việt tại Thành Đô”, Tạp chí Trung
Quốc (Đảng sử tung hoành), 2014,
https://nghiencuuquocte.org/2014/11/07/noi-tinh-cuoc-gap-lanh-dao-trung-viet-tai-thanh-do/
9
18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại
about:blank
10/16
đã phản ánh sự nhận thức của Việt Nam về chủ quyền lãnh thổ trong mối quan hệ bất
cân xứng với Trung Quốc chưa hề thay đổi. Suốt 2000 năm chung sống với nước láng
giềng, 2000 năm chia sẻ lịch sử, vận mệnh, Việt Nam vẫn thể giữ vững độc lập,
chủ quyền kể cả khi đã xuất hiện những thời kỳ khó khăn, bất lợi như “1000 năm Bắc
thuộc” hay “Trận chiến Biên giới năm 1979” “Trường Sa năm 1988”. 2000 năm đó,
đã biết bao nhiêu lần Trung Hoa đem quân sang xâm phạm bờ cõi Đại Việt, nhưng
dân tộc Việt Nam luôn luôn đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược. Bài thơ thần “Nam
Quốc Sơn Hà” đã viết:
“Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”
14
- khẳng định chủ quyền
toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam bất khả xâm phạm. Thời thế thể đổi thay,
“Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau/ Song hào kiệt đời nào cũng có”
15
chân về
chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam cũng sẽ luôn được gìn giữ.
3.2. Tác động từ thù thành bạn
3.2.1.ChủtrươngbìnhthườnghóaquanhệvớiTrungQuốc
Như đã trình bày trên, nhận thức của Việt Nam về việc điều hòa mối quan hệ
với Trung Quốc sau mỗi cuộc xung đột đã rất ràng. Về chiến tranh biên giới năm
1979, Việt Nam cũng đã vòng đàm phán đầu tiên với Trung Quốc vào tháng 4, một
tháng sau khi Trung Quốc rút quân. Tuy nhiên, cuộc đàm phán này không đi đến kết
quả. Đầu năm 1980, Việt Nam Trung Quốc tiến hành đàm phán vòng thứ hai tại
Bắc Kinh nhưng cũng không kết quả. Từ đây, Trung Quốc cắt cầu đàm phán. Cuộc
đàm phán không đi đến kết quả tốt đẹp Trung Quốc chưa thấy được lợi ích của
việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam lớn hơn chi phí cần bỏ ra. Từ đó tới năm
1988, Việt Nam còn nhiều nỗ lực bình thường hóa quan hệ nhưng đều bị Trung Quốc
bác bỏ đặt điều kiện cần giải quyết vấn đề Campuchia trước rồi mới bàn chuyện
bình thường hóa quan hệ.
Nội bộ các lãnh đạo của Việt Nam cũng sự phân cực về vấn đề bình thường
hóa quan hệ với Trung Quốc nhưng mãi đến sau năm 1986, khi chủ trương Đổi Mới ra
đời, Việt Nam mới thực sự ràng về sự quyết tâm bình thường hóa quan hệ của
mình. Như vậy, yếu tố hệ thống cấu trúc từ lâu đời về chủ trương hòa hiếu, bình
thường hóa quan hệ với Trung Quốc sau khi chiến tranh đã kết thúc. Bởi lẽ, với cương
vị nước nhỏ hơn trong mối quan hệ bất cân xứng, ta luôn đặt mối quan hệ đối ngoại
15
Nguyễn Trãi, “Bình Ngô đại cáo”, thivien.net,
https://www.thivien.net/Nguy%E1%BB%85n-Tr%C3%A3i/B%C3%ACnh-Ng%C3%B4-%C4%91%E1%BA%
A1i-c%C3%A1o/poem-mLEGY5d9nFI0RH280X-vIQ
14
“Nam quốc sơn hà, bài ca bất hủ”, Công an Nhân dân, Nội, 11/11/2022,
https://cand.com.vn/Ly-luan/nam-quoc-son-ha-bai-ca-bat-hu-i673949/
10
18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại
about:blank
11/16
với Trung Quốc lên hàng đầu, mối quan hệ thể tác động trực tiếp, ngay lập tức
tới sự tồn vong của cả dân tộc. Đến năm 1989, tiến trình bình thường hóa quan hệ
đang được tích cực thúc đẩy, trên báo Nhân Dân đã bài báo viết hai câu thơ: “Bởi
chiến hòa quyền tay mình/ hòa mục thực ai cũng muốn”.
16
Hai câu thơ đã thể
hiện chủ trương bình thường hóa quan hệ, muốn nối lại quan hệ hữu nghị truyền
thống với Trung Quốc của Việt Nam. Trong bài báo cũng khéo léo nhắc về sự hòa hảo
giữa hai nước sau khi vua Quang Trung chiến thắng trận Đống Đa, đánh đuổi quân đội
nhà Thanh ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Mượn câu chuyện lịch sử - yếu tố hệ thống cấu
trúc, Việt Nam đã tỏ về quan điểm “xung đột nhất thời - hòa hảo lâu dài” trong mối
quan hệ giữa hai nước.
3.2.2. Nhìn nhận Trung Quốc hai mặt: hội chủnghĩavàbànhtrướng
báquyền.
Năm 1987, tổ nghiên cứu nội bộ CP87 đã thống nhất về tính chất Trung Quốc
như sau: “Trung Quốc ngày nay hai mặt: mặt XHCN mặt bành trướng quyền.
Tính chất XHCN thể hiện tương đối nét hơn về chính sách đối nội, cấu hội,
cấu kinh tế của họ. Còn đường lối đối ngoại của Trung Quốc lại mang tính chất cổ
truyền của họ bành trướng quyền. Cái bất biến của Trung Quốc tham vọng
quyền.”
17
Từ lâu, nhận thức về sự bành trướng quyền của Trung Quốc đã tại Việt
Nam cách nước ta hành động cho vấn đề đó chính duy trì mối quan hệ bang giao
hữu hảo với Trung Quốc. nhận thức được tưởng đó, nên các triều đại phong kiến
Việt Nam, dựa trên phân tích nhìn nhận giữa “thế” “lực” giữa hai quốc gia, đã
chủ trương duy trì mối quan hệ “chính quốc - phiên thuốc” suốt từ thế kỷ X tới thế kỷ
XIX, khi nhà Nguyễn để mất nước.
Phản ứng với sự bành trướng quyền của Trung Quốc, Việt Nam không bao
giờ lựa chọn cách đối đầu trực diện khéo léo điều hòa bằng các biện pháp ngoại
giao, đôi khi nước nhỏ hơn Việt Nam phải hy sinh những lợi ích của mình (trong
phạm vi thể), chịu sự o ép về nhiều mặt, để duy trì trật tự trong mối quan hệ bất cân
xứng. Trong khi những quan điểm chủ lưu của những năm 1979 - 1986 cho rằng, bành
trướng quyền chính một trong những nguyên nhân để Việt Nam phải duy trì sự
thù địch với Trung Quốc. Đặc biệt trong khoảng thời gian 3 tháng đầu năm 1979,
trên báo Nhân Dân cụm từ “bành trướng quyền” xuất hiện 609 lần. Trong cuốn
sách “Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua”, cụm từ này cũng
17
Xem: Trần Quang , “Chương 2: Một nhiệm kỳ đại sứ không tẻ nhạt”, trong Hồi Trần Quang Cơ: Hồi ức
Suy nghĩ, tr. 21
16
“Quan hệ Việt - Trung sau trận Đống Đa, tháng Giêng năm Kỷ Dậu 1789”, Báo Nhân dân, Nội, 1989.
11
18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại
about:blank
12/16
được nhắc lại số lần. Thế nhưng, người viết cho rằng, từ xa xưa, người Việt Nam
đã sự nhận thức về tưởng “bành trướng quyền” của Trung Quốc, đã tiếp nhận
hiểu khung thuyết “thiên hạ” của họ, rằng tất cả vùng đất dưới gầm trời này đều
thuộc về hoàng đế Trung Hoa, dân tộc Trung Hoa. Những nhận thức ấy đã cấu thành
hành vi của chúng ta, mang tính truyền thống, lâu đời phản ánh trong triết ngoại
giao truyền thống, đó là: “coi trọng hòa hiếu với các nước khác”
18
, trong đó Trung
Quốc. Vậy nên, trong giai đoạn năm 1986 về sau, chúng ta vẫn giữ nhận thức về
Trung Quốc “bành trướng quyền” nhưng sự điều chỉnh, coi đó cũng một
sở để thúc đẩy sự bình thường hóa với Trung Quốc.
18
Xem: GS. TS. Dương Huân, “Về triết ngoại giao truyền thống Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế,
Nội, 6/2008, https://nghiencuuquocte.org/2021/09/24/ve-triet-ly-ngoai-giao-truyen-thong-viet-nam/#_ftn11
12
18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại
about:blank
13/16
PHẦN 3. KẾT LUẬN
Xét trên yếu tố hệ thống - cấu trúc, mối quan hệ bất cân xứng điển hình giữa
hai láng giềng Việt Nam Trung Quốc đã kéo dài hơn 2000 năm, qua nhiều thời kỳ.
Yếu tố hệ thống - cấu trúc này đã hình thành phát triển nên những nhận thức của
Việt Nam về cách nhìn nhận Trung Quốc như một kẻ thù, hay như một láng giềng thân
cận. Người viết xin kết luận: Yếu tố bất đối xứng trong mối quan hệ Việt - Trung tác
động hai chiều đến sự thay đổi nhận thức của Việt Nam về kẻ thù Trung Quốc trong
giai đoạn 1979 - 1991: từ thù thành bạn từ bạn thành thù. Trong giai đoạn 1979 -
1991, nhận thức về chủ quyền, độc lập đã thay đổi nhận thức của Việt Nam về Trung
Quốc: từ bạn thành thù. Từ rất lâu, Việt Nam luôn luôn ý thức về sự độc lập, chính
danh của mình khẳng định sẽ giữ vững chủ quyền, độc lập dân tộc trước sự mọi sự
xâm phạm bờ cõi của Trung Hoa. chiều hướng ngược lại, triết ngoại giao hòa hảo
nhận thức về sự bành trướng quyền của Trung Quốc đã phần nào thúc đẩy quá
trình thay đổi nhận thức của Việt Nam về Trung Quốc từ thù thành bạn. Tuy yếu tố hệ
thống cấu trúc không đóng vai trò quyết định trong quá trình thay đổi nhận thức của
Việt Nam về kẻ thù Trung Quốc nhưng cũng những tác động nhất định không thể
phủ nhận.
Trong bối cảnh hiện nay, việc xử mối quan hệ với nước lớn láng giềng Trung
Quốc vẫn luôn ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Tuy
trong bối cảnh đa phương hóa, Việt Nam thể lôi kéo bên thứ ba tham gia vào mối
quan hệ này, nhưng sự bất cân xứng về sức mạnh vẫn chi phối mối quan hệ này rất
nhiều. Mối quan hệ với Trung Quốc hiện nay vẫn hai mặt hợp tác đấu tranh.
19
vậy, những yếu tố hệ thống cấu trúc trong sự nhận thức của Việt Nam - Trung Quốc
vẫn sẽ những sự chi phối nhất định.
19
Thủ tướng: “Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc vừa hợp tác vừa đấu tranh”, VnExpress, 19/11/2014,
https://vnexpress.net/thu-tuong-quan-he-viet-nam-trung-quoc-la-vua-hop-tac-vua-dau-tranh-3109351.html
13
18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại
about:blank
14/16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Brantly Womack. “Sự bất cân xứng về sức mạnh các mối quan hệ quốc tế.”
Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Nội, 2020.
2. Elaine Tolentino Myungsik Ham. “The entrapment of asymmetry: the
Philippines between the US and China”, Bandung: Journal of the Global
South, 2015.
3. Đỗ Thị Thu Thủy. ““Bá quyền văn hóa" - Nhìn từ hiện tượng thơ bang giao
Việt - Trung trong bối cảnh Đông Á Trung đại” Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc
tế: “Việt Nam - Giao lưu văn hóa tưởng phương Đông”
4. GS. TS. Dương Huân. “Về triết ngoại giao truyền thống Việt Nam”, Tạp
chí Nghiên cứu Quốc tế, Nội, 23/6/2008, truy cập ngày 3/6/2023
https://nghiencuuquocte.org/2021/09/24/ve-triet-ly-ngoai-giao-truyen-thong-vie
t-nam/#_ftn11
5. Hồng Hiệp (dịch). “Cuộc đối thoại Melos.” Nghiên cứu quốc tế,
23/5/2013 truy cập 29/5/2023.
https://nghiencuuquocte.org/2013/05/23/melian-dialogue/
6. Gia Trung, Nguyên Hải (dịch). “Nội tình cuộc gặp lãnh đạo Trung - Việt tại
Thành Đô”, Tạp chí Trung Quốc (Đảng sử tung hoành), 2014, truy cập
2/6/2023
https://nghiencuuquocte.org/2014/11/07/noi-tinh-cuoc-gap-lanh-dao-trung-viet-
tai-thanh-do/
7. Nguyễn Cẩm Tú. “Vấn đề Biển Đông trong mối quan hệ Việt Nam - Trung
Quốc từ 2014 tới nay: Tiếp cận theo thuyết Bất cân xứng.”, Khóa luận Tốt
nghiệp, Học viện Ngoại giao, Nội, 2020.
8. Nguyễn Tùng “Sống chung với nước láng giềng lớn hơn: Thực tiễn
chính sách”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 2, 6/2010, Nội, truy cập
30/5/2023.
https://drive.google.com/file/d/1SOl9F88zgnu5PuBjRpnPGuSwMMMg7Ede/v
iew
9. “Nam quốc sơn hà, bài ca bất hủ”, Công an Nhân dân, Nội, 11/11/2022,
https://cand.com.vn/Ly-luan/nam-quoc-son-ha-bai-ca-bat-hu-i673949/
14
18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại
about:blank
15/16
10.Nguyễn Thị Mỹ Hạnh. “Nho giáo trong nền ngoại giao Việt Nam thời trung
đại”, Đại học phạm Nội, 22/10/2016, truy cập ngày 8/6/2023
https://drive.google.com/file/d/12e4fUIgZmNnphwGeHSN0n9K1t-0CM56D/vi
ew
11. Nguyễn Trãi. “Bình Ngô đại cáo” thivien.net, truy cập 1/6/2023
https://www.thivien.net/Nguy%E1%BB%85n-Tr%C3%A3i/B%C3%ACnh-Ng
%C3%B4-%C4%91%E1%BA%A1i-c%C3%A1o/poem-mLEGY5d9nFI0RH2
80X-vIQ
12. Phan Huy Chú. Lịch triều Hiến chương Loại chí, tập 2, mục Bang giao chí,
Nxb Giáo dục, 2007, Nội.
13. “Quan hệ Việt - Trung sau trận Đống Đa, tháng Giêng năm Kỷ Dậu 1789”,
Báo Nhân dân, Nội, 1989.
14. Trần Quang Cơ. “Hồi Trần Quang Cơ: Hồi ức Suy nghĩ”.
15. Thủ tướng: “Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc vừa hợp tác vừa đấu tranh”,
VnExpress, 19/11/2014, truy cập ngày 5/6/2023
https://vnexpress.net/thu-tuong-quan-he-viet-nam-trung-quoc-la-vua-hop-tac-v
ua-dau-tranh-3109351.html
16. Yoshiharu Tsuboi. “Nước Đại Nam đối diện với Pháp Trung Hoa 1847 -
1885”, Hội Sử học Việt Nam, Nội.
15
18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại
about:blank
16/16
| 1/16

Preview text:

18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại MỤC LỤC
PHẦN 1. MỞ ĐẦU........................................................................................................1
1. Tóm tắt................................................................................................................. 1
2. Đặt vấn đề............................................................................................................ 1
3. Câu hỏi nghiên cứu và giả thiết..........................................................................2
4. Giới hạn đề tài..................................................................................................... 2

PHẦN 2. NỘI DUNG....................................................................................................3
1. Mối quan hệ bất cân xứng.................................................................................. 3
1.1. Định nghĩa.................................................................................................... 3
1.2. Các yếu tố trong mối quan hệ bất cân xứng................................................. 3
2. Mối quan hệ bất đối xứng giữa Việt Nam - Trung Quốc................................. 4
2.1. Yếu tố bất cân xứng trong mối quan hệ Việt - Trung................................... 5
2.1.1. Sự chênh lệch về tiềm lực.....................................................................5
2.1.2. Quan niệm về bản sắc nước lớn - nước nhỏ........................................ 5

2.2. Yếu tố bất cân xứng tác động đến việc Việt Nam nhận thức về Trung Quốc
trong lịch sử......................................................................................................... 6
2.2.1. Tư duy chủ quyền với Trung Quốc....................................................... 6
2.2.2. Chiến thắng Trung Quốc như một tiêu chuẩn cho tính chính danh..... 7
2.2.3. Tham vọng “bành trướng bá quyền” của Trung Quốc........................ 8
2.2.4. Chủ trương điều hòa mối quan hệ....................................................... 8

3. Yếu tố bất cân xứng tác động như thế nào đến việc Việt Nam nhận thức về
Trung Quốc trong giai đoạn 1979 - 1991...............................................................9

3.1. Tác động từ bạn thành thù............................................................................ 9
3.2. Tác động từ thù thành bạn.......................................................................... 10
3.2.1. Chủ trương bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc......................10
3.2.2. Nhìn nhận Trung Quốc có hai mặt: Xã hội chủ nghĩa và bành trướng
bá quyền........................................................................................................11

PHẦN 3. KẾT LUẬN................................................................................................. 13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................14
about:blank 1/16 18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại PHẦN 1. MỞ ĐẦU 1. Tóm tắt
Mối quan hệ giữa Việt Nam - Trung Quốc từ lâu đã được xem là một mối quan
hệ điển hình cho tính chất bất cân xứng trong quan hệ quốc tế. Chia sẻ với Trung
Quốc hơn 2000 năm lịch sử, Việt Nam đã phải chịu đựng sức nặng của nền văn minh
đồ sộ này và hình thành những nhận thức mang bản sắc nước nhỏ - để từ đó có những
hành động mang tính hệ thống, cấu trúc nhằm điều hòa mối quan hệ với Trung Quốc.
Một trong những dẫn chứng tiêu biểu đó chính là mối quan hệ bang giao dưới hình
thức “chính quốc - phiên thuộc”. Những nhận thức mang tính hệ thống cấu trúc về
mối quan hệ bất cân xứng ấy đã tác động đến quá trình thay đổi nhận thức của Việt
Nam về kẻ thù Trung Quốc trong giai đoạn 1979 - 1991: trên cả hai chiều hướng là từ
bạn thành thù và từ thù thành bạn. Trong đó, ý thức về bảo vệ trọn vẹn độc lập, chủ
quyền lãnh thổ của Việt Nam đã góp phần làm sâu sắc thêm sự thù địch của Việt Nam
dành cho Trung Quốc. Còn những triết lý về điều hòa mối quan hệ cũng như nhận
thức về sự bành trướng bá quyền của Trung Quốc đã thúc đẩy tiến trình bình thường
hóa quan hệ giữa hai nước. 2. Đặt vấn đề
Trong bài tập nhóm, em quan tâm tới tác động của yếu tố hệ thống, cấu trúc tới
sự thay đổi nhận thức của Việt Nam về kẻ thù Trung Quốc trong giai đoạn 1979 -
1991 bởi đây là yếu tố có tính truyền thống, lịch sử liên quan đến sự tồn vong và an
ninh. Em tin rằng những sự nhận thức mang tính hệ thống đã ăn sâu trong tâm trí dân
tộc Việt Nam về Trung Quốc và sẽ còn tồn tại lâu dài trong tiến trình phát triển, song
hành với các nhân tố mới nổi lên trong quan hệ quốc tế. Trong bài tiểu luận của nhóm,
yếu tố bất đối xứng được đề cập đến như một trong những lý do chính cho sự nhận
thức “ác quỷ hóa” của Việt Nam về kẻ thù Trung Quốc. Song, em nhận thấy, tính chất
bất đối xứng trong mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đóng vai trò cơ sở chi phối
nhận thức, mang tính hệ thống, cấu trúc và có tác động tới sự thay đổi nhận thức của
Việt Nam về kẻ thù Trung Quốc trong giai đoạn 1979 - 1991. Nếu chiếu theo cấu trúc
của bài tập nhóm, phần yếu tố hệ thống cấu trúc chưa có sự liên kết rõ ràng giữa cơ sở
và thực tiễn, phần cơ sở là “Ba phương thức tạo ra kẻ thù” chưa đủ để chỉ ra tác động
của yếu tố này tới quá trình thay đổi nhận thức của Việt Nam về kẻ thù Trung Quốc
trong giai đoạn 1979 - 1991. Đồng thời, em thấy rằng có thể đào sâu thêm vấn đề theo
lăng kính của mối quan hệ bất cân xứng trong quan hệ Việt - Trung để đúc kết ra
những yếu tố hệ thống cấu trúc trong mối quan hệ giữa hai quốc gia rồi từ đó soi chiếu 1 about:blank 2/16 18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại
vào quá trình thay đổi nhận thức của Việt Nam về kẻ thù Trung Quốc trong giai đoạn
1979 - 1991. Đó là lý do em lựa chọn đề tài này để nghiên cứu và đi tới câu hỏi nghiên cứu như dưới đây.
3. Câu hỏi nghiên cứu và giả thiết
Câu hỏi nghiên cứu em lựa chọn để tiếp cận vấn đề này chính là: Yếu tố bất đối
xứng trong mối quan hệ Việt - Trung tác động như thế nào đến sự thay đổi nhận thức
của Việt Nam về kẻ thù Trung Quốc trong giai đoạn 1979 - 1991?
Từ câu hỏi trên, em đặt ra hai giả thiết như sau:
1. Yếu tố bất đối xứng trong mối quan hệ Việt - Trung khiến cho Việt Nam
nhận thức về sự thù địch với Trung Quốc, thúc đẩy mối quan hệ hai nước từ bạn thành thù.
2. Yếu tố bất đối xứng trong mối quan hệ Việt - Trung khiến cho Việt Nam
nhận thức về sự hòa hiếu với Trung Quốc, thúc đẩy mối quan hệ hai nước từ thù thành bạn.
4. Giới hạn đề tài
Đề tài của em chỉ tập trung nghiên cứu vào yếu tố hệ thống cấu trúc, chiếm một
trên tổng số ba phần của bài tập nhóm. Em lựa chọn đào sâu thêm về tác động của yếu
tố này tới sự thay đổi về nhận thức của Việt Nam về kẻ thù Trung Quốc trên hai chiều
hướng, chứ không một chiều từ thù thành bạn và có phần sơ sài như bài tập nhóm.
Trong phạm vi nghiên cứu, em cũng chỉ xét tới những tác động của yếu tố hệ thống
cấu trúc và bỏ qua yếu tố khác như yếu tố thời đại về nhận thức ý thức hệ, hay bối
cảnh. Như vậy, bài nghiên cứu sẽ chỉ tập trung vào những khía cạnh nhỏ phù hợp với
yếu tố hệ thống, cấu trúc trong nhận thức của Việt Nam về Trung Quốc trong giai đoạn này. 2 about:blank 3/16 18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại PHẦN 2. NỘI DUNG
1. Mối quan hệ bất cân xứng 1.1. Định nghĩa
Bất cân xứng là thuật ngữ được sử dụng trong nhiều lĩnh vực để mô tả tình
trạng không cân đối, không đối xứng hoặc không đồng đều giữa hai phần, hai bên
hoặc hai mặt của một vật thể, hình dạng hoặc hệ thống. Trong quan hệ quốc tế, bất cân
xứng thường được dùng để chỉ tình trạng không đồng đều, không bình đẳng trong
quan hệ song phương giữa hai quốc gia, thường là sẽ có một bên nhỏ hơn, dễ tổn
thương hơn. Bên còn lại - lớn hơn, sẽ có nhiều khả năng chi phối hơn nhưng cũng
không thể đơn phương điều chỉnh mối quan hệ này.
Câu nói nổi tiếng trong của chủ nghĩa hiện thực: “Kẻ lớn làm những gì mà họ
muốn, còn kẻ yếu chịu những gì họ phải chịu.”1 được Brantly Womack cho là không
đúng đắn. Theo Lý thuyết Bất cân xứng về sức mạnh của ông, kẻ mạnh sẽ làm những
gì họ cho là khả thi (có tương quan giữa chi phí bỏ ra và lợi ích đạt được) và kẻ yếu sẽ
làm những gì họ có thể chứ không cam chịu. Các quốc gia lớn hơn có khả năng áp đảo
nước còn lại trong mối quan hệ bất cân xứng, nhưng họ không thường làm như vậy,
đơn giản là vì khi ấy họ sẽ “mất” nhiều hơn “được”, chi phí bỏ ra để áp đảo quốc gia
nhỏ hơn sẽ lớn hơn lợi ích đạt được từ mối quan hệ này rất nhiều.
1.2. Các yếu tố trong mối quan hệ bất cân xứng
Khi xem xét mối quan hệ bất cân xứng giữa hai quốc gia, có hai khó khăn
chính mà ta có thể nhận thấy, nổi lên rõ ràng nhất chính là sự chênh lệch về tiềm lực
và quan niệm về bản sắc nước lớn - nước nhỏ. 2
Thứ nhất, sự chênh lệch về tiềm lực khiến cho nước nhỏ dễ bị tác động bởi
nước lớn trên trường quốc tế. Sự chênh lệch này hầu hết đã xuất phát từ lịch sử, được
hình thành dựa trên một quá trình phát triển lâu dài bao trùm các mặt kinh tế, văn hóa,
xã hội, quân sự, chính trị, ngoại giao,... Đồng thời, sự chênh lệch về tiềm lực này có
thể dẫn đến sự khác biệt về mức độ quan tâm của từng bên dành cho nhau trong mối
quan hệ. Nước nhỏ hơn sẽ rất coi trọng nước lớn, đặt nước lớn ở vị trí ưu tiên trong
quá trình hoạch định chính sách đối ngoại của mình. Ngược lại, nước lớn có nhiều mối
1 Lê Hồng Hiệp (dịch), “Cuộc đối thoại ở Melos”, 23-5-2013,
https://nghiencuuquocte.org/2013/05/23/melian-dialogue/
2 Nguyễn Vũ Tùng, “Sống chung với nước láng giềng lớn hơn: Thực tiễn và chính sách”, Tạp chí Nghiên cứu
Quốc tế số 2, 6/2010, Hà Nội,
https://drive.google.com/file/d/1SOl9F88zgnu5PuBjRpnPGuSwMMMg7Ede/view 3 about:blank 4/16 18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại
quan tâm khác tương đương hoặc lớn hơn so với nước nhỏ.3 Điều này dễ khiến cho hai
quốc gia “hiểu lầm” nhau, và có xu hướng thổi phồng các vấn đề phát sinh. Nước nhỏ
hơn - dễ bị tổn thương, thường nhạy cảm với sự “thờ ơ” của nước lớn, cho rằng đó là
hành vi bá quyền, thống trị. Về phía nước lớn, sự đề phòng của nước nhỏ có thể bị
xem là hành vi thách thức sức ảnh hưởng.
Thứ hai, quan niệm về bản sắc nước lớn - nước nhỏ đã bén rễ từ lâu trong quan
hệ hai nước phát triển thành nhận thức và dẫn tới những hành vi nước lớn - nước nhỏ
điển hình. Theo đó, quốc gia “lớn hơn” trong mối quan hệ bất cân xứng thường có tâm
lý “đại quốc” và từ đó sẽ có những hành vi coi thường, chèn ép “tiểu quốc”4. Tâm lý
này thể hiện rõ nhất trong các chính sách không tôn trọng nước nhỏ, coi nước nhỏ như
một “quân cờ” trên bàn cờ chiến lược của mình. Trong mối quan hệ với nước nhỏ,
nước lớn luôn cho rằng mình không bị ràng buộc, và có quyền “phá lệ”. Vậy nên, nếu
hai quốc gia hợp tác, nước lớn phải chiếm lợi thế lớn hơn; còn nếu xung đột nổ ra,
nước lớn bắt nạt nước nhỏ hơn. Song song với quá trình đó, nước nhỏ cũng đã hình
thành nên nhận thức và hành vi của riêng mình. Rằng, các nước nhỏ thường mất niềm
tin vào các nước lớn: (1) sự giúp đỡ của nước lớn bao giờ cũng có điều kiện, đó là sự
thần phục của nước nhỏ; (2) hành vi không tôn trọng của nước nhỏ có thể sẽ dẫn đến
hậu quả xấu; (3) nước lớn thường không có sự nhất quán trong lời nói - hành động. Từ
đó, nước nhỏ đi tìm kiếm bên thứ ba để thực hiện chính sách lôi kéo nhằm tự bảo vệ
bản thân nhưng lại khiến cho nước lớn cũng mất niềm tin vào mình.
2. Mối quan hệ bất đối xứng giữa Việt Nam - Trung Quốc
Nắm giữ vị trí địa chính trị quan trọng ở cửa ngõ Đông Nam Á, như một hình
cánh cung ôm lấy một cạnh Biển Đông, Việt Nam từ thời xưa đã phải gánh trên vai
sức nặng của nền văn minh Trung Hoa. Là quốc gia duy nhất vừa nằm trên lục địa Á
Châu, có chung biên giới trên đất liền với Trung Quốc, vừa có phần lãnh thổ tiếp giáp
với Biển Đông, Việt Nam đóng vai trò quan trọng trên con đường đi xuống phía nam
của Trung Quốc cả trên biển hay trên đất liền. Sự cận kề địa lý đã tạo ra cho Việt Nam
một lời nguyền mà không thể thay đổi, đó là gắn liền với Trung Quốc xuyên suốt chiều dài lịch sử.
3 Xem Elaine Tolentino và Myungsik Ham, “The entrapment of asymmetry: the Philippines between the US and
China”, Bandung: Journal of the Global South, 2015.
4 Xem Nguyễn Vũ Tùng, “Sống chung với nước láng giềng lớn hơn: Thực tiễn và chính sách”, Tạp chí Nghiên
cứu Quốc tế số 2, 6/2010, Hà Nội,
https://drive.google.com/file/d/1SOl9F88zgnu5PuBjRpnPGuSwMMMg7Ede/view 4 about:blank 5/16 18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại
2.1. Yếu tố bất cân xứng trong mối quan hệ Việt - Trung
2.1.1.Sựchênhlệchvềtiềmlực
Trung Hoa là một trong những nền văn minh cổ đại hiếm hoi vẫn còn duy trì
được sự phồn vinh của mình cho tới thời điểm hiện tại, và có sức ảnh hưởng to lớn tới
các quốc gia dân tộc xung quanh trên nhiều bình diện. Điển hình như văn hóa Trung
Hoa đã chia sẻ với các quốc gia Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam tạo thành khối Đồng
Văn - hay còn gọi là Vùng văn hóa Á Đông. So với đồng bằng Sông Hồng, đồng bằng
Trung Nguyên rộng lớn hơn gấp nhiều lần và rất thích hợp để canh tác nông nghiệp,
có thể nuôi dưỡng cho cả một quân đội lớn. Lãnh thổ Trung Quốc cũng có sự mở rộng
đáng kể, từ một vùng nhỏ ở trung lưu sông Hoàng Hà (khoảng thế kỉ XXI TCN) đến
lãnh thổ rộng lớn đứng thứ ba thế giới (thế kỉ XVIII). Từ lâu, Trung Quốc đã tự xem
mình là “trung tâm của thiên hạ”, vì thế nên không ngừng muốn mở rộng đất đai của
mình ra khắp bốn phương. Về phần Việt Nam, vốn là một nước nhỏ, kể cả khi đã phát
triển tới phía nam như ngày nay, diện tích Việt Nam mới chỉ xấp xỉ một tỉnh cỡ trung
của Trung Quốc. Dọc theo chiều dài lịch sử, Trung Hoa luôn hiện lên với hình ảnh
một người hàng xóm khổng lồ về mọi mặt, với tham vọng vươn tay ra khắp tứ phía
xung quanh mình. Về mặt kinh tế, Trung Quốc có đủ khả năng tự cung tự cấp và từ
lâu đã có sự giao thương với các quốc gia khác, điển hình là con đường tơ lụa có
nguồn gốc từ những năm 100 TCN.
2.1.2.Quanniệmvềbảnsắcnướclớn-nướcnhỏ
Từ thuở sơ khai, Trung Quốc đã mang trong mình tư tưởng nằm ở trung tâm
của thế giới, chiếm ưu thế tuyệt đối về văn hóa, hay còn gọi là tư tưởng “phân tách
giữa “Di” và Hạ””5. Trong đó, “Tứ Di” bao gồm: Nam Man (chỉ Việt Nam - nằm ở
phía Nam Trung Quốc là man di mọi rợ), Bắc Địch, Đông Di và Tây Nhung. Ngay từ
tên gọi, Trung Quốc khi chiết tự tách nghĩa cũng là “quốc gia nằm ở trung tâm”, có vị
thế cao hơn các quốc gia khác. Việt Nam và các quốc gia lân cận khác thời trung đại
đều chịu sự chi phối của “trật tự siêu việt” ấy, hay còn được gọi là “Trật tự Hoa Di”.
Theo đó, Trung Quốc không chấp nhận rằng dưới gầm trời này xuất hiện một “thiên
tử” thứ hai, một thực thể chính trị nào khác độc lập với Trung Quốc. Từ đây, chế độ
“chính quốc - phiên thuộc” đã ra đời. Việt Nam cũng đã tự nguyện chấp nhận chế độ
đó qua quan hệ “triều cống” - vua Việt Nam dâng cống phẩm thể hiện sự thần phục và
“sắc phong” - ban đạo dụ sắc lệnh của vua Trung Hoa với hình thức “chiếu mệnh” của
5 Sở Thụ Long - Kim Uy, “Chiến lược và Chính sách Ngoại giao của Trung Quốc”, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2013, tr.13 5 about:blank 6/16 18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại
thiên tử cho vua các nước. Bản sắc nước lớn phản ánh rất rõ ràng qua mối quan hệ
“sắc phong - triều cống” này, đồng thời Trung Hoa qua từng thời kỳ cũng có nhiều yêu
sách để đòi Việt Nam cống nạp những vật kỳ trân dị bảo, hay nhiều lần cướp đất, đòi
hỏi yêu sách như mượn đường. Về phía Việt Nam cũng luôn luôn duy trì một sự cảnh
giác với người láng giềng khổng lồ, chú trọng xây dựng quân đội để không thất thế
trước những cuộc tấn công của Trung Quốc.
2.2. Yếu tố bất cân xứng tác động đến việc Việt Nam nhận thức về Trung
Quốc trong lịch sử
2.2.1.TưduychủquyềnvớiTrungQuốc
Sống chung với một nước láng giềng khổng lồ như thế nhưng Việt Nam vẫn
quyết tâm giữ vững độc lập - chủ quyền chứ không bao giờ để đất nước rơi vào sự
thôn tính của hoàng đế Trung Hoa. Điều đó phản ánh rất rõ ràng trong tư duy chủ
quyền của Việt Nam với Trung Quốc. Sau 1000 năm Bắc thuộc, nhà nước Đại Việt
luôn đặt trọng tâm mối quan hệ bang giao với phương Bắc lên hàng đầu, vì đây là việc
hệ trọng có can hệ đến tồn vong của cả triều đại và dân tộc. Như vậy, ta có thể thấy từ
trong lịch sử, chính sách đối ngoại Việt Nam luôn đặt Trung Quốc lên hàng đầu, cho
là Trung Quốc có khả năng tác động mạnh mẽ nhất tới sinh mệnh của quốc gia. Ngược
lại, Trung Quốc - nằm ở giữa “trật tự Hoa Di” xem mình vượt xa những quốc gia xung
quanh và chỉ xếp Việt Nam vào một trong những quốc gia phiên thuộc. Trong tương
quan và bối cảnh đó, Việt Nam đã thực hiện chính sách “trong xưng đế, ngoài xưng
vương” một cách rất hiệu quả, vừa mềm dẻo, linh hoạt vừa có độ cứng rắn khi cần
thiết để bảo chủ quyền độc lập dân tộc. “Nước Việt ta có cõi đất phía nam mà thông
hiếu với Trung Hoa, tuy nuôi dân dựng nước có quy mô riêng, nhưng ở trong thì xưng
đế, mà đối ngoài thì xưng vương, vẫn chịu phong hiệu, xét lý thế thực phải như thế”.6
Đây là một lựa chọn tự nguyện của người Việt, tuy ít nhiều sẽ phải chịu o ép, bất bình
đẳng nhưng phù hợp với “thế” và “lực” giữa hai nước. Thêm vào đó, Việt Nam luôn
sẵn sàng phát động những cuộc chiến tranh vũ trang chống lại “mưu đồ” bành trướng
của “thiên triều”, bảo vệ lãnh thổ và nền độc lập tự chủ của mình. 7 Nhận thức này đã
được phát triển thành triết lý ngoại giao truyền thống của dân tộc Việt Nam “quyết
tâm bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ”. Tư tưởng “độc lập thật sự, thần
thuộc danh nghĩa” bắt nguồn từ Khúc Thừa Dụ đã được phản ánh sâu sắc qua các diễn
6 Xem Phan Huy Chú, Lịch triều Hiến chương Loại chí, tập 2, mục Bang giao chí, Nxb Giáo dục, 2007, Hà Nội, tr. 533
7 Xem Đỗ Thị Thu Thủy, ““Bá quyền văn hóa" - Nhìn từ hiện tượng thơ bang giao Việt - Trung trong bối cảnh
Đông Á Trung đại”, trong Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế: “Việt Nam - Giao lưu văn hóa tư tưởng phương Đông”, tr. 36. 6 about:blank 7/16 18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại
ngôn, mà tiêu biểu trong số đó có thể kể đến một bài cáo nổi tiếng, được coi là bản
Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam, Bình Ngô Đại Cáo. Trong Bình Ngô Đại Cáo đã
chỉ rõ: “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập/ Cùng Hán, Đường, Tống,
Nguyên mỗi bên xưng bá một phương”
.8 Triết lý xuyên suốt này đã được đúc kết trong
nhận định sau: “Lịch sử của đất nước Việt Nam cũng là lịch sử khẳng định tính độc
lập với Trung Quốc”.9 Đằng sau mối quan hệ “chính quốc - phiên thuộc” là cả một tư
tưởng về sự độc lập: Việt Nam gọi mình là “Nam triều” - tách biệt với “Bắc triều”
Trung Quốc, trong mối quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam cũng tự gọi “bang giao” -
tức mối quan hệ giữa hai quốc gia đồng cấp.
2.2.2.ChiếnthắngTrungQuốcnhưmộttiêuchuẩnchotínhchínhdanh
Có một tiêu chuẩn đo lường tính chính danh của các triều đại phong kiến Việt
Nam đã được hình thành và thể hiện qua sự công dẫn binh và đánh đuổi giặc phương
Bắc của những vị thủ lĩnh. Cả Trưng Trắc, Trưng Nhị (40 - 43), Lý Thường Kiệt
(1019 - 1105), Trần Quốc Tuấn (1285 - 1292), Lê Lợi (1418 - 1433) và Quang Trung
(1788 - 1792) đều được dân tộc ta tôn vinh là anh hùng dân tộc. Các thành tựu về
ngoại giao và quân sự sau những cuộc xung đột với Trung Hoa đã giúp triều đại phong
kiến Việt Nam tạo dựng niềm tin trong lòng dân chúng và phục vụ cho công cuộc cai
trị và ổn định xã hội.
Trong cuốn sách “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa”, tác giả
Yoshiharu Tsuboi đã đưa ra ví dụ về hai triều đại lịch sử Việt Nam là Triều Hậu Lê và
triều Nguyễn. Lê Thái tổ Lê Lợi đã lãnh đạo thành công cuộc khởi nghĩa Lam Sơn,
chấm dứt thời kỳ mười năm bị nhà Minh đô hộ (1407 - 1418) và đem lại độc lập cho
dân tộc. Uy danh của ông ngày càng lớn mạnh và ông trở thành một trong những anh
hùng dân tộc được tôn kính nhất. Nhờ sự tin yêu của nhân dân, triều đại nhà Lê vẫn
vững vàng, dù những vị vua kế nhiệm Lê Lợi không phải là “minh quân” và không có
tài cai trị xuất chúng. Triều đại nhà Nguyễn không đạt được uy tín tương tự, vì họ
không thể khẳng định quyền lực và tính chính danh thông qua cuộc chiến với nước
láng giềng to lớn Trung Hoa. Vì vậy, các vua của triều đại nhà Nguyễn không được
dân chúng coi là “nguyên thủ quốc gia” (vương), mà chỉ được coi là hậu duệ của các
“quý tộc địa phương” (chúa), những người đã cai trị miền Nam dưới triều đại nhà Lê.
Trong khi đó, những tàn dư của triều đại nhà Lê vẫn được công nhận và tôn trọng bởi
8 Nguyễn Trãi, “Bình Ngô đại cáo”, thivien.net,
https://www.thivien.net/Nguy%E1%BB%85n-Tr%C3%A3i/B%C3%ACnh-Ng%C3%B4-%C4%91%E1%BA%
A1i-c%C3%A1o/poem-mLEGY5d9nFI0RH280X-vIQ
9 Yoshiharu Tsuboi, “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa 1847 - 1885”, Hội Sử học Việt Nam, Hà Nội, tr. 43 7 about:blank 8/16 18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại
dân chúng vùng Bắc Hà, tạo ra thời kỳ kéo dài hơn 50 năm với sự chia cắt giữa Nam và Bắc ở Việt Nam.
2.2.3.Thamvọng“bànhtrướngbáquyền”củaTrungQuốc
Không một triều đại Việt Nam nào có thể có được tính chính danh thật sự nếu
không chiến thắng Trung Quốc, cũng không có triều đại Trung Quốc nào chưa từng
đem quân sang xâm phạm bờ cõi Việt Nam để thể hiện quyền uy của thiên triều. Vì
vậy, các triều đại Việt Nam đã sớm nhìn nhận được tư tưởng bành trướng ấy. Hoàng
đế Trung Hoa luôn xem mình là “thiên tử” - con trời, có quyền cai trị cả “thiên hạ” -
tức toàn bộ vùng đất dưới gầm trời ấy. Trong biểu trần tình được Lê Thái Tổ mượn
danh Trần Cảo dâng lên có đoạn: “Suốt cả gầm trời, không đâu là không phải đất của
vua; khắp trong cõi đất, không ai là không phải tôi của vua.” 10 Các triều đại Việt Nam
có ý thức về tư tưởng bành trướng bá quyền của Trung Hoa là vậy. Bản chất của tư
tưởng bá quyền, nhất là bá quyền kiểu Đông Á thể hiện ở tham vọng chi phối, thậm
chí “hăng hái tiêu diệt” các dân tộc/ nền văn hóa nhỏ hơn. 11
2.2.4.Chủtrươngđiềuhòamốiquanhệ
Không bao giờ có một triều đại Việt Nam nào kéo dài sự căng thẳng trong mối
quan hệ với Trung Quốc, bất kể là khi đánh đuổi thành công Trung Quốc ra khỏi lãnh
thổ, hay giành lại được độc lập, chủ quyền từ tay Trung Quốc. Hầu như, các vương
triều phong kiến Việt Nam đều cử sứ giả ngay lập tức sang diện kiến “thiên triều” để
thiết lập lại quan hệ ngoại giao “chính quốc - phiên thuộc” sau khi chiến tranh kết
thúc. Tùy vào sức mạnh, và tương quan lực lượng giữa hai quốc gia mà Việt Nam có
sự điều chỉnh trong chủ trương này, nhưng tinh thần “cầu hòa” để duy trì mối bang
giao hữu hảo luôn chi phối. Có nhiều trường hợp, Việt Nam còn xuống nước hơn nữa
để có thể ứng biến linh hoạt. Năm 1265, thái thượng hoàng Trần Thái Tông đã “xuống
nước” viết một bài thơ tiễn sứ giả nhà Nguyên Trương Hiển Khanh về nước: “Nghĩ
không có ngọc quỳnh đáp lại, lòng tự thẹn.” Chữ “thẹn” thể hiện sự nhún nhường của
một bậc quân vương khi phải tiễn đưa một viên sứ giả về nước. Tuy nhiên, hành động
ấy cũng là vì để điều hòa mối quan hệ với Trung Quốc, tránh những xung đột không đáng có.
10 Xem Phan Huy Chú, “Lịch triều Hiến chương Loại chí”, tập 2, mục Bang giao chí, Nxb Giáo dục, 2007, Hà Nội, tr. 543
11 Xem Đỗ Thị Thu Thủy, ““Bá quyền văn hóa” - Nhìn từ hiện tượng thơ bang giao Việt - Trung trong bối cảnh
Đông Á Trung đại”, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế: “Việt Nam - Giao lưu văn hóa tư tưởng phương Đông”, tr. 41 8 about:blank 9/16 18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại
3. Yếu tố bất cân xứng tác động như thế nào đến việc Việt Nam nhận thức
về Trung Quốc trong giai đoạn 1979 - 1991.
Cần thừa nhận rằng, trong giai đoạn từ 1979 - 1991, quan niệm về bạn - thù
trong quan hệ quốc tế của Việt Nam bị chi phối phần nhiều sự phân hóa bởi ý thức hệ.
Chính quyền Việt Nam coi sự thù địch với các nước TBCN là đúng đắn, xem Mỹ là kẻ
thù cơ bản, lâu dài - để tiêu diệt cần có nhiều thời gian chứ không phải một sớm một
chiều. Song, yếu tố mang tính hệ thống cấu trúc trong mối quan hệ Việt Nam - Trung
Quốc cũng phần nào khiến ta nhìn nhận họ như là “kẻ thù” hay “láng giềng thân cận”,
xác định mối quan hệ là “thù địch” hay “hợp tác và hữu nghị”. Những yếu tố mang
tính hệ thống - cấu trúc thể hiện qua mối quan hệ bất cân xứng đã tạo thành sự nhận
thức về Trung Quốc trong lịch sử, và tác động đến cả giai đoạn 1979 - 1991. Năm
1990, TBT Nguyễn Văn Linh từng khẳng định: “Việt Nam là nước nhỏ, ĐCSVN là
đảng nhỏ, rất cần có sự ủng hộ và giúp đỡ của một nước lớn, đảng lớn như Trung Quốc.”12
3.1. Tác động từ bạn thành thù
Ngày 1/1/1979, Mỹ và Trung Quốc chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao.
Ngày 7/2/1979, Trung Quốc tấn công Việt Nam trên toàn biên giới phía Bắc nước ta
dưới sự chỉ đạo của Đặng Tiểu Bình “Dạy cho Việt Nam một bài học”. Vì sự chi phối
của mối quan hệ bất cân xứng, cuộc chiến tranh ở biên giới Việt Nam năm 1979 có thể
chỉ là một cuộc chiến nhỏ với Trung Quốc với mục đích thắng lợi nhằm đơn phương
áp đặt quyền lợi của mình lên Việt Nam - hay giống như Đặng Tiểu Bình diễn tả, là để
dạy một bài học cho Việt Nam. Nhưng với Việt Nam thì bắt buộc phải chiến thắng
cuộc chiến này nhằm bảo vệ chủ quyền và bản sắc của mình trước tay Trung Quốc.
Đương nhiên, chính quyền Việt Nam không bao giờ chấp nhận Trung Quốc có thể
xâm phạm tới biên giới nước mình. Ngay lập tức, một cuộc hành quân đã diễn ra,
quân đội ta nhanh chóng ứng chiến với 60 vạn quân Trung Quốc tiến vào biên giới
Việt Nam. Ngày 18/2, Việt Nam ra “Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của những người cầm
quyền Trung Quốc” trên báo Nhân dân trong đó nêu rõ: “Những người cầm quyền
Trung Quốc đã đi theo con đường cũ của bọn phong kiến Trung Quốc và bọn đế quốc
thực dân, tiến hành xâm lược Việt Nam, một nước độc lập có chủ quyền”13. Điều này
12 Lý Gia Trung, Nguyên Hải (dịch), “Nội tình cuộc gặp lãnh đạo Trung - Việt tại Thành Đô”, Tạp chí Trung
Quốc (Đảng sử tung hoành), 2014,
https://nghiencuuquocte.org/2014/11/07/noi-tinh-cuoc-gap-lanh-dao-trung-viet-tai-thanh-do/
13 “Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam
của những người cầm quyền Trung Quốc”, Báo Nhân dân, Hà Nội, 18/12/1979. 9 about:blank 10/16 18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại
đã phản ánh sự nhận thức của Việt Nam về chủ quyền lãnh thổ trong mối quan hệ bất
cân xứng với Trung Quốc chưa hề thay đổi. Suốt 2000 năm chung sống với nước láng
giềng, 2000 năm chia sẻ lịch sử, vận mệnh, Việt Nam vẫn có thể giữ vững độc lập,
chủ quyền kể cả khi đã xuất hiện những thời kỳ khó khăn, bất lợi như “1000 năm Bắc
thuộc” hay “Trận chiến Biên giới năm 1979” và “Trường Sa năm 1988”. 2000 năm đó,
đã có biết bao nhiêu lần Trung Hoa đem quân sang xâm phạm bờ cõi Đại Việt, nhưng
dân tộc Việt Nam luôn luôn đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược. Bài thơ thần “Nam
Quốc Sơn Hà” đã viết: “Tiệt nhiên định phận tại thiên thư” 14- khẳng định chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam là bất khả xâm phạm. Thời thế có thể đổi thay,
“Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau/ Song hào kiệt đời nào cũng có”15 và chân lý về
chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam cũng sẽ luôn được gìn giữ.
3.2. Tác động từ thù thành bạn
3.2.1.ChủtrươngbìnhthườnghóaquanhệvớiTrungQuốc
Như đã trình bày ở trên, nhận thức của Việt Nam về việc điều hòa mối quan hệ
với Trung Quốc sau mỗi cuộc xung đột đã rất rõ ràng. Về chiến tranh biên giới năm
1979, Việt Nam cũng đã có vòng đàm phán đầu tiên với Trung Quốc vào tháng 4, một
tháng sau khi Trung Quốc rút quân. Tuy nhiên, cuộc đàm phán này không đi đến kết
quả. Đầu năm 1980, Việt Nam và Trung Quốc tiến hành đàm phán vòng thứ hai tại
Bắc Kinh nhưng cũng không có kết quả. Từ đây, Trung Quốc cắt cầu đàm phán. Cuộc
đàm phán không đi đến kết quả tốt đẹp là vì Trung Quốc chưa thấy được lợi ích của
việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam lớn hơn chi phí cần bỏ ra. Từ đó tới năm
1988, Việt Nam còn nhiều nỗ lực bình thường hóa quan hệ nhưng đều bị Trung Quốc
bác bỏ và đặt điều kiện là cần giải quyết vấn đề Campuchia trước rồi mới bàn chuyện
bình thường hóa quan hệ.
Nội bộ các lãnh đạo của Việt Nam cũng có sự phân cực về vấn đề bình thường
hóa quan hệ với Trung Quốc nhưng mãi đến sau năm 1986, khi chủ trương Đổi Mới ra
đời, Việt Nam mới thực sự rõ ràng về sự quyết tâm bình thường hóa quan hệ của
mình. Như vậy, yếu tố hệ thống cấu trúc từ lâu đời về chủ trương hòa hiếu, bình
thường hóa quan hệ với Trung Quốc sau khi chiến tranh đã kết thúc. Bởi lẽ, với cương
vị nước nhỏ hơn trong mối quan hệ bất cân xứng, ta luôn đặt mối quan hệ đối ngoại
14 “Nam quốc sơn hà, bài ca bất hủ”, Công an Nhân dân, Hà Nội, 11/11/2022,
https://cand.com.vn/Ly-luan/nam-quoc-son-ha-bai-ca-bat-hu-i673949/
15 Nguyễn Trãi, “Bình Ngô đại cáo”, thivien.net,
https://www.thivien.net/Nguy%E1%BB%85n-Tr%C3%A3i/B%C3%ACnh-Ng%C3%B4-%C4%91%E1%BA%
A1i-c%C3%A1o/poem-mLEGY5d9nFI0RH280X-vIQ 10 about:blank 11/16 18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại
với Trung Quốc lên hàng đầu, là mối quan hệ có thể tác động trực tiếp, ngay lập tức
tới sự tồn vong của cả dân tộc. Đến năm 1989, tiến trình bình thường hóa quan hệ
đang được tích cực thúc đẩy, trên báo Nhân Dân đã có bài báo viết hai câu thơ: “Bởi
chiến hòa quyền ở tay mình/ Mà hòa mục thực ai cũng muốn”.16
Hai câu thơ đã thể
hiện rõ chủ trương bình thường hóa quan hệ, muốn nối lại quan hệ hữu nghị truyền
thống với Trung Quốc của Việt Nam. Trong bài báo cũng khéo léo nhắc về sự hòa hảo
giữa hai nước sau khi vua Quang Trung chiến thắng trận Đống Đa, đánh đuổi quân đội
nhà Thanh ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Mượn câu chuyện lịch sử - yếu tố hệ thống cấu
trúc, Việt Nam đã tỏ rõ về quan điểm “xung đột nhất thời - hòa hảo lâu dài” trong mối quan hệ giữa hai nước.
3.2.2. Nhìn nhận Trung Quốc có hai mặt: Xã hội chủnghĩavàbànhtrướng báquyền.
Năm 1987, tổ nghiên cứu nội bộ CP87 đã thống nhất về tính chất Trung Quốc
như sau: “Trung Quốc ngày nay có hai mặt: mặt XHCN và mặt bành trướng bá quyền.
Tính chất XHCN thể hiện tương đối rõ nét hơn về chính sách đối nội, ở cơ cấu xã hội,
cơ cấu kinh tế của họ. Còn đường lối đối ngoại của Trung Quốc lại mang tính chất cổ
truyền của họ là bành trướng bá quyền. Cái bất biến của Trung Quốc là tham vọng bá
quyền.”17 Từ lâu, nhận thức về sự bành trướng bá quyền của Trung Quốc đã có tại Việt
Nam và cách nước ta hành động cho vấn đề đó chính là duy trì mối quan hệ bang giao
hữu hảo với Trung Quốc. Vì nhận thức được tư tưởng đó, nên các triều đại phong kiến
Việt Nam, dựa trên phân tích và nhìn nhận giữa “thế” và “lực” giữa hai quốc gia, đã
chủ trương duy trì mối quan hệ “chính quốc - phiên thuốc” suốt từ thế kỷ X tới thế kỷ
XIX, khi nhà Nguyễn để mất nước.
Phản ứng với sự bành trướng bá quyền của Trung Quốc, Việt Nam không bao
giờ lựa chọn cách đối đầu trực diện mà khéo léo điều hòa bằng các biện pháp ngoại
giao, đôi khi nước nhỏ hơn là Việt Nam phải hy sinh những lợi ích của mình (trong
phạm vi có thể), chịu sự o ép về nhiều mặt, để duy trì trật tự trong mối quan hệ bất cân
xứng. Trong khi những quan điểm chủ lưu của những năm 1979 - 1986 cho rằng, bành
trướng bá quyền chính là một trong những nguyên nhân để Việt Nam phải duy trì sự
thù địch với Trung Quốc. Đặc biệt là trong khoảng thời gian 3 tháng đầu năm 1979,
trên báo Nhân Dân cụm từ “bành trướng bá quyền” xuất hiện 609 lần. Trong cuốn
sách “Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua”, cụm từ này cũng
16 “Quan hệ Việt - Trung sau trận Đống Đa, tháng Giêng năm Kỷ Dậu 1789”, Báo Nhân dân, Hà Nội, 1989.
17Xem: Trần Quang Cơ, “Chương 2: Một nhiệm kỳ đại sứ không tẻ nhạt”, trong Hồi ký Trần Quang Cơ: Hồi ức và Suy nghĩ, tr. 21 11 about:blank 12/16 18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại
được nhắc lại vô số lần. Thế nhưng, người viết cho rằng, từ xa xưa, người Việt Nam
đã có sự nhận thức về tư tưởng “bành trướng bá quyền” của Trung Quốc, đã tiếp nhận
và hiểu khung lý thuyết “thiên hạ” của họ, rằng tất cả vùng đất dưới gầm trời này đều
thuộc về hoàng đế Trung Hoa, dân tộc Trung Hoa. Những nhận thức ấy đã cấu thành
hành vi của chúng ta, mang tính truyền thống, lâu đời có phản ánh trong triết lý ngoại
giao truyền thống, đó là: “coi trọng hòa hiếu với các nước khác”18, trong đó có Trung
Quốc. Vậy nên, trong giai đoạn năm 1986 về sau, chúng ta vẫn giữ nhận thức về
Trung Quốc “bành trướng bá quyền” nhưng có sự điều chỉnh, và coi đó cũng là một cơ
sở để thúc đẩy sự bình thường hóa với Trung Quốc.
18 Xem: GS. TS. Vũ Dương Huân, “Về triết lý ngoại giao truyền thống Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế,
Hà Nội, 6/2008, https://nghiencuuquocte.org/2021/09/24/ve-triet-ly-ngoai-giao-truyen-thong-viet-nam/#_ftn11 12 about:blank 13/16 18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại PHẦN 3. KẾT LUẬN
Xét trên yếu tố hệ thống - cấu trúc, mối quan hệ bất cân xứng điển hình giữa
hai láng giềng Việt Nam và Trung Quốc đã kéo dài hơn 2000 năm, qua nhiều thời kỳ.
Yếu tố hệ thống - cấu trúc này đã hình thành và phát triển nên những nhận thức của
Việt Nam về cách nhìn nhận Trung Quốc như một kẻ thù, hay như một láng giềng thân
cận. Người viết xin kết luận: Yếu tố bất đối xứng trong mối quan hệ Việt - Trung tác
động hai chiều đến sự thay đổi nhận thức của Việt Nam về kẻ thù Trung Quốc trong
giai đoạn 1979 - 1991: từ thù thành bạn và từ bạn thành thù. Trong giai đoạn 1979 -
1991, nhận thức về chủ quyền, độc lập đã thay đổi nhận thức của Việt Nam về Trung
Quốc: từ bạn thành thù. Từ rất lâu, Việt Nam luôn luôn ý thức về sự độc lập, chính
danh của mình và khẳng định sẽ giữ vững chủ quyền, độc lập dân tộc trước sự mọi sự
xâm phạm bờ cõi của Trung Hoa. Ở chiều hướng ngược lại, triết lý ngoại giao hòa hảo
và nhận thức về sự bành trướng bá quyền của Trung Quốc đã phần nào thúc đẩy quá
trình thay đổi nhận thức của Việt Nam về Trung Quốc từ thù thành bạn. Tuy yếu tố hệ
thống cấu trúc không đóng vai trò quyết định trong quá trình thay đổi nhận thức của
Việt Nam về kẻ thù Trung Quốc nhưng cũng có những tác động nhất định không thể phủ nhận.
Trong bối cảnh hiện nay, việc xử lý mối quan hệ với nước lớn láng giềng Trung
Quốc vẫn luôn là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Tuy
trong bối cảnh đa phương hóa, Việt Nam có thể lôi kéo bên thứ ba tham gia vào mối
quan hệ này, nhưng sự bất cân xứng về sức mạnh vẫn chi phối mối quan hệ này rất
nhiều. Mối quan hệ với Trung Quốc hiện nay vẫn có hai mặt hợp tác và đấu tranh.19 Vì
vậy, những yếu tố hệ thống cấu trúc trong sự nhận thức của Việt Nam - Trung Quốc
vẫn sẽ có những sự chi phối nhất định.
19 Thủ tướng: “Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc là vừa hợp tác vừa đấu tranh”, VnExpress, 19/11/2014,
https://vnexpress.net/thu-tuong-quan-he-viet-nam-trung-quoc-la-vua-hop-tac-vua-dau-tranh-3109351.html 13 about:blank 14/16 18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Brantly Womack. “Sự bất cân xứng về sức mạnh và các mối quan hệ quốc tế.”
Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2020.
2. Elaine Tolentino và Myungsik Ham. “The entrapment of asymmetry: the
Philippines between the US and China”, Bandung: Journal of the Global South, 2015.
3. Đỗ Thị Thu Thủy. ““Bá quyền văn hóa" - Nhìn từ hiện tượng thơ bang giao
Việt - Trung trong bối cảnh Đông Á Trung đại” Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc
tế: “Việt Nam - Giao lưu văn hóa tư tưởng phương Đông”

4. GS. TS. Vũ Dương Huân. “Về triết lý ngoại giao truyền thống Việt Nam”, Tạp
chí Nghiên cứu Quốc tế, Hà Nội, 23/6/2008, truy cập ngày 3/6/2023
https://nghiencuuquocte.org/2021/09/24/ve-triet-ly-ngoai-giao-truyen-thong-vie t-nam/#_ftn11
5. Lê Hồng Hiệp (dịch). “Cuộc đối thoại ở Melos.” Nghiên cứu quốc tế, 23/5/2013 truy cập 29/5/2023.
https://nghiencuuquocte.org/2013/05/23/melian-dialogue/
6. Lý Gia Trung, Nguyên Hải (dịch). “Nội tình cuộc gặp lãnh đạo Trung - Việt tại
Thành Đô”, Tạp chí Trung Quốc (Đảng sử tung hoành), 2014, truy cập 2/6/2023
https://nghiencuuquocte.org/2014/11/07/noi-tinh-cuoc-gap-lanh-dao-trung-viet- tai-thanh-do/
7. Nguyễn Cẩm Tú. “Vấn đề Biển Đông trong mối quan hệ Việt Nam - Trung
Quốc từ 2014 tới nay: Tiếp cận theo thuyết Bất cân xứng.”, Khóa luận Tốt
nghiệp
, Học viện Ngoại giao, Hà Nội, 2020.
8. Nguyễn Vũ Tùng “Sống chung với nước láng giềng lớn hơn: Thực tiễn và
chính sách”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 2, 6/2010, Hà Nội, truy cập 30/5/2023.
https://drive.google.com/file/d/1SOl9F88zgnu5PuBjRpnPGuSwMMMg7Ede/v iew
9. “Nam quốc sơn hà, bài ca bất hủ”, Công an Nhân dân, Hà Nội, 11/11/2022,
https://cand.com.vn/Ly-luan/nam-quoc-son-ha-bai-ca-bat-hu-i673949/ 14 about:blank 15/16 18:52 5/8/24
Tiểu luận Chính sách đối ngoại
10. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh. “Nho giáo trong nền ngoại giao Việt Nam thời trung
đại”, Đại học Sư phạm Hà Nội, 22/10/2016, truy cập ngày 8/6/2023
https://drive.google.com/file/d/12e4fUIgZmNnphwGeHSN0n9K1t-0CM56D/vi ew
11. Nguyễn Trãi. “Bình Ngô đại cáo” thivien.net, truy cập 1/6/2023
https://www.thivien.net/Nguy%E1%BB%85n-Tr%C3%A3i/B%C3%ACnh-Ng
%C3%B4-%C4%91%E1%BA%A1i-c%C3%A1o/poem-mLEGY5d9nFI0RH2 80X-vIQ
12. Phan Huy Chú. Lịch triều Hiến chương Loại chí, tập 2, mục Bang giao chí,
Nxb Giáo dục, 2007, Hà Nội.
13. “Quan hệ Việt - Trung sau trận Đống Đa, tháng Giêng năm Kỷ Dậu 1789”,
Báo Nhân dân, Hà Nội, 1989.
14. Trần Quang Cơ. “Hồi ký Trần Quang Cơ: Hồi ức và Suy nghĩ”.
15. Thủ tướng: “Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc là vừa hợp tác vừa đấu tranh”, VnExpress, 19/11/2014, truy cập ngày 5/6/2023
https://vnexpress.net/thu-tuong-quan-he-viet-nam-trung-quoc-la-vua-hop-tac-v ua-dau-tranh-3109351.html
16. Yoshiharu Tsuboi. “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa 1847 -
1885”, Hội Sử học Việt Nam, Hà Nội. 15 about:blank 16/16