-
Thông tin
-
Quiz
Một số yêu cầu trong bộ luật dân sự | Trường Đại học Kinh tế – Luật
Hợp đồng có vai trò đặc biệt trong đời sống hàng ngày và trong hoạt động kinh doanh thương mại. Chính vì vậy việc xây dựng pháp luật cho hợp đồng cần phải được quan tâm thích đáng bởi lẽ hệ thống pháp luật hợp đồng tốt. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Lý luận nhà nước và pháp luật (llnnvpl) 249 tài liệu
Trường Đại học Kinh Tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh 1.4 K tài liệu
Một số yêu cầu trong bộ luật dân sự | Trường Đại học Kinh tế – Luật
Hợp đồng có vai trò đặc biệt trong đời sống hàng ngày và trong hoạt động kinh doanh thương mại. Chính vì vậy việc xây dựng pháp luật cho hợp đồng cần phải được quan tâm thích đáng bởi lẽ hệ thống pháp luật hợp đồng tốt. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Lý luận nhà nước và pháp luật (llnnvpl) 249 tài liệu
Trường: Trường Đại học Kinh Tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh 1.4 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:







Tài liệu khác của Trường Đại học Kinh Tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45943468
MỘT SỐ YÊU CẦU KHI XÂY DỰNG CHẾ ĐỊNH HỢP ĐỒNG TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ
PGS-TS. Dương Anh Sơn, Trường đại học Kinh tế-Luật, Đại học Quốc gia TP. HCM
Hợp đồng có vai trò đặc biệt trong đời sống hàng ngày và trong hoạt động kinh
doanh thương mại. Chính vì vậy việc xây dựng pháp luật cho hợp đồng cần phải được quan
tâm thích đáng bởi lẽ hệ thống pháp luật hợp đồng tốt, hoàn thiện sẽ tạo ra và duy trì trật
tự cho lưu thông dân sự, hoạt động thương mại. Tôi cho rằng, pháp luật hợp đồng chỉ có
thể hoàn chỉnh, thực sự tốt khi và chỉ khi chúng được xây dựng trên cơ sở đáp ứng một số
yêu cầu nhất định. Trong phạm vi bài viết tôi muốn đề cập đến các yêu cầu đó.
1. Pháp luật hợp đồng cần phải mềm dẻo và uyển chuyển. Pháp luật nói chung và
pháp luật hợp đồng nói riêng cần phải phản ánh được sự thay đổi của xã hội. Trong hàng
ngàn năm thực hiện đúng hợp đồng được coi là nguyên tắc nền tảng của việc thực hiện hợp
đồng và pháp luật hợp đồng phản ánh trung thực nguyên tắc này. Thật vậy, trong bối cảnh
xã hội ít có sự thay đổi thì các quy định của pháp luật hợp đồng cần phải có tính cứng nhắc
theo kiểu “bút sa gà chết”. Sự cứng nhắc này đã phát huy được hiệu quả điều chỉnh bởi
chúng hạn chế, ngăn chặn được sự không thiện chí, trung thực của một trong các bên của
hợp đồng và đã góp phần tạo lập và giữ được sự ổn định cho lưu thông dân sự, hoạt động kinh doanh thương mại.
Tự do hóa thương mại làm cho thế giới trở nên phẳng hơn và vì vậy các quốc gia bị
lệ thuộc vào nhau nhiều hơn và đương nhiên là xã hội có nhiều biến động hơn, cả về biên
độ và cả về chu kỳ. Trong bối cảnh đó thì tính cứng nhắc của pháp luật tỏ ra không còn phù
hợp, bởi lẽ không những không tạo được sự ổn định cho lưu thông dân sự mà còn trong
nhiều trường hợp có thể phá vỡ trật tự này. Chúng tôi cho rằng, trong điều kiện hiện nay,
để lưu thông dân sự có được sự ổn định, vận hành một cách có trật tự thì pháp luật hợp
đồng phải trở nên mềm dẻo, uyển chuyển hơn. Lạt mềm buộc chặt, pháp luật càng mềm
dẻo bao nhiêu thì xã hội càng có trật tự bấy nhiêu. Để pháp luật hợp đồng trở nên mềm dẻo,
uyển chuyển hơn, theo quan điểm của chúng tôi, chúng phải thỏa mãn những yêu cầu sau đây:
Thứ nhất, các quy định của pháp luật hợp đồng nên có tính khái quát cao, độ mở
phải đủ rộng để có thể giải thích khi áp dụng. Bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận, vì
vậy bất kỳ sự thỏa thuận nào nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự
của các bên đều được coi là hợp đồng. Cuộc sống phong phú và đa dạng và pháp luật không
thể bao quát hết tất cả mọi vấn đề trong xã hội. Hơn thế nữa pháp luật cũng chỉ có thể quy
định chị tiết, cụ thể cho một số trường hợp mà không thể cho tất cả. Mặt khác, tôi cho rằng,
cuộc sống hàng ngày, hoạt động kinh doanh thương mại là tập hợp những cuộc chơi (các
trò chơi), các chủ thể đồng thời tham gia vào các cuộc chơi khác nhau. Khi các bên tham
gia đàm phán ký kết hợp đồng có nghĩa là các bên bắt đầu tham gia cuộc chơi. Một điều có 1 lOMoAR cPSD| 45943468
thể nhận thấy là bất kỳ cuộc chơi (trò chơi) nào cũng có quy tắc. Vậy có thể cho rằng, pháp
luật hợp đồng chính là quy tắc chung cho mọi cuộc chơi và mỗi khi là quy tắc chung cho
mọi cuộc chơi thì không thể và không nên chi tiết và cụ thể mà nên và chỉ nên có tính khái
quát. Còn hợp đồng chính là quy tắc cho từng cuộc chơi đơn lẻ, quy tắc này cần phải được
xây dựng trên cơ sở quy tắc chung (pháp luật hợp đồng). Vì là quy tắc cho từng cuộc chơi
cụ thể nên hợp đồng cần phải chi tiết và cụ thể, có như vậy mới có thể phản ánh được những
đặc điểm của từng loại hợp đồng.
Vấn đề nữa là nếu các quy định của pháp luật thiếu tính khái quát và chỉ quy định
cụ thể chi tiết cho một số vấn đề thì hậu quả sẽ là: đối với những vấn đề đã được quy định
chi tiết và cụ thể thì chúng sẽ được áp dụng một các máy móc, thiếu sự xét đoán, giải thích
các quy định đó. Đối với những trường hợp pháp luật chưa quy định (thường là như vậy,
bởi như đã nói ở trên, pháp luật không thể bao quát hết mọi vấn đề liên quan đến hợp đồng)
thì những chủ thể áp dụng pháp luật sẽ gặp nhiều khó khăn, bởi lẽ khả năng giải thích pháp
luật là rất hạn chế. Tính khái quát của các quy định pháp luật hợp đồng cho phép các bên
giải thích hợp đồng tùy thuộc vào từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Tất nhiên để làm được
điều này thì cũng cần phải chú ý đến việc nâng cao năng lực giải thích pháp luật của các thẩm phán.
Thứ hai, hạn chế sử dụng các quy phạm mệnh lệnh, gia tăng sử dụng các quy phạm
tùy nghi. Xuất phát từ bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận nên cần phải có sự cẩn trọng
khi sử dụng các quy phạm mệnh lệnh. Việc sử dụng một cách tùy tiện, thiếu thận trọng các
quy phạm mệnh lệnh vô hình chung sẽ hạn chế, can thiệp không cần thiết tự do hợp đồng
và điều này dẫn đến việc hạn chế khả năng sáng tạo của các chủ thể. Theo quan điểm của
chúng tôi, các quy phạm mệnh lệnh chỉ nên được sử dụng chủ yếu trong phạm vi điều chỉnh
hiệu lực của hợp đồng.
Các quy định điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên nên là các quy phạm tùy
nghi. Xuất phát từ thực tiễn, rằng chỉ có các bên của hợp đồng mới là người biết rõ ràng
nhất, họ cần phải làm gì vì lợi ích của họ trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nào đó.
Các nhà làm luật không ở vào vị thế của các bên trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể
đó nên không thể làm thay các bên. Hợp đồng là sự thỏa thuận vì vậy pháp luật chỉ can
thiệp khi các bên không có sự thỏa thuận. Liên quan đến các quy định của pháp luật điều
chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thì chỉ sử dụng quy phạm mệnh lệnh
trong một chừng mực nhất định và trong những trường hợp có thể được coi là ngoại lệ. Ví
dụ, nhằm để ưu tiên bảo vệ bên yếu thế hoặc ngăn chặn những hành vi cố tình vi phạm hợp đồng.
Thứ ba, như đã được đề cập ở trên, trong bối cảnh xã hội thường xuyên có sự biến
động lớn cả về biên độ và chu kỳ thì sự cứng nhắc của pháp luật trong nhiều trường hợp sẽ
làm giảm tính hiệu quả của pháp luật hợp đồng. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành thì hợp
đồng chỉ có thể được sửa đổi khi và chỉ khi có sự thỏa thuận của các bên (ngoại trừ ĐIều 2 lOMoAR cPSD| 45943468
20 Luật Kinh doanh bảo hiểm). Điều này có nghĩa là cho dù điều kiện hoàn cảnh có thay
đổi như thế nào đi nữa và đến mức có sự khác biệt rất cơ bản với điều kiện, hoàn cảnh tại
thời điểm ký kết hợp đồng thì các bên vẫn phải thực hiện hợp đồng nếu không đạt được sử
thỏa thuận về sửa đổi hợp đồng. Điều này có nguy cơ phá vỡ trật tự xã hội. Bởi lẽ bên bị
thiệt hại quá lớn do sự thay đổi của hoàn cảnh không phải do lỗi của họ mà hoàn toàn do
khách quan. Một bên bị thiệt hại thì đương nhiên bên kia sẽ được hưởng lợi. Ở đây bên
được hưởng lợi không phải vì sự cố gắng của họ mà là hưởng lợi trên sự thiệt hại của người
khác. Đây không phải là phần thưởng vì chẳng có lý do gì để anh ta được thưởng cả, hơn
thế nữa anh ta không đáng được nhận khoản lợi ích-phần thưởng đó. Điều này có thể dẫn
đến việc bên bị thiệt hại có thể vi phạm hợp đồng-trât tự sẽ bị phá vỡ. Sẽ là công bằng nếu
trong những tình huống nói trên bên được hưởng lợi cần phải biết chia sẻ với người bị thiệt
hại. Để có thể giải quyết một cách hợp lý tình trạng nói trên, pháp luật nên thiết kế cơ chế
bắt buộc các bên phải sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Tôi đồng ý với quan
điểm, hợp đồng cần phải được tiếp cận theo hướng là một quá trình.1
2. Pháp luật hợp đồng cần phải nhất quán và Bộ luật Dân sự phải có sứ mạng đảm
bảo cho sự thống nhất đó. Pháp luật hợp đồng được coi là lĩnh vực pháp luật xuyên suốt cả
toàn bộ hệ thống pháp luật của quốc gia. Hợp đồng được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp
luật khác nhau, vì vậy đảm bảo tính thống nhất của pháp luật hợp đồng là việc hết sức cần
thiết. Bộ luật Dân sư được coi là cơ sở nền tảng của lĩnh vực luật tư, chính vì vậy các quy
định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sư phải đảm nhận được vai trò chính yếu, là cơ sở để
đảm bảo tính thống nhất của pháp luật hợp đồng. Đảm bảo sự thống nhất của pháp luật hợp
đồng được lý giải bởi việc:i) pháp luật nói chung và pháp luật hợp đồng nói riêng là thể
thống nhất, không phân chia; ii) trong khoa học pháp lý và trong pháp luật cũng như thực
tiễn ở các nước phát triển không có sự phân chia tách bạch hợp đồng dân sự và hợp đồng
thương mại; iii) đảm bảo tính hiệu quả của pháp luật cũng như của hoạt động áp dụng pháp luật.
Trước đây, chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 1995 và cả 2005 chưa được coi
là đóng vai trò trung tâm của pháp luật hợp đồng, điều này dẫn đến việc là tồn tại nhiều
mâu thuẫn giữa các quy định của Bộ luật Dân sự với các quy định liên quan trong các văn
bản pháp luật khác: Mâu thuẫn giữa Bộ luật Dân sự với Luật Thương mại, Luật Nhà ở,
Luật Kinh doanh bảo hiểm…Và để giải quyết những mâu thuẫn đó các nhà làm luật Việt
Nam đã sáng tạo những quy định chỉ có trong pháp luật Việt Nam, ví dụ quy định tại khoản
3 ĐIều 1 Luật Thương mại, bắt buộc phải tìm tiêu chí để phân biệt hợp đồng dân sự với
1 Xem: Lê Minh Hùng, Điều khoản điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi trong pháp luật nước ngoài và kinh
nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 6 tháng 3/2009. 3 lOMoAR cPSD| 45943468
hợp đồng thương mại hoặc đưa ra những khái niệm luật chung và luật chuyên ngành, hoặc
trong hệ thống tòa án thì có tòa dân sự và tòa kinh tế.
Chúng tôi cho rằng, quy định tại khoản 3 Điều 1 Luật Thương mại 2005 được hiểu
là các bên trong hợp đồng có quyền chọn luật áp dụng cho hợp đồng. Chọn luật cho hợp
đồng chỉ tồn tại trong hợp đồng thương mại quốc tế. Hợp đồng được ký kết và thực hiện
trên lãnh thổ của một quốc gia, giữa các chủ thể cùng thực hiện hoạt động trên lãnh thổ của
một quốc gia thì vấn đề chọn luật áp dụng cho hợp đồng không thể được đặt ra.
Có thể thể phân biệt được hợp đồng dân sự với hợp đồng thương mại hay không?
Câu trả lời rằng, trong nhiều trường hợp là không thể. Có lẽ chỉ có trong khoa học pháp lý
Việt Nam mới có các thuật ngữ “Hợp đồng dân sự” và “hợp đồng thương mại”. Ở các nước
phát triển, việc phân chia hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại chỉ mang tính ước lệ
và chỉ là câu chuyện của khoa học pháp lý, còn thực tiễn và pháp luật thì không có sự phân
chia. Điều này được lý giải bởi việc pháp luật hợp đồng của họ có mức độ thống nhất cao.
Mọi hoạt động kinh tế đều chịu chi phí giao dịch2. Nhiệm vụ của pháp luật, của kinh
tế học, của quản trị học là tìm mọi cách để giảm chi phí giao dịch. Một trong những yếu tố
ảnh hưởng đến chi phí giao dịch là pháp luật. Các lý thuyết của kinh tế học đã chỉ ra rằng,
pháp luật càng rõ ràng, mức độ thống nhất càng cao thì chi phí giao dịch càng thấp. Ngoài
ra, tính rõ ràng và thống nhất của pháp luật nói chung và pháp luật hợp đồng nói riêng sẽ
làm cho cá nhân, tổ chức và các nhà đầu tư hạn chế được rủi ro, bởi lẽ họ có thể dự đoán
được có những rủi ro gì đang chờ họ và sẽ có cách khắc phục.3
Chính vì những lý do nói trên nên khi xây dựng Bộ luật Dân sự cần tuyên bố một
cách rõ ràng rằng, các quy định về hợp đồng trong các văn bản pháp luật khác không được
trái với quy định của Bộ luật Dân sự mà chỉ có thể cụ thể hóa chúng mà thôi. Về vấn đề
này chúng ta có thể tham khảo Bộ luật Dân sự của một số quốc gia. Ví dụ, Bộ luật Dân sự
Liên Bang Nga, một cách khái quát đề cập đến các loại hợp đồng (ở Việt Nam một phần
các hợp đồng này được quy định trong Bộ luật Dân sư 2005, một phần được quy định trong
Luật Thương mại 2005). Ở Việt Nam chúng ta hiện nay có nhiều loại hợp đồng được quy
định trong Luật Thương mại có bản chất giống với hợp đồng được quy định trong Bộ luật
Dân sư (mua bán hàng hóa và mua bán tài sản, hợp đồng đại diện cho thương nhân với
hợp đồng ủy quyền, hợp đồng thuê hàng hóa với hợp đồng thuê tài sản, gia công trong
thương mại với hợp đồng gia công…). Chúng tôi cho rằng, sự lặp lại nói trên là không cần
thiết, và vấn đề trở nên rắc hơn khi có sự mâu thuẫn, chồng chéo giữa chúng. 3.
Tôn trọng tự do hợp đồng đúng chỗ và giới hạn tự do hợp đồng cũng đúng
chỗlà yêu cầu quan trọng đối với pháp luật hợp đồng. Về nguyên tắc, tự do hợp đồng phải
2 Xem: Oliver E. Williamson, Kinh tế học về chi phí giao dịch, Bản địch tiếng Việt của Nguyễn Thị Xinh Xinh.
Chương trình giảng dạy kinh tế của Fulbright. Niên khóa 2005-2006.
3 Có thể tham khảo cách so sánh của tác giả cuốn sách “Chiếc Lexes và cây Ô liu”. 4 lOMoAR cPSD| 45943468
là nguyên tắc nền tảng của pháp luật hợp đồng và giới hạn tự do hợp đồng được coi là
ngoại lệ của nguyên tắc đó. Và mỗi khi là ngoại lệ thì khi giới hạn tự do hợp đồng cần thiết
phải giải thích, Như đã đề cập ở trên, pháp luật hợp đồng cần phải mềm dẻo và uyển chuyển.
Để đạt được điều này thì các quy định mang tính mệnh lệnh chỉ được sử dụng ở mức tối
thiểu, khi điều chỉnh những vấn đề thật cần thiết. Tôn trọng tự do hợp đồng có nghĩa là hạn
chế các quy định có tính mệnh lệnh 4 và đây cũng được coi là điều kiện tiên quyết khuyến
khích sự sáng tạo của các chủ thể.
Nếu nói rằng, bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận, thì triết lý của pháp luật hợp
đồng chính là sự giới hạn tự do hợp đồng. Như vậy một mặt cần phải tôn trọng tự do hợp
đồng, mặt khác cần phải giới hạn tự do này. Về nguyên tắc các bên trong hợp đồng có địa
vị pháp lý bình đẳng, tuy nhiên trong thực tế điều này ít xảy ra. Sự không bình đẳng này
có thể xuất phát từ nhận thức, mức độ kinh nghiệm hay sự hiểu biết của các bên về hợp
đồng, đối tượng hợp đồng cụ thể, mức độ sở hữu thông tin không giống nhau. Trong thực
tế, bên có kinh nghiệm hơn, mạnh hơn, nắm giữ thông tin nhiều hơn thường đưa vào hợp
đồng các điều khoản bất lợi cho bên kia-những điều khoản mà ở các nước văn minh được
biết đến dưới tên gọi-điều khoản hợp đồng không công bằng.
Thật vậy, không thể có sự bình đẳng thực tế giữa công ty kinh doanh bảo hiểm với
khách hàng, giữa ngân hàng với người vay, giữa thương nhân chuyên nghiệp với người tiêu
dùng…Theo lẽ tự nhiên, kẻ mạnh luôn sử dụng sức mạnh và nguy hiểm hơn là luôn có xu
hướng làm dụng sức mạnh họ. Việc làm dụng đó chỉ có thể được hạn chế bằng pháp luật
nhằm tạo sự bình đẳng tương đối giữa các chủ thể. Vì lý do trên nên tôi cho rằng, trong Bộ
luật Dân sự cần phải có những quy định cho phép giám sát các điều khoản không công
bằng.5 Trong bộ Luật Dân sự 2005 có nhiều quy định nên là quy phạm tùy nghi, tuy nhiên
chúng lại được thiết kế dưới dạng quy phạm mệnh lệnh, ví dụ, thời điểm quyền sở hữu đối
với tài sản là động sản có đăng ký quyền sở hữu được chuyển từ người bán sang người
được quy định tại Điều 439 BLDS 2005. 4.
Một trong những yêu cầu quan trọng của pháp luật hợp đồng là phải phù
hợpvới thực tiễn. Quy luật tồn tại khách quan và pháp luật nói chung, pháp luật hợp đồng
nói riêng phải phản ánh được quy luật đó. Thực tiễn chính là nếp nghĩ, thói quen hàng ngày
của người dân bình thường và pháp luật phù hợp với suy nghĩ, thể hiện được thói quen đó.
Khi pháp luật phù hợp với thực tiễn thì việc hiểu chúng, giải thích chúng trở nên dễ dàng
hơn và vì vậy chúng đi vào cuộc sống cũng tự nhiên hơn. Thật vậy, cuộc sống tự nó hiện
hữu và phát triển bởi chính nhu cầu trao đổi vật chất giữa các chủ thể thông qua công cụ
pháp lý là hợp đồng. Vì hợp đồng là công cụ pháp lý mà bất kỳ người nào cũng có thể sử
4 Về mối quan hệ giữa tự do, tự do hợp đồng với phát triển đã được là sáng rõ trong nhiều công trình khoa học . Có
thể xem: Amartya Sen, Phát triển là quyền tự do, , NXB Thống kê, Hà Nội, 2002.
5 Khi thiết kế các quy định này cần thiết phải tham khảo “ Unfair Contract Terms Act của Anh năm 1977”. 5 lOMoAR cPSD| 45943468
dụng được nên các quy định của pháp luật hợp đồng cần phải được xây dựng như thế nào
đó để không những các luật gia mà đa số người dân, cho dù không học luật cũng có thể
hiểu được. Muốn vậy chúng phải đơn giản và gần gũi với suy nghĩ, thói quen hàng ngày
của người dân. Quy định của phải luật hợp đồng không những phải hiểu được mà còn cần
phải giải thích được, có nghĩa là khi ai đó đặt câu hỏi, tại sao pháp luật quy định như vậy
thì không những người làm luật, người áp dụng pháp luật phải giải thích được cho họ.
Trong Bộ luật Dân sự Việt Nam hiện hành và trong nhiều văn bản pháp luật khác có
nhiều quy định không đáp ứng được yêu cầu nói trên. Ví dụ Điều 523 quy định, tất cả
những vật không tiêu hao đều có thể là đối tượng của hợp đồng mượn tài sản. Rõ ràng quy
định này là trái thực tiễn. Ở Việt Nam, từ ngàn đời nay người dân vẫn thướng nói mượn
gạo, mượn thóc, mượn tiền, chẳng nhẽ pháp luật cho rằng, họ sai? Hoặc, khi ông A mua xe
hơi, khi đưa ra khỏi cửa hàng, tất cả mọi người dân bình thường đều cho rằng, chiếc xe đó
là của ông A, có nghĩa là thuộc sở hữu của ông A. Đó là cách nghĩ thông thường của người
dân bình thường. Duy chỉ có các nhà làm luật, các luật gia nói rằng, chiếc xe đó vẫn chưa
thuộc quyền sở hữu của ông A, bởi lẽ theo quy định tại khoản 2 Điều 439 BLDS 2005, Đối
với tài sản mua bán mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì quyền sở hữu
được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản đó. 5.
Cần phải thừa nhận các học thuyết pháp lý là nguồn của pháp luật hợp
đồng.Đời sống dân sự luôn phóng phú và đa dạng và pháp luật dân sự không thể bao quát
hết toàn bộ. Đối với hợp đồng cũng tương tự. Không một ai có thể biết được có bao nhiêu
loại hợp đồng đang và sẽ được sử dụng bởi lẽ hợp đồng là sự thỏa thuận. Bất kỳ thỏa thuận
nào làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nghĩa vụ dân sự đều được coi là hợp đồng. Như
vậy sẽ có nhiều trường hợp pháp luật chưa có sự điều chỉnh một hay một số nội dung nào
đó. Điều này là đương nhiên bởi lẽ pháp luật thường đi sau cuộc sống.
Ở các quốc gia văn minh, khiếm khuyết, thiếu sót của pháp luật sẽ được bổ sung
bằng các nguyên tắc chung của luật và các học thuyết pháp lý. Trong khi đó ở Việt Nam,
khi rơi vào những tình thế đó các tóa án cấp dưới sẽ buộc phải chờ hướng dân của tòa án
cấp trên. Điều này sẽ làm cho hoạt động xét xử trở nên kém linh hoạt và hạn chế tính độc
lập của thẩm phán. Chúng ta đang từng bước trong việc thừa nhận án lệ, và chúng tôi cho
rằng, việc thừa nhận án lệ không thể tách rời khỏi việc coi học thuyết pháp lý là nguồn của
luật. Học thuyết pháp lý là nguyên liệu đầu vào và án lệ là sản phẩm đầu ra của hoạt động
áp dụng pháp luật. Chúng tôi cho rằng, khí xây dựng Bộ luật Dân sự sửa đổi, liên quan đến
phần hợp đồng nên có một tuyên bố rõ ràng rằng, học thuyết pháp lý cần được coi là nguồn
nguồn của luật. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu hướng phát triển của khoa học pháp 6 lOMoAR cPSD| 45943468
lý.6 Hơn nữa việc coi học thuyết pháp lý là nguồn của luật sẽ góp phần nâng cao năng lực
tranh tụng của các chủ thể tham gia tố tụng tại phiên tòa và đương nhiên năng lực của thẩm
phán cũng vì vậy mà được cải thiện. 6.
Phù hợp với thông lệ quốc tế và tương thích với pháp luật quốc tế cũng là
yêucầu quan trọng đối với pháp luật hợp đồng của VIệt Nam. Có thể nhận thấy rằng, các
lĩnh vực pháp luật trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia thường bị giới hạn bởi phạm
vi không gian áp dụng. Trong khi đó pháp luật hợp đồng hoàn toàn không bị giới hạn bởi
phạm vi không gian áp dụng. Theo các quy tắc của tư pháp quốc tế, pháp luật Việt Nam
hoàn toàn có thể được áp dụng ở nước ngoài trong trường hợp các bên trong hợp đồng
thương mại quốc tế. Trong các hợp đồng thương mại quốc tế giữa một bên là doanh nghiệp
Việt Nam và bên kia là công ty nước ngoài thì sự khác nhau về tư duy pháp lý càng lớn thì
việc đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng càng trở nên khó khăn và thường bị kéo dài.7
Điều này không những làm giảm tính hiệu quả mà trong nhiều trường hợp có thể làm mất
cơ hội kinh doanh của các chủ thể.
Khi so sánh pháp luật hợp đồng của Việt Nam với pháp luật hợp đồng của các nước
văn minh (những quốc gia này là đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam) nhận thầy
rằng, còn có sự khác biệt khá lớn. Có nhiều hành vi theo pháp luật của những nước đó bị
coi là vi phạm hợp đồng, còn theo pháp luật Việt Nam thì hành vi đó hoàn toàn không trái
luật. Điều này có thể mang lại nhiều rủi roc ho các doanh nghiệp Việt Nam. Chính vì vậy
những nội dung cơ bản như: vi phạm hợp đồng khi chưa tới hạn thực hiện nghĩa vụ, nội
dung hiwpj đồng cần phải được thay đổi cho phù hợp với sự thay đổi của hoàn cảnh, các
quy định về mức phạt hợp đồng …cần phải được tiếp nhận một cách hợp lý và nên được
thể hiện trong Bộ luật Dân sự.
Kết luận: Từ những phân tích ở trên, tôi cho rằng, để có một hệ thống pháp luật hợp
đồng tương đối hoàn thiện, các quy định cụ thể của pháp luật về hợp đồng cần phải được
thiết kế, xây dựng triệt để tuân thủ các yêu cầu nói trên- là những yêu cầu có tính định hướng, cơ sở.
6 Theo quy định tại điểm d, ĐIều 38 Quy chế Tòa án quốc tế, các án lệ và các học thuyết của các chuyên gia có
chuyên môn cao nhất về luật quốc tế của các quốc gia khác nhau được coi là phương tiện để xác định các qui phạm pháp luật.
7 Sự khác biệt trong pháp luật hợp đồng không là rào cản thuế quan, cũng không là rào cản phí thuế quan nhưng là
trở ngàu đặc biệt nghiêm trọng của tự do hóa thương mại. 7