lOMoARcPSD| 22014077
CHƯƠNG 1
MƯỜI NGUYÊN LÝ CỦA KINH TẾ HỌC
Thut ng nền kinh tế (economy) bt ngun t tiếng Hy Lp nghĩa “người quản gia”.
Thot tiên, điu này v l lùng. Nhưng trên thc tế, các h gia đình nn kinh tế rt
nhiu đim chung.
Cũng ging như mt gia đình, hi phi đối mt vi nhiu quyết định. Mt hi phi
quyết định cái gì cn phi làm và ai s làm vic đó. Cn phi có mt s người sn xut thc
phm, mt s người khác sn xut qun áo cũng cn mt s người thiết kế các phn
mm máy tính na. Mt khi xã hi đã phân b được mi người (và đất đai, nhà xưởng, máy
móc) vào nhng ngành ngh khác nhau, nó cũng phi phân b sn lượng hàng hóa và dch v
h đã sn xut ra. phi quyết định ai s ăn trng cá, ăn tht ai s ăn rau. phi
quyết định ai s đi xe con và ai s đi xe buýt.
Vic qun ngun lc ca hi ý nghĩa quan trng ngun lc tính khan hiếm.
Khan hiếm nghĩa hi c ngun lc hn chế thế không th sn xut mi hàng
hóa dch v mi người mong mun. Ging như mt h gia đình không th đáp ng
mi mong mun ca tt c mi người, xã hi cũng không th làm cho mi nhân được
mc sng cao nht như h khao khát.
Kinh tế học là môn hc nghiên cu cách thc hội quản lý các nguồn lực khan hiếm. Trong
hu hết cáchi, ngun lc được phân b không phi bi mt nhà làm kế hoch duy nht
trung ương, mà thông qua s tác động qua li gia hàng triu h gia đình và doanh nghip.
Do đó, các nhà kinh tế nghiên cu con người ra quyết định như thế o: h làm vic bao
nhiêu, mua cái gì, tiết kim bao nhiêu đầu tư khon tiết kim y ra sao. Các nhà kinh tế
cũng nghiên cu xem con người quan h qua li vi nhau như thế nào. Ví d, h mun phân
tích xem làm thế nào nhiu người mua và bán mt mt hàng li th cùng nhau xác định
giá c lượng hàng bán ra. Cui cùng, nhà kinh tế phân tích các lc lượng xu thế tác
động đến nn kinh tế vi tư cách mt tng th, bao gm tăng trưởng ca thu nhp bình quân,
mt b phn dân cư không th tìm được vic và t l tăng giá.
Mc kinh tế hc nghiên cu nn kinh tế dưới nhiu giác độ khác nhau, nhưng môn hc
này thng nht vi nhau một số ý tưởng cơ bản. Trong phn còn li ca chương y, chúng
ta s xem xét mười nguyên lý của kinh tế học. Đừng lo ngi nếu như bn chưa hiu ngay tt
c các nguyên đó, hoc nếu như bn thy các nguyên đó chưa hoàn toàn thuyết phc.
Trong các chương tiếp theo, chúng ta s kho sát đầy đủ hơn các ý tưởng này. Mười nguyên
được gii thiu đây ch nhm giúp độc gimt cái nhìn tng quan v kinh tế hc. Bn
đọc có th coi chương này là “sự báo trước nhng điu hp dn sp tới”.
CON NGƯỜI RA QUYẾT ĐỊNH NHƯ THẾ NÀO?
“Nn kinh tế” là gì không hề có s huyn bí nào c. Dù chúng ta đang nói v nn kinh tế ca
Los Angeles, ca M, hay ca toàn thế gii, thì nn kinh tế cũng ch là mt nhóm người tác
động qua li vi nhau trong quá trình sinh tn ca h. Bi vì hot động ca nn kinh tế phn
lOMoARcPSD| 22014077
ánh hành vi ca các cá nhân to thành nn kinh tế, nên chúng ta khi đầu nghiên cu kinh tế
hc bng bn nguyên lý v cách thc ra quyết định cá nhân.
Nguyên lý 1: Con người đối mt vi s đánh đổi
Bài hc đầu tiên v ra quyết định được tóm tt trong câu ngn ng sau: “Chẳng có gì là cho
không cả”. Để được mt th ưa thích, chúng ta thường phi t b mt th khác mình
thích. Ra quyết định đòi hi phi đánh đổi mc tiêu này để đạt được mt mc tiêu khác.
Chúng ta hãy xem xét tình hung mt sinh viên phi quyết định phân b ngun lc quý
báu nht ca mình: đó thi gian ca cô. th dùng toàn b thi gian để nghiên cu
kinh tế hc, dùng toàn b thi gian để nghiên cu tâm lý hc, hoc phân chia thi gian gia
hai môn hc đó. Đối vi mi gi hc môn này, cô phi t b mt gi hc môn kia. Đối vi
mi gi hc, cô phi t b mt gil ra cô có th ng trưa, đạp xe, xem TV hoc đi làm
thêm.
Hoc hãy xem xét cách thc ra quyết định chi tiêu thu nhp ca gia đình ca các bc cha m.
H th mua thc phm, qun áo hay quyết định đưa c nhà đi ngh. H cũng th tiết
kim mt phn thu nhp cho lúc v già hay cho con cái vào hc đại hc. Khi quyết định chi
tiêu thêm mt đô la cho mt trong nhng hàng hóa trên, hít đi mt đô la để chi cho các
hàng hóa khác.
Khi con người tp hp nhau li thành xã hi, h đối mt vi nhiu loi đánh đổi. Ví d kinh
đin là s đánh đổi giữa “súng và bơ”. Chi tiêu cho quc phòng càng nhiu để bo v b cõi
khi gic ngoi xâm (súng), chúng ta th chi tiêu càng ít cho hàng tiêu dùng để nâng cao
phúc li vt cht cho người n (bơ). S đánh đổi quan trng trong hi hin đại gia
môi trường trong sch và mc thu nhp cao. Các đạo lut yêu cu doanh nghip phi ct gim
lượng cht thi gây ô nhim s đẩy chi phí sn xut lên cao. Do chi phí cao hơn, nên cui
cùng các doanh nghip này kiếm được ít li nhun hơn, tr lương thp hơn, định giá cao hơn
hoc to ra mt kết hp nào đó ca c ba yếu t này. Như vy, mc dù các quy định v chng
ô nhim đem li ích li cho chúng ta ch làm cho môi trường trong sch hơn và nh đó sc
khe ca chúng ta tt hơn, nhưng chúng ta phi chp nhn tn tht là gim thu nhp ca ch
doanh nghip, công nhân hoc phúc li ca người tiêu dùng.
Mt s đánh đổi khác mà xã hi đối mt gia công bng và hiu qu. Hiệu quả có nghĩa là
xã hi thu được kết qu cao nht t các ngun lc khan hiếm ca mình. Công bằng hàm ý ích
li thu được t các ngun lc khan hiếm đó được phân phi công bng gia các thành viên
ca hi. Nói cách khác, hiu qu ám ch quy mô ca chiếc bánh kinh tế, còn công bng
nói lên chiếc bánh đó được phân chia như thế nào. Thường thì khi thiết kế các chính sách ca
chính ph, người ta nhn thy hai mc tiêu này xung đột vi nhau.
Chng hn chúng ta hãy xem xét các chính sách nhm đạt được s phân phi phúc li kinh tế
mt cách công bng hơn. Mt s trong nhng chính sách này, ví d h thng phúc li xã hi
hoc bo him tht nghip, tìm cách tr giúp cho nhng thành viên ca xã hi cn đến s cu
tế nhiu nht. Các chính sách khác, ví d thuế thu nhp cá nhân, yêu cu nhng người thành
công v mt tài chính phi đóng góp nhiu hơn người khác trong vic h tr cho hot động
ca chính ph. Mc các chính sách này li đạt được s công bng cao hơn, nhưng
chúng gây ra tn tht nếu xét t khía cnh hiu qu. Khi chính ph tái phân phi thu nhp t
người giàu sang người nghèo, làm gim phn thưởng tr cho s cn cù, chăm ch kết
lOMoARcPSD| 22014077
qu mi người làm vic ít hơn sn xut ra ít hàng hóa dch v hơn. Nói cách khác,
khi chính ph c gng ct chiếc bánh kinh tế thành nhng phn đều nhau hơn, thì chiếc bánh
nh li.
Cn phi ý thc được rng riêng vic con người phi đối mt vi s đánh đổi không cho
chúng ta biết h s hoc cn ra nhng quyết định nào. Mt sinh viên không nên t b môn
tâm hc ch để tăng thi gian cho vic nghiên cu môn kinh tế hc. hi không nên
ngng bo v môi trường ch vì các quy định v môi trường làm gim mc sng vt cht ca
chúng ta. Người nghèo không th b làm ngơ ch vic tr giúp h làm bóp méo các kích
thích làm vic. Mc vy, vic nhn thc được nhng s đánh đổi trong cuc sng có ý
nghĩa quan trng, bi vì con người th ra quyết định tt khi h hiu nhng phương án
la chn mà h đang có.
Nguyên lý 2: Chi phí ca mt th là cái mà bn t b đểđược nó
con người đối mt vi s đánh đổi, nên ra quyết định đòi hi phi so sánh chi phí ích
lợi ca các đường lối hành động khác nhau. Song trong nhiu trường hp, chi phí ca mt
hành động nào đó không phi lúc nào cũng rõ ràng như biu hin ban đầu ca chúng.
Chng hn, chúng ta xem xét quyết định liu có nên đi hc đại hc. Ích li là làm giàu thêm
kiến thc và có được nhng cơ hi làm vic tt hơn trong c cuc đời. Nhưng chi phí ca nó
là gì? Để tr li câu hi này, bn có th b thuyết phc cng s tin chi tiêu cho hc phí, sách
v, nhà li vi nhau. Nhưng tng s tin này không thc s biu hin nhng bn t b
để theo hc mt năm trường đại hc.
Câu tr li trên có vn đề vì nó bao gm c mt s th không thc s là chi phí ca vic hc
đại hc. Ngay c khi không hc đại hc, bn vn cn mt ch để ng thc phm để ăn.
Tin ăn ti trường đại hc ch chi phí ca vic hc đại hc khi đắt hơn nhng nơi khác.
Dĩ nhiên, tin ăn ti trường đại hc cũng có th r hơn tin thuê nhà và tin ăn mà bn t lo
liu. Trong trường hp này, các khon tiết kim v ăn là li ích ca vic đi hc đại hc.
Cách tính toán chí phí như trên có mt khiếm khuyết khác na là nó b qua khon chi phí ln
nht ca vic hc đại hc - đó thi gian ca bn. Khi dành mt năm để nghe ging, đọc
giáo trình viết tiu lun, bn không th s dng khong thi gian này để làm mt công
vic nào đó. Đối vi nhiu sinh viên, khon tin lương phi t b để đi hc đại hc là khon
chi phí ln nht cho vic hc đại hc ca h.
Chi phí cơ hội ca mt thcái mà bn t b để được nó. Khi đưa ra bt k quyết định
nào, chng hn như vic liu có nên đi hc đại hc, người ra quyết định phi nhn thc được
nhng chi phí cơ hi gn vi mi hành động th. Trên thc tế, h thường ý thc được.
Nhng vn động viên la tui hc đại hc - nhng người th kiếm bc triu nếu h b
hc và chơi các môn th thao nhà ngh - hiu rõ rng đối vi h, chi phí cơ hi ca vic ngi
trên ging đường là rt cao. Không có gì đáng ngc nhiên khi h thường cho rng ích li ca
vic hc đại hc là không xng vi chi phí b ra.
Nguyên lý 3: Con người duy lý suy nghĩ ti đim cn biên
Các quyết định trong cuc sng hiếm khi minh bch, mà thường trng thái mù m. Khi đến
gi ăn ti, vn đề bn phi đối mt không phi là s thực như hổ” hay “thực như miêu”, mà
lOMoARcPSD| 22014077
là có nên ăn thêm mt chút khoai tây nghin hay không. Khi k thi đến, vn đề không phi
b mc bài v hoc hc 24 gi mt ngày, mà là nên hc thêm mt gi na hay dng li xem
ti vi. Các nhà kinh tế s dng thut ng những thay đổi cận biên để ch nhng điu chnh gia
tăng nh so vi kế hoch hành động hin ti. Bn hãy luôn luôn nh rng "cn biên" có nghĩa
"bên cnh" bi vy thay đổi cn biên là nhng điu chnh vùng lân cn ca cái mà bn
đang làm.
Trong nhiu tình hung, mi người đưa ra được quyết định tt nht nh suy nghĩ ti đim cn
biên. Gi s bn mun mt người bn đưa ra li khuyên v vic nên hc bao nhiêu năm
trường. Nếu anh ta phi so sánh cho bn cách sng ca mt người bng tiến sĩ vi mt
người chưa hc hết ph thông, bn có th s phàn nàn rng s so sánh như thế chng giúp gì
cho quyết định ca bn c. Bn đã có mt s trình độ nht định và bn đang cn quyết định
liu nên hc thêm mt hay hai năm na. Để ra được quyết định này, bn cn biết ích li
tăng thêm nh hc thêm mt năm na (tin lương cao hơn trong sut cuc đời, nim vui đưc
chuyên tâm hc hành) biết chi phí tăng thêm bn s phi chu (hc phí tin lương
mt đi trong bn vn hc trường). Bng cách so sánh ích lợi cận biên chi phí cận biên,
bn có th đi đến kết lun rng vic hc thêm mt năm có đáng giá hay không.
Chúng ta hãy xem xét mt d khác. Mt hãng hàng không đang cân nhc nên nh giá
bao nhiêu cho các hành khách bay d phòng. Gi s mt chuyến bay vi 200 ch t đông
sang tây làm cho nó tn mt 100.000 đô la. Trong tình hung này, chi phí bình quân cho mi
ch ngi 100.000 đô la/200, tc 500 đô la. Người ta có th d dàng đi đến kết lun rng
hãng ng không này s không bao gi nên bán vé vi giá thp hơn 500 đô la. Song trên thc
tế, nó có th tăng li nhun nh suy nghĩ đim cn biên. Chúng ta hãy tưởng tượng ra rng
máy bay sp sa ct cánh trong khi vn còn 10 ghế b trng và có mt hành khách d phòng
đang đợi ca sn sàng tr 300 đô la cho mt ghế. Hãng hàng không này có nên bán vé cho
anh ta không? Dĩ nhiên nên. Nếu máy bay vn còn ghế trng, chi phí ca vic b sung thêm
mt nh khách là không đáng k. Mc dù chi phí bình quân cho mi hành khách trên chuyến
bay là 500 đô la, chi phí cận biên ch bng giá ca gói lc và hp nước sô đa mà hành khách
tăng thêm này s tiêu dùng. Chng nào mà người hành khách d phòng này còn tr cao hơn
chi phí cn biên, thì vic bán vé cho anh ta còn có li.
Nhng ví d trên cho thy rng các cá nhân và doanh nghip th đưa ra quyết định tt hơn
nh cách suy nghĩ đim cn biên. Người ra quyết định duy lý hành động ch khi ích li cn
biên vượt quá chi phí cn biên.
Nguyên lý 4: Con người phn ng vi các kích thích
Vì mi người ra quyết định da trên s so sánh chi phí và ích li, nên hành vi ca h có th
thay đổi khi ích li hoc chi phí thay đổi. Nghĩa là mi người phn ng đối vi các kích thích.
d khi giá táo tăng, mi người quyết định ăn nhiu lê hơn và ít táo hơn, vì chi phí ca vic
mua táo cao hơn. Đồng thi, người trng táo quyết định thuê thêm công nhân thu hoch
nhiu táo hơn vì li nhun thu được t vic bán táo cũng cao hơn. Như chúng ta s thy, tác
động ca giá c lên hành vi ca người mua người n trên th trường - trong trường hp
này là th trường táo - có ý nghĩa quan trng trong vic tìm hiu phương thc vn hành ca
nn kinh tế.
lOMoARcPSD| 22014077
Các nhà hoch định chính sách công cng không bao gi được quên các kích thích, vì nhiu
chính sách làm thay đổi ích li hoc chi phí mà mi người phi đối mt và bi vy làm thay
đổi hành vi ca h. Ví d vic đánh thuế xăng khuyến khích mi người s dng ô tô nh hơn,
tiết kim nhiên liu hơn. cũng khuyến khích mi người s dng phương tin giao thông
công cng ch không đi xe riêng và sng gn nơi làm vic hơn. Nếu thuế xăng cao đến mt
mc độ nht định, mi người có th s bt đầu s dng ô tô chy đin.
Khi các nhà hoch định chính sách không tính đến nh hưởng ca các chính sách mà h thc
hin đối vi các kích thích, h th nhn được nhng kết qu không định trước. Chng hn,
chúng ta hãy xem xét chính sách v an toàn đối vi ô tô. Ngày nay, tt c ô tô đều được trang
b dây an toàn, nhưng 40 năm trước đây không phi như vy. Cun sách Nguy hiểm ở mọi tốc
độ ca Ralph Nader đã làm công chúng phi rt lo lng v vn đề an toàn khi đi ô tô. Quc
hi đã phn ng bng cách ban hành các đạo lut yêu cu các nhà sn xut ô tô phi trang b
nhiu thiết b an toàn, trong đó có dây an toàn các thiết b tiêu chun khác trên tt c nhng
ô tô mi sn xut.
Lut vy an toàn tác động ti s an toàn khi lái ô như thế nào? nh hưởng trc tiếp là
ràng. Khi dây tht an toàn trong tt c ô tô, nhiu người tht an toàn hơn kh năng
sng sót trong các v tai nn ô tô nghiêm trng tăng lên. Theo nghĩa này, dây an toàn đã cu
sng con người. Nhưng vn đề không dng đó. Để hiu đầy đủ tác động ca đạo lut này,
chúng ta phi nhn thc được rng mi người thay đổi hành vi khi kích thích mi. Hành
vi đáng chú ý đây là tc độ và s cn trng ca người lái xe. Vic lái xe chm và cn thn
tn kém mt nhiu thi gian tn nhiu nhiên liu. Khi ra quyết định v vic cn lái
xe an toàn đến mc nào, người lái xe duy lý so sánh ích li cn biên t vic lái xe an toàn vi
chi phí cn biên. H lái xe chm hơn và cn thn hơn nếu ích li ca s cn trng cao. Điu
này gii sao mi người lái xe chm cn thn khi đường đóng băng hơn nếu so vi
trường hp đường thông thóang.
Bây gi chúng ta hãy xét xem đạo lut v dây an toàn làm thay đổi tính toán ích li - chi phí
ca người lái xe như thế nào. Dây an toàn làm cho các v tai nn ít tn kém hơn đối vi người
lái xe vì nó làm gim kh năng b thương hoc t vong. Như vy, dây an toàn làm gim ích
li ca vic lái xe chm và cn thn. Mi người phn ng đối vi vic tht dây an toàn cũng
tương t như vi vic nâng cp đường sá - h s lái xe nhanh và ít thn trng hơn. Do đó, kết
qu cui cùng ca lut này là s v tai nn xy ra nhiu hơn. S gim sút độ an toàn khi lái
xe tác động bt li ràng đối vi khách b hành. H cm thy d b tai nn hơn. Nhìn
qua, cuc bàn lun này v mi quan h gia các kích thích dây an toàn tưởng như ch
s suy đn vu vơ. Song trong mt nghiên cu vào năm 1975, nhà kinh tế Sam Pelzman đã
ch ra rng trên thc tế đạo lut v an toàn ô đã làm ny sinh nhiu hu qu thuc loi này.
Theo nhng bng chng Pelzman đưa ra, đạo lut này va làm gim s trường hp t
vong trong mi v tai nn, va li làm tăng s v tai nn. Kết qu cui cùng là s lái xe thit
mng thay đổi không nhiu, nhưng s khách b hành thit mng tăng lên.
Phân tích ca Pelzman v đạo lut an toàn ô tô là d minh ha cho mt nguyên lý chung là
con người phn ng li các kích thích. Nhiu kích thích các nhà kinh tế hc nghiên cu
d hiu hơn so vi trong trường hp đạo lut v an toàn ô tô. Không đáng ngc nhiên
khi Châu Âu (nơi thuế xăng cao), người ta s dng loi ô tô cá nhân nh hơn so vi M
(nơi có thuế xăng thp). Song như d v an toàn ô tô cho thy, các chính sách th gây
lOMoARcPSD| 22014077
ra nhng hu qu không lường trước được. Khi phân tích bt k chính sách nào, không nhng
chúng ta xem xét nh hưởng trc tiếp, còn phi chú ý ti các tác động gián tiếp do các
kích thích to ra. Nếu chính sách làm thay đổi cách kích thích, nó s làm cho con người thay
đổi hành vi ca h.
Kiểm tra nhanh: y lit gii thích ngn gn bn nguyên liên quan đến ra quyết
định cá nhân.
CON NGƯỜI TƯƠNG TÁC VỚI NHAU NHƯ THẾ NÀO?
Bn nguyên lý đầu tiên bàn vch thc ra quyết định cá nhân. Nhưng trong cuc sng hàng
ngày, nhiu quyết định ca chúng ta không ch nh hưởng đến bn thân chúng ta, mà còn tác
động đến nhng người xung quanh. Ba nguyên lý tiếp theo liên quan đến cách thc con
người tương tác vi nhau.
Nguyên lý 5: Thương mi có th làm cho mi người đều được li
Có l bn đã nghe trên bn tin thi s rng người Nht là nhng đối th cnh tranh ca
chúng ta trong nn kinh tế thế gii. Xét trên mt vài khía cnh, điu nàyđúng vì các công
ty Nht và M sn xut nhiu mt hàng ging nhau. Hãng Ford và hãng Toyota cnh tranh
để thu hút cùng mt nhóm khách hàng trên th trường ô tô. Compaq cũng cnh tranh vi
Toshiba trên th trường máy tính cá nhân để thu hút cùng mt nhóm khách hàng.
vy, người ta rt d mc sai lm khi nghĩ v s cnh tranh gia các nước. Thương mi
gia Nht M không ging như mt cuc thi đấu th thao, trong đó luôn k thng, người
thua. S tht thì điu ngược li mi đúng: Thương mi gia hai nước th làm c hai bên
cùng được li.
Để gii ti sao, hãy xem xét thương mi tác động như thế nào ti gia đình bn. Khi mt
thành viên trong gia đình bn đi m vic, anh ta phi cnh tranh vi nhng thành viên ca
các gia đình khác cũng đang tìm vic. Các gia đình cnh tranh nhau khi đi mua hàng gia
đình nào cũng mun mua hàng cht lượng tt nht vi giá thp nht. vy theo mt nghĩa
nào đó, mi gia đình đều đang cnh tranh vi tt c các gia đình khác.
Cho dù có s cnh tranh này, gia đình bn cũng không th có li hơn nếu t cô lp vi tt c
các gia đình khác. Nếu làm như vy, gia đình bn s phi t trng trt, chăn nuôi, may qun
áo và xây dng nhà cho mình. Rõ ràng gia đình bn thu li nhiu t kh năng tham gia trao
đổi vi các gia đình khác. Thương mi cho phép mi người chuyên môn hóa vào mt lĩnh
vc nh làm tt nht, cho đó trng trt, may mc hay y nhà. Thông qua hot
động thương mi vi nhng người khác, con người có th mua được nhng hàng hóa và dch
v đa dng hơn vi chi phí thp hơn.
Cũng như các gia đình, các nước được li t kh năng trao đổi vi các nước khác. Thương
mi cho phép các nước chuyên môn hóa vào lĩnh vc h làm tt nht thưởng thc
nhiu hàng hóa và dch v phong phú hơn. Người Nht, cũng như người Pháp, người Ai Cp
người Brazil là nhng bn ng ca chúng ta trong nn kinh tế thế gii, nhưng cũng đối
th cnh tranh ca chúng ta.
lOMoARcPSD| 22014077
Nguyên lý 6: Th trường thường là mt phương thc tt để t chc hot động kinh tế
S sp đổ ca ch nghĩa cng sn Liên Đông Âu l thay đổi quan trng nht
trên thế gii trong na thế k qua. c nước cng sn hot động da trên tin đề các nhà
làm kế hoch trong chính ph trung ương th định hướng hot động kinh tế mt cách tt
nht. Các nhà làm kế hoch đó quyết định xã hi sn xut hàng hóa và dch v nào, sn xut
bao nhiêu, ai người sn xut ai được phép tiêu dùng chúng. thuyết hu thun cho quá
trình kế hoch hóa tp trung là chchính ph mi t chc được các hot động kinh tế theo
phương thc cho phép nâng cao phúc li kinh tế ca đất nước vi tư cách mt tng th. Ngày
nay, hu hết các nước tng có nn kinh tế kế hoch hóa tp trung đều đã t b h thng này
đang n lc phát trin nn kinh tế th trường. Trong nền kinh tế thị trường, quyết định ca
các nhà làm kế hoch trung ương được thay thế bng quyết định ca hàng triu doanh nghip
h gia đình. Các doanh nghip quyết định thuê ai sn xut cái gì. Các h gia đình quyết
định làm vic cho doanh nghip nào mua cái bng thu nhp ca mình. Các doanh nghip
và h gia đình tương tác vi nhau trên th trường, nơi mà giá c ích li riêng định hướng
cho các quyết định ca h.
Mi nghe qua thì thành công ca các nn kinh tế th trường tht khó hiu. Xét cho cùng thì
trong nn kinh tế th trường, không ai phng s cho phúc li ca toàn hi. Th trường t
do bao gm nhiu người mua người bán s hàng hóa dch v khác nhau, tt c
mi người quan tâm trước hết đến phúc li riêng ca h. Song cho ra quyết định tính
cht phân tán và nhng người quyết định ch quan tâm ti ích li riêng ca mình, nn kinh tế
th trường đã chng t thành công l thường trong vic t chc hot động kinh tế theo hướng
thúc đẩy phúc li kinh tế chung.
Trong cun Bàn về về bản chất và nguồn gốc của cải của các dân tộc viết năm 1776, nhà
kinh tế Adam Smith đã nêu ra nhn định ni tiếng hơn bt c mt nhn định nào trong kinh
tế hc: khi tác động qua li vi nhau trên th trường, các h gia đình doanh nghip hành
động như th h được dn dt bi mt "bàn tay vô hình", đưa h ti nhng kết cc th trường
đáng mong mun. Mt trong các mc tiêu ca chúng ta trong cun sách này là tìm hiu xem
bàn tay hình thc hin phép màu ca ra sao. Khi nghiên cu kinh tế hc, bn s thy
giá c công c nh đó bàn tay vô hình điu khin các hot động kinh tế. Giá c phn
ánh c giá tr ca mt hàng hóa đối vi xã hi và chi phí mà xã hi b ra để sn xut ra hàng
hóa đó. Vì h gia đình doanh nghip nhìn vào giá c khi đưa ra quyết định mua và bán cái
gì, nên vô tình h tính đến các ích li và chi phí xã hi ca các hành động ca h. Kết qu là
giá c hướng dn các nhân đưa ra quyết định mà trong nhiu trường hp cho phép ti đa
hóa ích li xã hi.
mt h qu quan trng t k năng ca bàn tay hình trong vic định hướng hot động
kinh tế: Khi ngăn không cho giá c điu chnh mt cách t nhiên theo cung và cu, chính ph
cũng đồng thi cn tr kh năng ca bàn tay hình trong vic phi hp hàng triu h gia
đình doanh nghip - nhng đơn v cu thành nn kinh tế. H qu này lý gii ti sao thuế
tác động bt li ti quá trình phân b ngun lc: thuế làm bóp o giá c và do vy làm bóp
méo quyết định ca doanh nghip h gia đình. cũng gii tác hi thm chí còn ln
hơn do các chính sách kim soát giá trc tiếp gây ra, chng hn như chính sách kim soát tin
thuê nhà. Và nó cũng lý gii s tht bi ca mô hình kế hoch hóa tp trung. Trong mô hình
lOMoARcPSD| 22014077
này, giá c không do th trường xác định, do các nhà làm kế hoch trung ương đặt ra.
Các nhà làm kế hoch y thiếu thông tin được phn ánh trong giá c khi giá c t do đáp li
các lc lượng th trường. Các nhà làm kế hoch trung ương tht bi h tìm cách vn nh
nn kinh tế vi mt bàn tay b trói sau lưng - đó là bàn tay vô hình ca th trường.
PHẦN ĐỌC THÊM ADAM SMITH VÀ BÀN TAY VÔ HÌNH
Có l chs trùng hp ngu nhiên khi tác phm vĩ đại Bàn về bản chất và nguồn gốc của
cải của các dân tộc ca Adam Smith ra đời vào năm 1776, đúng vào năm các nhà cách mng
M ký bn Tuyên ngôn độc lập. Song c hai văn bn này đều chia s cùng mt quan đim rt
thnh hành thi by gi - đó thường tt hơn nếu để mc cho các nhân t xoay s
không cn đến bàn tay thô bo ca chính ph ch đạo hành động ca h. Triết lý chính tr này
to ra cơ s tư tưởng cho nn kinh tế th trường và nói rng hơn là cho mt xã hi t do.
Ti sao nn kinh tế th trường li vn nh tt như vy? Phi chăng là vì con người chc chn
s đối x vi nhau bng tình yêu lòng nhân t? Hoàn toàn không phi như vy. Nhng
dòng dưới đây li ca Adam Smith bàn v cách thc con người tác động qua li trong nn
kinh tế th trường:
Con người hu như thường xuyên cn ti s giúp đỡ ca anh em và bn bè, và sphí hoài
công sc nếu anh ta ch trông ch vào lòng nhân t ca h. Có l anh ta s giành được nhiu
li thế cho mình hơn khi thu hút được nim đa ca bn thân h làm cho h tin rng
vic làm theo yêu cu ca anh ta li cho chính bn thân h... Không phi nh lòng nhân
t ca nhng người bán tht, ch ca hàng rượu hay người bán bánh mì mà chúng ta có được
ba ti, mà chính là nh li ích riêng ca h....
Mi cá nhân thường không có ý định phng s li ích ca cng đồng, và anh ta cũng không
h biết mình đang cng hiến cho nó bao nhiêu. Anh ta ch mun giành được mi li cho bn
thân mình, và trong khi làm như vy, cũng như trong nhiu trường hp khác, anh ta được dn
dt bi mt bàn tay hình hướng ti vic phng s cho mt mc đích nm ngoài d định
ca anh ta. Song không phi lúc nào cũng ti t đối vi hi nếu điu đó nm ngoài d
định ca anh ta. Khi theo đui ích li riêng ca mình, anh ta thường phng s cho ích li xã
hi mt cách có hiu qu hơn là trường hp anh ta thc s d định làm như vy.”
Khi viết nhng câu trên đây, Smith mun nhn mnh rng nhng người tham gia vào nn
kinh tế th trường b thúc đẩy bi ích li riêng và rng "bàn tay hình" ca th trường hướng
ích li này vào vic phng s cho phúc li kinh tế chung.
Rt nhiu nhn thc ca Smith vn đóng vai trò trung tâm ca kinh tế hc hin đại. Phân tích
ca chúng ta trong các chương ti s cho phép chúng ta din gii nhng kết lun ca Smith
mt cách chính xác hơn và phân tích đầy đủ nhng đim mnh và đim yếu trong bàn tay vô
hình ca th trường.
Nguyên lý 7: Đôi khi chính ph có th ci thin được kết cc th trường
Nếu như bàn tay hình ca th trường k diu đến vy, thì ti sao chúng ta li cn chính
ph? Mt lý do là bàn tay vô hình cn được chính ph bo v. Th trường ch hot động nếu
lOMoARcPSD| 22014077
như quyn s hu được tôn trng. Mt nông dân s không trng lúa nếu như anh ta nghĩ rng
mùa màng s b đánh cp, mt nhà hàng s không phc v tr khi được đảm bo rng khách
hàng s tr tin trước khi ri quán. Tt c chúng ta đều da vào công an tòa án do chính
ph cung cp để thc thi quyn ca chúng ta đối vi nhng th do chúng ta to ra.
Mt lý do khác cn đến chính phmc dù th trường thường là mt phương thc tt để t
chc hot động kinh tế, nhưng quy tc cũng có vài ngoi l quan trng. Có hai nguyên nhân
ch yếu để chính ph can thip vào nn kinh tế là: thúc đẩy hiu qu và s công bng. Nghĩa
hu hết các chính sách đều hoc nhm vào mc tiêu làm cho chiếc bánh kinh tế ln lên,
hoc làm thay đổi cách thc phân chia chiếc bánh đó.
Bàn tay vô hình thường dn dt th trường phân b ngun lc mt cách có hiu qu. Song vì
các nguyên nhân khác nhau, đôi khi bàn tay hình không hot động. Các nhà kinh tế hc
s dng thut ng thất bại thị trường để ch tình hung mà th trường t tht bi trong vic
phân b ngun lc có hiu qu.
Mt nguyên nhân kh năng làm cho th trường tht bi ngoi ng. Ảnh hưởng ngoại
hiệnnh hưởng do hành động ca mt người to ra đối vi phúc li ca người ngoài cuc.
Ví d kinh đin v chi phí ra bên ngoài là ô nhim. Mt nguyên nhân na th gây ra tht
bi th trường sc mnh th trường. Sức mạnh thị trường ch kh năng ca mt người duy
nht (hay nhóm người) nh hưởng đáng k n giá c th trường. d, chúng ta hãy gi
định tt c mi người trong mt th trn đều cn nước, nhưng li ch có mt cái giếng, người
ch giếng không phi tuân theo s cnh tranh khc lit mà có nó, bàn tay vô hình kim soát
ích li nhân. Bn đọc s thy rng trong trường hp này, vic điu tiết giá nhà độc
quyn quy định có th ci thin hiu qu kinh tế.
Bàn tay vô hình thm chí có ít kh năng hơn trong vic đảm bo rng sự thịnh vượng kinh tế
được phân phi mt cách công bng. Nn kinh tế th trường thưởng công cho mi người da
trên năng lc ca h trong vic sn xut ra nhng th người khác sn sàng tr giá. Vn
động viên bóng r gii nht thế gii kiếm được nhiu tin hơn kin tướng c vua thế gii
người ta sn sàng tr nhiu tin để xem bóng r hơn xem c vua. Bàn tay hình không
đảm bo rng tt c mi người đều lương thc đầy đủ, qun áo tt s chăm sóc y tế
thích hp. Mt mc tiêu ca nhiu chính sách công cng, chng hn chính sách thuế thu nhp
h thng phúc li hi, đạt được s phân phi các phúc li kinh tế mt cách công bng
hơn.
Vic nói rng trong mt s trường hp, chính ph có thể ci thin tình hình th trường không
có nghĩa là sẽ luôn luôn làm được như vy. Các chính sách công cng không phi do thn
thánh to ra, kết qu ca mt quá trình chính tr còn lâu mi hoàn ho. Đôi khi các
chính sách được hoch định ch đơn gin nhm thưởng công cho nhng quyn lc chính tr.
Đôi khi chúng được hoch định bi nhng nhà lãnh đạo có thin chí, nhưng không đủ thông
tin. Mt mc tiêu ca vic nghiên cu kinh tế hc giúp bn đánh giá xem khi nào mt chính
sách ca chính ph thích hp để thúc đẩy hiu qu hoc công bng, còn khi nào thì nó không
thích hp.
Kiểm tra nhanh: Hãy lit kê và gii thích ngn gn ba nguyên lý liên quan đến nhng tương
tác v mt kinh tế.
NỀN KINH TẾ VỚI TƯ CÁCH MỘT TỔNG THỂ VẬN HÀNH NHƯ THẾ NÀO?
lOMoARcPSD| 22014077
Chúng ta bt đầu bng vic tho lun v cách thc ra quyết định nhân, sau đó xem xét
phương thc con người tương tác vi nhau. Tt c các quyết định s tương tác này to
thành “nền kinh tế”. Ba nguyên lý cuối cùng liên quan đến s vn hành ca nn kinh tế nói
chung.
Nguyên lý 8: Mc sng ca mt nước ph thuc vào năng lc sn xut hàng hóa và
dch v ca nước đó
S chênh lch mc sng trên thế gii rt đáng kinh ngc. Vào năm 1997, bình quân mt người
M thu nhp 29.000 đô la. Cũng trong năm đó, mt người Mê-hi-cô có thu nhp bình
quân là 8000 đô la và mt người Ni-giê-ria bình quân có thu nhp là 900 đô la. Không có
đáng ngc nhiên khi s khác bit trong thu nhp bình quân được phn ánh các ch tiêu khác
nhau v cht lượng cuc sng. Công dân ca các nước thu nhp cao có nhiu ti vi hơn, nhiu
ô tô hơn, chế độ dinh dưỡng tt hơn, dch v y tế tt hơn và tui th cao hơn người dân c
nước thu nhp thp.
Nhng thay đổi mc sng theo thi gian cũng rt ln. Trong lch s, thu nhp M tăng
khong 2% mt năm (sau khi đã loi tr nhng thay đổi trong giá sinh hot). Vi tc độ tăng
trưởng này, c 35 năm thu nhp bình quân li tăng gp đôi. Trong thế k qua, thu nhp bình
quân đã tăng gp tám ln.
Đâu là nguyên nhân ca s khác bit to ln v mc sng gia các quc gia và theo thi gian?
Câu tr li đơn gin đến mc đáng ngc nhiên. Hu hết s khác bit v mc sng có nguyên
nhân s khác nhau v năng sut lao động ca các quc gia - tc s lượng hàng hóa được
làm ra trong mt gi lao động ca mt công nhân. nhng quc gia người lao động sn xut
được lượng hàng hóa và dch v ln hơn trong mt đơn v thi gian, hu hết người dân được
hưởng mc sng cao; còn các quc gia có năng sut kém hơn, hu hết người dân phi chu
cuc sng đạm bc. Tương t, tc độ tăng năng sut ca mt quc gia quyết định tc độ tăng
thu nhp bình quân ca quc gia đó.
Mi quan h cơ bn gia năng sut mc sng khá đơn gin, nhưng nhng hàm ý sâu
rng. Nếu năng sut nhân t thiết yếu quyết định mc sng, thì nhng lý do khác phi đóng
vai trò th yếu. Chng hn, người ta th cm nhn rng nghip đoàn hoc lut v tin lương
ti thiu đóng góp m tăng mc sng ca công nhân M trong thế k qua. Song người
anh hùng tht s ca công nhân M là năng sut lao động ngày càng tăng lên ca h. Mt ví
d khác là mt s nhà bình lun cho rng s cnh tranh tăng lên t Nht và các nước khác là
nguyên nhân dn ti mc tăng trưởng chm trong thu nhp quc dân ca M sut 30 năm
qua. Nhưng tên ti phm thc s không phi là s cnh tranh t nước ngoài, mà chính là s
tăng trưởng chm ca năng sut M.
Mi liên h gia năng sut mc sng còn hàm ý sâu sc đối vi chính sách ca nhà
nước. Khi suy nghĩ xem chính sách bt k s tác động như thế nào đến mc sng, vn đề then
cht s tác động ti năng lc sn xut hàng hóa dch v như thế nào. Để nâng cao
mc sng, các nhà hoch định chính sách cn làm tăng năng sut lao động bng ch đảm
bo cho công nhân được đào to tt, đủ các công c cn thiết để sn xut hàng hóa và dch
vđược tiếp cn nhng công ngh tt nht hin có.
lOMoARcPSD| 22014077
Nguyên lý 9: Giá c tăng khi chính ph in quá nhiu tin
Vào tháng 1 năm 1921, giá mt t nht báo Đức 0,3 mác. Chưa đầy hai năm sau, vào
tháng 11 năm 1922 cũng t báo y giá 70.000.000 mác. Giá ca tt c các mt hàng khác
trong nn kinh tế cũng tăng vi tc độ tương t. Đây mt trong nhng d ngon mc
nht lch s v lạm phát- tc s gia tăng ca mc giá chung trong nn kinh tế.
Mc dù nước M chưa tng tri qua cuc lm phát nào tương t như Đức vào nhng năm
1920, nhưng đôi khi lm phát cũng là mt vn đề kinh tế. Ví d trong nhng năm 1970, mc
giá chung tăng gp hơn hai ln và tng thng Gerald Ford đã gi lm phát là "k thù s mt
ca công chúng". Ngược li, lm phát trong nhng năm 1990 ch khong 3% mt năm; vi
t l này, giá c phi mt hơn hai mươi năm để tăng gp đôi. Vì lm phát cao gây nhiu tn
tht cho hi, nên gi cho lm phát mc thp mt mc tiêu ca các nhà hoch định
chính sách kinh tế trên toàn thế gii.
Nguyên nhân gây ra lm phát là gì? Trong hu hết các trường hp lm phát trm trng hoc
kéo dài, dường như đều có chung mt th phm - s gia tăng ca lượng tin. Khi chính ph
to ra mt lượng ln tin, giá tr ca tin gim. Vào đầu nhng năm 1920, khi giá c Đức
tăng gp 3 ln mi tháng, lượng tin cũng tăng gp 3 ln mi tháng. Dù ít nghiêm trng hơn,
nhưng lch s kinh tế M cũng đã đưa chúng ta đến mt kết lun tương t: lm phát cao trong
nhng năm 1970 đi lin vi s gia tăng nhanh chóng ca lượng tin lm phát thp trong
nhng năm 1990 đi lin vi s gia tăng chm ca lượng tin.
Nguyên lý 10: Xã hi đối mt vi s đánh đổi ngn hn gia lm phát và tht nghip
Nếu d dàng lý gii lm phát như vy, thì ti sao đôi khi các nhà hoch định chính sách vn
gp rc ri trong vic chèo lái con thuyn nn kinh tế. Mt do người ta nghĩ rng vic
ct gim lm phát thường gây ra tình trng gia tăng tm thi ca tht nghip. Đường minh
ha cho s đánh đổi gia lm phát và tht nghip đưc gi đường Phillips, để ghi côngn
nhà kinh tế đầu tiên nghiên cu mi quan h này.
Đường Phillips vn còn là mt đề tài gây tranh cãi gia các nhà kinh tế, nhưng hin nay hu
hết các nhà kinh tế đều chp nhn ý kiến cho rng có s đánh đổi ngn hn gia lm phát và
tht nghip. Điu đó ch hàm ý rng trong khong thi gian mt hay hai năm, nhiu chính
sách kinh tế đẩy lm phát tht nghip đi theo nhng hướng trái ngược nhau. Bt k tht
nghip lm phát ban đầu mc cao (như đầu nhng năm 1980) hay thp (như cui thp
k 1990) hay nm đâu đó gia hai thái cc đó, thì các nhà chính sách vn phi đối mt vi
s đánh đổi này.
Ti sao chúng ta li phi đối mt vi s đánh đổi ngn hn nêu trên? Theo cách gii ph
biến, vn đề phát sinh t vic mt s loi giá c thay đổi chm chp. Ví d, chúng ta hãy gi
định rng chính ph ct gim lượng tin trong nn kinh tế. Trong dài hn, kết qu ca chính
sách này mc giá chung gim. Song không phi tt c giá c đều thay đổi ngay lp tc.
Phi mt nhiu năm để tt c doanh nghip đưa ra các bn chào hàng mi, để tt c các công
đoàn chp nhn nhượng b v tin lương tt c các nhà hàng in thc đơn mi. Điu này
hàm ý giá c được coi là cứng nhắc trong ngn hn.
giá c cng nhc, nên nh hưởng trong ngn hn ca các chính sách chính ph vn
dng khác vi nh hưởng ca chúng trong dài hn. Chng hn khi chính ph ct gim lượng
lOMoARcPSD| 22014077
tin, nó làm gim s tin mà mi người chi tiêu. Khi giá c b mc mc cao, mc chi tiêu
s gim điu này làm gim lượng hàng hóa dch v mà các doanh nghip bán ra. Mc
bán ra thp hơn đến lượt buc các doanh nghip phi sa thi công nhân. Như vy, bin
pháp ct gim lượng tin tm thi làm tăng tht nghip cho đến khi giá c hoàn toàn thích
ng vi s thay đổi.
S đánh đổi gia lm phát và tht nghip ch có tính tm thi, nhưng nó có th kéo dài trong
mt vài năm. Vì vy, đường Phillips có ý nghĩa rt quan trng trong vic tìm hiu các xu thế
phát trin ca nn kinh tế. Đặc bit, các nhà hoch định chính sách có th khai thác s đánh
đổi này bng cách vn dng các công c chính sách kc nhau. Thông qua vic thay đổi mc
chi tiêu ca chính ph, thuế và lượng tin in ra, trong ngn hn các nhà hoch định chính sách
có th tác động vào hn hp gia lm phát và tht nghip mà nn kinh tế phi đối mt. Vì các
công c này ca chính sách tài khóa và tin tsc mnh tim tàng như vy, nên vic các
nhà hoch định chính sách s dng nhng công c này như thế o để qun nn kinh tế
vn còn là mt đề tài tranh cãi.
Kiểm tra nhanh: Hãy lit gii thích ngn gn ba nguyên t phương thc vn
hành ca nn kinh tế vi tư cách mt tng th.
KT LUN
Gi đây bn đã biết đôi chút v kinh tế hc. Trong nhng chương tiếp theo, chúng ta s tìm
hiu thêm nhiu điu sâu sc hơn v con người, th trường nn kinh tế. Để nm được nhng
vn đề này, chúng ta cn phi n lc mt chút, nhưng chúng ta s làm được. Kinh tế hc da
trên mt s ít ý tưởng căn bn để t đó có th áp dng cho nhiu tình hung khác nhau.
Xuyên sut cun sách này, chúng ta s còn quay li vi Mười Nguyên của kinh tế học đã
được làm sáng t trong chương này và tóm tt trong bng Bn hãy nh rng, ngay c nhng
phân tích kinh tế phc tp nht cũng được xây dng trên nn tng ca mười nguyên lý này.
TÓM TT
Nhng bài hc căn bn v ra quyết định cá nhân là: con người đối mt vi s đánh đổi gia
các mc tiêu khác nhau, chi phí ca bt k hành động nào cũng được tính bng nhng cơ
hi b b qua, con người duy lý đưa ra quyết định da trên s so sánh gia chi phí và ích
li cn biên, và cui cùng là con người thay đổi hành vi để đáp li các kích thích mà h
phi đối mt.
Nhng bài hc căn bn v s tác động qua li gia con người vi nhau là: thương mi (tc
trao đổi) có th đem li ích li cho c hai bên, th trường thường là cách thc tt phi hp
trao đổi buôn bán gia mi người, và chính phth ci thin các kết cc th trường khi
mt tht bi th trường nào đó tn ti hay khi kết cc th trường không công bng.
Nhng bài hc căn bn v nn kinh tế vi tư cách mt tng th là: năng sut là ngun
gc cui cùng ca mc sng, s gia tăng lượng tin là nguyên nhân cui cùng ca lm
phát và xã hi đối mt vi s đánh đổi ngn hn gia lm phát và tht nghip.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 22014077 CHƯƠNG 1
MƯỜI NGUYÊN LÝ CỦA KINH TẾ HỌC
Thuật ngữ nền kinh tế (economy) bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là “người quản gia”.
Thoạt tiên, điều này có vẻ lạ lùng. Nhưng trên thực tế, các hộ gia đình và nền kinh tế có rất nhiều điểm chung.
Cũng giống như một gia đình, xã hội phải đối mặt với nhiều quyết định. Một xã hội phải
quyết định cái gì cần phải làm và ai sẽ làm việc đó. Cần phải có một số người sản xuất thực
phẩm, một số người khác sản xuất quần áo và cũng cần có một số người thiết kế các phần
mềm máy tính nữa. Một khi xã hội đã phân bổ được mọi người (và đất đai, nhà xưởng, máy
móc) vào những ngành nghề khác nhau, nó cũng phải phân bổ sản lượng hàng hóa và dịch vụ
mà họ đã sản xuất ra. Nó phải quyết định ai sẽ ăn trứng cá, ăn thịt và ai sẽ ăn rau. Nó phải
quyết định ai sẽ đi xe con và ai sẽ đi xe buýt.
Việc quản lý nguồn lực của xã hội có ý nghĩa quan trọng vì nguồn lực có tính khan hiếm.
Khan hiếm có nghĩa là xã hội có các nguồn lực hạn chế và vì thế không thể sản xuất mọi hàng
hóa và dịch vụ mà mọi người mong muốn. Giống như một hộ gia đình không thể đáp ứng
mọi mong muốn của tất cả mọi người, xã hội cũng không thể làm cho mỗi cá nhân có được
mức sống cao nhất như họ khao khát.
Kinh tế học là môn học nghiên cứu cách thức xã hội quản lý các nguồn lực khan hiếm. Trong
hầu hết các xã hội, nguồn lực được phân bổ không phải bởi một nhà làm kế hoạch duy nhất
ở trung ương, mà thông qua sự tác động qua lại giữa hàng triệu hộ gia đình và doanh nghiệp.
Do đó, các nhà kinh tế nghiên cứu con người ra quyết định như thế nào: họ làm việc bao
nhiêu, mua cái gì, tiết kiệm bao nhiêu và đầu tư khoản tiết kiệm ấy ra sao. Các nhà kinh tế
cũng nghiên cứu xem con người quan hệ qua lại với nhau như thế nào. Ví dụ, họ muốn phân
tích xem làm thế nào mà nhiều người mua và bán một mặt hàng lại có thể cùng nhau xác định
giá cả và lượng hàng bán ra. Cuối cùng, nhà kinh tế phân tích các lực lượng và xu thế tác
động đến nền kinh tế với tư cách một tổng thể, bao gồm tăng trưởng của thu nhập bình quân,
một bộ phận dân cư không thể tìm được việc và tỷ lệ tăng giá.
Mặc dù kinh tế học nghiên cứu nền kinh tế dưới nhiều giác độ khác nhau, nhưng môn học
này thống nhất với nhau ở một số ý tưởng cơ bản. Trong phần còn lại của chương này, chúng
ta sẽ xem xét mười nguyên lý của kinh tế học. Đừng lo ngại nếu như bạn chưa hiểu ngay tất
cả các nguyên lý đó, hoặc nếu như bạn thấy các nguyên lý đó chưa hoàn toàn thuyết phục.
Trong các chương tiếp theo, chúng ta sẽ khảo sát đầy đủ hơn các ý tưởng này. Mười nguyên
lý được giới thiệu ở đây chỉ nhằm giúp độc giả có một cái nhìn tổng quan về kinh tế học. Bạn
đọc có thể coi chương này là “sự báo trước những điều hấp dẫn sắp tới”.
CON NGƯỜI RA QUYẾT ĐỊNH NHƯ THẾ NÀO?
“Nền kinh tế” là gì không hề có sự huyền bí nào cả. Dù chúng ta đang nói về nền kinh tế của
Los Angeles, của Mỹ, hay của toàn thế giới, thì nền kinh tế cũng chỉ là một nhóm người tác
động qua lại với nhau trong quá trình sinh tồn của họ. Bởi vì hoạt động của nền kinh tế phản lOMoAR cPSD| 22014077
ánh hành vi của các cá nhân tạo thành nền kinh tế, nên chúng ta khởi đầu nghiên cứu kinh tế
học bằng bốn nguyên lý về cách thức ra quyết định cá nhân.
Nguyên lý 1: Con người đối mặt với sự đánh đổi
Bài học đầu tiên về ra quyết định được tóm tắt trong câu ngạn ngữ sau: “Chẳng có gì là cho
không cả”. Để có được một thứ ưa thích, chúng ta thường phải từ bỏ một thứ khác mà mình
thích. Ra quyết định đòi hỏi phải đánh đổi mục tiêu này để đạt được một mục tiêu khác.
Chúng ta hãy xem xét tình huống một cô sinh viên phải quyết định phân bổ nguồn lực quý
báu nhất của mình: đó là thời gian của cô. Cô có thể dùng toàn bộ thời gian để nghiên cứu
kinh tế học, dùng toàn bộ thời gian để nghiên cứu tâm lý học, hoặc phân chia thời gian giữa
hai môn học đó. Đối với mỗi giờ học môn này, cô phải từ bỏ một giờ học môn kia. Đối với
mỗi giờ học, cô phải từ bỏ một giờ mà lẽ ra cô có thể ngủ trưa, đạp xe, xem TV hoặc đi làm thêm.
Hoặc hãy xem xét cách thức ra quyết định chi tiêu thu nhập của gia đình của các bậc cha mẹ.
Họ có thể mua thực phẩm, quần áo hay quyết định đưa cả nhà đi nghỉ. Họ cũng có thể tiết
kiệm một phần thu nhập cho lúc về già hay cho con cái vào học đại học. Khi quyết định chi
tiêu thêm một đô la cho một trong những hàng hóa trên, họ có ít đi một đô la để chi cho các hàng hóa khác.
Khi con người tập hợp nhau lại thành xã hội, họ đối mặt với nhiều loại đánh đổi. Ví dụ kinh
điển là sự đánh đổi giữa “súng và bơ”. Chi tiêu cho quốc phòng càng nhiều để bảo vệ bờ cõi
khỏi giặc ngoại xâm (súng), chúng ta có thể chi tiêu càng ít cho hàng tiêu dùng để nâng cao
phúc lợi vật chất cho người dân (bơ). Sự đánh đổi quan trọng trong xã hội hiện đại là giữa
môi trường trong sạch và mức thu nhập cao. Các đạo luật yêu cầu doanh nghiệp phải cắt giảm
lượng chất thải gây ô nhiễm sẽ đẩy chi phí sản xuất lên cao. Do chi phí cao hơn, nên cuối
cùng các doanh nghiệp này kiếm được ít lợi nhuận hơn, trả lương thấp hơn, định giá cao hơn
hoặc tạo ra một kết hợp nào đó của cả ba yếu tố này. Như vậy, mặc dù các quy định về chống
ô nhiễm đem lại ích lợi cho chúng ta ở chỗ làm cho môi trường trong sạch hơn và nhờ đó sức
khỏe của chúng ta tốt hơn, nhưng chúng ta phải chấp nhận tổn thất là giảm thu nhập của chủ
doanh nghiệp, công nhân hoặc phúc lợi của người tiêu dùng.
Một sự đánh đổi khác mà xã hội đối mặt là giữa công bằng và hiệu quả. Hiệu quả có nghĩa là
xã hội thu được kết quả cao nhất từ các nguồn lực khan hiếm của mình. Công bằng hàm ý ích
lợi thu được từ các nguồn lực khan hiếm đó được phân phối công bằng giữa các thành viên
của xã hội. Nói cách khác, hiệu quả ám chỉ quy mô của chiếc bánh kinh tế, còn công bằng
nói lên chiếc bánh đó được phân chia như thế nào. Thường thì khi thiết kế các chính sách của
chính phủ, người ta nhận thấy hai mục tiêu này xung đột với nhau.
Chẳng hạn chúng ta hãy xem xét các chính sách nhằm đạt được sự phân phối phúc lợi kinh tế
một cách công bằng hơn. Một số trong những chính sách này, ví dụ hệ thống phúc lợi xã hội
hoặc bảo hiểm thất nghiệp, tìm cách trợ giúp cho những thành viên của xã hội cần đến sự cứu
tế nhiều nhất. Các chính sách khác, ví dụ thuế thu nhập cá nhân, yêu cầu những người thành
công về mặt tài chính phải đóng góp nhiều hơn người khác trong việc hỗ trợ cho hoạt động
của chính phủ. Mặc dù các chính sách này có lợi là đạt được sự công bằng cao hơn, nhưng
chúng gây ra tổn thất nếu xét từ khía cạnh hiệu quả. Khi chính phủ tái phân phối thu nhập từ
người giàu sang người nghèo, nó làm giảm phần thưởng trả cho sự cần cù, chăm chỉ và kết lOMoAR cPSD| 22014077
quả là mọi người làm việc ít hơn và sản xuất ra ít hàng hóa và dịch vụ hơn. Nói cách khác,
khi chính phủ cố gắng cắt chiếc bánh kinh tế thành những phần đều nhau hơn, thì chiếc bánh nhỏ lại.
Cần phải ý thức được rằng riêng việc con người phải đối mặt với sự đánh đổi không cho
chúng ta biết họ sẽ hoặc cần ra những quyết định nào. Một sinh viên không nên từ bỏ môn
tâm lý học chỉ để tăng thời gian cho việc nghiên cứu môn kinh tế học. Xã hội không nên
ngừng bảo vệ môi trường chỉ vì các quy định về môi trường làm giảm mức sống vật chất của
chúng ta. Người nghèo không thể bị làm ngơ chỉ vì việc trợ giúp họ làm bóp méo các kích
thích làm việc. Mặc dù vậy, việc nhận thức được những sự đánh đổi trong cuộc sống có ý
nghĩa quan trọng, bởi vì con người có thể ra quyết định tốt khi họ hiểu rõ những phương án
lựa chọn mà họ đang có.
Nguyên lý 2: Chi phí của một thứ là cái mà bạn từ bỏ để có được nó
Vì con người đối mặt với sự đánh đổi, nên ra quyết định đòi hỏi phải so sánh chi phíích
lợi của các đường lối hành động khác nhau. Song trong nhiều trường hợp, chi phí của một
hành động nào đó không phải lúc nào cũng rõ ràng như biểu hiện ban đầu của chúng.
Chẳng hạn, chúng ta xem xét quyết định liệu có nên đi học đại học. Ích lợi là làm giàu thêm
kiến thức và có được những cơ hội làm việc tốt hơn trong cả cuộc đời. Nhưng chi phí của nó
là gì? Để trả lời câu hỏi này, bạn có thể bị thuyết phục cộng số tiền chi tiêu cho học phí, sách
vở, nhà ở lại với nhau. Nhưng tổng số tiền này không thực sự biểu hiện những gì bạn từ bỏ
để theo học một năm ở trường đại học.
Câu trả lời trên có vấn đề vì nó bao gồm cả một số thứ không thực sự là chi phí của việc học
đại học. Ngay cả khi không học đại học, bạn vẫn cần một chỗ để ngủ và thực phẩm để ăn.
Tiền ăn ở tại trường đại học chỉ là chi phí của việc học đại học khi nó đắt hơn những nơi khác.
Dĩ nhiên, tiền ăn ở tại trường đại học cũng có thể rẻ hơn tiền thuê nhà và tiền ăn mà bạn tự lo
liệu. Trong trường hợp này, các khoản tiết kiệm về ăn ở là lợi ích của việc đi học đại học.
Cách tính toán chí phí như trên có một khiếm khuyết khác nữa là nó bỏ qua khoản chi phí lớn
nhất của việc học đại học - đó là thời gian của bạn. Khi dành một năm để nghe giảng, đọc
giáo trình và viết tiểu luận, bạn không thể sử dụng khoảng thời gian này để làm một công
việc nào đó. Đối với nhiều sinh viên, khoản tiền lương phải từ bỏ để đi học đại học là khoản
chi phí lớn nhất cho việc học đại học của họ.
Chi phí cơ hội của một thứ là cái mà bạn từ bỏ để có được nó. Khi đưa ra bất kỳ quyết định
nào, chẳng hạn như việc liệu có nên đi học đại học, người ra quyết định phải nhận thức được
những chi phí cơ hội gắn với mỗi hành động có thể. Trên thực tế, họ thường ý thức được.
Những vận động viên ở lứa tuổi học đại học - những người có thể kiếm bạc triệu nếu họ bỏ
học và chơi các môn thể thao nhà nghề - hiểu rõ rằng đối với họ, chi phí cơ hội của việc ngồi
trên giảng đường là rất cao. Không có gì đáng ngạc nhiên khi họ thường cho rằng ích lợi của
việc học đại học là không xứng với chi phí bỏ ra.
Nguyên lý 3: Con người duy lý suy nghĩ tại điểm cận biên
Các quyết định trong cuộc sống hiếm khi minh bạch, mà thường ở trạng thái mù mờ. Khi đến
giờ ăn tối, vấn đề bạn phải đối mặt không phải là sẽ “thực như hổ” hay “thực như miêu”, mà lOMoAR cPSD| 22014077
là có nên ăn thêm một chút khoai tây nghiền hay không. Khi kỳ thi đến, vấn đề không phải là
bỏ mặc bài vở hoặc học 24 giờ một ngày, mà là nên học thêm một giờ nữa hay dừng lại xem
ti vi. Các nhà kinh tế sử dụng thuật ngữ những thay đổi cận biên để chỉ những điều chỉnh gia
tăng nhỏ so với kế hoạch hành động hiện tại. Bạn hãy luôn luôn nhớ rằng "cận biên" có nghĩa
là "bên cạnh" và bởi vậy thay đổi cận biên là những điều chỉnh ở vùng lân cận của cái mà bạn đang làm.
Trong nhiều tình huống, mọi người đưa ra được quyết định tốt nhất nhờ suy nghĩ tại điểm cận
biên. Giả sử bạn muốn một người bạn đưa ra lời khuyên về việc nên học bao nhiêu năm ở
trường. Nếu anh ta phải so sánh cho bạn cách sống của một người có bằng tiến sĩ với một
người chưa học hết phổ thông, bạn có thể sẽ phàn nàn rằng sự so sánh như thế chẳng giúp gì
cho quyết định của bạn cả. Bạn đã có một số trình độ nhất định và bạn đang cần quyết định
liệu có nên học thêm một hay hai năm nữa. Để ra được quyết định này, bạn cần biết ích lợi
tăng thêm nhờ học thêm một năm nữa (tiền lương cao hơn trong suốt cuộc đời, niềm vui được
chuyên tâm học hành) và biết chi phí tăng thêm mà bạn sẽ phải chịu (học phí và tiền lương
mất đi trong bạn vẫn học ở trường). Bằng cách so sánh ích lợi cận biênchi phí cận biên,
bạn có thể đi đến kết luận rằng việc học thêm một năm có đáng giá hay không.
Chúng ta hãy xem xét một ví dụ khác. Một hãng hàng không đang cân nhắc nên tính giá vé
bao nhiêu cho các hành khách bay dự phòng. Giả sử một chuyến bay với 200 chỗ từ đông
sang tây làm cho nó tốn mất 100.000 đô la. Trong tình huống này, chi phí bình quân cho mỗi
chỗ ngồi là 100.000 đô la/200, tức 500 đô la. Người ta có thể dễ dàng đi đến kết luận rằng
hãng hàng không này sẽ không bao giờ nên bán vé với giá thấp hơn 500 đô la. Song trên thực
tế, nó có thể tăng lợi nhuận nhờ suy nghĩ ở điểm cận biên. Chúng ta hãy tưởng tượng ra rằng
máy bay sắp sửa cất cánh trong khi vẫn còn 10 ghế bỏ trống và có một hành khách dự phòng
đang đợi ở cửa sẵn sàng trả 300 đô la cho một ghế. Hãng hàng không này có nên bán vé cho
anh ta không? Dĩ nhiên là nên. Nếu máy bay vẫn còn ghế trống, chi phí của việc bổ sung thêm
một hành khách là không đáng kể. Mặc dù chi phí bình quân cho mỗi hành khách trên chuyến
bay là 500 đô la, chi phí cận biên chỉ bằng giá của gói lạc và hộp nước sô đa mà hành khách
tăng thêm này sẽ tiêu dùng. Chừng nào mà người hành khách dự phòng này còn trả cao hơn
chi phí cận biên, thì việc bán vé cho anh ta còn có lợi.
Những ví dụ trên cho thấy rằng các cá nhân và doanh nghiệp có thể đưa ra quyết định tốt hơn
nhờ cách suy nghĩ ở điểm cận biên. Người ra quyết định duy lý hành động chỉ khi ích lợi cận
biên vượt quá chi phí cận biên.
Nguyên lý 4: Con người phản ứng với các kích thích
Vì mọi người ra quyết định dựa trên sự so sánh chi phí và ích lợi, nên hành vi của họ có thể
thay đổi khi ích lợi hoặc chi phí thay đổi. Nghĩa là mọi người phản ứng đối với các kích thích.
Ví dụ khi giá táo tăng, mọi người quyết định ăn nhiều lê hơn và ít táo hơn, vì chi phí của việc
mua táo cao hơn. Đồng thời, người trồng táo quyết định thuê thêm công nhân và thu hoạch
nhiều táo hơn vì lợi nhuận thu được từ việc bán táo cũng cao hơn. Như chúng ta sẽ thấy, tác
động của giá cả lên hành vi của người mua và người bán trên thị trường - trong trường hợp
này là thị trường táo - có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm hiểu phương thức vận hành của nền kinh tế. lOMoAR cPSD| 22014077
Các nhà hoạch định chính sách công cộng không bao giờ được quên các kích thích, vì nhiều
chính sách làm thay đổi ích lợi hoặc chi phí mà mọi người phải đối mặt và bởi vậy làm thay
đổi hành vi của họ. Ví dụ việc đánh thuế xăng khuyến khích mọi người sử dụng ô tô nhỏ hơn,
tiết kiệm nhiên liệu hơn. Nó cũng khuyến khích mọi người sử dụng phương tiện giao thông
công cộng chứ không đi xe riêng và sống ở gần nơi làm việc hơn. Nếu thuế xăng cao đến một
mức độ nhất định, mọi người có thể sẽ bắt đầu sử dụng ô tô chạy điện.
Khi các nhà hoạch định chính sách không tính đến ảnh hưởng của các chính sách mà họ thực
hiện đối với các kích thích, họ có thể nhận được những kết quả không định trước. Chẳng hạn,
chúng ta hãy xem xét chính sách về an toàn đối với ô tô. Ngày nay, tất cả ô tô đều được trang
bị dây an toàn, nhưng 40 năm trước đây không phải như vậy. Cuốn sách Nguy hiểm ở mọi tốc
độ
của Ralph Nader đã làm công chúng phải rất lo lắng về vấn đề an toàn khi đi ô tô. Quốc
hội đã phản ứng bằng cách ban hành các đạo luật yêu cầu các nhà sản xuất ô tô phải trang bị
nhiều thiết bị an toàn, trong đó có dây an toàn và các thiết bị tiêu chuẩn khác trên tất cả những ô tô mới sản xuất.
Luật về dây an toàn tác động tới sự an toàn khi lái ô tô như thế nào? Ảnh hưởng trực tiếp là
rõ ràng. Khi có dây thắt an toàn trong tất cả ô tô, nhiều người thắt an toàn hơn và khả năng
sống sót trong các vụ tai nạn ô tô nghiêm trọng tăng lên. Theo nghĩa này, dây an toàn đã cứu
sống con người. Nhưng vấn đề không dừng ở đó. Để hiểu đầy đủ tác động của đạo luật này,
chúng ta phải nhận thức được rằng mọi người thay đổi hành vi khi có kích thích mới. Hành
vi đáng chú ý ở đây là tốc độ và sự cẩn trọng của người lái xe. Việc lái xe chậm và cẩn thận
là tốn kém vì mất nhiều thời gian và tốn nhiều nhiên liệu. Khi ra quyết định về việc cần lái
xe an toàn đến mức nào, người lái xe duy lý so sánh ích lợi cận biên từ việc lái xe an toàn với
chi phí cận biên. Họ lái xe chậm hơn và cẩn thận hơn nếu ích lợi của sự cẩn trọng cao. Điều
này lý giải vì sao mọi người lái xe chậm và cẩn thận khi đường đóng băng hơn nếu so với
trường hợp đường thông thóang.
Bây giờ chúng ta hãy xét xem đạo luật về dây an toàn làm thay đổi tính toán ích lợi - chi phí
của người lái xe như thế nào. Dây an toàn làm cho các vụ tai nạn ít tốn kém hơn đối với người
lái xe vì nó làm giảm khả năng bị thương hoặc tử vong. Như vậy, dây an toàn làm giảm ích
lợi của việc lái xe chậm và cẩn thận. Mọi người phản ứng đối với việc thắt dây an toàn cũng
tương tự như với việc nâng cấp đường sá - họ sẽ lái xe nhanh và ít thận trọng hơn. Do đó, kết
quả cuối cùng của luật này là số vụ tai nạn xảy ra nhiều hơn. Sự giảm sút độ an toàn khi lái
xe có tác động bất lợi rõ ràng đối với khách bộ hành. Họ cảm thấy dễ bị tai nạn hơn. Nhìn
qua, cuộc bàn luận này về mối quan hệ giữa các kích thích và dây an toàn tưởng như chỉ là
sự suy đoán vu vơ. Song trong một nghiên cứu vào năm 1975, nhà kinh tế Sam Pelzman đã
chỉ ra rằng trên thực tế đạo luật về an toàn ô tô đã làm nảy sinh nhiều hậu quả thuộc loại này.
Theo những bằng chứng mà Pelzman đưa ra, đạo luật này vừa làm giảm số trường hợp tử
vong trong mỗi vụ tai nạn, vừa lại làm tăng số vụ tai nạn. Kết quả cuối cùng là số lái xe thiệt
mạng thay đổi không nhiều, nhưng số khách bộ hành thiệt mạng tăng lên.
Phân tích của Pelzman về đạo luật an toàn ô tô là ví dụ minh họa cho một nguyên lý chung là
con người phản ứng lại các kích thích. Nhiều kích thích mà các nhà kinh tế học nghiên cứu
dễ hiểu hơn so với trong trường hợp đạo luật về an toàn ô tô. Không có gì đáng ngạc nhiên
khi ở Châu Âu (nơi thuế xăng cao), người ta sử dụng loại ô tô cá nhân nhỏ hơn so với ở Mỹ
(nơi có thuế xăng thấp). Song như ví dụ về an toàn ô tô cho thấy, các chính sách có thể gây lOMoAR cPSD| 22014077
ra những hậu quả không lường trước được. Khi phân tích bất kỳ chính sách nào, không những
chúng ta xem xét ảnh hưởng trực tiếp, mà còn phải chú ý tới các tác động gián tiếp do các
kích thích tạo ra. Nếu chính sách làm thay đổi cách kích thích, nó sẽ làm cho con người thay đổi hành vi của họ.
Kiểm tra nhanh: Hãy liệt kê và giải thích ngắn gọn bốn nguyên lý liên quan đến ra quyết định cá nhân.
CON NGƯỜI TƯƠNG TÁC VỚI NHAU NHƯ THẾ NÀO?
Bốn nguyên lý đầu tiên bàn về cách thức ra quyết định cá nhân. Nhưng trong cuộc sống hàng
ngày, nhiều quyết định của chúng ta không chỉ ảnh hưởng đến bản thân chúng ta, mà còn tác
động đến những người xung quanh. Ba nguyên lý tiếp theo liên quan đến cách thức mà con
người tương tác với nhau.
Nguyên lý 5: Thương mại có thể làm cho mọi người đều được lợi
Có lẽ bạn đã nghe trên bản tin thời sự rằng người Nhật là những đối thủ cạnh tranh của
chúng ta trong nền kinh tế thế giới. Xét trên một vài khía cạnh, điều này là đúng vì các công
ty Nhật và Mỹ sản xuất nhiều mặt hàng giống nhau. Hãng Ford và hãng Toyota cạnh tranh
để thu hút cùng một nhóm khách hàng trên thị trường ô tô. Compaq cũng cạnh tranh với
Toshiba trên thị trường máy tính cá nhân để thu hút cùng một nhóm khách hàng.
Vì vậy, người ta rất dễ mắc sai lầm khi nghĩ về sự cạnh tranh giữa các nước. Thương mại
giữa Nhật và Mỹ không giống như một cuộc thi đấu thể thao, trong đó luôn có kẻ thắng, người
thua. Sự thật thì điều ngược lại mới đúng: Thương mại giữa hai nước có thể làm cả hai bên cùng được lợi.
Để lý giải tại sao, hãy xem xét thương mại tác động như thế nào tới gia đình bạn. Khi một
thành viên trong gia đình bạn đi tìm việc, anh ta phải cạnh tranh với những thành viên của
các gia đình khác cũng đang tìm việc. Các gia đình cạnh tranh nhau khi đi mua hàng vì gia
đình nào cũng muốn mua hàng chất lượng tốt nhất với giá thấp nhất. Vì vậy theo một nghĩa
nào đó, mỗi gia đình đều đang cạnh tranh với tất cả các gia đình khác.
Cho dù có sự cạnh tranh này, gia đình bạn cũng không thể có lợi hơn nếu tự cô lập với tất cả
các gia đình khác. Nếu làm như vậy, gia đình bạn sẽ phải tự trồng trọt, chăn nuôi, may quần
áo và xây dựng nhà ở cho mình. Rõ ràng gia đình bạn thu lợi nhiều từ khả năng tham gia trao
đổi với các gia đình khác. Thương mại cho phép mỗi người chuyên môn hóa vào một lĩnh
vực mà mình làm tốt nhất, cho dù đó là trồng trọt, may mặc hay xây nhà. Thông qua hoạt
động thương mại với những người khác, con người có thể mua được những hàng hóa và dịch
vụ đa dạng hơn với chi phí thấp hơn.
Cũng như các gia đình, các nước được lợi từ khả năng trao đổi với các nước khác. Thương
mại cho phép các nước chuyên môn hóa vào lĩnh vực mà họ làm tốt nhất và thưởng thức
nhiều hàng hóa và dịch vụ phong phú hơn. Người Nhật, cũng như người Pháp, người Ai Cập
và người Brazil là những bạn hàng của chúng ta trong nền kinh tế thế giới, nhưng cũng là đối
thủ cạnh tranh của chúng ta. lOMoAR cPSD| 22014077
Nguyên lý 6: Thị trường thường là một phương thức tốt để tổ chức hoạt động kinh tế
Sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu có lẽ là thay đổi quan trọng nhất
trên thế giới trong nửa thế kỷ qua. Các nước cộng sản hoạt động dựa trên tiền đề là các nhà
làm kế hoạch trong chính phủ trung ương có thể định hướng hoạt động kinh tế một cách tốt
nhất. Các nhà làm kế hoạch đó quyết định xã hội sản xuất hàng hóa và dịch vụ nào, sản xuất
bao nhiêu, ai là người sản xuất và ai được phép tiêu dùng chúng. Lý thuyết hậu thuẫn cho quá
trình kế hoạch hóa tập trung là chỉ có chính phủ mới tổ chức được các hoạt động kinh tế theo
phương thức cho phép nâng cao phúc lợi kinh tế của đất nước với tư cách một tổng thể. Ngày
nay, hầu hết các nước từng có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung đều đã từ bỏ hệ thống này
và đang nỗ lực phát triển nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, quyết định của
các nhà làm kế hoạch trung ương được thay thế bằng quyết định của hàng triệu doanh nghiệp
và hộ gia đình. Các doanh nghiệp quyết định thuê ai và sản xuất cái gì. Các hộ gia đình quyết
định làm việc cho doanh nghiệp nào và mua cái gì bằng thu nhập của mình. Các doanh nghiệp
và hộ gia đình tương tác với nhau trên thị trường, nơi mà giá cả và ích lợi riêng định hướng
cho các quyết định của họ.
Mới nghe qua thì thành công của các nền kinh tế thị trường thật khó hiểu. Xét cho cùng thì
trong nền kinh tế thị trường, không ai phụng sự cho phúc lợi của toàn xã hội. Thị trường tự
do bao gồm nhiều người mua và người bán vô số hàng hóa và dịch vụ khác nhau, và tất cả
mọi người quan tâm trước hết đến phúc lợi riêng của họ. Song cho dù ra quyết định có tính
chất phân tán và những người quyết định chỉ quan tâm tới ích lợi riêng của mình, nền kinh tế
thị trường đã chứng tỏ thành công lạ thường trong việc tổ chức hoạt động kinh tế theo hướng
thúc đẩy phúc lợi kinh tế chung.
Trong cuốn Bàn về về bản chất và nguồn gốc của cải của các dân tộc viết năm 1776, nhà
kinh tế Adam Smith đã nêu ra nhận định nổi tiếng hơn bất cứ một nhận định nào trong kinh
tế học: khi tác động qua lại với nhau trên thị trường, các hộ gia đình và doanh nghiệp hành
động như thể họ được dẫn dắt bởi một "bàn tay vô hình", đưa họ tới những kết cục thị trường
đáng mong muốn. Một trong các mục tiêu của chúng ta trong cuốn sách này là tìm hiểu xem
bàn tay vô hình thực hiện phép màu của nó ra sao. Khi nghiên cứu kinh tế học, bạn sẽ thấy
giá cả là công cụ mà nhờ đó bàn tay vô hình điều khiển các hoạt động kinh tế. Giá cả phản
ánh cả giá trị của một hàng hóa đối với xã hội và chi phí mà xã hội bỏ ra để sản xuất ra hàng
hóa đó. Vì hộ gia đình và doanh nghiệp nhìn vào giá cả khi đưa ra quyết định mua và bán cái
gì, nên vô tình họ tính đến các ích lợi và chi phí xã hội của các hành động của họ. Kết quả là
giá cả hướng dẫn các cá nhân đưa ra quyết định mà trong nhiều trường hợp cho phép tối đa hóa ích lợi xã hội.
Có một hệ quả quan trọng từ kỹ năng của bàn tay vô hình trong việc định hướng hoạt động
kinh tế: Khi ngăn không cho giá cả điều chỉnh một cách tự nhiên theo cung và cầu, chính phủ
cũng đồng thời cản trở khả năng của bàn tay vô hình trong việc phối hợp hàng triệu hộ gia
đình và doanh nghiệp - những đơn vị cấu thành nền kinh tế. Hệ quả này lý giải tại sao thuế
tác động bất lợi tới quá trình phân bổ nguồn lực: thuế làm bóp méo giá cả và do vậy làm bóp
méo quyết định của doanh nghiệp và hộ gia đình. Nó cũng lý giải tác hại thậm chí còn lớn
hơn do các chính sách kiểm soát giá trực tiếp gây ra, chẳng hạn như chính sách kiểm soát tiền
thuê nhà. Và nó cũng lý giải sự thất bại của mô hình kế hoạch hóa tập trung. Trong mô hình lOMoAR cPSD| 22014077
này, giá cả không do thị trường xác định, mà do các nhà làm kế hoạch ở trung ương đặt ra.
Các nhà làm kế hoạch này thiếu thông tin được phản ánh trong giá cả khi giá cả tự do đáp lại
các lực lượng thị trường. Các nhà làm kế hoạch ở trung ương thất bại vì họ tìm cách vận hành
nền kinh tế với một bàn tay bị trói sau lưng - đó là bàn tay vô hình của thị trường.
PHẦN ĐỌC THÊM ADAM SMITH VÀ BÀN TAY VÔ HÌNH
Có lẽ chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên khi tác phẩm vĩ đại Bàn về bản chất và nguồn gốc của
cải của các dân tộc của Adam Smith ra đời vào năm 1776, đúng vào năm các nhà cách mạng
Mỹ ký bản Tuyên ngôn độc lập. Song cả hai văn bản này đều chia sẻ cùng một quan điểm rất
thịnh hành thời bấy giờ - đó là thường tốt hơn nếu để mặc cho các cá nhân tự xoay sở mà
không cần đến bàn tay thô bạo của chính phủ chỉ đạo hành động của họ. Triết lý chính trị này
tạo ra cơ sở tư tưởng cho nền kinh tế thị trường và nói rộng hơn là cho một xã hội tự do.
Tại sao nền kinh tế thị trường lại vận hành tốt như vậy? Phải chăng là vì con người chắc chắn
sẽ đối xử với nhau bằng tình yêu và lòng nhân từ? Hoàn toàn không phải như vậy. Những
dòng dưới đây là lời của Adam Smith bàn về cách thức con người tác động qua lại trong nền kinh tế thị trường:
“Con người hầu như thường xuyên cần tới sự giúp đỡ của anh em và bạn bè, và sẽ là phí hoài
công sức nếu anh ta chỉ trông chờ vào lòng nhân từ của họ. Có lẽ anh ta sẽ giành được nhiều
lợi thế cho mình hơn khi thu hút được niềm đa mê của bản thân họ và làm cho họ tin rằng
việc làm theo yêu cầu của anh ta có lợi cho chính bản thân họ... Không phải nhờ lòng nhân
từ của những người bán thịt, chủ cửa hàng rượu hay người bán bánh mì mà chúng ta có được
bữa tối, mà chính là nhờ lợi ích riêng của họ....
Mỗi cá nhân thường không có ý định phụng sự lợi ích của cộng đồng, và anh ta cũng không
hề biết mình đang cống hiến cho nó bao nhiêu. Anh ta chỉ muốn giành được mối lợi cho bản
thân mình, và trong khi làm như vậy, cũng như trong nhiều trường hợp khác, anh ta được dẫn
dắt bởi một bàn tay vô hình hướng tới việc phụng sự cho một mục đích nằm ngoài dự định
của anh ta. Song không phải lúc nào cũng là tồi tệ đối với xã hội nếu điều đó nằm ngoài dự
định của anh ta. Khi theo đuổi ích lợi riêng của mình, anh ta thường phụng sự cho ích lợi xã
hội một cách có hiệu quả hơn là trường hợp anh ta thực sự dự định làm như vậy.”
Khi viết những câu trên đây, Smith muốn nhấn mạnh rằng những người tham gia vào nền
kinh tế thị trường bị thúc đẩy bởi ích lợi riêng và rằng "bàn tay vô hình" của thị trường hướng
ích lợi này vào việc phụng sự cho phúc lợi kinh tế chung.
Rất nhiều nhận thức của Smith vẫn đóng vai trò trung tâm của kinh tế học hiện đại. Phân tích
của chúng ta trong các chương tới sẽ cho phép chúng ta diễn giải những kết luận của Smith
một cách chính xác hơn và phân tích đầy đủ những điểm mạnh và điểm yếu trong bàn tay vô hình của thị trường.
Nguyên lý 7: Đôi khi chính phủ có thể cải thiện được kết cục thị trường
Nếu như bàn tay vô hình của thị trường kỳ diệu đến vậy, thì tại sao chúng ta lại cần chính
phủ? Một lý do là bàn tay vô hình cần được chính phủ bảo vệ. Thị trường chỉ hoạt động nếu lOMoAR cPSD| 22014077
như quyền sở hữu được tôn trọng. Một nông dân sẽ không trồng lúa nếu như anh ta nghĩ rằng
mùa màng sẽ bị đánh cắp, một nhà hàng sẽ không phục vụ trừ khi được đảm bảo rằng khách
hàng sẽ trả tiền trước khi rời quán. Tất cả chúng ta đều dựa vào công an và tòa án do chính
phủ cung cấp để thực thi quyền của chúng ta đối với những thứ do chúng ta tạo ra.
Một lý do khác cần đến chính phủ là mặc dù thị trường thường là một phương thức tốt để tổ
chức hoạt động kinh tế, nhưng quy tắc cũng có vài ngoại lệ quan trọng. Có hai nguyên nhân
chủ yếu để chính phủ can thiệp vào nền kinh tế là: thúc đẩy hiệu quả và sự công bằng. Nghĩa
là hầu hết các chính sách đều hoặc nhằm vào mục tiêu làm cho chiếc bánh kinh tế lớn lên,
hoặc làm thay đổi cách thức phân chia chiếc bánh đó.
Bàn tay vô hình thường dẫn dắt thị trường phân bổ nguồn lực một cách có hiệu quả. Song vì
các nguyên nhân khác nhau, đôi khi bàn tay vô hình không hoạt động. Các nhà kinh tế học
sử dụng thuật ngữ thất bại thị trường để chỉ tình huống mà thị trường tự nó thất bại trong việc
phân bổ nguồn lực có hiệu quả.
Một nguyên nhân có khả năng làm cho thị trường thất bại là ngoại ứng. Ảnh hưởng ngoại
hiện là ảnh hưởng do hành động của một người tạo ra đối với phúc lợi của người ngoài cuộc.
Ví dụ kinh điển về chi phí ra bên ngoài là ô nhiễm. Một nguyên nhân nữa có thể gây ra thất
bại thị trường là sức mạnh thị trường. Sức mạnh thị trường chỉ khả năng của một người duy
nhất (hay nhóm người) có ảnh hưởng đáng kể lên giá cả thị trường. Ví dụ, chúng ta hãy giả
định tất cả mọi người trong một thị trấn đều cần nước, nhưng lại chỉ có một cái giếng, người
chủ giếng không phải tuân theo sự cạnh tranh khốc liệt mà có nó, bàn tay vô hình kiểm soát
ích lợi cá nhân. Bạn đọc sẽ thấy rằng trong trường hợp này, việc điều tiết giá mà nhà độc
quyền quy định có thể cải thiện hiệu quả kinh tế.
Bàn tay vô hình thậm chí có ít khả năng hơn trong việc đảm bảo rằng sự thịnh vượng kinh tế
được phân phối một cách công bằng. Nền kinh tế thị trường thưởng công cho mọi người dựa
trên năng lực của họ trong việc sản xuất ra những thứ mà người khác sẵn sàng trả giá. Vận
động viên bóng rổ giỏi nhất thế giới kiếm được nhiều tiền hơn kiện tướng cờ vua thế giới vì
người ta sẵn sàng trả nhiều tiền để xem bóng rổ hơn là xem cờ vua. Bàn tay vô hình không
đảm bảo rằng tất cả mọi người đều có lương thực đầy đủ, quần áo tốt và sự chăm sóc y tế
thích hợp. Một mục tiêu của nhiều chính sách công cộng, chẳng hạn chính sách thuế thu nhập
và hệ thống phúc lợi xã hội, là đạt được sự phân phối các phúc lợi kinh tế một cách công bằng hơn.
Việc nói rằng trong một số trường hợp, chính phủ có thể cải thiện tình hình thị trường không
có nghĩa là nó sẽ luôn luôn làm được như vậy. Các chính sách công cộng không phải do thần
thánh tạo ra, mà là kết quả của một quá trình chính trị còn lâu mới hoàn hảo. Đôi khi các
chính sách được hoạch định chỉ đơn giản nhằm thưởng công cho những quyền lực chính trị.
Đôi khi chúng được hoạch định bởi những nhà lãnh đạo có thiện chí, nhưng không đủ thông
tin. Một mục tiêu của việc nghiên cứu kinh tế học là giúp bạn đánh giá xem khi nào một chính
sách của chính phủ thích hợp để thúc đẩy hiệu quả hoặc công bằng, còn khi nào thì nó không thích hợp.
Kiểm tra nhanh: Hãy liệt kê và giải thích ngắn gọn ba nguyên lý liên quan đến những tương tác về mặt kinh tế.
NỀN KINH TẾ VỚI TƯ CÁCH MỘT TỔNG THỂ VẬN HÀNH NHƯ THẾ NÀO? lOMoAR cPSD| 22014077
Chúng ta bắt đầu bằng việc thảo luận về cách thức ra quyết định cá nhân, sau đó xem xét
phương thức con người tương tác với nhau. Tất cả các quyết định và sự tương tác này tạo
thành “nền kinh tế”. Ba nguyên lý cuối cùng liên quan đến sự vận hành của nền kinh tế nói chung.
Nguyên lý 8: Mức sống của một nước phụ thuộc vào năng lực sản xuất hàng hóa và
dịch vụ của nước đó
Sự chênh lệch mức sống trên thế giới rất đáng kinh ngạc. Vào năm 1997, bình quân một người
Mỹ có thu nhập là 29.000 đô la. Cũng trong năm đó, một người Mê-hi-cô có thu nhập bình
quân là 8000 đô la và một người Ni-giê-ria bình quân có thu nhập là 900 đô la. Không có gì
đáng ngạc nhiên khi sự khác biệt trong thu nhập bình quân được phản ánh ở các chỉ tiêu khác
nhau về chất lượng cuộc sống. Công dân của các nước thu nhập cao có nhiều ti vi hơn, nhiều
ô tô hơn, chế độ dinh dưỡng tốt hơn, dịch vụ y tế tốt hơn và tuổi thọ cao hơn người dân ở các nước thu nhập thấp.
Những thay đổi mức sống theo thời gian cũng rất lớn. Trong lịch sử, thu nhập ở Mỹ tăng
khoảng 2% một năm (sau khi đã loại trừ những thay đổi trong giá sinh hoạt). Với tốc độ tăng
trưởng này, cứ 35 năm thu nhập bình quân lại tăng gấp đôi. Trong thế kỷ qua, thu nhập bình
quân đã tăng gấp tám lần.
Đâu là nguyên nhân của sự khác biệt to lớn về mức sống giữa các quốc gia và theo thời gian?
Câu trả lời đơn giản đến mức đáng ngạc nhiên. Hầu hết sự khác biệt về mức sống có nguyên
nhân ở sự khác nhau về năng suất lao động của các quốc gia - tức số lượng hàng hóa được
làm ra trong một giờ lao động của một công nhân. Ở những quốc gia người lao động sản xuất
được lượng hàng hóa và dịch vụ lớn hơn trong một đơn vị thời gian, hầu hết người dân được
hưởng mức sống cao; còn ở các quốc gia có năng suất kém hơn, hầu hết người dân phải chịu
cuộc sống đạm bạc. Tương tự, tốc độ tăng năng suất của một quốc gia quyết định tốc độ tăng
thu nhập bình quân của quốc gia đó.
Mối quan hệ cơ bản giữa năng suất và mức sống khá đơn giản, nhưng có những hàm ý sâu
rộng. Nếu năng suất là nhân tố thiết yếu quyết định mức sống, thì những lý do khác phải đóng
vai trò thứ yếu. Chẳng hạn, người ta có thể cảm nhận rằng nghiệp đoàn hoặc luật về tiền lương
tối thiểu có đóng góp làm tăng mức sống của công nhân Mỹ trong thế kỷ qua. Song người
anh hùng thật sự của công nhân Mỹ là năng suất lao động ngày càng tăng lên của họ. Một ví
dụ khác là một số nhà bình luận cho rằng sự cạnh tranh tăng lên từ Nhật và các nước khác là
nguyên nhân dẫn tới mức tăng trưởng chậm trong thu nhập quốc dân của Mỹ suốt 30 năm
qua. Nhưng tên tội phạm thực sự không phải là sự cạnh tranh từ nước ngoài, mà chính là sự
tăng trưởng chậm của năng suất ở Mỹ.
Mối liên hệ giữa năng suất và mức sống còn có hàm ý sâu sắc đối với chính sách của nhà
nước. Khi suy nghĩ xem chính sách bất kỳ sẽ tác động như thế nào đến mức sống, vấn đề then
chốt là nó sẽ tác động tới năng lực sản xuất hàng hóa và dịch vụ như thế nào. Để nâng cao
mức sống, các nhà hoạch định chính sách cần làm tăng năng suất lao động bằng cách đảm
bảo cho công nhân được đào tạo tốt, có đủ các công cụ cần thiết để sản xuất hàng hóa và dịch
vụ và được tiếp cận những công nghệ tốt nhất hiện có. lOMoAR cPSD| 22014077
Nguyên lý 9: Giá cả tăng khi chính phủ in quá nhiều tiền
Vào tháng 1 năm 1921, giá một tờ nhật báo ở Đức là 0,3 mác. Chưa đầy hai năm sau, vào
tháng 11 năm 1922 cũng tờ báo ấy giá 70.000.000 mác. Giá của tất cả các mặt hàng khác
trong nền kinh tế cũng tăng với tốc độ tương tự. Đây là một trong những ví dụ ngoạn mục
nhất lịch sử về lạm phát- tức sự gia tăng của mức giá chung trong nền kinh tế.
Mặc dù nước Mỹ chưa từng trải qua cuộc lạm phát nào tương tự như ở Đức vào những năm
1920, nhưng đôi khi lạm phát cũng là một vấn đề kinh tế. Ví dụ trong những năm 1970, mức
giá chung tăng gấp hơn hai lần và tổng thống Gerald Ford đã gọi lạm phát là "kẻ thù số một
của công chúng". Ngược lại, lạm phát trong những năm 1990 chỉ khoảng 3% một năm; với
tỷ lệ này, giá cả phải mất hơn hai mươi năm để tăng gấp đôi. Vì lạm phát cao gây nhiều tổn
thất cho xã hội, nên giữ cho lạm phát ở mức thấp là một mục tiêu của các nhà hoạch định
chính sách kinh tế trên toàn thế giới.
Nguyên nhân gây ra lạm phát là gì? Trong hầu hết các trường hợp lạm phát trầm trọng hoặc
kéo dài, dường như đều có chung một thủ phạm - sự gia tăng của lượng tiền. Khi chính phủ
tạo ra một lượng lớn tiền, giá trị của tiền giảm. Vào đầu những năm 1920, khi giá cả ở Đức
tăng gấp 3 lần mỗi tháng, lượng tiền cũng tăng gấp 3 lần mỗi tháng. Dù ít nghiêm trọng hơn,
nhưng lịch sử kinh tế Mỹ cũng đã đưa chúng ta đến một kết luận tương tự: lạm phát cao trong
những năm 1970 đi liền với sự gia tăng nhanh chóng của lượng tiền và lạm phát thấp trong
những năm 1990 đi liền với sự gia tăng chậm của lượng tiền.
Nguyên lý 10: Xã hội đối mặt với sự đánh đổi ngắn hạn giữa lạm phát và thất nghiệp
Nếu dễ dàng lý giải lạm phát như vậy, thì tại sao đôi khi các nhà hoạch định chính sách vẫn
gặp rắc rối trong việc chèo lái con thuyền nền kinh tế. Một lý do là người ta nghĩ rằng việc
cắt giảm lạm phát thường gây ra tình trạng gia tăng tạm thời của thất nghiệp. Đường minh
họa cho sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp được gọi là đường Phillips, để ghi công tên
nhà kinh tế đầu tiên nghiên cứu mối quan hệ này.
Đường Phillips vẫn còn là một đề tài gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế, nhưng hiện nay hầu
hết các nhà kinh tế đều chấp nhận ý kiến cho rằng có sự đánh đổi ngắn hạn giữa lạm phát và
thất nghiệp. Điều đó chỉ hàm ý rằng trong khoảng thời gian một hay hai năm, nhiều chính
sách kinh tế đẩy lạm phát và thất nghiệp đi theo những hướng trái ngược nhau. Bất kể thất
nghiệp và lạm phát ban đầu ở mức cao (như đầu những năm 1980) hay thấp (như cuối thập
kỷ 1990) hay nằm ở đâu đó giữa hai thái cực đó, thì các nhà chính sách vẫn phải đối mặt với sự đánh đổi này.
Tại sao chúng ta lại phải đối mặt với sự đánh đổi ngắn hạn nêu trên? Theo cách lý giải phổ
biến, vấn đề phát sinh từ việc một số loại giá cả thay đổi chậm chạp. Ví dụ, chúng ta hãy giả
định rằng chính phủ cắt giảm lượng tiền trong nền kinh tế. Trong dài hạn, kết quả của chính
sách này là mức giá chung giảm. Song không phải tất cả giá cả đều thay đổi ngay lập tức.
Phải mất nhiều năm để tất cả doanh nghiệp đưa ra các bản chào hàng mới, để tất cả các công
đoàn chấp nhận nhượng bộ về tiền lương và tất cả các nhà hàng in thực đơn mới. Điều này
hàm ý giá cả được coi là cứng nhắc trong ngắn hạn.
Vì giá cả cứng nhắc, nên ảnh hưởng trong ngắn hạn của các chính sách mà chính phủ vận
dụng khác với ảnh hưởng của chúng trong dài hạn. Chẳng hạn khi chính phủ cắt giảm lượng lOMoAR cPSD| 22014077
tiền, nó làm giảm số tiền mà mọi người chi tiêu. Khi giá cả bị mắc ở mức cao, mức chi tiêu
sẽ giảm và điều này làm giảm lượng hàng hóa và dịch vụ mà các doanh nghiệp bán ra. Mức
bán ra thấp hơn đến lượt nó buộc các doanh nghiệp phải sa thải công nhân. Như vậy, biện
pháp cắt giảm lượng tiền tạm thời làm tăng thất nghiệp cho đến khi giá cả hoàn toàn thích ứng với sự thay đổi.
Sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp chỉ có tính tạm thời, nhưng nó có thể kéo dài trong
một vài năm. Vì vậy, đường Phillips có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tìm hiểu các xu thế
phát triển của nền kinh tế. Đặc biệt, các nhà hoạch định chính sách có thể khai thác sự đánh
đổi này bằng cách vận dụng các công cụ chính sách khác nhau. Thông qua việc thay đổi mức
chi tiêu của chính phủ, thuế và lượng tiền in ra, trong ngắn hạn các nhà hoạch định chính sách
có thể tác động vào hỗn hợp giữa lạm phát và thất nghiệp mà nền kinh tế phải đối mặt. Vì các
công cụ này của chính sách tài khóa và tiền tệ có sức mạnh tiềm tàng như vậy, nên việc các
nhà hoạch định chính sách sử dụng những công cụ này như thế nào để quản lý nền kinh tế
vẫn còn là một đề tài tranh cãi.
Kiểm tra nhanh: Hãy liệt kê và giải thích ngắn gọn ba nguyên lý mô tả phương thức vận
hành của nền kinh tế với tư cách một tổng thể. KẾT LUẬN
Giờ đây bạn đã biết đôi chút về kinh tế học. Trong những chương tiếp theo, chúng ta sẽ tìm
hiểu thêm nhiều điều sâu sắc hơn về con người, thị trường và nền kinh tế. Để nắm được những
vấn đề này, chúng ta cần phải nỗ lực một chút, nhưng chúng ta sẽ làm được. Kinh tế học dựa
trên một số ít ý tưởng căn bản để từ đó có thể áp dụng cho nhiều tình huống khác nhau.
Xuyên suốt cuốn sách này, chúng ta sẽ còn quay lại với Mười Nguyên lý của kinh tế học đã
được làm sáng tỏ trong chương này và tóm tắt trong bảng Bạn hãy nhớ rằng, ngay cả những
phân tích kinh tế phức tạp nhất cũng được xây dựng trên nền tảng của mười nguyên lý này. TÓM TẮT
Những bài học căn bản về ra quyết định cá nhân là: con người đối mặt với sự đánh đổi giữa
các mục tiêu khác nhau, chi phí của bất kỳ hành động nào cũng được tính bằng những cơ
hội bị bỏ qua, con người duy lý đưa ra quyết định dựa trên sự so sánh giữa chi phí và ích
lợi cận biên, và cuối cùng là con người thay đổi hành vi để đáp lại các kích thích mà họ phải đối mặt.
Những bài học căn bản về sự tác động qua lại giữa con người với nhau là: thương mại (tức
trao đổi) có thể đem lại ích lợi cho cả hai bên, thị trường thường là cách thức tốt phối hợp
trao đổi buôn bán giữa mọi người, và chính phủ có thể cải thiện các kết cục thị trường khi
một thất bại thị trường nào đó tồn tại hay khi kết cục thị trường không công bằng.
Những bài học căn bản về nền kinh tế với tư cách một tổng thể là: năng suất là nguồn
gốc cuối cùng của mức sống, sự gia tăng lượng tiền là nguyên nhân cuối cùng của lạm
phát và xã hội đối mặt với sự đánh đổi ngắn hạn giữa lạm phát và thất nghiệp.