Nền dân chủ XHCN ở Việt Nam hiện nay | Tiểu luận môn chủ nghĩa xã hội khoa học Trường đại học sư phạm kĩ thuật TP. Hồ Chí Minh
Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, mọi quốc gia, dân tộc nhất định sẽ đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Nền dân chủ nhân dân ở nước ta xuất hiện sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.. Đến năm 1976, tên nước được đổi thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhưng trong các văn kiện Đảng hầu như chưa sử dụng cụm từ :”dân chủ xã hội chủ nghĩa” mà thường nêu quan điểm; Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (LLCT120405)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA ĐÀO TẠO CHẤT LƯỢNG CAO
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ MÔN HỌC:
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC Đề tài:
BẢN CHẤT CỦA NỀN DÂN CHỦ XHCN VN
GVHD: PGS.TS: Đoàn Đức Hiếu Sinh viên thực hiện: Nguyễn Lê Uyên Nhi 21116098 Phạm Nguyễn Bảo Hân 21116348 Hà Đức Nhân 21116362 Nguyễn Thái Hòa 21116347 Lê Anh Quân 21126072
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2022 MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN................................................................................................................... 3
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................... 4
Lý do chọn đề tài........................................................................................................... 4
CHƯƠNG 1: NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.................................................5
1.1.Khái niệm về dân chủ.............................................................................................5
1.1.1. Dân chủ là gì?..................................................................................................5
1.1.2. Hình thức dân chủ...........................................................................................5
1.1.3. Đặc trưng của dân chủ....................................................................................5
1.2. Quan niệm về dân chủ...........................................................................................6
1.2.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lênin về dân chủ........................................6
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ................................................................9
1.2.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ.................................10
1.3. Khái lược về sự ra đời và phát triển của dân chủ..............................................11
1.3.1. Dân chủ nguyên thủy....................................................................................12
1.3.2. Nền dân chủ chủ nô.......................................................................................12
1.3.3. Nền dân chủ tư sản........................................................................................12
1.3.4. Nền dân chủ XHCN.......................................................................................12
CHƯƠNG 2: DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA........................................................14
2.1.Quá trình ra đời và phát triển của dân chủ xã hội chủ nghĩa...........................14
2.1.1. Quá trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa....................................14
2.1.2. Quá trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.............................15
2.2.Sự ra đời, bản chất, chức năng của nhà nước XHCN........................................18
CHƯƠNG 3: DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM..........................................................................20
3.1.Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.................................................................20
3.2.Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam..........................................20
3.3.Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam........................................................................................................21
KẾT LUẬN..................................................................................................................... 23
Tài liệu tham khảo.........................................................................................................24 LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành tiểu luận cho môn chủ nghĩa xã hội khoa học với đề tài là Bản chất của
nền dân chủ XHCN VN, nhóm tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến thầy PGS.
TS Đoàn Đức Hiếu đã tận tình hỗ trợ nhóm tôi, cũng như cung cấp những tài liệu quý báu cho chúng tôi.
Tuy vậy, do vốn kiến thức và khả năng tiếp thu thực tế còn nhiều hạn chế trước biển rộng
tri thức và quan điểm của bộ môn chủ nghĩa xã hội khoa học. Mặc dù nhóm đã cố gắng
hết sức nhưng bài tiểu luận khó có thể tránh khỏi những thiếu sót và nhiều chỗ còn chưa
chính xác, kính mong thầy xem xét và góp ý để bài tiểu luận của nhóm được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! 3 LỜI MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài
Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, mọi quốc gia, dân tộc nhất định sẽ đi tới chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản. Nền dân chủ nhân dân ở nước ta xuất hiện sau Cách mạng
tháng Tám năm 1945.. Đến năm 1976, tên nước được đổi thành Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam nhưng trong các văn kiện Đảng hầu như chưa sử dụng cụm từ :”dân chủ
xã hội chủ nghĩa” mà thường nêu quan điểm :”xây dựng chế độ làm chủ tập thể Xã Hội
Chủ Nghĩa” gắn với :”nắm vững chuyên chính vô sản”. Bản chất của dân chủ xã hội chủ
nghĩa, mối quan hệ giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa cũng chưa được xác định rõ ràng.
Trong hơn 30 năm đổi mới, Đảng Cô lng sản Viê lt Nam chủ trương xây dựng chế đô l dân
chủ xã hô li chủ nghĩa, mở rô lng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trong công
cuô lc đó, đất nước ta theo định hướng xã hô li chủ nghĩa, trong đó nhấn mạnh phát huy dân
chủ để tạo ra mô lt đô lng lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước, Đảng ta đã khẳng định,
“trong toàn bô l hoạt đô l
ng của mình, Đảng phải quán triê lt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây
dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao đô lng”[4]. Đặc biệt trong thời kỳ đổi
mới, nhâ ln thức về dân chủ của Đảng Cô lng sản Viê lt Nam có những bước phát triển mới:
“Toàn bô l tổ chức và hoạt đô l
ng của hê l thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là
nhrm xây dựng và từng bước hoàn thiê ln nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền
lực thuô lc về nhân dân.
Từ những thông tin trên, nhóm em cảm thấy vô cùng tò mò và muốn tìm hiểu nghiên cứu
sâu hơn về vấn đề này. Vì vậy, nhóm đã lựa chọn chủ đề :”Nền dân chủ XHCN ở Việt
Nam hiện nay để có thể giải đáp thắc mắc và hiểu thêm về nó. 4
CHƯƠNG 1: NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 1.1.
Khái niệm về dân chủ
1.1.1. Dân chủ là gì?
Dân tộc xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ đã được xác định ở các nước đã hoàn
thành cách mạng dân tộc, dân chủ và bắt đầu tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đặc
trưng của dân chủ xã hội chủ nghĩa là quyền dân chủ của công dân không ngừng được
mở rộng trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của nhà nước, của xã hội mà cơ bản là dân
chủ về kinh tế. Trên các lĩnh vực chính trị xã hội, quyền tham gia quản lý nhà nước của
nhân dân và các tập đoàn có thể quần chúng ngày càng được mở rộng về phạm vi, về độ
sâu và phong phú đa dạng về các hình thức. Mục tiêu của dân chủ xã hội là nhrm xóa tệ
nạn bóc trần và tạo ra ngày càng nhiều điều kiện để thực hiện công việc của xã hội, công
việc cho mọi người, bình đẳng thực sự giữa các nam với nữ, giữa các dân tộc, tạo cơ hội
cho mọi công dân giải quyết sinh và phúc lợi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ
của xã hội loài người tiến bộ trong tương lai.
1.1.2. Hình thức dân chủ
Được chia làm 2 loại hình thức
+ Hình thức dân chủ gián tiếp là hình thức dân chủ đại diện, được thực hiện bởi nhân dân
"ủy quyền", quyền lực của mình cho tổ chức mà nhân dân trực tiếp bầu ra. Những con
người và tổ chức đó đại diện cho nhân dân, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Nhân
dân bầu cử Quốc hội. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất hoạt động theo
nhiệm vụ 5 năm. Quyền lực nhà nước ta là hệ thống nhất, có sự phân phối, phối hợp bà
kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền thiết lập, điều hành và tư pháp
+ Hình thức dân chủ trực tiếp là hình thức thông qua đó, nhân dân brng hành động trực
tiếp của mình thực hiện quyền làm chủ nhà nước và xã hội. Định dạng có thể là quyền
hiện tại là thông tin trống về hoạt động của nhà nước, được bàn bạc về công việc của nhà
nước và cộng đồng dân cư được bàn đến những người quyết định về nhân dân kiểm tra,
giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước từ Trung ương cho đến cơ sở. Dân chủ ngày
càng được thể hiện trong tất cả các mối quan hệ xã hội, trở thành quy chế, cách thức làm
việc của mọi tổ chức trong xã hội
1.1.3. Đặc trưng của dân chủ
Đặc trưng của dân chủ xã hội chủ nghĩa là quyền của dân chủ của dân chủ sẽ không
ngừng được mở rộng trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của xã hội, nhà nước. Thông qua 5
hệ thống cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội và tổ chức chính trị, chính trị- xã hội
với sự tham gia tích cực của đông đảo quần áo chúng tôi nhận dân lao động vào hoạt
động chính trị hàng ngày.
Mục tiêu của dân chủ xã hội chính là xóa bỏ chế độ người bóc trần, tạo điều kiện
thuận lợi để thực hiện brng dân chủ, công ty xã hội, công việc cho mọi người, bình đẳng
thực sự. nữ và nam, văn minh, giữa các dân tộc.
Từ đó, tạo cơ hội cho mọi người dân hạnh phúc thông qua công việc quản lý và thừa
kế các quyền của dân chủ đó một cách chính thức trong hiến pháp và các văn bản quy
phạm pháp luật. Từ đó đặt ra các vật chất bảo mật và tinh thần để thực hiện các quyền đó
và không ngừng mở rộng các quyền của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, cá nhân
luôn đề cao trách nhiệm đối với Nhà nước và xã hội cũng như phát huy không ngừng
quyền làm chủ của nhân dân lao động.
1.2. Quan niệm về dân chủ
1.2.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lênin về dân chủ
Ban đầu theo Mác- lênin thì dân chủ xã hội chủ nghĩa là kết quả quá trình phát triển
lâu dài của lịch sử.C.Mác vàPh.Ăngghen nhận thức rất rõ ràng, dân chủ không phải là sản
phẩm của tự nhiên không xuất phát từ mong muốn chủ quản của bất kỳ cá nhân hay giai
cấp nào. Trong đời sống xã hội, dân chủ vừa tồn tại dưới dạng các hệ thống chất lượng,
có thể kiểm tra chứng chỉ; đồng thời, cũng tồn tại dưới ý thức định dạng, đó là các giá trị
về tinh thần trong tư tưởng. Dân chủ là sự phát triển lâu dài của lịch sử theo các quy định
của pháp luật. Tương ứng với các trạng thái phát triển kinh tế xã hội, lịch sử loài người
trải qua nhiều “loại” dân chủ khác nhau.
Trong lịch sử, dân chủ có mầm mống, mầm bệnh trong xã hội cộng sản nguyên thủy.
Dân chủ giai đoạn này có nghĩa là mọi thành viên trong xã hội đều có quyền bình đẳng
như nhau về lợi ích kinh tế, tham gia cộng đồng. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đã
được dẫn đến phân chia xã hội thành cấp độ hệ thống và giá trị hệ thống. Từ đó, các
quyền bình đẳng cấp vốn có của mọi thành viên trong xã hội cộng đồng Thủy sản dần dần
bị mất dần. Một nghịch lý của sự phát triển là “Mỗi bước tiến của nền văn minh, đồng
thời cũng là một bước mới của sự bất bình đẳng. Xã hội ra đời cùng với văn minh, tất cả
những người có thể chế tạo xã hội đều biến thành những chế độ đi ngược lại mục tiêu ban
đầu ”. Chính vì vậy, trong lịch sử không ngừng diễn ra các cuộc đấu tranh của nhân dân
các quyền của mình. Một điểm chung, từ khi thoát khỏi xã hội cộng sản nguyên thủy đến
trước khi thiết lập xã hội cộng sản văn minh, dân chủ đều mang bản chất và phục vụ cho
lợi ích của hệ thống cấp. Chủ nhân nền cũng chính là sự phản hồi của trình độ phát triển 6
của lực lượng sản xuất còn chưa phát triển đầy đủ, dựa trên chế độ sử dụng tư nhân về sản xuất tư liệu.
Trong các xã hội có giai cấp và nhà nước, dân chủ là công cụ, phương tiện hệ thống
được sử dụng để củng cố, bảo vệ hệ thống địa chỉ của mình thông qua luật hóa các quyền
của công dân, các quyền của con người nhưng đồng thời, dân chủ cũng là ngọn cờ để cấp
đấu tranh trị giá hệ thống và bảo vệ các quyền của mình. Các phong trào đấu tranh của
nhân dân lao động cũng là đấu tranh cho các quyền , dân chủ, nhân quyền. Theo đó,
C.Mác viết “. Còn chừng nào thì không có quyền lợi của dân chủ thì cộng đồng sản xuất
và những người chủ còn cận vai sát cánh chiến đấu và lợi ích của những người làm chủ
cũng là lợi ích của những người sản xuất ”.
Thứ hai, sức sống của dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự tham gia đông đảo của nhân
dân lao động vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Trong những năm đầu tiên Thập kỷ
40 thế kỷ XIX, C.Mác đã trình bày hệ thống điểm của mình về nền dân chủ thông qua
phê duyệt điểm duy tâm của Hêghen trong lĩnh vực triết học quyền. Hêghen cho rrng,
nhà nước sinh ra xã hội công dân, nhân dân là vật liệu, phương tiện biểu đạt nội dung
khái niệm nhà nước.C.Mác chỉ rõ, không phải nhà nước sinh ra xã hội công dân, mà
ngược lại, xã hội công dân sinh ra nhà nước “. sự thật là nhà nước xuất hiện từ số đông,
số đông tồn tại dưới dạng những thành viên của gia đình và những thành viên của xã hội
công dân ”. Nhân dân là chủ thể đích thực của nhà nước, và bởi vậy, xét về mặt chất
lượng, nhà nước không có quyền chủ, mà chủ quyền thuộc về nhân dân “Chế độ dân chủ
xuất phát từ con người và biến nhà nước thành con người được khách thể hóa ”. Từ đó,
C.Mác cho rrng, không phải mọi nhà nước đều có hình thức dân chủ, nhưng cơ sở hình
thành và sự tồn tại của bất kỳ nhà nước nào cũng là quyền đóng góp chủ của các công
dân.C.Mác cũng chỉ ra rrng, dân chủ hóa nhà nước là một luật lệ trong lịch sử, quá trình
đó chỉ kết thúc khi đạt đến trạng thái hoàn thành của nó,do đó, dân chủ theo nghĩa “quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân” cũng sẽ không còn nữa.
Thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội cho thấy, các điểm trên đây của kinh điển nhà ở
và giá trị nguyên. To dân chủ xã hội trở thành hiện thực, có sức sống, nhất định phải huy
động được sức mạnh, sự sáng tạo của nhân dân- chủ thể có quyền lực.
Thứ ba, mục tiêu cao nhất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là hướng tới hạnh phúc cho
nhân dân lao động. Theo các nhà kinh điển, dân chủ đến cùng là sự giải phóng con người
để tự làm , bình đẳng, hạnh phúc cho mỗi cá nhân và cả cộng đồng.
Con người, dù xem xét từ góc độ cá nhân, hay một thành viên của xã hội, khi sinh ra
có các quyền cơ bản như được sống, tự làm, cầu phúc hạnh phúc, trực tiếp hoặc gián tiếp
tham gia vào quản lý xã hội. Mỗi bước tiến của dân chủ phản ánh trạng thái, mức giải 7
phóng con người trong lịch sử tiến trình. Thông qua các cuộc đấu tranh để lấy dân chủ,
con người càng ngày càng thoát khỏi xiềng xích của áp lực, nâng cao vị trí và năng lực
thực hiện dân chủ của mình.
Theo quan điểm của các nhà kinh điển, dân chủ nhiều cấp độ khác nhau, cấp độ đầu
tiên của cấp độ vô sản hướng tới có quyền lực chính. Theo các phương pháp mạng xã hội
chủ nghĩa, ông có quyền lực chính thức được coi là “tiên đề của tất cả mọi người biện
pháp cộng đồng chủ nghĩa”. Trong quá trình đó, dân chủ là công cụ, phương thức, có mục
tiêu trước mắt là quyền chính thức về tay giai cấp công nhân “tiện ích đó có quyền lực,
giai cấp vô sản xuất cũng cần đến các dân chủ hình thức ,nhưng đối với nó, định dạng
người cũng như tất cả các định dạng chính trị chỉ là phương tiện mà thôi”.
Mục tiêu cao nhất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là thiết lập một xã hội mới tốt đẹp
hơn với tư bản chủ nghĩa, hướng đến giải phóng con người, hạnh phúc của nhân dân
“. yếu tố đặc trưng của dân chủ chân chính là nó phải phủ nhận lịch sử của nước nó, nó
phải từ bỏ mọi trách nhiệm đối với cái quá hoàn toàn cảnh nghèo khổ, bạo tàn hệ thống,
áp dụng giai cấp và mê tín dị đoan ”. Đây là cao nhất mục tiêu của XHCN dân chủ.
Bốn là, giá trị về phương pháp luận. Những quan điểm về dân chủ xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa Mác- Lê nin không chỉ có nghĩa về nội dung mà còn có giá trị về phương pháp
luận. Các ông cho rrng, xã hội chủ nghĩa không có thân mục tiêu, không độc lập so với
các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội mà “. Bất cứ dân chủ nào cũng vậy, cũng đều
có những người làm công việc sản xuất và kiểm tra cùng, đều làm những công việc sản
xuất trong một xã hội nhất định ”. Dân chủ là một dãy kiến trúc thuộc tầng thượng tầng,
được quy định bởi tầng hạ tầng cơ sở. Trình độ phát triển hạ tầng quy định nội bộ, tính
chất của tầng kiến trúc thượng tầng, do đó, khi xem xét nội thất , tính chất, mục tiêu của
dân chủ không thoát ly, tách rời trình phát triển kinh tế tế- xã hội, cái cơ sở sinh ra nó.
Bản thân chứng chỉ bảo vệ vật lý của chủ nghĩa Mác cũng cho thấy, bất kỳ sự vật,
hiện tượng nào cũng ra đời trên cơ sở thừa kế, bộ phận yếu tố của cái cũ, cái mà nó bao
phủ, chuyển hóa vào thành phần của cái mới trên cơ sở cao hơn. Dân chủ XHCN ra đời
thay thế dân chủ sản xuất, cũng kế thừa những hoạt động tích cực, tiến trình của dân chủ
tư sản, và dân chủ trước đó, đây chính là chứng nhận bảo vệ định hướng. Nhận thức điểm
này để không rơi vào điểm quan trọng, siêu hình, mỗi giai đoạn phát triển, mỗi dân chủ
khác nhau sẽ có các điểm khác nhau. Để dân chủ hóa đời sống xã hội, không chỉ sử dụng
các biện pháp bảo vệ chính trị mà phải xuất ra từ chính sự phát triển của đời sống kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội. Khi điều kiện đó có sự thay đổi, nhất định cũng phải có sự thay
đổi trong nhận thức về đặc trưng, 8
Xu thế chung sự phát triển của lịch sử theo quy luật từ thấp đến cao, từ từ hoàn thiện
đến hoàn thiện, những người làm chủ chỉ để phục vụ cho lợi ích của một định nghĩa hệ
thống cấp độ nhóm phải được thay thế bởi một dân chủ cho đông đảo nhân dân lao động,
một dân chủ nhân văn, tiến bộ vì hạnh phúc con người. Đó là giá trị của chủ nghĩa Mác
về dân chủ xã hội chủ nghĩa.
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò của
nhân dân trong lịch sử “Dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết, là tối thượng”, “Trong
bầu trời không có gì cả quý brng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh brng lực
lượng liên kết của nhân dân ”; “Dân là gốc của nước, của cách mạng”, “Cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng nhân dân”, “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân
chúng không ủng hộ, việc gì cũng không làm nên ”; “Nước lấy gốc làm việc. Gốc cây
mới có gốc. Xây dựng lợi nhuận trên nền nhân dân ”. Người huy động sức mạnh toàn dân
trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình, góp phần vào nhóm lớn đưa dân tộc Việt Nam
tới độc lập, tự do, ta được đưa ra từ các kiếp nạn nhân lên địa điểm làm chủ đất nước, xã
hội chủ quản; Vì vậy, “đối với dân, chúng ta không làm gì trái ý dân”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhận thức rất rõ ràng vai trò của dân chủ, coi dân chủ là nhân tố của sự phát triển
của dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh định chế, bản chất của dân chủ tức là dân là chủ và dân làm
chủ. Chỉ rõ người, địa vị của nhân dân là chủ đối với xã hội, đất nước và nhân dân là chủ
thể của các quyền. Đây là nội dung cốt lõi cốt lõi trong tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh,
phản hồi ánh sáng giá trị cao nhất, chung nhất dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân
“Nước ta là nước dân chủ, vị trí cao nhất là dân, vì dân là chủ” , “chế độ ta là chế độ dân
chủ, tức là dân làm chủ”. Điều này quyết định giá trị xã hội đích thực hiện của dân chủ là
cũ của hội đồng quản trị cho đại đa số người lao động, quyền lực của họ thông qua việc
cải tạo xã hội và xây dựng xã hội mới của văn bản. thân của dân chúng nhân dân. Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ có một “ ham muốn, ham muốn vượt bậc là làm cho nước nhà được
độc lập, nhân dân được tự do , đồng bào cũng có cơm ăn mặc định, ai cũng được học
hành”. Người đã phấn đấu không mệt mỏi, làm tất cả để thực hiện Độc lập- Tự do- Hạnh
phúc cho Tổ quốc, cho dân tộc và nhân dân. Người rút ra một chân lý không chỉ cho dân
tộc mà còn cho cả nhân loại “không có gì quý hơn độc lập, tự do ”.
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt
nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng chế độ dân chủ, thể chế chính trị và thể chế nhà
nước dân chủ, nhà nước của dân, do dân và vì dân. Người khẳng định: “Bao nhiêu lợi ích
đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách 9
nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ
xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ
chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Nhà nước ta là nhà nước
của dân; coi nhân dân là chủ thể quyền lực; nhà nước là công cụ của nhân dân, là hình
thức để tập hợp, quy tụ sức mạnh của toàn dân tộc vào sự nghiệp chung chứ nhà nước
không phải là nơi để “thăng quan, phát tài”, chia nhau quyền lực, lợi ích và bổng lộc.
1.2.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ
Là một tổ chức định thức của xã hội chính trị, lại là khát vọng muôn năm của con
người, dân chủ đã xuất hiện từ xa xưa. Hy Lạp cổ đại đã được sử dụng từ Demokratina có
nghĩa là dân chủ, quyền lực của nhân dân. Dân chủ là một phàm trù lịch sử, biến đổi và
phát triển không ngừng về việc nhận thức và thực hiện trong từng giai đoạn phát triển của xã hội loài người.
Với quan niệm dân chủ là dân chủ và dân chủ, Hồ Chí Minh không chỉ đặt nhân dân
lên vị trí chủ thể xã hội, mà nói rõ mối quan hệ mật thiết, không thể tách rời giữa các vị
trí. xã hội của nhân dân với hoạt động làm chủ. Xã hội của nhân dân. Người định hướng
“Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân”, là lợi ích của công việc thực hiện của nhân
dân, là động lực thúc đẩy nhân dân hoạt động vì đất nước, vì dân tộc. Với Hồ Chí Minh,
dân chủ là lực lượng không chỉ cho những thành công của cách mạng giải phóng dân tộc,
mà cả những thành công trong nghiệp vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước Việt Nam.
Ở Việt Nam hiện nay, qua gần một thế kỷ lãnh đạo dân tộc Việt Nam toàn quyền xây
dựng dân tộc, hệ thống nhất là nước và thành công trong công ty xây dựng nước đi lên xã
hội chủ nghĩa, được toàn thể nhân dân tin tưởng. Đảng Cộng sản Việt Nam là độc quyền
là một thứ tự nhiên. Đảng lấy chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Việt Nam không có
tam quyền thiết lập mà có hệ thống nhất, phân phối và phối hợp kiểm soát giữa ba cơ
quan thiết lập, pháp lý và tư pháp. Nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền vì Hiến
pháp và pháp luật là quyền tối cao. Cơ quan vận hành thể chế chính trị của Việt Nam dựa
trên nền tảng hệ thống nhất giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội; Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Việt Nam chủ xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, tức là dân chủ mà ở đó tất cả các quyền của Nhà nước thuộc về nhân
dân; pháp luật của Nhà nước vì lợi ích của nhân dân.
Đảng cộng sản Việt Nam chủ xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ xã hội
nghĩa là dân chủ của đại đa số nhân dân, gắn với quyền dân chủ của nhân dân trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội, được bảo đảm theo luật dưới sự lãnh đạo của Đảng; là 10
hình thức thể hiện quyền tự do, bình đẳng của công dân, xác định nhân dân là chủ thể của
quyền lực. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự phát triển đất nước. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm toàn bộ các quyền của con
người, các quyền của công dân như quyền của cá nhân, tự do báo chí , hội họp, đi lại,
tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo, quyền bất phân loại thân thể và
quyền nhà ở, nghỉ việc, học tập Dân chủ liên kết với kỷ luật, kỷ cương, quyền và nghĩa
vụ dân sự do Hiến pháp. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và tuân
theo các luật lệ Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản
lý xã hội brng pháp luật, thực hiện chế độ dân chủ tập trung. Cốt lõi của dân chủ xã hội
chủ nghĩa là cơ quan quyền lực của nhân dân, là giải quyết mối quan hệ giữa quyền và lợi
ích, quyền và nghĩa vụ, lợi ích và trách nhiệm.
1.3. Khái lược về sự ra đời và phát triển của dân chủ
Liên Hợp quốc khẳng định dân chủ là một trong những nền tảng và giá trị cốt lõi.
Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy: khái niệm "dân chủ" được hình thành rất sớm, vào
năm 430 trước Công nguyên, có nguồn gốc từ Hy Lạp thời cổ đại, với sự khẳng định:
Dân chủ là cai trị bởi dân. Nền dân chủ thực sự cấp quốc gia ra đời năm 1906 tại Phần
Lan, khi đó bãi bỏ mọi yêu cầu về chủng tộc, giới tính và đi bầu cử…Dân chủ xã hội chủ
nghĩa có từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga.
Ở Việt Nam, nhiều nghiên cứu cho rrng Việt Nam từ thời phong kiến đã có dân chủ
công xã. Thời Lý Công Uẩn tại Thăng Long đã có “lầu chuông”, dành cho dân thường,
nếu ai có oan trái thì đến đánh chuông kêu oan với triều đình. Hay khi quân Nguyên xâm
lược nước ta lần thứ hai, Vua Trần Nhân Tông đã mở Hội nghị Diên Hồng để hỏi ý kiến
bô lão (người cao tuổi) cả nước về chủ trương “hòa hay chiến” vào tháng Chạp năm Giáp
Thân (1284). Nhiều nhà sử học nói rrng đây là hình thức dân chủ trực tiếp đầu tiên của
thời phong kiến ở nước ta. Khi Hưng Đạo Vương- Trần Quốc Tuấn trên giường bệnh, vua
đến thăm và hỏi kế sách giữ nước, Trần Hưng Đạo đã nói với vua rrng: “Khoan sức dân
là thượng sách để giữ nước”; với Nguyễn Trãi từng nói: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên
dân”; với Nguyễn Trường Tộ- Nhà cải cách xã hội thế kỷ 19 với câu nói nổi tiếng: “Nếu
lợi cho dân thì không cứ phải theo xưa, nếu thích hợp thì không cứ theo cũ, nếu học điều
khôn thì không cứ là của địch hay của ta”. Khi Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công
Hồ Chủ Tịch đặc biệt nhấn mạnh: "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì
dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". Người
căn dặn cán bộ: “Việc gì lợi cho dân, thì phải làm cho kỳ được. Việc gì hại cho dân thì
phải hết sức tránh”. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, dân chủ là "hình thức tổ chức
thiết chế chính trị xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực,
thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do..." (Từ điển bách khoa Việt Nam, 1995, tr. 653). 11
Từ khái niệm tên ta thấy rõ: Dân chủ là dân làm chủ và hai thành tố cơ bản của dân chủ là bình đẳng và tự do.
1.3.1. Dân chủ nguyên thủy
Nhu cầu về dân chủ xuất hiê ln từ rất sớm trong xã hô li tự quản của cô lng đồng thị
tô lc, bô l lạc. Trong chế đô l cô l
ng sản nguyên thủy đã xuất hiê ln hình thức manh nha của dân
chủ mà Ph.Ăngghen gọi là “dân chủ nguyên thủy” hay còn gọi là “dân chủ quân sự”. Đặc
trưng cơ bản của hình thức dân chủ này là nhân dân bầu ra thủ lĩnh quân sự thông qua
“Đại hô li nhân dân”. Trong “Đại hô li nhân dân”, mọi người đều có quyền phát biểu và
tham gia quyết định brng cách giơ tay hoặc hoan hô, ở đó “Đại hô li nhân dân” và nhân
dân có quyền lực thâ lt sự (nghĩa là có dân chủ), mặc dù trình đô l sản xuất còn kém phát triển.
1.3.2. Nền dân chủ chủ nô
Khi trình đô l của lực lượng sản xuất phát triển dẫn tới sự ra đời của chế đô l tư hữu
và sau đó là giai cấp đã làm cho hình thức “dân chủ nguyên thủy” tan rã, nền dân chủ chủ
nô ra đời. Nền dân chủ chủ nô được tổ chức thành nhà nước với đặc trưng là dân tham
gia bầu ra Nhà nước. Tuy nhiên, “Dân là ai?”, theo quy định của giai cấp cầm quyền chỉ
gồm giai cấp chủ nô và phần nào thuô lc về các công dân tự do (tăng lữ, thương gia và mô lt
số trí thức). Đa số còn lại không phải là “dân” mà là “nô lê l”. Họ không được tham gia
vào công viê lc nhà nước. Như vâ ly, về thực chất, dân chủ chủ nô cũng chỉ thực hiê ln dân
chủ cho thiểu số, quyền lực của dân đã bó hẹp nhrm duy trì, bảo vê l, thực hiê ln lợi ích của “dân” mà thôi.
1.3.3. Nền dân chủ tư sản
Cùng với sự tan rã của chế đô l chiếm hữu nô lê l
, lịch sử xã hô li loài người bước vào
thời kỳ đen tối với sự thống trị của nhà nước chuyên chế phong kiến, chế đô l dân chủ chủ
nô đã bị xóa bỏ và thay vào đó là chế đô l đô l
c tài chuyên chế phong kiến. Sự thống trị của
giai cấp trong thời kỳ này được khoác lên chiếc áo thần bí của thế lực siêu nhiên. Họ xem
viê lc tuân theo ý chí của giai cấp thống trị là bổn phâ ln của mình trước sức mạnh của đấng
tối cao. Do đó, ý thức về dân chủ và đấu tranh để thực hiê ln quyền làm chủ của người dân
đã không có bước tiến đáng kể nào.
Cuối thế kỷ XIV – đầu XV, giai cấp tư sản với những tư tưởng tiến bô l về tự do,
công brng, dân chủ đã mở đường cho sự ra đời của nền dân chủ tư sản. Chủ nghĩa Mác –
Lênin chỉ rõ: Dân chủ tư sản ra đời là mô lt bước tiến lớn của nhân loại với những giá trị
nổi bâ lt về quyền tự do, bình đẳng, dân chủ. Tuy nhiên, do được xây dựng trên nền tảng
kinh tế là chế đô l tư hữu về tư liê l
u sản xuất, nên trên thực tế, nền dân chủ tư sản vẫn là
nền dân chủ của thiểu số những người nắm giữ tư liê lu sản xuất đối với đại đa số nhân dân lao đô lng.
1.3.4. Nền dân chủ XHCN 12
Khi cách mạng xã hô li chủ nghĩa Tháng Mười Nga thắng lợi (1917), mô lt thời đại
mới mở ra – thời đại quá đô l từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hô l i, nhân dân lao đô lng
ở nhiều quốc gia giành được quyền làm chủ nhà nước, làm chủ xã hô li, thiết lâ lp Nhà nước
công – nông (nhà nước xã hô li chủ nghĩa), thiết lâ lp nền dân chủ vô sản (dân chủ xã hội
chủ nghĩa) để thực hiê ln quyền lực của đại đa số nhân dân. Đặc trưng cơ bản của nền dân
chủ xã hô li chủ nghĩa là thực hiê ln quyền lực của nhân dân – tức là xây dựng nhà nước dân
chủ thực sự, dân làm chủ nhà nước và xã hô li, bảo vê l quyền lợi cho đại đa số nhân dân.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa được xác lập ở các nước đã hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ và bắt đầu tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đặc trưng của dân chủ xã hội chủ
nghĩa là quyền dân chủ của công dân không ngừng được được mở rộng trong tất cả các
lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, xã hội thông qua hệ thống cơ quan nhà nước và các tổ
chức chính trị, chính trị - xã hội và tổ chức xã hội với sự tham gia tích cực vào hoạt động
chính trị hàng ngày của đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Mục tiêu của dân chủ
xã hội chủ nghĩa là xoá bỏ chế độ người bóc lột người, tạo ra ngày càng nhiều hơn các
điều kiện thuận lợi để thực hiện triệt để công brng xã hội, dân chủ, văn minh, công lí cho
mọi người, bình đẳng thực sự giữa nam và nữ, giữa các dân tộc, tạo cơ hội cho mọi người
dân hạnh phúc thông qua việc thừa nhận và khẳng định các quyền dân chủ đó một cách
chính thức trong hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật, đặt ra các bảo đảm vật
chất và tinh thần để thực hiện các quyền đó và không ngừng mở rộng các quyền dân chủ;
đề cao trách nhiệm cá nhân đối với Nhà nước và xã hội, phát huy không ngừng quyền
làm chủ của nhân dân lao động. 13
CHƯƠNG 2: DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 2.1.
Quá trình ra đời và phát triển của dân chủ xã hội chủ nghĩa
2.1.1. Quá trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn quá trình hình thành và phát triển các nền dân chủ
trong lịch sử và trực tiếp nhất là nền dân chủ tư sản, các nhà sáng lâ lp chủ nghĩa Mác -
Lênin cho rrng, đấu tranh cho dân chủ là mô lt quá trình lâu dài, phức tạp và giá trị của
nền dân chủ tư sản chưa phải là hoàn thiê ln nhất, do đó, tất yếu xuất hiê ln mô lt nền dân chủ
mới, cao hơn nền dân chủ tư sản và đó chính là nền dân chủ vô sản hay còn gọi là nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ xã hô li chủ nghĩa đã được phôi thai từ thực tiễn đấu tranh giai cấp ở Pháp
và Công xã Pari năm 1871, tuy nhiên, chỉ đến khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành
công với sự ra đời của nhà nước xã hô li chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới (1917), nền dân
chủ xã hô li chủ nghĩa mới chính thức được xác lâ lp. Sự ra đời của nền dân chủ xã hô li chủ
nghĩa đánh dấu bước phát triển mới về chất của dân chủ. Quá trình phát triển của nền dân
chủ xã hô li chủ nghĩa bắt đầu từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiê ln đến hoàn thiê ln. Trong
đó, có sự kế thừa những giá trị của nền dân chủ trước đó, đồng thời bổ sung và làm sâu
sắc thêm những giá trị của nền dân chủ mới.
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin: Giai cấp vô sản không thể hoàn thành cuô lc cách
mạng xã hô li chủ nghĩa, nếu họ không được chuẩn bị để tiến tới cuô lc cách mạng đó thông
qua cuô lc đấu tranh cho dân chủ. Rrng, chủ nghĩa xã hô li không thể duy trì và thắng lợi,
nếu không thực hiê ln đầy đủ dân chủ.
Quá trình phát triển của nền dân chủ xã hô li chủ nghĩa là từ thấp tới cao, từ chưa
hoàn thiê ln đến hoàn thiê ln; có sự kế thừa mô lt cách chọn lọc giá trị của các nền dân chủ
trước đó, trước hết là nền dân chủ tư sản. Nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ xã hô li chủ
nghĩa là không ngừng mở rô lng dân chủ, nâng cao mức đô l giải phóng cho những người
lao đô lng, thu hút họ tham gia tự giác vào công viê lc quản lý nhà nước, quản lý xã hô li.
Càng hoàn thiê ln bao nhiêu, nền dân chủ xã hô li chủ nghĩa lại càng tự tiêu vong bấy nhiêu.
Thực chất của sự tiêu vong này theo V.I.Lênin, đó là tính chính trị của dân chủ sẽ mất đi
trên cơ sở không ngừng mở rô lng dân chủ đối với nhân dân, xác lâ lp địa vị chủ thể quyền
lực của nhân dân, tạo điều kiê ln để họ tham gia ngày càng đông đảo và ngày càng có ý
nghĩa quyết định vào sự quản lý nhà nước, quản lý xã hô li (xã hô li tự quản). Quá trình đó
làm cho dân chủ trở thành mô lt thói quen, mô lt tâ lp quán trong sinh hoạt xã hô li... để đến
lúc nó không còn tồn tại như mô lt thể chế nhà nước, mô lt chế đô l, tức là mất đi tính chính trị của nó.
Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác – Lênin cũng lưu ý đây là quá trình lâu dài, khi xã hô li
đã đạt trình đô l phát triển rất cao, xã hôi l không còn sự phân chia giai cấp, đó là xã hô li 14
cô lng sản chủ nghĩa đạt tới mức đô l hoàn thiê l
n, khi đó dân chủ xã hô li chủ nghĩa với tư
cách là mô lt chế đô l nhà nước cũng tiêu vong, không còn nữa.
Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ
cao hơn về chất so với nền dân chủ tư sản, là nền dân chủ mà ở đó, mọi quyền lực thuộc
về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ; dân chủ và pháp luật nằm trong sự thống nhất
biê 5n chứng; được thực hiê 5n bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự
lãnh đ9o của Đảng Cộng sản.
Cũng cần lưu ý rrng, cho đến nay, sự ra đời của nền dân chủ xã hô li chủ nghĩa mới
chỉ trong mô lt thời gian ngắn, ở mô lt số nước có xuất phát điểm về kinh tế, xã hô li rất thấp,
lại thường xuyên bị kẻ thù tấn công, gây chiến tranh, do vâ ly, mức đô l dân chủ đạt được ở
những nước này hiê ln nay còn nhiều hạn chế ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hô li.
Ngược lại, sự ra đời, phát triển của nền dân chủ tư sản có thời gian cả mấy trăm năm, lại
ở hầu hết các nước phát triển (do điều kiê ln khách quan, chủ quan). Hơn nữa, trong thời
gian qua, để tồn tại và thích nghi, chủ nghĩa tư bản đã có nhiều lần điều chỉnh về xã hô li,
trong đó quyền con người đã được quan tâm ở mô lt mức đô l nhất định (tuy nhiên, bản chất
của chủ nghĩa tư bản không thay đổi). Nền dân chủ tư sản có nhiều tiến bô l, song nó vẫn
bị hạn chế bởi bản chất của chủ nghĩa tư bản.
Để chế đô l dân chủ xã hôi l chủ nghĩa thực sự quyền lực thuô lc về nhân dân, ngoài
yếu tố giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua Đảng Cô lng sản (mặc dù là yếu tố quan
trọng nhất), đòi hỏi cần nhiều yếu tố như trình đô l dân trí, xã hô l
i công dân, viê lc tạo dựng
cơ chế pháp luâ lt đảm bảo quyền tự do cá nhân, quyền làm chủ nhà nước và quyền tham
gia vào các quyết sách của nhà nước, điều kiê ln vâ lt chất để thực thi dân chủ.
2.1.2. Quá trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Trong những thành tựu, trước hết phải nói đến sự phát triển và hoàn thiện quan
điểm của Đảng ta về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Năng lực nhận thức và thực
hành dân chủ của cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng được nâng cao. Chúng ta đã
tạo được những chuyển biến tích cực và tương đổi ổn định trong nhận thức, phương pháp
và phong cách làm việc, ứng xử của cán bộ đảng viên và nhân dân theo hướng dân chủ.
Yêu cầu và điều kiện thực hiện dân chủ của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội
ngày càng rộng lớn. Ý thức xã hội về vị thế, quyền hạn và trách nhiệm của cá nhân và
cộng đồng cũng như mối tương quan với các tổ chức, các thiết chế trong việc xây dựng
và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng sâu sắc. Các giá trị mới trong văn
hoá chính trị, văn hoá dân chủ, kỹ năng giao tiếp, ứng xử ngày càng cao. Dân chủ không
dừng lại ở quan điểm và định hướng mà còn trở thành phương pháp làm việc, phong cách
giao tiếp và thái độ ứng xử của cán bộ, đảng viên và công chức với nhân dân cũng như
của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên và công chức. 15
Các thể chế và cơ chế dân chủ ngày càng bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân, tính tích cực chính trị của công dân ngày tăng, không khí dân chủ ngày càng
lành mạnh và sự quan tâm và tham gia chính trị, tham gia quản lý nhà nước của nhân dân
ngày càng rộng rãi. Nhân dân ý thức rõ ràng và cụ thể hơn về quyền và trách nhiệm công
dân của mình trước pháp luật, thực hiện đầy đủ hơn quyền và trách nhiệm của mình trong
sản xuất và đời sống. Các quyền dân chủ của nhân dân - từ tự chủ, tự chịu trách nhiệm
trong sản xuất, kinh doanh đến trao đổi, phân phối và hưởng thụ kết quả lao động; từ tự
do làm ăn đến tự do ngôn luận ngày càng hiện thực hoá. Các quyền đề cử, ứng cử và lựa
chọn của nhân dân trong các cuộc bầu cử mỗi ngày một đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Nội dung và hình thức, phương pháp và công cụ thực hiện dân chủ ngày càng sâu
sắc và đa dạng. Về nội dung, quá trình thực hiện dân chủ ngày càng mở rộng và phát triển
đến về các lĩnh vực, các ngành, các cấp; cụ thể và chi tiết về tiêu chí và chuẩn mực. Về
hình thức, trong quá trình thực hiện dân chủ ngày càng tìm kiếm và khẳng định được
những quy tắc, quy định và quy trình mới cho dân chủ ở cả hình thức dân chủ gián tiếp và
dân chủ trực tiếp. Về tính chất, quá trình thực hiện dân chủ ngày càng toàn diện và triệt
để, thiết thực và hiệu quả. Cùng với việc hoàn thiện các hình thức dân chủ gián tiếp, nhất
là đổi mới và hoàn thiện tổ chức và hoạt động các cơ quan dân cử, là quá trình xúc tiến
mạnh mạnh mẽ các hình thức dân chủ trực tiếp, nhất là ở cơ sở.
Hệ thống các thể chế, cơ chế dân chủ hình thành và phát triển hơn, tạo nền tảng
pháp lý cho quá trình thực hiện dân chủ. Thực hiện dân chủ ngày càng trở thành quá trình
xác định và thực hiện các cơ chế và thể chế về các quyền và lợi ích của Nhà nước và của
nhân dân. Đời sống xã hội ngày càng được tổ chức và vận hành trên cơ sở các thể chế;
tính ổn định của hệ thống ngày càng cao; tính chủ quan, duy ý chí của các tổ chức và
người lãnh đạo, quản lý được giảm thiểu. Trong chủ trương và đường lối của Đảng, chính
sách và pháp luật của Nhà nước, nội dung và chương trình hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, vấn đề thể chế và xây dựng thể chế ngày càng được
chú trọng. Thể chế, cơ chế quy định tổ chức và hoạt động của Đảng, Nhà nước, các tổ
chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp ngày càng hiện hữu và phát huy
tác dụng. Thể chế, quy chế quy định quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức và cá
nhân trong các mối quan hệ chính trị và xã hội làm cho dân chủ ngày càng được xác định,
ngày càng được lượng hoá, ngày càng được trở nên hiện thực.
Với việc xây dựng các quy chế và pháp lệnh dân chủ cơ sở, dân chủ không còn
dừng lại ở những nguyên tắc chung, trừu tượng, mà được cụ thể hóa ở từng cấp, ngành,
địa phương và đơn vị. Dân chủ ngày càng thoát ra khỏi tính hình thức để trở nên thực
chất hơn. Dân chủ ngày càng thiết thực, thật sự và có kết quả rõ ràng. Dân chủ và nhất là
dân chủ ở cơ sở đang là chiếc chìa khoá vạn năng để giải quyết hết thảy mọi vần đề khó
khăn và bức xúc trong sản xuất và đời sống, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 16
Tính phức tạp của đời sống xã hội tăng lên đòi hỏi phải tiếp tục đa dạng hoá hơn
nữa các hình thức và cấp độ thực hiện dân chủ. Làm thế nào tạo ra những khả năng và
điều kiện để nhân dân ngày càng tham gia đầy đủ hơn, thực chất hơn vào quá trình quản
lý và phát triển đất nước là vấn đề lớn hiện nay. Trình độ dân trí thấp, hiểu biết pháp luật
ít, thiếu bình tĩnh trong xử lý các vụ việc tiêu cực lại bị kẻ xấu lợi dụng kích động dẫn
đến tình trạng vô chính phủ, coi thường kỷ cương phép nước ở một số địa phương, trong
quá trình đấu tranh cho cái tốt lại bị kẻ xấu lợi dụng. Nhiều hiện tượng quan liêu, tham
nhũng vẫn chưa được ngăn chặn và xử lý. Nạn hành chính, giấy tờ, quan liêu, nhũng
nhiễu vẫn còn. Không ít quyền dân chủ đương nhiên của công dân vẫn chưa được thực hiện đầy đủ.
Trong những năm đầu thời kỳ đổi mới, hiện tượng mất dân chủ thường xảy ra ở
một số lĩnh vực như huy động quá mức và sử dụng sai mục đích những khoản đóng góp
của nhân dân, lạm dụng công quỹ, chia bán đất đai trái pháp luật, v.v.. Còn hiện nay, hiện
tượng thiếu dân chủ lại diễn ra ở những lĩnh vực như xây dựng và thực hiện chính sách,
trao quyền và trách nhiệm giải trình, chống quan liêu và tham nhũng, quản lý đất đai và
đầu tư, quy hoạch và xây dựng cơ bản, đền bù và giải phóng mặt brng, quản lý và xử lý
các xung đột công nghiệp, quản lý và bảo vệ môi trường, quản lý và điều hành các các
doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước, v.v..
Thể chế, quy chế dân chủ còn chưa hoàn thiện và đồng bộ. Những quy định pháp
lý để nhân dân được quyền phúc quyết hiến pháp và những công việc liên quan đến vận
mệnh quốc gia thông qua trưng cầu dân ý, lựa chọn phương án phát triển và người lãnh
đạo thông qua tranh cử trong tổng tuyển cử như là một nội dung và yêu cầu cơ bản của
dân chủ, v.v. còn chưa hoàn thiện. Các thể chế, quy chế cho các hoạt động tự nguyện của
các cộng đồng, các tầng lớp nhân dân nhrm phát huy nguồn lực xã hội và phản biện xã
hội theo hướng xây dựng xã hội dân sự còn nghèo nàn và hạn chế. Do thiếu những thể
chế, cơ chế pháp lý cần thiết, nhiều cấp chính quyền vẫn còn lúng túng trong giải quyết
các tình huống phức tạp về kinh tế, chính trị và xã hội. Nhân dân vẫn thiếu những cơ sở
pháp lý để đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình,
để tự vệ dân sự. Sự bất cập của các thể chế, thiết chế pháp lý trong bước chuyển sang
kinh tế thị trường trở thành nguyên nhân của hiện tượng trật tự, kỷ cương bị vi phạm và mất dân chủ.
Những điều kiện và tiền đề cho dân chủ còn chưa vững chắc. Nền kinh tế nước ta
phát triển vẫn chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp; chuyển
dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn chậm; các cân đối vĩ mô chưa
vững chắc; chế độ phân phối chưa hợp lý và phân hoá xã hội tăng lên. Thu nhập bình
quân đầu người còn cách xa với các nước phát triển. Nền kinh tế thi trường, nền kinh tế
tri thức đang trong giai đoạn hình thành và chưa phát triển, nguy cơ rủi ro do cơ chế thị 17
trường tạo ra còn lớn, v.v. là những yếu tố cản trở và thách thức quá trình thực hiện dân
chủ. Nhiều nhóm dân cư ngày càng mất tư liệu sản xuất, phải làm thuê và có nguy cơ mất
đi quyền làm chủ trong thực tế của mình.
Sự phân hoá giàu nghèo, bất công brng xã hội gia tăng đang hạn chế và gây khó
khăn cho việc thực hiện dân chủ. Cùng với quá trình chuyển đổi cơ chế và cơ cấu kinh tế
là chuyển đổi cơ cấu xã hội, nhiều tầng lớp xã hội mới hình thành trong lúc các thể chế
nhà nước và pháp luật vẫn còn những bất cập trong việc xác định, bảo vệ và thực hiện
quyền làm chủ của họ. Những hạn chế và chậm trễ trong quá trình công khai hoá, minh
bạch hoá các lĩnh vực chính sách, hành chính, tài chính, quản trị và dịch vụ công, v.v.
cũng là những sức cản đối với quá trình thực hiện dân chủ. 2.2.
Sự ra đời, bản chất, chức năng của nhà nước XHCN
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kết quả của cuộc cách mạng do giai cấp vô sản và
nhân dân lao động tiến hành dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản. Đây là nhà nước của số
đông và nhân dân lao động sẽ làm chủ nhà nước này dân chùa đây là dân chủ thực chất,
người dân có quyền tham gia đóng góp xây dựng đất nước.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước mà ở đó, sự thống trị chính trị thuộc về giai cấp
công nhân, do cách mạng xã hội chủ nghĩa sinh ra và có sứ mệnh xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội, đưa nhân dân lao động lên địa vị làm chủ trên tất cả các mặt của đời
sống xã hội trong một xã hội phát triển cao - xã hội xã hội chủ nghĩa
Liên hệ Việt Nam: năm 1945 khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thì
ta đã nói ngay đến quyền dân chủ của người dân người dân được có quyền đi bỏ phiếu
bầu những người tham gia vào bộ máy nhà nước.
Về bản chất, nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của đại đa số nhân dân lao
động trong xã hội mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức. Bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua
các đặc trưng sau: Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là bộ máy chính trị – hành chính, một
bộ máy cưỡng chế, vừa là một tổ chức quản lý kinh tế – xã hội của nhân dân lao động, nó
không còn là nhà nước theo đúng nghĩa mà chỉ còn là “nửa nhà nước ”. Dân chủ là thuộc
tính của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa với bản chất là nhà nước
của đông đảo nhân dân lao động trong xã hội, nhà nước mở rộng dân chủ trên tất cả các
lĩnh vực đời sống xã hội, bao gồm các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, tự do dân chủ và tự do
cá nhân… Thông qua các quy định của pháp luật, nhà nước xã hội chủ nghĩa ngày càng
ghi nhận nhiều hơn các quyền con người thành quyền công dân, đồng thời xây dựng một
cơ chế hữu hiệu để nhân dân thực hiện các quyền dân chủ. Nhân dân là chủ thể tối cao
của quyền lực nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước dưới nhiều hình thức khác nhau.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa đang phát triển từng ngày, cải tạo xã hội cũ và xây
dựng xã hội mới là nhiệm vụ và là mục tiêu của một nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong đó 18
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng là một điều rất quan trọng trong suốt cả quá trình đó.
Căn cứ vào phạm vi tác động của quyền lực nhà nước, chức năng của nhà nước
được chia thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
Căn cứ vào lĩnh vực tác động của quyền lực nhà nước, chức năng của nhà nước xã
hội chủ nghĩa được chia thành chức năng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
Căn cứ vào tính chất của quyền lực nhà nước chức năng của nhà nước được chia
thành chức năng giai cấp (trấn áp) và chức năng xã hội (tổ chức và xây dựng). Trong giai
đoạn hiện nay ở Việt Nam, chức năng xã hội là chức năng quan trọng hơn do khi đã có
được nhà nước mới trong thời bình thì công việc xây dựng và tổ chức giải được đặt lên
hàng đầu của nhà nước, của bất cứ nhà nước nào. Tuy nhiên, với nhà nước xã hội chủ
nghĩa, tổ chức và xây dựng còn có ý nghĩa phải tổ chức và xây dựng để đặt lợi ích cho số
đông nhân dân lao động. Định hướng tới của nhà nước xã hội chủ nghĩa là một xã hội
không còn phân chia giai cấp nhưng nếu không có giai cấp thì sẽ không có nhà nước bởi
nhà nước là công cụ của giai cấp thống trị trong xã hội. Nhưng trong nhà nước xã hội chủ
nghĩa đây không phải là nhà nước của giai cấp thống trị mà là của giai cấp cầm quyền,
giai cấp lãnh đạo xã hội bởi vì giai cấp công nhân không là người thống trị mà họ là
người làm chủ, những người được thực hiện quyền làm chủ của mình. Vậy nên, trong xã
hội chủ nghĩa vẫn còn chức năng trấn áp nhưng chức năng trấn áp này được dùng cho tội
phạm, các thế lực, khánh, phản động, đối với các thế lực thù địch, chống phá và thực hiện
trấn áp trong đời sống: tội phạm, dùng Pháp luật để quản lý hành vi của con người. 19
CHƯƠNG 3: DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM 3.1.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ của toàn thể nhân dân, gắn với quyền dân chủ
của nhân dân ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, được pháp luật bảo vệ dưới sự lãnh
đạo của Đảng; là hình thức thể hiện quyền tự do, bình đẳng của nhân dân, xác định nhân
dân là chủ thể quyền lực nhất. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của một chế độ, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Nhà nước luôn tôn trọng và bảo đảm
lợi ích toàn bộ các quyền của con người, quyền của công dân như quyền tự do cá nhân, tự
do báo chí, hội họp, tự do tín ngưỡng tôn giáo, quyền bất khả xâm phạm thân thể và quyền
nhà ở, quyền đi học… Dân chủ gắn liền với kỷ cương, kỷ luật, quyền và nghĩa vụ công dân
do Hiến pháp và pháp luật quy định. Nhà nước tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và
pháp luật, quản lý xã hội brng luật pháp, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Điều cốt
lõi của dân chủ xã hội chủ nghĩa là khẳng định quyền lực của nhân dân, là giải quyết
những mối quan hệ giữa quyền và lợi ích, quyền và nghĩa vụ, lợi ích và trách nhiệm. 3.2.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Nhà nước pháp quyền XHCN là thành tựu của nền văn minh nhân loại, cho thấy
trình độ phát triển cao về tổ chức, hoạt động nhà nước, về pháp luật và thực hiện pháp
luật. Xây dựng, phát triển hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
một trong những nhiệm vụ vô cùng quan trọng để có thể cụ thể hóa các mục tiêu phát
triển về kinh tế-xã hội trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, xu thế vận động
và phát triển của nhà nước, đồng thời phù hợp thực tiễn ở Việt Nam.
Khác với nhà nước pháp quyền tư sản, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đang từng bước xây dựng mang bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, mà theo
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đó là “ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm
và bảo vệ lợi ích của toàn thể nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước đảm bảo
các điều kiện để nhân dân làm chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính
với mọi hành động xâm hại lợi ích của nhân dân và Tổ Quốc”.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng Sản lãnh đạo
nhrm phát huy quyền làm chủ của nhân dân tạo ra cơ chế vận hành hệ thống chính trị xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Để cơ chế trên thực hiện có hiệu quả luôn luôn đòi hỏi Nhà nước
phải phát huy tốt vai trò của các chủ thể trong hệ thống, đặc biệt là vai trò của nhân dân.
Cho nên, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải thật sự là nhà nước của
dân chủ, như Tổng Bí thư đã chỉ rõ, “Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, 20