lOMoARcPSD| 60857655
NGHỆ THUẬT DIỄN XƯỚNG
Câu 1 (03 điểm): Anh, (chị) hãy phân tích làm rõ quan niệm Nghệ thuật diễn xướng dân
gian?
Diễn xướng dân gian là tổng hợp những biểu hiện cơ bản nhất của đời sống thẩm mĩ dân gian, nói
cách khác, là biểu hiện ra bên ngoài của đời sống thẩm mĩ đó
Về mặt cấu trúc diễn xướng dân gian gồm những bộ phận sau:
Hát, nói (tứcxướng), đây bộ phận biểu hiện lời ca tiếng hát thành những làn điệu, cách nói xét
về mặt biểu hiện của âm thanh và giai điệu
Trình diễn (phần diễn) tức cung cách thể hiện bằng những điệu úa, những chỉ, phong cách, cấu trúc
không gian biểu diễn… kết hợp với phần xướng, phần này giúp cho những giá trị chứa đựng trong
lời được biểu hiện ra, tạo nên hiệu quả thẩm mĩ.
Phần âm nhạc: bộ phận này tuy được tách hẳn ra nhưng lại có giá trị phối hợp, như 1 mối liên kết
và hỗ trợ, làm tăng thêm hiệu quả của toàn bộ quá trình diễn xướng
Diễn xướng dân gian những hình thức sinh hoạt văn hóa nghệ thuật gắn liền với mọi mặt
đời sống người dân, được người dân sáng tạo, gìn giữ và trình diễn thông qua các phương
tiện biểu hiện khác nhau. Diễn xướng dân gian thể hiện tâm tư, tình cảm, nguyện vọng,
thỏa mãn nhu cầu đa dạng cuar đời sống, phản ánh nhận thức về nhân sinh quan và thế giới
quan của người dan VN từ xưa tới nay.
Câu 2 (03 điểm): Anh (chị) hãy phân tích các đặc trưng bản của Nghệ thuật diễn xướng
dân gian Việt Nam?
- Tính nguyên hợp:
Đây là một trong những đặc trưng cơ bản nhất của nghệ thuật diễn xướng dân gian. Nguyên
hợp “sự dính liền nhau ngay từ ban đầu của các loại hình khác nhau trong sáng tạo văn hóa. Hoặc
nói 1 cách dễ hiểu hơn: sự hòa lẫn, trộn lẫn với nhau 1 cách tự nhiên vốn của nhiều yếu tố
khác nhau ở những dạng yếu tố này chưa từng bị phân hóa.
Tính nguyên hợp sự gắn hữu những giá trị thẩm mĩ, trí tuệ, trình diễn… của nhiều
thành tố, là sự kết hợp hài hòa thống nhất tính cách hồn nhiên và tính cách nâng cao sáng tạo trong
diễn xướng dân gian. Mỗi loại hình diễn xướng dân gian bao giờ cũng được tiếp nhận, cảm thụ và
biến hóa bằng tất cả các giác quan cùng 1 lúc.
Tính nguyên hợp nguồn gốc từ đặc điểm hình thành của nghệ thuật nguyên thủy. gọi
tính nguyên hợp vì nhận thức thẩm mỹ nguyên hợp có từ thời nguyên thủy và tồn tại qua các thời
kỳ lịch sử. Nguyên hợp hiện tượng tự nhiên vốn của văn hóa dân gian nói chung nghệ thuật
dân gian nói riêng.
Về nội dung, diễn xướng dân gian phản ánh nhiều phương diện khác nhau trong đời sống vật
chất tinh thần hội, cùng 1 lúc tổng kết các tri thức của nhân dân thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhua trong dạng thức còn chưa phân chia tách bạch
Về hình thức, diễn xướng sử dụng rất nhiều phương tiện như ngôn ngữ, âm nhạc, điệu,
động tác, hóa trang…tính nguyên hợp chi phối tất cả cac thành phần nghệ thuật, các yếu tố, chất
liệu tạo nên bản thân nó như ngôn từ, nhạc, vũ, động tác, nghệ thuật tạo hình - Tính tập thể
lOMoARcPSD| 60857655
Diễn xướng dân gian sản phẩm sáng tạo của nhiều người thuộc nhiều thế hệ qua những
thời gian và không gian khác nhau.
Về nội dung, diễn xướng dân gian phản ánh được nhiều nét sinh hoạt, tình cảm, nguyện vọng
và ước mơ, cách nhìn nhận về cuộc đời và con người của đông đảo quần chúng nhân dân lao động
Về hình thức, loại hình, tác phẩm diễn xướng phải kết tinh được thị hiếu thẩm , tài năng
sáng tạo của quần chúng nhân dân. Tính tập thcủa diễn xướng dân gian thể hiện trong 2 quá trình,
đó là quá trình sáng tạo và quá trình tiếp nhận. Sự sáng tạo tập thể diễn ra lần lượt theo 3 bước
B1: sáng tạo của cá thể
B2: xã hội hóa sáng tạo cá thể
B3: sáng taọ của xh trên cơ sở bản gốc của tác phẩm
Tính tập thể trong nghệ thuật dân gian còn được hiểu ở phương diện thẩm mỹ. Đối tượng của
những sáng tác nghệ thuật dân gian toàn bộ những liên quan đến cộng đồng tập thể. Nhờ
tính tập thể nên tác phẩm văn hóa dân gian đã đặt được những đỉnh cao nghệ thuật nghệ thuật
bác học khó có thể vượt qua.
Tóm lại tính tập thể của nghệ thuật diễn xướng dân gian biểu hiện trong quá trình sáng tác,
biểu diễn và lưu truyền tác phẩm, trong nội dung và hình thức sáng tác, biểu diễn. tính tập thể còn
biểu quyết sự ra đời và tồn tại của các phẩm và hình thức, cách thức biểu diễn.
- Tính truyền miệng
Truyền miệng, tức là không phải dưới hình thức chữ viết. sáng tác dân gian đi từ người này
sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tính truyền miệng đặc trưng cơ bản của diễn ớng dân gian, khác với tính cố định của
nghệ thuật bác học. truyền miệng chính môi trường diễn xướng của sáng tác nghệ thuật dân gian.
Tác phẩm văn hóa dân gian một thể sống, gắn với mô trường diễn xướng. truyền miệng khi
tách rời khỏi môi trường diễn xướng thì sẽ không còn là truyền miệng nữa
Truyền miệng chính là hình thức bảo lưu lan tỏa của nghệ thuật diễn xướng dân gian. Truyền
miệng gắn với việc ghi nhận tác phẩm bằng trí nhớ, ghi nhận sự hào hứng của tập thể, quá trình ghi
nhận lại được chuyển hóa thành quá trình diễn xướng
- Tính bản địa và vùng miền
Trong văn hóa dân gian, tính địa phương (bản địa) sở để phân vùng xác định ranh
giới giữa các vùng văn hóa dân gian mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Đất nước ta rất đa dạng về địa lý,
thành phâng dân tộc, điều kiện tự nhiên, ngôn ngữ vì vậy nghệ thuật diễn xướng dân gian cũng
sự đa sắc, sinh động, muôn hình muôn vẻ. Nó vừa mang vẻ độc đáo riêng biệt từng bản địa nhưng
lại tạo nên sự thống nhất hài hòa trong bức tranh tổng thể của văn hóa dân gian.
Tuy mỗi địa phương, mỗi vùng miền đều tín ngưỡng, phong tục, tập quán mang sắc thái
khác nhau sự giao tiếp biến đổi qua từng thời kỳ, nhưng cái dấn ấn để tạo nên bản sắc văn
hóa từ diễn xướng dân gian đến sự định hình 1 loại hình, loại thể văn hóa nghệ thuật phải bắt nguồn
từ một cơ sở triết học, mỹ học của chính dân tộc.
Hoàn cảnh lịch scủa mỗi vùng cũng chi phối đến tính bản địa, vùng miền của nghệ thuật
diễn xướng dân gian. Chẳng hạn, bắc bộ là vùng đất cổ, vùng đất cội nguồn, cho nên đây là vùng
đã sản sinh ra nhiều di sản dân ca nghi lễ rất lâu đời như Hát Xoan, Hát Chèo Tàu, Hát Dô, Hát
Quan họ, Hát Chầu Văn… còn Nam Bộ, đây là vùng đất khai phá, vùng đất mới, cho nên vùng này
không còn sản sinh ra dân ca nghi lễ, hát thờ nữa, thay vào đó, dân ca Nam Bộ là sự kế thừa, tiếp
nối dân ca của người Việt ở phía ngoài, đặc biệt là dân ca Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ, với các
thể loại Hò, Lý, Hát ru.
lOMoARcPSD| 60857655
Đặc trung về giọng nói, hoặc phương ngữ của mỗi vùng vùng chi phối nhiều tới tính địa
phương của nghệ thuật diễn xướng dân gian.
- Tính phi lợi nhuận
Tính phi lợi nhuận đặc trưng ban đầu sau đó nó được biến đổi dần theo quá trình phát triển.
vốn sinh ra không phải để làm ra tiền hay làm kinh tế, sinh ra để phục vụ cho việc giải trí,
phục vụ cho các hoạt động giao lưu, sinh hoạt, đời sống. Nhưng rồi nó bắt đầu được nâng tầm, bắt
đầu tách ra khỏi đời sống bứt lên thành các loại hình nghệ thuật, lúc đó không chỉ đem lại
giá trị tinh thần mà đem lại cả giá trị kinh tế. Dân ca ngày xưa được các bà, các mẹ dùng để hát ru
con, còn ca sĩ dân ca ngày nay hát có thể kiếm ra tiền, phim ảnh lấy hình ảnh dân gian, nghệ thuật
dân gian cũng làm ra tiền. Nó đi từ con đường phi lợi nhuận trở thành giá trị lợi nhuận sau này, đó
điều tất yếu trong quá trình phát triển. Diễn xướng dân gian bản không trực tiếp sinh ra lợi
nhuận kinh tế đem lại giá trị tinh thần, chính giá trị tinh thần đó thúc đẩy nhu cầu của người
dân cũng như du khách từ đó tạo nên giá trị kinh tế.
Nghệ thuật diễn xướng dân gian không chỉ dừng lại những loại hình nghệ thuật trình diễn
đem lại giá trị thuần túy như trước, trở thành nguồn tài nguyên đầy tiềm năng đem lại giá trị
kinh tế lớn cho ngành du lịch. đậm đà tính lịch sử, đại diện cho văn hóa mang tính vùng
miền, diện mạo của nghệ thuật - văn hóa quốc gia; của cha ông ta; của dân tộc ta, ảnh
hưởng đến duy cũng nphong cách sống của chúng ta cho đến tận bây giờ - những hình ảnh
như: Mẫu Tam Phủ, Mẫu Tứ Phủ, Quan Âm Thị nh, đặc biệt vùng dân gian bắc bộ hình ảnh
những người nông dân tần tảo mưu sinh đều bóng dáng trong nghệ thuật diễn xướng dân gian
(Show tinh hoa Bắc Bộ), hay từ các khúc gỗ, tảng đá đơn sơ qua bàn tay nghệ nhân được gửi gắm
hình tượng dân gian trở thành 1 c phẩm nghệ thuật giá trị. Sau cùng cho nghệ thuật diễn
xướng dân gian phát triển cả về quy hình thức thì vẫn mang 1 mục đích phục vụ cho đời
sống tinh thần của đông đảo người dân.
Tính phi lợi nhuận của nghệ thuật diễn xướng dân gian thể hiện ở việc đặt lợi ích cộng đồng
lên hàng đầu, bảo tồn phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Đây một phần quan trọng
làm nên sức sống và sự bền vững của loại hình nghệ thuật này.
Câu 3 (03 điểm): Anh (chị) hãy kể tên các vùng dân ca Việt Nam trình bày đặc điểm của
một trong các vùng dân ca đó?
Có 7 vùng dân ca đó là: dân ca miền núi phía Bắc, vùng dân ca đồng bằng; trung du bắc bộ và cực
bắc trung bộ, vùng dân ca đồng bằng và ven biển bắc trung bộ, vùng dân ca đồng bằng và ven biển
nam trung bộ, vùng dân ca đồng bằng Nam bộ, vùng dân ca trường sơn – tây nguyên.
- Dân ca đồng bằng Nam bộ
sự kế thừa dân ca việt phía bắc, đặc biệt dân ca miền trung. Nói tới dân ca Việt vùng
này là phải nói tới hò và lý. Hò nam bộ cũng đa dạng về mặt chủng loại như hò miền trung nhưng
sự đa dạng ấy còn được đẩy thêm 1 bước nữa với sự hình thành những điệu mang phong cách
riêng của từng địa phương. Âm nhạc của những điệu hò, lý cùng như lời ca đã phản ánh sinh động
tâm hồn con người sống trong vùng đất thiên nhiên đã dành cho những ưu đãi. Ngoài ra, dân
ca nam bộ cũng phát triển mạnh hai thể loại hát ru và nói thơ. Bên cạnh sự chiến ưu thế của dân ca
việt, cũng cần phải kể đến dân ca của dân tộc Khmer nam bộ. kho tàng dân ca khmer nam bộ cũng
rất phong phú đặc sắc, ngoài hát đồng dao, hát ru còn những bài hát lao động, hát huê nh,
đặc biệt có nhungtwx bài hát đi kèm với múa, hát trong đám cưới.
lOMoARcPSD| 60857655
Câu 4 (03 điểm): Anh (chị) hãy cho biết thế nào là Âm nhạc dân gian và phân tích những đặc
trưng cơ bản của âm nhạc dân gian Việt Nam?
Âm nhạc dân gian được hiểu theo 2 nghĩa
Nghĩa rộng, âm nhạc dân gian các thể loại ca nhạc tồn tại tính chất thường trực trong
môi trường sinh hoạt dân gian. Trong âm nhạc dân gian theo nghĩa rộng cả những yếu tố, thể
loại mang tính chất dân gian và những yếu tố thể loại mang tính chất bác học do sự đóng góp của
giới trí thức bình dân hoặc có nguồn gốc từ dòng cung đình
Theo nghĩa hẹp. âm nhạc dân gian là những thể loại ca nhạc được sáng tạo và biểu diễn chủ
yếu bằng cảm xúc và kinh nghiệm, mặc dầu 1 số loại cũng đã có những nguyên tắc cho việc thực
hành biểu diễn nhưng vẫn chưa hình thành hệ thống luận chi phối mọi hoạt động sáng tác
biểu diễn.
Đặc trưng cơ bản
Âm nhạc dân gian trong quá trình hình thành và phát triển có sự gắn mật thiết với âm nhạc
cung đình, bác học. thể nói âm nhạc dân gian và âm nhạc cung đình, bác học cùng song song
tồn tại tác động lẫn nhau theo cả 2 chiều. Do đó ngày nay, bên cạnh những thể loại thuần túy
dân gian hoặc cung đình, bác học, trong âm nhạc truyền thống của chúng ta còn có những thể loại
pha trộn những yếu tố dân gian cung đình, bác học, đó những thành phần tgrung gian nằm
giữa âm nhạc dân gian và âm nhạc cung đình, bác học.
Ngoài tính chất pha trộn với âm nhạc cung đình, bác học, âm nhạc dân gian còn sự khác
bieeyj rõ nét với âm nhạc phương tây như: nghệ thuật hình, cấu trúc, thang âm, nhịp điệu, ngẫu
hứng, kỹ thuật diễn tấu, giai điệu gắn chặt chẽ với ngữ âm, ngữ điệu, ngữ khí, làn điệu không
phân biệt thức trưởng và thứ mà theo điệu Bắc, điệu Nam, triết lý âm nhạc gắn bó chặt chẽ với
thuyết ân dương ngũ hành…
Câu 5 (03 điểm): Anh (chị) hãy cho biết thế o múa dân gian phân tích các đặc điểm
cơ bản của nghệ thuật múa dân gian Việt Nam?
Múa dân gian là hình thái múa do quần chúng nhân dân sáng tạo được lưu truyền từ đời này
sang đời khác. Múa dân gian được sử dụng rộng rãi trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng. tiêu
biểu cho bản sắc văn hóa của từng cộng đồng và là cơ sở để phát triển các hình thái múa khác.
Múa dân gian thường gắn liền với phong tục, tập quán, lễ nghi tín ngưỡng. trong đời sống
văn hóa tâm linh của quần chúng nhân dân, có 1 loại múa được sản sinh và nuôi dưỡng trong môi
trường sinh hoạt văn a tâm linh, đó là múa tín ngưỡng.. loại múa này phổ biến nhiều tộc người.
ví dụ, ở người V có múa tín ngưỡng hầu bóng, còn gọi là múa lên đồng. loại múa này tồn tại, phát
triển trong quá trình hình thành tục thờ Mãu đạo Mẫu Việt Nam. Nét độc đáo của múa hầu
bóng đó là (theo quan niệm dân gian) phần xác (ông đồng, bà đồng) là con người, còn phần hồn là
của thánh thần. Điều này nói lên sức tưởng tượng của con người rất lớn.
Múa dân gian giàu tính hiện thực. Múa dân gian phỏng hiện thực nên mặc đã được
cách điệu hóa vẫn mang tới người xem những thông điệp sát thực. Điều này được thể hiện cả hai
chiều. chiều thứ nhất tự thận điệu múa được “tác giả dân gian” ghi nhận trong thực tế, từ đó sáng
tạo nên. Chiều thứ 2 người thể hiện cũng hết sức cố gắng bắt chước hiện thực cộng với yếu tố
sáng tạo nhân trong qtrình thể hiện. Thông qua hình ảnh múa dân gian thể cho chúng ta
lOMoARcPSD| 60857655
những thông tin về lịch sử, về địa lý, về môi trường sinh thái. lẽ bắt nguồn từ đặc điểm địa
VN nhiều sông ngòi động tác múa “chèo thuyền” trở nên rất phổ biến trong múa dân gian
của các dân tộc từ bắc vào nam.
Múa dân gian thường kết hợp với đạo cụ. Để các điệu múa thăng hoa, không thể không kể
đến sự góp mặt của đa dạng đạo cụ. Đạo cụ có thể là vật dụng trong đời sống ính hoạt hàng ngày
được sáng tạo thêm phần phong phú, mang tính nghệ thuật. Đạo cụ có khi là nhạc cụ, vừa mang
âm điệu, vừa góp phần để tiết mục cuốn hút người xem.
Múa dân gian sản phẩm của tập thể sáng tạo có cấu trúc mở. Do luôn luôn tồn tại và phát
triển qua nhiều thế hệ, múa dân gian thường không có 1 cấu trúc ổn định, hay nói cách khác, đó là
cấu trúc mở. Do cấu trúc mở, múa dân gian không ngừng được bồi đắp và bổ sung những sáng tạo
mới của các thế hệ tiếp theo với mục đích nhằm thỏa mãn nhu cầu văn hóa của cộng đồng, khu
vực, quốc gia. Những bồi đắp mới, bổ sung mới được dân chúng chấp nhận, lưu giữ và sử dụng sẽ
trở thành di sản của văn hóa dân tộc, đồng thời là cơ sở, nền tảng cho những sáng tạo bổ sung của
thế hệ tiếp theo. Trong tiến trình lịch sử, qua nhiều thế hệ, được bồi đắp, bổ sung cho phù hợp
và ngày càng hoàn chỉnh hơn.
Múa dân gian nền tảng để nghệ thuật múa hiện đại của dân tộc kế thừaphát triển. Nền
nghệ thuật múa VN hôm nay được bắt nguồn kế thừa từ nền nghthuật múa truyền thống của
mỗi dân tộc trên đất nước. Trên cái gọi là cội nguồn đó, mỗi thế hệ đã góp phần sáng tạo của mình
để gìn giữ và làm giàu hơn bản sắc tâm hồn dân tộc bằng cách phát huy những giá trị vốn có, bên
cạnh đó vẫn cần sáng tạo những yếu tố mới. Kế thừa khồn đơn thuần sự khai thác sử dụng
tinh hoa của múa dân tộc còn phải biết phát huy, bổ sung những thiếu hụt của nó. Muốn xây
dựng nền nghệ thuật múa chuyên nghiệp, phát triển, đậm đà bản sắc dân tộc trước hết phải kế thừa
triệt để những giá trị của múa dân gian. Bên cạnh đó muốn đổi mới, thì phải nghiên cứu, xác định
và hiểu đâu là giá trị đích thực cần phải kế thừa. Nói cách khác, cần phải tìm ra hằng số giá trị của
múa dân gian.
Câu 6 (03 điểm): Anh (chị) hãy giới thiệu ngắn gọn về một loại hình diễn xướng dân gian tiêu
biểu của quê hương hoặc địa phương nơi mình đang sinh sống?
Mỗi một con rối nước không chỉ là tác phẩm nghệ thuật về mặt tạo hình mà còn là sản
phẩm kỹ thuật tinh tế của nghệ nhân.
Thôn Bồ Dương (xã Hồng Phong, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương) nằm giữa vùng đồng
bằng trù phú, rất đặc trưng cho nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, và cũng là nơi nuôi dưỡng loại hình
nghệ thuật dân gian đặc trưng của nền văn minh lúa nước: nghệ thuật múa rối nước.
Điểm đặc sắc hấp dẫn của Phường rối nước Hồng Phong, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải
Dương, nằm cách điều khiển con rối, sao cho con rối những cử động phức tạp, sinh động, xuất
hiện bất ngờ tại các vị trí, tạo sự ngỡ ngàng, thích thú cho khán giả. Thông qua nhiều nhân vật rối
nước như tiên nữ, tễu giáo đầu, tễu vuốt râu rồng, tễu leo cột… được chạm khắc trên đình làng Bồ
Dương có thể xác định nghệ thuật rối nước nơi đây có từ thế kỷ 17.
Trải qua những biến cố lịch sử, rối nước Hồng Phong qua nhiều bước thăng trầm. Trong hai
cuộc kháng chiến, nghệ thuật múa rối nước Hồng Phong ngừng hoạt động, tưởng chừng không thể
khôi phục. Năm 1989, một số người dân yêu nghệ thuật múa rối nước làng Bồ Dương, tâm huyết
lOMoARcPSD| 60857655
với nét văn hóa xưa đã cùng chung tay khôi phục lại. Mọi người đã bỏ tiền của, công sức chế tác
con rối, biên đạo các tích trò, dựng lại thủy đình.
Sau nhiều tháng ngày lao động miệt mài, nghệ thuật múa rối nước Bồ Dương đã hoạt động
trở lại. Tháng 9/1992, Ủy ban nhân dân huyện Ninh Thanh (nay là Ninh Giang) ra quyết định thành
lập Phường nghệ thuật múa rối nước Hồng Phong.
Những ngày khôi phục lại phường rối nước, tuy vất vả nhưng ai cũng hứng khởi. Người thì
sáng tạo, khôi phục, biên đạo các tích trò, người có nghề mộc thì tạo hình và thổi hồn vào các con
rối, người thì nghiên cứu thiết kế hệ thống dây, ròng rọc điều khiển rối…, tất cả đều xuất phát từ
tình yêu với văn hóa, nghệ thuật truyền thống của quê hương. Sau đó, cả phường tới 30 người
tổ chức đi lưu diễn khắp nơi trong huyện và các địa phương lân cận, mang niềm vui cho mọi người.
Trong nghệ thuật múa rối nước, âm nhạc là linh hồn của vở diễn. Do sân khấu biểu diễn là ở
ngoài trời, giữa ao, hồ cho nên rối nước cần âm thanh mạnh, để giữ tiết tấu khuấy động không
khí buổi diễn. Âm nhạc rối nước mang tính hội hè, tác động mạnh đến cngười diễn lẫn người
xem. Những làn điệu dân ca Đồng bằng Bắc Bộ được thể hiện qua giọng ca ngọt ngào, mộc mạc
và đằm thắm đã thổi hồn vào dàn rối nước tạo nên bức tranh làng quê sinh động, phản ánh không
khí sôi động của đời sống lao động, sản xuất, lễ hội… đậm đà bản sắc.
Phường múa rối nước Hồng Phong nhiều tích trò hấp dẫn trong dân gian như: múa tễu
giáo đầu, múa rồng, múa tiên, chọi trâu, câu ếch, cáo bắt vịt… Bên cạnh đó một số tích trò đương
đại như: đền ơn đáp nghĩa, bảo vệ an ninh, chống mất cắp cổ vật, tiếng trống phủ Hạ Hồng.
Đặc sắc hơn cả là các vở rối cổ, rối dây mà điển hình là tích trò “Thần Kim quy dâng lửa đốt
lá súy”, cầu phúc, cầu an cho dân làng, trong tích trò có pháo thăng thiên bay lên, đó là hiệu lệnh
bật cờ cho sân khấu rối nước...
Phường thường xuyên tổ chức biểu diễn các tiết mục tại địa phương và tổ chức lưu diễn phục
vụ khách du lịch trong nước và quốc tế. Sự độc đáo và hấp dẫn của múa rối nước Hồng Phong đã
thu hút rất nhiều đoàn khách Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Đức, Australia, Canada… về địa phương.
Nhiều công ty lữ hành ở các tỉnh, thành phố đã kết hợp đồng biểu diễn phục vụ khách quốc tế
với Phường rối nước Hồng Phong.
Huyện cũng đã xây dựng hồ đề nghị công nhận điểm du lịch nghệ thuật múa rối nước
Hồng Phong, nhằm phát huy giá trị nghệ thuật rối nước, quảng một loại hình văn hóa đặc sắc
của làng quê, góp phần nâng cao thu nhập cho các nghệ nhân xây dựng nông thôn mới khang
trang hiện đại, giàu bản sắc văn hóa.
Câu 7 (04 điểm): Anh (chị) hãy cho biết hát Chầu Văn thuộc thể loại âm nhạc gì? Hãy trình
bày các thành phần tham gia, các hình thức và đặc điểm nghệ thuật của hát Chầu Văn?
Hát văn, còn gọi là chầu văn, hát hầu đồng, hát bóng, là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền
của việt nam.
Các thành phần tham gia:
+ những người tham gia thực hành nghi lễ
lOMoARcPSD| 60857655
Ông (bà) đồng. những người tham gia đội ngũ ông (bà) đồng phần lớn hoàn cảnh éo le như bị
bệnh kết tóc, bị điên, bị rơi vào trạng thái ngây ngất, bị ốm, chữa lâu ngày không khỏi. Cũng
có người làm lễ hầu bóng để cầu mongv cuộc sống tốt đẹp, làm ăn suôn sẻ
Nếu ai căn cao, số nặng, ốm đau, bị chấm đồng thì phải làm lễ hầu trình đống sau buổi lễ, con
nhang chính thức trở thành đồng tân. Sau 3 năm kể từ lễ hầu trình đồng, đồng tân sẽ làm lễ hầu t
tứ phủ và trở thành đồng thuộc.
Khi có đồng được nhiều năm, thành thạo lễ nghi hầu thánh được gọi là đồng cựu
+ cung văn
Những người đảm nhận phần âm nhạc trong tín ngưỡng thờ tứ phủ nói chung, nghi lễ hầu bóng nói
riêng gọi là cung văn
Hát văn thường do 2 cung văn đảm nhiệm: một người chơi đàn nguyệt, người còn lại đảm nhiệm
các nhạc cụ gõ, 2 người thay nhau hát.
Các hình thức hầu bóng:
- Hầu chứng gồm: hầu tiễn căn, hầu trình đồng
- Hầu độc lập gồm: hầu tứ quý, hầu tiệc Đặc điểm
- Ca từ: thường được lưu truyền bằng hình thức truyền miệng, một số bản được chép lại bằng
hán – nôm hoặc chữ quốc ngữ. hát chầu văn là 1 lối hát ca ngợi vẻ đẹp của các vị thánh trong đạo
mẫu tứ phủ. Nhìn chung, phần lớn các giá văn đều nói chung chung về công việc của chư vị ở cõi
siêu nhiên với những phép thuật người trần phải sợ oai kính phục. Các thể thơ chủ yếu
thơ lục bát và song thất lục bát
- Âm nhạc: Sự hình thành, lưu truyền, bổ sung, giao thoa, biến hóa của các dạng thức nghệ
thuật dân gian của dân tộc nói chung, trong đó có nghệ thuật hát Chầu văncả quá trình lâu dài,
phức tạp. Về âm nhạc, đến nay nghệ thuật hát Chầu văn đã trải qua nhiều sự biến đổi, thêm bớt về
tiết tấu, điệu thức. Trong âm nhạc, hát Chầu văn ở miền Bắc có những làn điệu quen thuộc của hát
Chèo, Ca trù, hát Xẩm xoan... Ngày nay, nhiều trường hợp người ta sử dụng những chất liệu âm
nhạc đặc trưng Chầu văn để cấu trúc thành những tổ khúc mới.
- Cách hát: Tên gọi Hát văn cũng cho thấy tầm quan trọng của nhạc hát. Hát văn chủ yếu do
cung văn nam giới đảm nhiệm. Trong buổi hầu bóng, nếu hai cung văn thì người chơi đàn
nguyệt thường đảm nhiệm vai trò hát chính, người đánh nhịp với vai trò hát phụ. Hai cung văn có
thể luân phiên nhau hát hoặc người xướng, người (trong làn điệu Chèo đò, tam thất), hoặc
đồng ca (trong làn điệu Dọc, Cờn luyện v.v.). Đồng ca, ngoài việc tăng âm lượng, thêm phần nhộn
nhịp còn thể hiện sự tập luyện công phu của những cung văn đã đi hát với nhau qua nhiều năm.
- Hệ thống bài bản, làn điệu Nếu trong Hát văn thờ, bài bản được gọi bản văn sự tích, thì
trong Hát văn hầu, bài bản được gọi là bản văn chầu nhằm phục vụ cho một giá đồng. Nếu tính về
thời lượng thì bản văn sự tích dài hơn bản văn chầu, còn tính về số ợng thì bản văn chầu nhiều
hơn bản văn sự tích. Để khắc hoạ chân dung, tính cách, công lao của các vị Thánh, Hát văn hầu đã
vận dụng một hệ thống làn điệu phong phú. Hệ thống làn điệu của Hát văn lên tới gần 40 làn điệu.
Chúng được chia thành bốn nhóm làn điệu chính, nền tảng của âm nhạc Hát văn hầu, đó là: nhóm
làn điệu Dọc, nhóm làn điệu Cờn, nhóm làn điệu Phú nhóm làn điệu Xá. Riêng số lượng làn
điệu của bốn nhóm này đã lên tới con số hơn 20. Ngoài ra, nhóm những làn điệu khác, những
làn điệu này góp phần làm phong phú, giàu có cho âm nhạc Hát văn hầu.
lOMoARcPSD| 60857655
- Kết cấu lời ca một thể loại hát thơ nên trong Hát văn hầu mối quan hệ khăng khít
giữa câu thơ câu nhạc, câu thơ ảnh hưởng không nhỏ tới hình thành câu nhạc cũng như kết
cấu lời ca. Đặc điểm kết cấu lời ca cũng là một trong những yếu tố giúp nhận diện làn điệu. Lời ca
trong Hát văn hầu được kết cấu theo trổ hát, giữa mỗi trổ đoạn lưu không. Cách phổ thơ Cách
phổ thơ của Hát văn hầu dựa trên các thủ pháp: xuôi chiều, vay trả, nhắc lại, lặp lại từ hoặc cụm
từ, sử dụng từ phụ. Thủ pháp xuôi chiều nghĩa là hát đúng theo thứ tự vốn có của lời ca. Thủ pháp
này được sử dụng trong các làn điệu như: Phú nói, Phú chênh, Phú bình, Phú Cờn, Bồng mạc, Sa
mạc, Dọc sững v.v.
- Nhạc cụ Nhạc cụ bao gồm đàn nguyệt các nhạc cụ gõ như phách, cảnh, thanh la, trống
ban. Nhạc đàn với vai trò xuyên suốt, dẫn giọng điệu, nâng đỡ lời ca luôn nhường vị trí chủ đạo
cho nhạc hát. Với một biên chế nhạc cụ gọn nhẹ nhưng đủ sức đảm nhiệm một buổi Hầu bóng dài
có khi tới 6 đến 7 tiếng đã cho thấy khả năng đáng nể phục của các cung văn.
- Múa hầu bóng được kết hợp với âm nhạc, lời hát văn các nghi lễ khác, thể hiện sự tái
sinh của thần thánh trong thân xác các ông đồng, bà đồng. Múa hầu bóng thường kèm theo các vật
khác nhau dùng trong cúng lễ, do vậy, có khi người ta gọi tên các động tác múa theo tên vật dùng
khi múa, như múa kiếm, múa cung, múa kích, a long đao, múa hèo, a mồi, múa quạt, múa
chèo đò, múa dệt gấm… Múa hầu bóng thường là múa đơn, chỉ trừ múa hầu vui Huế có múa
tập thể, giữa họ đều không có sự phối hợp nào mà thường mọi người múa theo sự phấn khích của
riêng mình. Múa trong hầu bóng đã tiếp thu nhiều động tác múa dân gian, như múa có vũ khí, múa
quạt, múa mồi, múa chèo đò. Nhịp điệu của múa hầu bóng rất nhanh, mạnh.
- Trang phục Trong Chầu văn, trang phục lên đồng rất quan trọng được cách điệu hóa từ
màu sắc đến hoa văn trang trí. Cung văn và người phụ trách bộ gõ mặc quần áo trắng, áo the, đầu
chít khăn xếp hoặc khăn lượt. Các đồng nam thì áo dài, khăn đỏ. Đồng nữ tkhăn áo màu. Đồng
nam ái nữ thì mặc y phục nữ. Các con nhang đệ tử ai cũng mặc quần áo dài cả. Đó cách mặc
thông thường đến cửa thánh còn khi ngồi đồng hầu bóng thì trang phục của mỗi vị về đồng lại
những đặc trưng riêng, từ màu sắc đến kiểu cách.
Câu 8 (03 điểm): Anh (chị) hãy cho biết Cồng chiêng Tây Nguyên thuộc thể loại âm nhạc gì?
Những giá trị của Cồng Chiêng và quan niệm về Cồng Chiêng của người Tây Nguyên?
1. Quan niệm về cồng chiêng của người Tây Nguyên.
Đối với dân Tây Nguyên, cồng chiêng chính là vật thiêng. Xuất phát từ tín ngưỡng vạn
vật hữu linh, người Tây Nguyên tin rằng đằng sau mỗi cái cồng chiêng đều có một vị thần trú ngụ.
Cồng chiêng càng cổ thì quyền lực của vị thần đó càng mạnh. Tùy theo niềm tin của từng tộc người,
vị thần chiêng đó nam hoặc nữ. Hầu hết các tộc người ở Tây Nguyên quan niệm thần chiêng
là nam. Một số khác, chẳng hạn người Ê Đê theo chế độ mẫu hệ, hoặc người Ba Na ngành Tồ Lồ
thì cho rằng thần chiêng lại là nữ. Sức mạnh thiêng của chiếc cồng chiêng không phải đã ngay
từ đầu. Người Tây Nguyên không tự mình đúc được cồng chiêng mà phải mua từ nơi khác về. Sau
đó họ chỉnh âm lại để phù hợp với hàng âm của dân tộc mình. Khi đã được âm thanh mong
muốn, người ta làm lễ hiến sinh mời thần chiêng về trú ngụ trong đó. Từ đó cồng chiêng mới
một vật thiêng. vật thiêng, cho nên âm thanh của cồng chiêng cũng mang tính thiêng. Người
Tây Nguyên sử dụng âm thanh đó như một ngôn ngữ để giao tiếp, cộng cảm với thần linh. Là vật
thiêng, nên chức năng bao trùm của cồng chiêng Tây Nguyên chủ yếu mang chức năng nghi lễ.
nhạc cụ nghi lễ, các bản nhạc cồng chiêng trước hết đáp ứng cho yêu cầu của mỗi lễ thức và được
coi như một thành tố hữu của lễ thức đó. Trong mỗi lễ thức, lại nhiều công đoạn nhạc cồng
chiêng riêng. Người Tây Nguyên nhiều lễ thức, tựu trung lại hai loại: lễ thức vòng đời cây
lOMoARcPSD| 60857655
trồng lễ thức theovòng đời người. Mỗi dân tộc trong các nghi lễ dùng một biên chế dàn cồng
chiêng riêng một hay nhiều bản nhạc riêng. dụ trong nghi lễ cầu mùa cầu sức khỏe,
nhóm Kpạ của người Ê Đê dùng 9 chiêng 1 trống, còn trong tang ma lại dùng 2 chiêng núm 1
chiêng bằng. 2. Những giá trị cơ bản
Cồng chiêng Tây Nguyên có giá trị hết sức to lớn. Có thể kể ra một số giá trị như sau:
+ Giá trị biểu thị đặc trưng văn hoá âm nhạc vùng, tộc người, nhóm tộc người.
+ nhạc khí quan trọng biểu thị đặc trưng văn hoá âm nhạc của vùng Trường Sơn Tây
Nguyên (thể hiện ở cách dùng cồng chiêng theo bộ chiếm ưu thế).
+ Biểu thị đặc trưng văn hoá tộc người hoặc nhóm tộc người (thể hiện qua cách dùng, cách
ứng xử với cồng chiêng, tên gọi, đặc trưng âm nhạc…).
+ Giá trị sử dụng đa dạng: công cụ hỗ trợ săn bắn, phương tiện thông tin, truyền lệnh,
phương tiện giao cảm với thế giới siêu nhiên, là nhạc khí.
+ Giá trị vật chất, biểu thị sự giàu có.
+ Giá trị tinh thần (là của gia bảo, là nhạc cụ thiêng, là vật thể hiện quyền uy).
+ Giá trị cố kết cộng đồng( có tính tập thể và khả năng cộng cảm cao).
+ Giá trị lịch sử (là bằng chứng của truyền thống âm nhạc có lịch sử lâu đời).
+ Giá trị nghệ thuật: Có khả năng đảm nhiệm mọi chức năng âm nhạc: Dùng để đệm cho
múa; dùng để hoà tấu trong các dàn nhạc với đủ chức năng: đi tiết tấu, đi giai điệu, đi bè trầm, giữ
nhịp…; Có khả năng thực hiện các thể loại nhạc khác nhau và có khả năng thể hiện những hình
tượng và đặc tính âm nhạc đa dạng. Giá trị nghệ thuật cồng chiêng Tây Nguyên còn biểu hiện ở
nghệ thuật diễn tấu (các kỹ thuật tạo âm; nghệ thuật phối hợp tập thể). Những nguyên tắc cấu trúc
của cồng chiêng Tây Nguyên đã định hình chặt chẽ. Đây là một dạng nguyên mẫu âm nhạc.
+ Giá trị phản ánh đa chiều: Không gian văn hoá cồng chiêng là tấm gương phản chiếu nhiều
phương diện của người dân Tây Nguyên. Qua đó ta thể thấy: vũ trụ quan (nổi bật nguyên
cặp đôi âm dương); chế độ hội trình độ phát triển của nó; mối quan hệ hội; quan điểm
thẩm mỹ;phong tục tập quán; quan niệm tâm linh, tín ngưỡng; khả năng thẩm âm; tri thức âm nhạc
và trình độ phát triển âm nhạc.
Câu 9 (03 điểm): Anh (chị) hãy trình bày những hiểu biết của mình về Xòe Thái? (địa bàn
diễn xướng, quan niệm về Xòe của người Thái, phân loại đặc trưng nghệ thuật của Xòe
Thái)
Theo các nhà nghiên cứu thực tiễn diễn xướng dân gian tại các vùng như: Nghĩa Lộ,
Mường Lò (Yên Bái), Mường So, Phong Thổ (Lai Châu), Mường Lay, Mường Thanh (Điện Biên),
Quỳnh Nhai, Thuận Châu (Sơn La)... thì múa e ra đời từ xa xưa, gắn liền với cuộc sống mưu
sinh, lao động, chinh phục tự nhiên và đời sống tinh thần của đồng bào Thái Tây Bắc.
Xòe Thái cũng có rải rác ở các tỉnh Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, tuy nhiên không phải là
hiện tượng phổ biến.
Quan niệm
Người Thái quan niệm "Không xòe không tốt lúa, không xòe thóc cạn bồ". Múa xòe là biểu tượng
tình yêu của người Thái, từ yêu cuộc sống lao động cần cù đến tình yêu đôi lứa, người Thái hay tổ
chức múa xòe trong hội xuân, hội mùa và hội cưới.
Phân loại
lOMoARcPSD| 60857655
Các nhà nghiên cứu quy về ba hình thức chính: Xòe tín ngưỡng (nghi lễ), Xòe biểu diễn, Xòe giải
trí (hay Xòe vòng, Xòe tập thể).
- Xòe tín ngưỡng (nghi lễ)
+ Xòe nghi lễ (tín ngưỡng) thường diễn ra trong các lễ hội bản, mường, gắn với những nghi
thức cúng lễ do các thầy cúng (thầy Tào, Mo, Phựt, Then) thực hiện những phụ lễ tham gia
những người "có căn số" do thầy cúng lựa chọn "xòe" theo những bài bản nghi thức đã định như:
múa dâng lễ, múa cầu vong, múa tạ ơn, múa chào mời hồn vía, múa cảm ơn thiên binh cứu mệnh...
- Xòe biểu diễn: đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn hóa, văn nghệ của người dân, thường do
một nhóm nhỏ biểu diễn, còn số đông khán giả đứng xem, mang tính chất "chuyên môn hóa",
tính trình diễn sân khấu cao. Xòe biểu diễn thường kết hợp với các đạo cđược gọi theo tên đạo
cụ như: Xòe khăn, Xòe nón, Xòe quạt, Xòe sạp, Xòe nhạc, Xòe gậy, Xòe chai...
- Xòe giải trí (Xòe vòng hoặc Xòe tập thể): loại Xòe tập thể không có người biểu diễn và
người xem, tất cả đều tham gia không phân biệt nam nữ, trẻ già, trên dưới. Các vòng tròn
thể mở rộng, nối dài, liêt kết nhiều vòng Xòe một cách linh hoạt. Những cuộc Xòe như vậy thường
được tổ chức trong phần kết thúc các cuộc vui, sự kiện, lễ hội hay các hình thức sinh hoạt thường
nhật như ngày lễ, sinh nhật, tân gia, cưới xin... Đặc trưng nghệ thuật
- Xòe vòng: được xuất hiện trong các nghi lễ mừng xuân, được mùa, lên nhà mới, cưới xin,
các cuộc liên hoan trên nhà sàn, quanh đống lửa.
+ Động tác múa xoè vòng chỉ gồm một bước nhảy thường với đội hình vòng tròn đơn giản.
Nếu đông người thì múa thành 2 vòng tròn, vòng trong nhỏ vòng ngoài lớn. Hai vòng xoay
ngược chiều nhau.
+ Nhạc cụ dùng để đệm trong múa xòe vòng thường có: 1 chiếc trống, 2 hoặc 3 chiếc chiêng,
một đôi chũm chọe và mấy ống tre. Nhiều nơi còn dùng pí, khèn bè, tính tẩu và đặc biệt là hát đối
đáp có láy dưới sau mỗi câu hát. Giai điệu và tiết tấu âm nhạc đơn giản, câu nhạc ngắn, lặp đi lặp
lại nhưng có sức lôi cuốn mạnh mẽ.
+ Xòe vòng được sử dụng linh hoạt rộng rãi nhằm thỏa mãn đời sống văn hóa tinh thần của
đồng bào dân tộc Thái. Đó là một phương tiện giao tiếp tốt, một sản phẩm tinh thần quý giá trong
đời sống hội, không còn riêng của người Thái trở thành tài sản chung của nhân dân
vùng Tây Bắc.
- Xòe biểu diễn (Xòe điệu): Nhạc cụ chính đệm cho xòe biểu diễn tính tẩu, kèn, trống
chũm chọe. Trong đó các nhà nghiên cứu chỉ ra 4 điệu cơ bản:
+ Xòe khăn: lễ múa Then. Loại khăn dài vùng dân tộc Tày, Nùng, Thái. Nhưng kỹ
thuật múa đạo cụ này mỗi dân tộc khác nhau. Ở xòe Thái, khoác lên thân hình đẹp của các cô gái
xòe, chiếc khăn lụa dài đã biến thành những động tác sinh hoạt hàng ngày thành những động tác
múa duyên dáng. Kỹ thuật bản của múa khăn Thái đứng vung khăn ra đằng trước ngồi
vung khăn. Ở Phong Thổ (Lai Châu) còn có động tác vung khăn quàng sau lưng, 2 tay cầm 2 đoạn
đầu khăn để cùng chụm vào và vẫy ra.
+ Xòe nón: Đầu tiên một thể nghiệm bằng múa nam. Nhưng thực tế cho thấy nam muốn
nón thì không lột tả được vẻ đẹp của loại múa đạo cụ này, nên phụ nữ lại được dạy. Đạo cụ nón và
trang phục múa nữ Thái rất hợp với nhau, chất lượng nghệ thuật của điệu múa nón hơn hẳn. Từ đó
lOMoARcPSD| 60857655
trở đi múa nón trở thành múa nữ đông người. Múa nón có các động tác chính: đưa nón sang 2 bên
người; nhún ngang đưa nón sau gáy; nghiêng nón 2 bên đầu; lao nón; xoay nón trên đầu; ngồi
chống nón trước mặt;
+ Xòe quạt: Múa quạt 2 kiểu: múa một quạt và múa 2 quạt. Múa một quạt thường đi đôi
với khăn; người múa cầm quạt xoè tay phải khăn gập đôi) ở tay trái. Múa hai quạt thì cầm quạt
xoè ở hai tay. Quạt lúc xòe, lúc gập.
+ Xòe nhạc: Có hai kiểu đan xen là: từng đôi đối diện đi vào giữa vòng tròn, vòng qua nhau
rồi đổi chỗ, nam với nam - nữ với nữ múa cùng nhau; từng khối 4 người (dàn thành hai hàng đối
diện) đan vòng qua nhau.
* Đặc điểm xòe biểu diễn:
Trừ xòe nhạc, còn lại các loại xoè khác đều là múa nữ. Xòe Thái nhẹ nhàng, uyển chuyển, sự phối
hợp động tác chân, tay thân trên đều rất khỏe, được đặc tính này do những đặc điểm về
động tác sau:
+ Chân nhảy không cao, không bước rộng
+ Nhún nẩy không hết đà
+ Bước nhẹ êm
+ Tay vung không hết đà
+ Khi quỳ gối ngửa người, không uốn lưng vì sợ hở bụng
+ Hiếm có những động tác vặn vẹo, uốn người trong múa nữ và động tác quay tay, nhảy
lớn trong múa nam.
+ Đối với đạo cụ: đường khăn phải uốn lượn cho khéo khi vung lên, phải như sóng lượn
khi chao khăn. Chiếc khăn phải tạo dáng cho người múa.
Xòe biểu diễn đều là múa không tình tiết, mà đều mang tính đồng diễn. Bốn loại đạo c
này làm cho múa nữ của dân tộc Thái trở nên phong phú và đa dạng.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 60857655
NGHỆ THUẬT DIỄN XƯỚNG
Câu 1 (03 điểm): Anh, (chị) hãy phân tích và làm rõ quan niệm Nghệ thuật diễn xướng dân gian?
Diễn xướng dân gian là tổng hợp những biểu hiện cơ bản nhất của đời sống thẩm mĩ dân gian, nói
cách khác, là biểu hiện ra bên ngoài của đời sống thẩm mĩ đó
Về mặt cấu trúc diễn xướng dân gian gồm những bộ phận sau:
Hát, nói (tức là xướng), đây là bộ phận biểu hiện lời ca tiếng hát thành những làn điệu, cách nói xét
về mặt biểu hiện của âm thanh và giai điệu
Trình diễn (phần diễn) tức cung cách thể hiện bằng những điệu úa, những chỉ, phong cách, cấu trúc
không gian biểu diễn… kết hợp với phần xướng, phần này giúp cho những giá trị chứa đựng trong
lời được biểu hiện ra, tạo nên hiệu quả thẩm mĩ.
Phần âm nhạc: bộ phận này tuy được tách hẳn ra nhưng lại có giá trị phối hợp, như 1 mối liên kết
và hỗ trợ, làm tăng thêm hiệu quả của toàn bộ quá trình diễn xướng
 Diễn xướng dân gian là những hình thức sinh hoạt văn hóa nghệ thuật gắn liền với mọi mặt
đời sống người dân, được người dân sáng tạo, gìn giữ và trình diễn thông qua các phương
tiện biểu hiện khác nhau. Diễn xướng dân gian thể hiện tâm tư, tình cảm, nguyện vọng,
thỏa mãn nhu cầu đa dạng cuar đời sống, phản ánh nhận thức về nhân sinh quan và thế giới
quan của người dan VN từ xưa tới nay.
Câu 2 (03 điểm): Anh (chị) hãy phân tích các đặc trưng cơ bản của Nghệ thuật diễn xướng dân gian Việt Nam?
- Tính nguyên hợp:
Đây là một trong những đặc trưng cơ bản nhất của nghệ thuật diễn xướng dân gian. Nguyên
hợp là “sự dính liền nhau ngay từ ban đầu của các loại hình khác nhau trong sáng tạo văn hóa. Hoặc
nói 1 cách dễ hiểu hơn: có sự hòa lẫn, trộn lẫn với nhau 1 cách tự nhiên vốn có của nhiều yếu tố
khác nhau ở những dạng yếu tố này chưa từng bị phân hóa.
Tính nguyên hợp là sự gắn bó hữu cơ những giá trị thẩm mĩ, trí tuệ, trình diễn… của nhiều
thành tố, là sự kết hợp hài hòa thống nhất tính cách hồn nhiên và tính cách nâng cao sáng tạo trong
diễn xướng dân gian. Mỗi loại hình diễn xướng dân gian bao giờ cũng được tiếp nhận, cảm thụ và
biến hóa bằng tất cả các giác quan cùng 1 lúc.
Tính nguyên hợp có nguồn gốc từ đặc điểm hình thành của nghệ thuật nguyên thủy. gọi là
tính nguyên hợp vì nhận thức thẩm mỹ nguyên hợp có từ thời nguyên thủy và tồn tại qua các thời
kỳ lịch sử. Nguyên hợp là hiện tượng tự nhiên vốn có của văn hóa dân gian nói chung và nghệ thuật dân gian nói riêng.
Về nội dung, diễn xướng dân gian phản ánh nhiều phương diện khác nhau trong đời sống vật
chất và tinh thần xã hội, cùng 1 lúc tổng kết các tri thức của nhân dân thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhua trong dạng thức còn chưa phân chia tách bạch
Về hình thức, diễn xướng sử dụng rất nhiều phương tiện như ngôn ngữ, âm nhạc, vũ điệu,
động tác, hóa trang…tính nguyên hợp chi phối tất cả cac thành phần nghệ thuật, các yếu tố, chất
liệu tạo nên bản thân nó như ngôn từ, nhạc, vũ, động tác, nghệ thuật tạo hình - Tính tập thể lOMoAR cPSD| 60857655
Diễn xướng dân gian là sản phẩm sáng tạo của nhiều người thuộc nhiều thế hệ qua những
thời gian và không gian khác nhau.
Về nội dung, diễn xướng dân gian phản ánh được nhiều nét sinh hoạt, tình cảm, nguyện vọng
và ước mơ, cách nhìn nhận về cuộc đời và con người của đông đảo quần chúng nhân dân lao động
Về hình thức, loại hình, tác phẩm diễn xướng phải kết tinh được thị hiếu thẩm mĩ, tài năng
sáng tạo của quần chúng nhân dân. Tính tập thể của diễn xướng dân gian thể hiện trong 2 quá trình,
đó là quá trình sáng tạo và quá trình tiếp nhận. Sự sáng tạo tập thể diễn ra lần lượt theo 3 bước
B1: sáng tạo của cá thể
B2: xã hội hóa sáng tạo cá thể
B3: sáng taọ của xh trên cơ sở bản gốc của tác phẩm
Tính tập thể trong nghệ thuật dân gian còn được hiểu ở phương diện thẩm mỹ. Đối tượng của
những sáng tác nghệ thuật dân gian là toàn bộ những gì liên quan đến cộng đồng tập thể. Nhờ có
tính tập thể nên tác phẩm văn hóa dân gian đã đặt được những đỉnh cao nghệ thuật mà nghệ thuật
bác học khó có thể vượt qua.
Tóm lại tính tập thể của nghệ thuật diễn xướng dân gian biểu hiện trong quá trình sáng tác,
biểu diễn và lưu truyền tác phẩm, trong nội dung và hình thức sáng tác, biểu diễn. tính tập thể còn
biểu quyết sự ra đời và tồn tại của các phẩm và hình thức, cách thức biểu diễn.
- Tính truyền miệng
Truyền miệng, tức là không phải dưới hình thức chữ viết. sáng tác dân gian đi từ người này
sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tính truyền miệng là đặc trưng cơ bản của diễn xướng dân gian, nó khác với tính cố định của
nghệ thuật bác học. truyền miệng chính là môi trường diễn xướng của sáng tác nghệ thuật dân gian.
Tác phẩm văn hóa dân gian là một cơ thể sống, gắn với mô trường diễn xướng. truyền miệng khi
tách rời khỏi môi trường diễn xướng thì sẽ không còn là truyền miệng nữa
Truyền miệng chính là hình thức bảo lưu lan tỏa của nghệ thuật diễn xướng dân gian. Truyền
miệng gắn với việc ghi nhận tác phẩm bằng trí nhớ, ghi nhận sự hào hứng của tập thể, quá trình ghi
nhận lại được chuyển hóa thành quá trình diễn xướng
- Tính bản địa và vùng miền
Trong văn hóa dân gian, tính địa phương (bản địa) là cơ sở để phân vùng và xác định ranh
giới giữa các vùng văn hóa dân gian mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Đất nước ta rất đa dạng về địa lý,
thành phâng dân tộc, điều kiện tự nhiên, ngôn ngữ vì vậy nghệ thuật diễn xướng dân gian cũng có
sự đa sắc, sinh động, muôn hình muôn vẻ. Nó vừa mang vẻ độc đáo riêng biệt từng bản địa nhưng
lại tạo nên sự thống nhất hài hòa trong bức tranh tổng thể của văn hóa dân gian.
Tuy mỗi địa phương, mỗi vùng miền đều có tín ngưỡng, phong tục, tập quán mang sắc thái
khác nhau và có sự giao tiếp biến đổi qua từng thời kỳ, nhưng cái dấn ấn để tạo nên bản sắc văn
hóa từ diễn xướng dân gian đến sự định hình 1 loại hình, loại thể văn hóa nghệ thuật phải bắt nguồn
từ một cơ sở triết học, mỹ học của chính dân tộc.
Hoàn cảnh lịch sử của mỗi vùng cũng chi phối đến tính bản địa, vùng miền của nghệ thuật
diễn xướng dân gian. Chẳng hạn, bắc bộ là vùng đất cổ, vùng đất cội nguồn, cho nên đây là vùng
đã sản sinh ra nhiều di sản dân ca nghi lễ rất lâu đời như Hát Xoan, Hát Chèo Tàu, Hát Dô, Hát
Quan họ, Hát Chầu Văn… còn Nam Bộ, đây là vùng đất khai phá, vùng đất mới, cho nên vùng này
không còn sản sinh ra dân ca nghi lễ, hát thờ nữa, thay vào đó, dân ca Nam Bộ là sự kế thừa, tiếp
nối dân ca của người Việt ở phía ngoài, đặc biệt là dân ca Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ, với các
thể loại Hò, Lý, Hát ru. lOMoAR cPSD| 60857655
Đặc trung về giọng nói, hoặc phương ngữ của mỗi vùng vùng chi phối nhiều tới tính địa
phương của nghệ thuật diễn xướng dân gian.
- Tính phi lợi nhuận
Tính phi lợi nhuận là đặc trưng ban đầu sau đó nó được biến đổi dần theo quá trình phát triển.
Nó vốn sinh ra không phải để làm ra tiền hay làm kinh tế, nó sinh ra để phục vụ cho việc giải trí,
phục vụ cho các hoạt động giao lưu, sinh hoạt, đời sống. Nhưng rồi nó bắt đầu được nâng tầm, bắt
đầu tách ra khỏi đời sống và bứt lên thành các loại hình nghệ thuật, lúc đó nó không chỉ đem lại
giá trị tinh thần mà đem lại cả giá trị kinh tế. Dân ca ngày xưa được các bà, các mẹ dùng để hát ru
con, còn ca sĩ dân ca ngày nay hát có thể kiếm ra tiền, phim ảnh lấy hình ảnh dân gian, nghệ thuật
dân gian cũng làm ra tiền. Nó đi từ con đường phi lợi nhuận trở thành giá trị lợi nhuận sau này, đó
là điều tất yếu trong quá trình phát triển. Diễn xướng dân gian cơ bản không trực tiếp sinh ra lợi
nhuận kinh tế mà đem lại giá trị tinh thần, chính giá trị tinh thần đó thúc đẩy nhu cầu của người
dân cũng như du khách từ đó tạo nên giá trị kinh tế.
Nghệ thuật diễn xướng dân gian không chỉ dừng lại ở những loại hình nghệ thuật trình diễn
đem lại giá trị thuần túy như trước, mà trở thành nguồn tài nguyên đầy tiềm năng đem lại giá trị
kinh tế lớn cho ngành du lịch. Nó đậm đà tính lịch sử, nó đại diện cho văn hóa mang tính vùng
miền, nó là diện mạo của nghệ thuật - văn hóa quốc gia; của cha ông ta; của dân tộc ta, nó ảnh
hưởng đến tư duy cũng như phong cách sống của chúng ta cho đến tận bây giờ - những hình ảnh
như: Mẫu Tam Phủ, Mẫu Tứ Phủ, Quan Âm Thị Kính, đặc biệt ở vùng dân gian bắc bộ hình ảnh
những người nông dân tần tảo mưu sinh đều có bóng dáng trong nghệ thuật diễn xướng dân gian
(Show tinh hoa Bắc Bộ), hay từ các khúc gỗ, tảng đá đơn sơ qua bàn tay nghệ nhân được gửi gắm
hình tượng dân gian trở thành 1 tác phẩm nghệ thuật có giá trị. Sau cùng cho dù nghệ thuật diễn
xướng dân gian phát triển cả về quy mô và hình thức thì vẫn mang 1 mục đích phục vụ cho đời
sống tinh thần của đông đảo người dân.
Tính phi lợi nhuận của nghệ thuật diễn xướng dân gian thể hiện ở việc đặt lợi ích cộng đồng
lên hàng đầu, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Đây là một phần quan trọng
làm nên sức sống và sự bền vững của loại hình nghệ thuật này.
Câu 3 (03 điểm): Anh (chị) hãy kể tên các vùng dân ca Việt Nam và trình bày đặc điểm của
một trong các vùng dân ca đó?
Có 7 vùng dân ca đó là: dân ca miền núi phía Bắc, vùng dân ca đồng bằng; trung du bắc bộ và cực
bắc trung bộ, vùng dân ca đồng bằng và ven biển bắc trung bộ, vùng dân ca đồng bằng và ven biển
nam trung bộ, vùng dân ca đồng bằng Nam bộ, vùng dân ca trường sơn – tây nguyên.
- Dân ca đồng bằng Nam bộ
Là sự kế thừa dân ca việt phía bắc, đặc biệt là dân ca miền trung. Nói tới dân ca Việt vùng
này là phải nói tới hò và lý. Hò nam bộ cũng đa dạng về mặt chủng loại như hò miền trung nhưng
sự đa dạng ấy còn được đẩy thêm 1 bước nữa với sự hình thành những điệu hò mang phong cách
riêng của từng địa phương. Âm nhạc của những điệu hò, lý cùng như lời ca đã phản ánh sinh động
tâm hồn con người sống trong vùng đất mà thiên nhiên đã dành cho những ưu đãi. Ngoài ra, dân
ca nam bộ cũng phát triển mạnh hai thể loại hát ru và nói thơ. Bên cạnh sự chiến ưu thế của dân ca
việt, cũng cần phải kể đến dân ca của dân tộc Khmer nam bộ. kho tàng dân ca khmer nam bộ cũng
rất phong phú và đặc sắc, ngoài hát đồng dao, hát ru còn có những bài hát lao động, hát huê tình,
đặc biệt có nhungtwx bài hát đi kèm với múa, hát trong đám cưới. lOMoAR cPSD| 60857655
Câu 4 (03 điểm): Anh (chị) hãy cho biết thế nào là Âm nhạc dân gian và phân tích những đặc
trưng cơ bản của âm nhạc dân gian Việt Nam?
Âm nhạc dân gian được hiểu theo 2 nghĩa
Nghĩa rộng, âm nhạc dân gian là các thể loại ca nhạc tồn tại có tính chất thường trực trong
môi trường sinh hoạt dân gian. Trong âm nhạc dân gian theo nghĩa rộng có cả những yếu tố, thể
loại mang tính chất dân gian và những yếu tố thể loại mang tính chất bác học do sự đóng góp của
giới trí thức bình dân hoặc có nguồn gốc từ dòng cung đình
Theo nghĩa hẹp. âm nhạc dân gian là những thể loại ca nhạc được sáng tạo và biểu diễn chủ
yếu bằng cảm xúc và kinh nghiệm, mặc dầu 1 số loại cũng đã có những nguyên tắc cho việc thực
hành biểu diễn nhưng vẫn chưa hình thành hệ thống lý luận chi phối mọi hoạt động sáng tác và biểu diễn.
Đặc trưng cơ bản
Âm nhạc dân gian trong quá trình hình thành và phát triển có sự gắn bó mật thiết với âm nhạc
cung đình, bác học. Có thể nói âm nhạc dân gian và âm nhạc cung đình, bác học cùng song song
tồn tại và tác động lẫn nhau theo cả 2 chiều. Do đó ngày nay, bên cạnh những thể loại thuần túy
dân gian hoặc cung đình, bác học, trong âm nhạc truyền thống của chúng ta còn có những thể loại
pha trộn những yếu tố dân gian và cung đình, bác học, đó là những thành phần tgrung gian nằm
giữa âm nhạc dân gian và âm nhạc cung đình, bác học.
Ngoài tính chất pha trộn với âm nhạc cung đình, bác học, âm nhạc dân gian còn có sự khác
bieeyj rõ nét với âm nhạc phương tây như: nghệ thuật mô hình, cấu trúc, thang âm, nhịp điệu, ngẫu
hứng, kỹ thuật diễn tấu, giai điệu gắn bó chặt chẽ với ngữ âm, ngữ điệu, ngữ khí, làn điệu không
phân biệt thức trưởng và thứ mà theo điệu Bắc, điệu Nam, triết lý âm nhạc gắn bó chặt chẽ với ký
thuyết ân dương ngũ hành…
Câu 5 (03 điểm): Anh (chị) hãy cho biết thế nào là múa dân gian và phân tích các đặc điểm
cơ bản của nghệ thuật múa dân gian Việt Nam?
Múa dân gian là hình thái múa do quần chúng nhân dân sáng tạo được lưu truyền từ đời này
sang đời khác. Múa dân gian được sử dụng rộng rãi trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Nó tiêu
biểu cho bản sắc văn hóa của từng cộng đồng và là cơ sở để phát triển các hình thái múa khác.
Múa dân gian thường gắn liền với phong tục, tập quán, lễ nghi tín ngưỡng. trong đời sống
văn hóa tâm linh của quần chúng nhân dân, có 1 loại múa được sản sinh và nuôi dưỡng trong môi
trường sinh hoạt văn hóa tâm linh, đó là múa tín ngưỡng.. loại múa này phổ biến ở nhiều tộc người.
ví dụ, ở người V có múa tín ngưỡng hầu bóng, còn gọi là múa lên đồng. loại múa này tồn tại, phát
triển trong quá trình hình thành tục thờ Mãu và đạo Mẫu ở Việt Nam. Nét độc đáo của múa hầu
bóng đó là (theo quan niệm dân gian) phần xác (ông đồng, bà đồng) là con người, còn phần hồn là
của thánh thần. Điều này nói lên sức tưởng tượng của con người rất lớn.
Múa dân gian giàu tính hiện thực. Múa dân gian mô phỏng hiện thực nên mặc dù đã được
cách điệu hóa vẫn mang tới người xem những thông điệp sát thực. Điều này được thể hiện cả hai
chiều. chiều thứ nhất là tự thận điệu múa được “tác giả dân gian” ghi nhận trong thực tế, từ đó sáng
tạo nên. Chiều thứ 2 là người thể hiện cũng hết sức cố gắng bắt chước hiện thực cộng với yếu tố
sáng tạo cá nhân trong quá trình thể hiện. Thông qua hình ảnh múa dân gian có thể cho chúng ta lOMoAR cPSD| 60857655
những thông tin về lịch sử, về địa lý, về môi trường sinh thái. Có lẽ bắt nguồn từ đặc điểm địa lí
VN có nhiều sông ngòi mà động tác múa “chèo thuyền” trở nên rất phổ biến trong múa dân gian
của các dân tộc từ bắc vào nam.
Múa dân gian thường kết hợp với đạo cụ. Để các điệu múa thăng hoa, không thể không kể
đến sự góp mặt của đa dạng đạo cụ. Đạo cụ có thể là vật dụng trong đời sống ính hoạt hàng ngày
được sáng tạo thêm phần phong phú, mang tính nghệ thuật. Đạo cụ có khi là nhạc cụ, vừa mang
âm điệu, vừa góp phần để tiết mục cuốn hút người xem.
Múa dân gian là sản phẩm của tập thể sáng tạo có cấu trúc mở. Do luôn luôn tồn tại và phát
triển qua nhiều thế hệ, múa dân gian thường không có 1 cấu trúc ổn định, hay nói cách khác, đó là
cấu trúc mở. Do cấu trúc mở, múa dân gian không ngừng được bồi đắp và bổ sung những sáng tạo
mới của các thế hệ tiếp theo với mục đích nhằm thỏa mãn nhu cầu văn hóa của cộng đồng, khu
vực, quốc gia. Những bồi đắp mới, bổ sung mới được dân chúng chấp nhận, lưu giữ và sử dụng sẽ
trở thành di sản của văn hóa dân tộc, đồng thời là cơ sở, nền tảng cho những sáng tạo bổ sung của
thế hệ tiếp theo. Trong tiến trình lịch sử, qua nhiều thế hệ, nó được bồi đắp, bổ sung cho phù hợp
và ngày càng hoàn chỉnh hơn.
Múa dân gian là nền tảng để nghệ thuật múa hiện đại của dân tộc kế thừa và phát triển. Nền
nghệ thuật múa VN hôm nay được bắt nguồn vè kế thừa từ nền nghệ thuật múa truyền thống của
mỗi dân tộc trên đất nước. Trên cái gọi là cội nguồn đó, mỗi thế hệ đã góp phần sáng tạo của mình
để gìn giữ và làm giàu hơn bản sắc tâm hồn dân tộc bằng cách phát huy những giá trị vốn có, bên
cạnh đó vẫn cần sáng tạo những yếu tố mới. Kế thừa khồn đơn thuần là sự khai thác và sử dụng
tinh hoa của múa dân tộc mà còn phải biết phát huy, bổ sung những thiếu hụt của nó. Muốn xây
dựng nền nghệ thuật múa chuyên nghiệp, phát triển, đậm đà bản sắc dân tộc trước hết phải kế thừa
triệt để những giá trị của múa dân gian. Bên cạnh đó muốn đổi mới, thì phải nghiên cứu, xác định
và hiểu đâu là giá trị đích thực cần phải kế thừa. Nói cách khác, cần phải tìm ra hằng số giá trị của múa dân gian.
Câu 6 (03 điểm): Anh (chị) hãy giới thiệu ngắn gọn về một loại hình diễn xướng dân gian tiêu
biểu của quê hương hoặc địa phương nơi mình đang sinh sống?
Mỗi một con rối nước không chỉ là tác phẩm nghệ thuật về mặt tạo hình mà còn là sản
phẩm kỹ thuật tinh tế của nghệ nhân.
Thôn Bồ Dương (xã Hồng Phong, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương) nằm giữa vùng đồng
bằng trù phú, rất đặc trưng cho nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, và cũng là nơi nuôi dưỡng loại hình
nghệ thuật dân gian đặc trưng của nền văn minh lúa nước: nghệ thuật múa rối nước.
Điểm đặc sắc và hấp dẫn của Phường rối nước Hồng Phong, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải
Dương, nằm ở cách điều khiển con rối, sao cho con rối có những cử động phức tạp, sinh động, xuất
hiện bất ngờ tại các vị trí, tạo sự ngỡ ngàng, thích thú cho khán giả. Thông qua nhiều nhân vật rối
nước như tiên nữ, tễu giáo đầu, tễu vuốt râu rồng, tễu leo cột… được chạm khắc trên đình làng Bồ
Dương có thể xác định nghệ thuật rối nước nơi đây có từ thế kỷ 17.
Trải qua những biến cố lịch sử, rối nước Hồng Phong qua nhiều bước thăng trầm. Trong hai
cuộc kháng chiến, nghệ thuật múa rối nước Hồng Phong ngừng hoạt động, tưởng chừng không thể
khôi phục. Năm 1989, một số người dân yêu nghệ thuật múa rối nước ở làng Bồ Dương, tâm huyết lOMoAR cPSD| 60857655
với nét văn hóa xưa đã cùng chung tay khôi phục lại. Mọi người đã bỏ tiền của, công sức chế tác
con rối, biên đạo các tích trò, dựng lại thủy đình.
Sau nhiều tháng ngày lao động miệt mài, nghệ thuật múa rối nước Bồ Dương đã hoạt động
trở lại. Tháng 9/1992, Ủy ban nhân dân huyện Ninh Thanh (nay là Ninh Giang) ra quyết định thành
lập Phường nghệ thuật múa rối nước Hồng Phong.
Những ngày khôi phục lại phường rối nước, tuy vất vả nhưng ai cũng hứng khởi. Người thì
sáng tạo, khôi phục, biên đạo các tích trò, người có nghề mộc thì tạo hình và thổi hồn vào các con
rối, người thì nghiên cứu thiết kế hệ thống dây, ròng rọc điều khiển rối…, tất cả đều xuất phát từ
tình yêu với văn hóa, nghệ thuật truyền thống của quê hương. Sau đó, cả phường có tới 30 người
tổ chức đi lưu diễn khắp nơi trong huyện và các địa phương lân cận, mang niềm vui cho mọi người.
Trong nghệ thuật múa rối nước, âm nhạc là linh hồn của vở diễn. Do sân khấu biểu diễn là ở
ngoài trời, giữa ao, hồ cho nên rối nước cần âm thanh mạnh, để giữ tiết tấu và khuấy động không
khí buổi diễn. Âm nhạc rối nước mang tính hội hè, tác động mạnh đến cả người diễn lẫn người
xem. Những làn điệu dân ca Đồng bằng Bắc Bộ được thể hiện qua giọng ca ngọt ngào, mộc mạc
và đằm thắm đã thổi hồn vào dàn rối nước tạo nên bức tranh làng quê sinh động, phản ánh không
khí sôi động của đời sống lao động, sản xuất, lễ hội… đậm đà bản sắc.
Phường múa rối nước Hồng Phong có nhiều tích trò hấp dẫn trong dân gian như: múa tễu
giáo đầu, múa rồng, múa tiên, chọi trâu, câu ếch, cáo bắt vịt… Bên cạnh đó là một số tích trò đương
đại như: đền ơn đáp nghĩa, bảo vệ an ninh, chống mất cắp cổ vật, tiếng trống phủ Hạ Hồng.
Đặc sắc hơn cả là các vở rối cổ, rối dây mà điển hình là tích trò “Thần Kim quy dâng lửa đốt
lá súy”, cầu phúc, cầu an cho dân làng, trong tích trò có pháo thăng thiên bay lên, đó là hiệu lệnh
bật cờ cho sân khấu rối nước...
Phường thường xuyên tổ chức biểu diễn các tiết mục tại địa phương và tổ chức lưu diễn phục
vụ khách du lịch trong nước và quốc tế. Sự độc đáo và hấp dẫn của múa rối nước Hồng Phong đã
thu hút rất nhiều đoàn khách Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Đức, Australia, Canada… về địa phương.
Nhiều công ty lữ hành ở các tỉnh, thành phố đã ký kết hợp đồng biểu diễn phục vụ khách quốc tế
với Phường rối nước Hồng Phong.
Huyện cũng đã xây dựng hồ sơ đề nghị công nhận điểm du lịch nghệ thuật múa rối nước
Hồng Phong, nhằm phát huy giá trị nghệ thuật rối nước, quảng bá một loại hình văn hóa đặc sắc
của làng quê, góp phần nâng cao thu nhập cho các nghệ nhân và xây dựng nông thôn mới khang
trang hiện đại, giàu bản sắc văn hóa.
Câu 7 (04 điểm): Anh (chị) hãy cho biết hát Chầu Văn thuộc thể loại âm nhạc gì? Hãy trình
bày các thành phần tham gia, các hình thức và đặc điểm nghệ thuật của hát Chầu Văn?
Hát văn, còn gọi là chầu văn, hát hầu đồng, hát bóng, là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền của việt nam.
Các thành phần tham gia:
+ những người tham gia thực hành nghi lễ lOMoAR cPSD| 60857655
Ông (bà) đồng. những người tham gia đội ngũ ông (bà) đồng phần lớn có hoàn cảnh éo le như bị
bệnh kết tóc, bị điên, bị rơi vào trạng thái ngây ngất, bị ốm, chữa lâu ngày mà không khỏi. Cũng
có người làm lễ hầu bóng để cầu mongv cuộc sống tốt đẹp, làm ăn suôn sẻ
Nếu ai căn cao, số nặng, ốm đau, bị chấm đồng thì phải làm lễ hầu trình đống sau buổi lễ, con
nhang chính thức trở thành đồng tân. Sau 3 năm kể từ lễ hầu trình đồng, đồng tân sẽ làm lễ hầu tạ
tứ phủ và trở thành đồng thuộc.
Khi có đồng được nhiều năm, thành thạo lễ nghi hầu thánh được gọi là đồng cựu + cung văn
Những người đảm nhận phần âm nhạc trong tín ngưỡng thờ tứ phủ nói chung, nghi lễ hầu bóng nói riêng gọi là cung văn
Hát văn thường do 2 cung văn đảm nhiệm: một người chơi đàn nguyệt, người còn lại đảm nhiệm
các nhạc cụ gõ, 2 người thay nhau hát.
Các hình thức hầu bóng:
- Hầu chứng gồm: hầu tiễn căn, hầu trình đồng
- Hầu độc lập gồm: hầu tứ quý, hầu tiệc Đặc điểm
- Ca từ: thường được lưu truyền bằng hình thức truyền miệng, một số bản được chép lại bằng
hán – nôm hoặc chữ quốc ngữ. hát chầu văn là 1 lối hát ca ngợi vẻ đẹp của các vị thánh trong đạo
mẫu tứ phủ. Nhìn chung, phần lớn các giá văn đều nói chung chung về công việc của chư vị ở cõi
siêu nhiên với những phép thuật mà người trần phải sợ oai và kính phục. Các thể thơ chủ yếu là
thơ lục bát và song thất lục bát
- Âm nhạc: Sự hình thành, lưu truyền, bổ sung, giao thoa, biến hóa của các dạng thức nghệ
thuật dân gian của dân tộc nói chung, trong đó có nghệ thuật hát Chầu văn là cả quá trình lâu dài,
phức tạp. Về âm nhạc, đến nay nghệ thuật hát Chầu văn đã trải qua nhiều sự biến đổi, thêm bớt về
tiết tấu, điệu thức. Trong âm nhạc, hát Chầu văn ở miền Bắc có những làn điệu quen thuộc của hát
Chèo, Ca trù, hát Xẩm xoan... Ngày nay, nhiều trường hợp người ta sử dụng những chất liệu âm
nhạc đặc trưng Chầu văn để cấu trúc thành những tổ khúc mới.
- Cách hát: Tên gọi Hát văn cũng cho thấy tầm quan trọng của nhạc hát. Hát văn chủ yếu do
cung văn là nam giới đảm nhiệm. Trong buổi hầu bóng, nếu có hai cung văn thì người chơi đàn
nguyệt thường đảm nhiệm vai trò hát chính, người đánh nhịp với vai trò hát phụ. Hai cung văn có
thể luân phiên nhau hát hoặc người xướng, người xô (trong làn điệu Chèo đò, Lý tam thất), hoặc
đồng ca (trong làn điệu Dọc, Cờn luyện v.v.). Đồng ca, ngoài việc tăng âm lượng, thêm phần nhộn
nhịp còn thể hiện sự tập luyện công phu của những cung văn đã đi hát với nhau qua nhiều năm.
- Hệ thống bài bản, làn điệu Nếu trong Hát văn thờ, bài bản được gọi là bản văn sự tích, thì
trong Hát văn hầu, bài bản được gọi là bản văn chầu nhằm phục vụ cho một giá đồng. Nếu tính về
thời lượng thì bản văn sự tích dài hơn bản văn chầu, còn tính về số lượng thì bản văn chầu nhiều
hơn bản văn sự tích. Để khắc hoạ chân dung, tính cách, công lao của các vị Thánh, Hát văn hầu đã
vận dụng một hệ thống làn điệu phong phú. Hệ thống làn điệu của Hát văn lên tới gần 40 làn điệu.
Chúng được chia thành bốn nhóm làn điệu chính, là nền tảng của âm nhạc Hát văn hầu, đó là: nhóm
làn điệu Dọc, nhóm làn điệu Cờn, nhóm làn điệu Phú và nhóm làn điệu Xá. Riêng số lượng làn
điệu của bốn nhóm này đã lên tới con số hơn 20. Ngoài ra, là nhóm những làn điệu khác, những
làn điệu này góp phần làm phong phú, giàu có cho âm nhạc Hát văn hầu. lOMoAR cPSD| 60857655
- Kết cấu lời ca Là một thể loại hát thơ nên trong Hát văn hầu có mối quan hệ khăng khít
giữa câu thơ và câu nhạc, câu thơ có ảnh hưởng không nhỏ tới hình thành câu nhạc cũng như kết
cấu lời ca. Đặc điểm kết cấu lời ca cũng là một trong những yếu tố giúp nhận diện làn điệu. Lời ca
trong Hát văn hầu được kết cấu theo trổ hát, giữa mỗi trổ là đoạn lưu không. Cách phổ thơ Cách
phổ thơ của Hát văn hầu dựa trên các thủ pháp: xuôi chiều, vay trả, nhắc lại, lặp lại từ hoặc cụm
từ, sử dụng từ phụ. Thủ pháp xuôi chiều nghĩa là hát đúng theo thứ tự vốn có của lời ca. Thủ pháp
này được sử dụng trong các làn điệu như: Phú nói, Phú chênh, Phú bình, Phú Cờn, Bồng mạc, Sa mạc, Dọc sững v.v.
- Nhạc cụ Nhạc cụ bao gồm đàn nguyệt và các nhạc cụ gõ như phách, cảnh, thanh la, trống
ban. Nhạc đàn với vai trò xuyên suốt, dẫn giọng điệu, nâng đỡ lời ca và luôn nhường vị trí chủ đạo
cho nhạc hát. Với một biên chế nhạc cụ gọn nhẹ nhưng đủ sức đảm nhiệm một buổi Hầu bóng dài
có khi tới 6 đến 7 tiếng đã cho thấy khả năng đáng nể phục của các cung văn.
- Múa hầu bóng được kết hợp với âm nhạc, lời hát văn và các nghi lễ khác, thể hiện sự tái
sinh của thần thánh trong thân xác các ông đồng, bà đồng. Múa hầu bóng thường kèm theo các vật
khác nhau dùng trong cúng lễ, do vậy, có khi người ta gọi tên các động tác múa theo tên vật dùng
khi múa, như múa kiếm, múa cung, múa kích, múa long đao, múa hèo, múa mồi, múa quạt, múa
chèo đò, múa dệt gấm… Múa hầu bóng thường là múa đơn, chỉ trừ múa hầu vui ở Huế là có múa
tập thể, giữa họ đều không có sự phối hợp nào mà thường mọi người múa theo sự phấn khích của
riêng mình. Múa trong hầu bóng đã tiếp thu nhiều động tác múa dân gian, như múa có vũ khí, múa
quạt, múa mồi, múa chèo đò. Nhịp điệu của múa hầu bóng rất nhanh, mạnh.
- Trang phục Trong Chầu văn, trang phục lên đồng rất quan trọng và được cách điệu hóa từ
màu sắc đến hoa văn trang trí. Cung văn và người phụ trách bộ gõ mặc quần áo trắng, áo the, đầu
chít khăn xếp hoặc khăn lượt. Các đồng nam thì áo dài, khăn đỏ. Đồng nữ thì khăn áo màu. Đồng
nam ái nữ thì mặc y phục nữ. Các con nhang đệ tử ai cũng mặc quần áo dài cả. Đó là cách mặc
thông thường đến cửa thánh còn khi ngồi đồng hầu bóng thì trang phục của mỗi vị về đồng lại có
những đặc trưng riêng, từ màu sắc đến kiểu cách.
Câu 8 (03 điểm): Anh (chị) hãy cho biết Cồng chiêng Tây Nguyên thuộc thể loại âm nhạc gì?
Những giá trị của Cồng Chiêng và quan niệm về Cồng Chiêng của người Tây Nguyên?
1. Quan niệm về cồng chiêng của người Tây Nguyên.
Đối với cư dân Tây Nguyên, cồng chiêng chính là vật thiêng. Xuất phát từ tín ngưỡng vạn
vật hữu linh, người Tây Nguyên tin rằng đằng sau mỗi cái cồng chiêng đều có một vị thần trú ngụ.
Cồng chiêng càng cổ thì quyền lực của vị thần đó càng mạnh. Tùy theo niềm tin của từng tộc người,
vị thần chiêng đó là nam hoặc là nữ. Hầu hết các tộc người ở Tây Nguyên quan niệm thần chiêng
là nam. Một số khác, chẳng hạn người Ê Đê theo chế độ mẫu hệ, hoặc người Ba Na ngành Tồ Lồ
thì cho rằng thần chiêng lại là nữ. Sức mạnh thiêng của chiếc cồng chiêng không phải đã có ngay
từ đầu. Người Tây Nguyên không tự mình đúc được cồng chiêng mà phải mua từ nơi khác về. Sau
đó họ chỉnh âm lại để phù hợp với hàng âm của dân tộc mình. Khi đã có được âm thanh mong
muốn, người ta làm lễ hiến sinh mời thần chiêng về trú ngụ trong đó. Từ đó cồng chiêng mới là
một vật thiêng. Là vật thiêng, cho nên âm thanh của cồng chiêng cũng mang tính thiêng. Người
Tây Nguyên sử dụng âm thanh đó như một ngôn ngữ để giao tiếp, cộng cảm với thần linh. Là vật
thiêng, nên chức năng bao trùm của cồng chiêng Tây Nguyên chủ yếu mang chức năng nghi lễ. Là
nhạc cụ nghi lễ, các bản nhạc cồng chiêng trước hết đáp ứng cho yêu cầu của mỗi lễ thức và được
coi như một thành tố hữu cơ của lễ thức đó. Trong mỗi lễ thức, lại có nhiều công đoạn có nhạc cồng
chiêng riêng. Người Tây Nguyên có nhiều lễ thức, tựu trung lại có hai loại: lễ thức vòng đời cây lOMoAR cPSD| 60857655
trồng và lễ thức theovòng đời người. Mỗi dân tộc trong các nghi lễ dùng một biên chế dàn cồng
chiêng riêng và có một hay nhiều bản nhạc riêng. Ví dụ trong nghi lễ cầu mùa và cầu sức khỏe,
nhóm Kpạ của người Ê Đê dùng 9 chiêng 1 trống, còn trong tang ma lại dùng 2 chiêng núm 1
chiêng bằng. 2. Những giá trị cơ bản
Cồng chiêng Tây Nguyên có giá trị hết sức to lớn. Có thể kể ra một số giá trị như sau:
+ Giá trị biểu thị đặc trưng văn hoá âm nhạc vùng, tộc người, nhóm tộc người.
+ Là nhạc khí quan trọng biểu thị đặc trưng văn hoá âm nhạc của vùng Trường Sơn – Tây
Nguyên (thể hiện ở cách dùng cồng chiêng theo bộ chiếm ưu thế).
+ Biểu thị đặc trưng văn hoá tộc người hoặc nhóm tộc người (thể hiện qua cách dùng, cách
ứng xử với cồng chiêng, tên gọi, đặc trưng âm nhạc…).
+ Giá trị sử dụng đa dạng: là công cụ hỗ trợ săn bắn, phương tiện thông tin, truyền lệnh,
phương tiện giao cảm với thế giới siêu nhiên, là nhạc khí.
+ Giá trị vật chất, biểu thị sự giàu có.
+ Giá trị tinh thần (là của gia bảo, là nhạc cụ thiêng, là vật thể hiện quyền uy).
+ Giá trị cố kết cộng đồng( có tính tập thể và khả năng cộng cảm cao).
+ Giá trị lịch sử (là bằng chứng của truyền thống âm nhạc có lịch sử lâu đời).
+ Giá trị nghệ thuật: Có khả năng đảm nhiệm mọi chức năng âm nhạc: Dùng để đệm cho
múa; dùng để hoà tấu trong các dàn nhạc với đủ chức năng: đi tiết tấu, đi giai điệu, đi bè trầm, giữ
nhịp…; Có khả năng thực hiện các thể loại nhạc khác nhau và có khả năng thể hiện những hình
tượng và đặc tính âm nhạc đa dạng. Giá trị nghệ thuật cồng chiêng Tây Nguyên còn biểu hiện ở
nghệ thuật diễn tấu (các kỹ thuật tạo âm; nghệ thuật phối hợp tập thể). Những nguyên tắc cấu trúc
của cồng chiêng Tây Nguyên đã định hình chặt chẽ. Đây là một dạng nguyên mẫu âm nhạc.
+ Giá trị phản ánh đa chiều: Không gian văn hoá cồng chiêng là tấm gương phản chiếu nhiều
phương diện của người dân Tây Nguyên. Qua đó ta có thể thấy: vũ trụ quan (nổi bật là nguyên lý
cặp đôi âm dương); chế độ xã hội và trình độ phát triển của nó; mối quan hệ xã hội; quan điểm
thẩm mỹ;phong tục tập quán; quan niệm tâm linh, tín ngưỡng; khả năng thẩm âm; tri thức âm nhạc
và trình độ phát triển âm nhạc.
Câu 9 (03 điểm): Anh (chị) hãy trình bày những hiểu biết của mình về Xòe Thái? (địa bàn
diễn xướng, quan niệm về Xòe của người Thái, phân loại và đặc trưng nghệ thuật của Xòe Thái)
Theo các nhà nghiên cứu và thực tiễn diễn xướng dân gian tại các vùng như: Nghĩa Lộ,
Mường Lò (Yên Bái), Mường So, Phong Thổ (Lai Châu), Mường Lay, Mường Thanh (Điện Biên),
Quỳnh Nhai, Thuận Châu (Sơn La)... thì múa xòe ra đời từ xa xưa, gắn liền với cuộc sống mưu
sinh, lao động, chinh phục tự nhiên và đời sống tinh thần của đồng bào Thái Tây Bắc.
Xòe Thái cũng có rải rác ở các tỉnh Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, tuy nhiên không phải là hiện tượng phổ biến. Quan niệm
Người Thái quan niệm "Không xòe không tốt lúa, không xòe thóc cạn bồ". Múa xòe là biểu tượng
tình yêu của người Thái, từ yêu cuộc sống lao động cần cù đến tình yêu đôi lứa, người Thái hay tổ
chức múa xòe trong hội xuân, hội mùa và hội cưới. Phân loại lOMoAR cPSD| 60857655
Các nhà nghiên cứu quy về ba hình thức chính: Xòe tín ngưỡng (nghi lễ), Xòe biểu diễn, Xòe giải
trí (hay Xòe vòng, Xòe tập thể).
- Xòe tín ngưỡng (nghi lễ)
+ Xòe nghi lễ (tín ngưỡng) thường diễn ra trong các lễ hội bản, mường, gắn với những nghi
thức cúng lễ do các thầy cúng (thầy Tào, Mo, Phựt, Then) thực hiện và những phụ lễ tham gia là
những người "có căn số" do thầy cúng lựa chọn "xòe" theo những bài bản nghi thức đã định như:
múa dâng lễ, múa cầu vong, múa tạ ơn, múa chào mời hồn vía, múa cảm ơn thiên binh cứu mệnh...
- Xòe biểu diễn: đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn hóa, văn nghệ của người dân, thường do
một nhóm nhỏ biểu diễn, còn số đông là khán giả đứng xem, mang tính chất "chuyên môn hóa",
tính trình diễn sân khấu cao. Xòe biểu diễn thường kết hợp với các đạo cụ và được gọi theo tên đạo
cụ như: Xòe khăn, Xòe nón, Xòe quạt, Xòe sạp, Xòe nhạc, Xòe gậy, Xòe chai...
- Xòe giải trí (Xòe vòng hoặc Xòe tập thể): là loại Xòe tập thể không có người biểu diễn và
người xem, mà tất cả đều tham gia không phân biệt nam nữ, trẻ già, trên dưới. Các vòng tròn có
thể mở rộng, nối dài, liêt kết nhiều vòng Xòe một cách linh hoạt. Những cuộc Xòe như vậy thường
được tổ chức trong phần kết thúc các cuộc vui, sự kiện, lễ hội hay các hình thức sinh hoạt thường
nhật như ngày lễ, sinh nhật, tân gia, cưới xin... Đặc trưng nghệ thuật
- Xòe vòng: được xuất hiện trong các nghi lễ mừng xuân, được mùa, lên nhà mới, cưới xin,
các cuộc liên hoan trên nhà sàn, quanh đống lửa.
+ Động tác múa xoè vòng chỉ gồm một bước nhảy thường với đội hình vòng tròn đơn giản.
Nếu đông người thì múa thành 2 vòng tròn, vòng trong nhỏ và vòng ngoài lớn. Hai vòng xoay ngược chiều nhau.
+ Nhạc cụ dùng để đệm trong múa xòe vòng thường có: 1 chiếc trống, 2 hoặc 3 chiếc chiêng,
một đôi chũm chọe và mấy ống tre. Nhiều nơi còn dùng pí, khèn bè, tính tẩu và đặc biệt là hát đối
đáp có láy dưới sau mỗi câu hát. Giai điệu và tiết tấu âm nhạc đơn giản, câu nhạc ngắn, lặp đi lặp
lại nhưng có sức lôi cuốn mạnh mẽ.
+ Xòe vòng được sử dụng linh hoạt rộng rãi nhằm thỏa mãn đời sống văn hóa tinh thần của
đồng bào dân tộc Thái. Đó là một phương tiện giao tiếp tốt, một sản phẩm tinh thần quý giá trong
đời sống xã hội, nó không còn là riêng của người Thái mà trở thành tài sản chung của nhân dân vùng Tây Bắc.
- Xòe biểu diễn (Xòe điệu): Nhạc cụ chính đệm cho xòe biểu diễn là tính tẩu, kèn, trống và
chũm chọe. Trong đó các nhà nghiên cứu chỉ ra 4 điệu cơ bản:
+ Xòe khăn: Là lễ múa Then. Loại khăn dài có ở vùng dân tộc Tày, Nùng, Thái. Nhưng kỹ
thuật múa đạo cụ này mỗi dân tộc khác nhau. Ở xòe Thái, khoác lên thân hình đẹp của các cô gái
xòe, chiếc khăn lụa dài đã biến thành những động tác sinh hoạt hàng ngày thành những động tác
múa duyên dáng. Kỹ thuật cơ bản của múa khăn Thái là đứng vung khăn ra đằng trước và ngồi
vung khăn. Ở Phong Thổ (Lai Châu) còn có động tác vung khăn quàng sau lưng, 2 tay cầm 2 đoạn
đầu khăn để cùng chụm vào và vẫy ra.
+ Xòe nón: Đầu tiên là một thể nghiệm bằng múa nam. Nhưng thực tế cho thấy nam mà muốn
nón thì không lột tả được vẻ đẹp của loại múa đạo cụ này, nên phụ nữ lại được dạy. Đạo cụ nón và
trang phục múa nữ Thái rất hợp với nhau, chất lượng nghệ thuật của điệu múa nón hơn hẳn. Từ đó lOMoAR cPSD| 60857655
trở đi múa nón trở thành múa nữ đông người. Múa nón có các động tác chính: đưa nón sang 2 bên
người; nhún ngang đưa nón sau gáy; nghiêng nón 2 bên đầu; lao nón; xoay nón trên đầu; ngồi chống nón trước mặt;
+ Xòe quạt: Múa quạt có 2 kiểu: múa một quạt và múa 2 quạt. Múa một quạt thường đi đôi
với khăn; người múa cầm quạt xoè ở tay phải và khăn gập đôi) ở tay trái. Múa hai quạt thì cầm quạt
xoè ở hai tay. Quạt lúc xòe, lúc gập.
+ Xòe nhạc: Có hai kiểu đan xen là: từng đôi đối diện đi vào giữa vòng tròn, vòng qua nhau
rồi đổi chỗ, nam với nam - nữ với nữ múa cùng nhau; từng khối 4 người (dàn thành hai hàng đối diện) đan vòng qua nhau.
* Đặc điểm xòe biểu diễn:
Trừ xòe nhạc, còn lại các loại xoè khác đều là múa nữ. Xòe Thái nhẹ nhàng, uyển chuyển, sự phối
hợp động tác chân, tay và thân trên đều rất khỏe, có được đặc tính này là do những đặc điểm về động tác sau:
+ Chân nhảy không cao, không bước rộng
+ Nhún nẩy không hết đà + Bước nhẹ êm + Tay vung không hết đà
+ Khi quỳ gối ngửa người, không uốn lưng vì sợ hở bụng
+ Hiếm có những động tác vặn vẹo, uốn người trong múa nữ và động tác quay tay, nhảy lớn trong múa nam.
+ Đối với đạo cụ: đường khăn phải uốn lượn cho khéo khi vung lên, phải như sóng lượn
khi chao khăn. Chiếc khăn phải tạo dáng cho người múa.
Xòe biểu diễn đều là múa không tình tiết, mà đều mang tính đồng diễn. Bốn loại đạo cụ
này làm cho múa nữ của dân tộc Thái trở nên phong phú và đa dạng.