

















Preview text:
lOMoAR cPSD| 48599919 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ HỌC MÁC - LÊNIN
Hà Nội, ngày 18 tháng 12 năm 2023 PHÊ DUYỆT
PHÓ CHỦ NHIỆM KHOA
Đại tá Đỗ Văn Trịnh
CIVICUS và cái nhìn lệch lạc về xã hội dân sự ở Việt Nam
CIVICUS là tên viết tắt của tổ chức “Liên minh toàn cầu vì sự tham gia của công
dân”, một tổ chức phi chính phủ được thành lập ở Nam Phi. Những năm gần đây,
CIVICUS liên tục có những nhận định, đánh giá thiếu khách quan, sai lệch bản chất về
vấn đề dân chủ, nhân quyền nói chung, về xã hội dân sự ở Việt Nam nói riêng. Mới đây,
CIVICUS lại đưa ra cái gọi là “xếp hạng về không gian xã hội dân sự và quyền tự do
dân chủ”, trong đó đánh giá lệch lạc, méo mó, thậm chí xuyên tạc vấn đề xã hội dân sự ở Việt Nam.
Xã hội dân sự và xã hội dân sự ở Việt Nam
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về xã hội dân sự. Theo một số học giả và tổ
chức nước ngoài, khái niệm xã hội dân sự xuất hiện sớm nhất ở nước Anh, và được
hiểu là việc những con người sống trong cộng đồng. Theo lý thuyết của Scottish (thế
kỷ XVIII), xã hội dân sự có nghĩa là xã hội văn minh với một nhà nước không độc đoán.
Đến thế kỷ XIX, Hegel mô tả xã hội dân sự như là một phần của đời sống đạo
đức, bao gồm ba yếu tố gia đình, xã hội dân sự và nhà nước, trong đó các cá nhân theo
đuổi những lợi ích riêng trong giới hạn đã được pháp luật thừa nhận... Còn theo
CIVICUS, xã hội dân sự là "diễn đàn giữa gia đình, nhà nước và thị trường, nơi mà mọi
con người bắt tay nhau để thúc đẩy quyền lợi chung".
Trên cơ sở quan điểm của C.Mác, cùng với sự tổng kết các quan điểm về xã hội
dân sự, Trung tướng, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Yêm, nguyên Giám đốc Học viện
Cảnh sát nhân dân đã khái quát về xã hội dân sự: Xã hội dân sự là tập hợp các mối quan
hệ (và thiết chế tương ứng đi kèm) giữa các cá nhân trong khuôn khổ của một quốc gia-
dân tộc (Nation-State), được xác định với những đặc tính cơ bản như: Tính tự nguyện,
tính phi lợi nhuận và tính tự quản. Xã hội dân sự được xem là lĩnh vực nằm cạnh và độc
lập với thị trường và nhà nước.
Tuy có nhiều khái niệm khác nhau, song điểm chung của các khái niệm đó là nếu
không có tổ chức phi chính phủ thì không thể hình thành xã hội dân sự. Hiện nay tại
Việt Nam có 3 loại hình tổ chức phi chính phủ phổ biến là: Các tổ chức phi chính phủ
mang tính quốc gia; tổ chức phi chính phủ mang tính quốc tế và tổ chức phi chính phủ
mang tính chất chính phủ. Theo thống kê đến cuối năm 2022 đã có hơn 900 tổ chức phi
chính phủ nước ngoài có quan hệ và hoạt động tại Việt Nam và hơn 101.000 tổ chức phi
chính phủ Việt Nam đã và đang hoạt động. lOMoAR cPSD| 48599919
Ngoài ra, để đáp ứng đòi hỏi các hiệp định thương mai tự do (FTA), Việt Nam đã
sửa đổi Bộ luật Lao động, có hiệu lực từ ngày 01/01/2021, theo đó người lao động có
quyền thành lập, tham gia các tổ chức công đoàn độc lập, các tổ chức của người lao
động theo quy định của pháp luật. Điều 25 Hiến pháp quy định: “Công dân Việt Nam
có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình.
Việc thực hiện quyền này do pháp luật quy định”.
Để cụ thể hóa Hiến pháp và các luật, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy
phạm pháp luật như: Nghị định số 45/2010/NĐ-CP, ngày 21/4/2010 về Quy định về tổ
chức, hoạt động và quản lý hội; Nghị định số 93/2019/NĐ-CP, ngày 25/11/2019 về tổ
chức, hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện; Nghị định 80/2020/NĐ-CP, ngày 08
/7/2020 về Quản lý và sử dụng viện trợ không hoàn lại không thuộc hỗ trợ phát triển
chính thức của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài dành cho Việt Nam; Nghị định
số 58/2022/NĐ-CP, ngày 31/8/2022 về đăng ký và quản lý hoạt động của các tổ chức
phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam...
Như vậy, có thể thấy pháp luật Việt Nam luôn tôn trọng quyền lập hội, nếu các
hội ấy thực sự vì quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và tuân thủ quy định pháp luật.
Cái nhìn lệch lạc của CIVICUS
Trở lại cái gọi là “xếp hạng về không gian xã hội dân sự và quyền tự do dân chủ”,
trong đó CIVICUS xếp Việt Nam vào danh sách có không gian xã hội dân sự và quyền
tự do dân chủ “bị đóng kín” hay “closed”. CIVICUS cho rằng: “Tại Việt Nam, hàng
trăm trang web đã bị chặn và chính quyền đã gây áp lực lên các nền tảng truyền thông
xã hội để tăng cường kiểm duyệt các bài đăng chống Nhà nước”.
Ở Việt Nam, hơn 100 các nhà bảo vệ nhân quyền vẫn đang bị giam cầm với các
cáo buộc bịa đặt là “Tuyên truyền chống Nhà nước” và “Lợi dụng các quyền tự do dân
chủ”. Gần đây hơn, điều luật “Trốn thuế” đã được sử dụng để bỏ tù những người bảo vệ nhân quyền...
Đây thực sự là một cái nhìn lệch lạc, méo mó về xã hội dân sự ở Việt Nam. Nếu
nói về xã hội dân sự ở Việt Nam thì Mặt trận Tổ quốc là tổ chức xã hội dân sự lớn nhất.
Cùng với đó là các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc; các tổ chức chính
trị-xã hội-nghề nghiệp như: Hội Luật gia Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam, Hội Nhạc
sĩ Việt Nam, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp các Hội Văn
học nghệ thuật Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Vô tuyến-Điện tử Việt Nam...
Các tổ chức này đã có nhiều đóng góp trong việc phát huy dân chủ, xây dựng cơ
chế, chính sách, pháp luật và thực hiện giám sát, phản biện xã hội đối với các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước; chủ động tham gia cung ứng dịch vụ công, hỗ trợ
cho hoạt động của Chính phủ trong việc phân phối và nâng cao chất lượng dịch vụ, giải
quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo..., góp phần phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, trên danh nghĩa là tổ chức nhân quyền, CIVICUS lại không quan tâm
đến thực tế hoạt động của các tổ chức nói trên để từ đó có những xem xét, đánh giá chân
thực, đúng đắn về xã hội dân sự ở Việt Nam, mà chỉ tập trung bảo vệ một số tổ chức, cá
nhân đội lốt xã hội dân sự đã và đang có hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam.
Điển hình như phạm nhân Trương Văn Dũng bị phạt tù về tội "Tuyên truyền
chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam", quy định tại Điều 88 Bộ luật
Hình sự lại được CIVICUS gắn cho cái mác là “nhà hoạt động vì quyền đất đai” cho có
vẻ là xã hội dân sự. Hoặc bị cáo Phan Sơn Tùng bị tuyên phạt 6 năm tù về tội “Làm,
tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống phá Nhà lOMoAR cPSD| 48599919
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, theo quy định tại Điều 117 Bộ luật Hình
sự nhưng CIVICUS gắn cho cái mác là nhà hoạt động. CIVICUS cũng thừa nhận Phan
Sơn Tùng có “chủ trương thành lập nhóm đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền”...
Không cho phép đội lốt xã hội dân sự để chống phá
Có thể thấy, hiện nay, các thế lực thù địch xem việc thành lập, củng cố các tổ
chức đội lốt xã hội dân sự là một hướng đi mới, là một trong những phương thức tác
động cơ bản của chiến lược “diễn biến hòa bình” với mưu đồ xóa bỏ vai trò lãnh đạo
của Đảng, thay đổi thể chế chính trị tại Việt Nam.
Mục tiêu của các thế lực thù địch là lợi dụng vấn đề xã hội dân sự tìm cách thúc
đẩy sự xuất hiện các lực lượng, tổ chức chính trị đối lập, làm suy yếu sự quản lý của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Các thế lực thù địch cho rằng, hình thành “xã hội dân sự độc lập về chính trị” là
một “lối thoát” cho sự ra đời công khai, hợp pháp của các tổ chức, lực lượng chính trị
đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam, buộc Việt Nam phải chấp nhận đa nguyên chính
trị, đa đảng đối lập. Chúng ra sức cổ vũ cho hình thành ở Việt Nam một mô hình “xã
hội dân sự độc lập về chính trị” kiểu phương Tây, nằm ngoài sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, thoát ly khỏi sự quản lý của Nhà nước.
Thực hiện âm mưu đó, các thế lực thù địch đã và đang triệt để lợi dụng tính chất
chính trị, xã hội phức tạp của “xã hội dân sự” để tác động vào hệ thống chính trị và các
tầng lớp nhân dân bằng nhiều phương thức khác nhau, từ tuyên truyền lừa bịp, thổi
phồng, cường điệu hóa vai trò của xã hội dân sự, cung cấp tài chính, phương tiện hoạt
động đến gây sức ép với Đảng, Nhà nước ta trong quan hệ đối ngoại.
Các đối tượng chống đối nhân danh chiêu bài “xã hội dân sự”, “dân chủ”, “nhân
quyền”... để tập hợp lực lượng, lập hội, nhóm với tên gọi, khẩu hiệu, tôn chỉ, mục đích
dễ gây “ấn tượng” với thị hiếu của từng nhóm xã hội nhất định, như “Diễn đàn xã hội
dân sự”, “Hội tù nhân lương tâm”, “Hội phụ nữ nhân quyền”, “Hội bầu bí tương thân”,
“Hội nhà báo độc lập”, “Hội anh em dân chủ”...
Để góp phần phòng, chống âm mưu lợi dụng vấn đề xã hội dân sự chống phá
Đảng và Nhà nước, chúng ta cần đề cao cảnh giác, tăng cường công tác nghiên cứu khoa
học, tổng kết thực tiễn, tiến hành các hoạt động tuyên truyền về âm mưu, ý đồ của các
thế lực thù địch lợi dụng vấn đề xã hội dân sự để tác động chuyển hóa chính trị. Đảng,
Nhà nước cần ban hành các chủ trương, chính sách, xây dựng hệ thống văn bản pháp
luật phù hợp, điều chỉnh hoạt động của các tổ chức chính trị, xã hội phù hợp với định
hướng phát triển đất nước. Tăng cường công tác quản lý các tổ chức xã hội, không để
các thế lực thù địch lợi dụng. Đặc biệt, đấu tranh, ngăn chặn, xử lý kịp thời hoạt động
của các thế lực thù địch bên ngoài câu kết, hậu thuẫn cho số đối tượng chống đối trong
nước thành lập các tổ chức phản động dưới danh nghĩa, vỏ bọc xã hội dân sự. lOMoAR cPSD| 48599919 lOMoAR cPSD| 48599919 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ HỌC MÁC - LÊNIN
Hà Nội, ngày 18 tháng 12 năm 2023 PHÊ DUYỆT
PHÓ CHỦ NHIỆM KHOA
Đại tá Đỗ Văn Trịnh
Phủ nhận sạch trơn: Tổ mối trong thân đê ngăn lũ
Cùng với sự chống phá của các thế lực thù địch, thì một trong những biểu hiện
nhanh chóng dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên (CB, ĐV)
đó là tuyệt đối hóa vai trò, ý chí của bản thân trong cải tạo thực tiễn, đốt cháy giai đoạn,
bất chấp quy luật khách quan. Khi thực tiễn không đáp ứng được yêu cầu ý chí chủ quan
của mình, thế là họ quay sang phủ định lý tưởng phấn đấu mà mình đã theo đuổi, phủ
nhận sạch trơn toàn bộ sự nghiệp, thành quả cách mạng của nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng, phụ họa cho những thế lực phản động chống phá đất nước.
Xin nêu một ví dụ về sự “phủ nhận sạch trơn” để làm rõ hơn từ mối nguy hại.
Chúng ta phải công nhận với nhau rằng: Trước sự phát triển mạnh mẽ của các loại hình
thông tin, Đài truyền thanh cơ sở (hay gọi là loa phường) vẫn giữ vai trò quan trọng
trong đời sống xã hội với những ưu điểm mà không có loại hình truyền thông nào thay
thế được. Đặc biệt, từ đầu năm 2021 đến nay, hệ thống truyền thanh cơ sở càng thể hiện
tốt vai trò trong việc tuyên truyền về công tác phòng, chống dịch Covid19 và góp phần
vào thành công của cuộc bầu cử. Trên địa bàn Thủ đô những năm gần đây, hệ thống loa
phường ngày càng phát huy tối đa vai trò tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; phản ánh các thông tin thời sự; thông báo các sự
cố, tình huống đặc biệt khẩn cấp như thiên tai, bão lũ, phòng, chống dịch bệnh đến người
dân. Đấy còn chưa kể trong quá khứ, nhờ có cảnh báo từ loa phường mà hàng ngàn đồng
bào, cán bộ, chiến sĩ Thủ đô biết được để phòng tránh, bảo vệ an toàn tính mạng, tài sản
trước những đợt đánh phá ác liệt của máy bay Mĩ. Nhận thức được tầm quan trọng và
hiệu quả của hệ thống truyền thanh cơ sở với đời sống kinh tế -xã hội, ngày 7/9/2021,
Bộ Thông tin và Truyền thông đã ra quyết định phát triển thông tin cơ sở giai đoạn 2020-
2025, trong quyết định cũng khẳng định: Thông tin cơ sở phát huy được vai trò là một
kênh thông tin thiết yếu, có lợi thế nhất ở cơ sở: Gần dân, sát dân, tuyên truyền hiệu quả
đến người dân, nhất là ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải
đảo, mà không có kênh truyền thông nào có thể làm được với số lượng người được tiếp
cận thông tin rất đông đảo đến khoảng 80 triệu người dân. Thế nhưng, thời gian qua chỉ
vì một vài ý kiến nhỏ lẻ, thuộc về “thiểu số” cho rằng “loa phường không còn phù hợp
với người dân Thủ đô”, rồi được một số tờ báo mạng cổ xúy, thế là tạo nên một trào lưu
“phủ nhận sạch trơn” loa phường, bị tẩy chay, lên án, làm mất giá trị quý báu của nó.
Thật buồn không kém, khi cái cách “phủ định sạch trơn” ấy lại hiện hữu và đang
tồn tại trong đời sống một bộ phận CB, ĐV. Và chúng ta không khó để nhận ra, có những
CB, ĐV mới ngày nào còn thề trung thành với Đảng, với cách mạng nay bỗng quay lOMoAR cPSD| 48599919
ngoắt lại, trở thành con người khác. Họ lên tiếng phản bác, phủ nhận những gì trước đây
họ từng ủng hộ, cho là đúng, là phải. Những biểu hiện cụ thể là phản bác, phủ nhận Chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng. Phản bác,
phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phủ nhận kết quả đấu tranh phòng, chống
tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta. Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về
mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang, đòi “phi chính trị hóa” quân đội và công
an, cổ xúy cho tư tưởng dân chủ cực đoan, thổi phồng mặt trái của xã hội, kích động tư
tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ.
Theo quan điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác- Lênin, quá trình vận
động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan là quá trình liên
tục thực hiện những bước phủ định kế tiếp nhau. Sự phủ định ấy không chỉ đơn thuần là
thủ tiêu, phá hủy cái cũ, mà còn là sự giữ lại và phát triển những nhân tố tích cực đã có,
tức là kế thừa. Trong quá trình phát triển, giữa cái cũ và cái mới, sự vật cũ và sự vật mới
bao giờ cũng có mối liên hệ ràng buộc, tương tác qua lại, xâm nhập vào nhau, chuyển
hóa lẫn nhau và làm tiền đề của nhau. Cái cũ, sự vật cũ khi mất đi không có nghĩa là mất
đi hoàn toàn, mà trong nó vẫn được bảo tồn và giữ lại những yếu tố tích cực, những hạt
nhân hợp lý để tạo tiền đề, nền tảng cho sự phát triển tiếp theo. Thực chất nó là khâu
trung gian liên hệ giữa cái cũ, sự vật cũ với cái mới, sự vật mới. Ngược lại, cái mới, sự
vật mới phát triển cao hơn không phải từ hư vô, trên mảnh đất trống không, mà là kết
quả phát triển hợp quy luật từ những gì hợp lý của cái cũ, sự vật cũ; là kết quả của sự
đấu tranh và kế thừa tất cả những yếu tố còn tích cực của cái cũ, sự vật cũ. Cái mới ra
đời và phát triển trên cơ sở tiếp nối những yếu tố tích cực và loại bỏ những yếu tố tiêu cực của cái cũ.
Nên trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá XII của Đảng cũng đã chỉ ra
biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” rõ nhất là quan điểm, tư tưởng phản bác,
phủ nhận những vấn đề chính trị cốt tử của Đảng và thể chế chính trị-xã hội ở nước ta,
từ chủ nghĩa Mác-Lênin đến các nguyên tắc tổ chức của Đảng. Chính từ sự “phủ nhận
sạch trơn” đó cuối cùng sẽ đưa tới những hành động sai trái là đòi thực hiện “đa nguyên,
đa đảng”; nói, viết, làm trái quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
bất mãn, chống đối chính quyền; đặc biệt trong giai đoạn bùng nổ công nghệ thông tin
hiện nay nhiều đối tượng trong đó có CB, ĐV đã lợi dụng các phương tiện truyền thông
nhất là mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây
nghi ngờ, chia rẽ nội bộ, truyền bá tư tưởng phản động.
Do đó, cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp tiếp tục quán triệt và triển khai đồng bộ các
giải pháp thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị về tăng
cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái,
thù địch trong tình hình mới. Thường xuyên giáo dục, quán triệt cho CB, ĐV và nhân
dân nhận thức đầy đủ, sâu sắc mục tiêu, quan điểm và các nhiệm vụ, giải pháp cơ bản
tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan
điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức,
trách nhiệm và phát huy vai trò của hệ thống chính trị, CB, ĐV, trước hết là cấp ủy, tổ
chức đảng, người đứng đầu các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chủ động đấu tranh phản
bác có hiệu quả quan điểm sai trái, thù địch. Đổi mới mạnh mẽ, hiệu quả nội dung,
chương trình giáo dục chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền tảng
tinh thần của toàn xã hội, xây dựng cho CB, ĐV niềm tin khoa học vào đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thắng lợi của công cuộc đổi lOMoAR cPSD| 48599919
mới đất nước. Đồng thời cung cấp kịp thời những thông tin nhằm nhận diện đúng các
âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trong tình hình mới, qua đó tăng
cường sức đề kháng, nâng cao cảnh giác và tinh thần chủ động trong đấu tranh. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ HỌC MÁC - LÊNIN
Hà Nội, ngày 18 tháng 12 năm 2023 PHÊ DUYỆT
PHÓ CHỦ NHIỆM KHOA
Đại tá Đỗ Văn Trịnh
Phê phán quan điểm cho rằng: “Bản chất kinh tế thị trường ở Việt
Nam không khác gì so với ở các nước tư bản chủ nghĩa”
Thượng tá, TS Đỗ Hồng Quân
Hiện nay, một số học giả tư sản cho rằng: bản chất kinh tế thị trường (KTTT)
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không khác gì so với kinh tế thị trường ở các
nước tư bản chủ nghĩa. Thực chất, đây là quan điểm sai trái, xuyên tạc, chống phá chủ
trương, đường lối phát triển kinh tế ở nước ta. Trên cả phương diện lý luận và thực tiễn
đã chứng minh, tính ưu việt của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, điều mà các
nước tư bản chủ nghĩa không bao giờ có được.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế đặc thù trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, chưa có tiền lệ trong nền kinh tế thế
giới. Vì vậy, việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta là quá trình vừa làm, vừa rút kinh nghiệm để có mô hình kinh tế phù hợp với điều
kiện Việt Nam và hội nhập quốc tế.
Qua các kỳ đại hội, quan niệm về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng đã chỉ rõ: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng
quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường
hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất
nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh
tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển
phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội”.
Bản chất của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được phản ánh thông qua các biểu hiện:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, trước hết là nền kinh
tế thị trường đầy đủ, vận động tuân theo các quy luật của thị trường. Giống như mọi nền lOMoAR cPSD| 48599919
kinh tế thị trường, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam vận hành
theo các quy luật thị trường, gồm: Quy luật giá trị Quy luật cung - cầu; Quy luật cạnh
tranh; Quy luật lưu thông tiền tệ.
Tuy nhiên, khác với các nước tư bản chủ nghĩa, trong kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh
tế cũng như quản lý của Nhà nước ngoài nguyên tắc tuân thủ các quy luật thị trường còn
hàm chứa, gắn với và hướng tới những giá trị cơ bản của chủ nghĩa xã hội.
Những giá trị căn bản của chủ nghĩa xã hội thể hiện ở các khía cạnh như:
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam có sự quản lý của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa định hướng và điều tiết
nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường.
Bản chất của Nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dựa trên nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức. Trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò
của Nhà nước thể hiện rõ ở việc: “định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế,
tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ,
chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc
đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong
từng bước, từng chính sách phát triển”.
Thứ hai, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng
Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam, là điều kiện chính trị tiên quyết đảm bảo quá trình phát triển kinh tế thực hiện theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng về kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hiện thực hóa trong cuộc sống.
Thứ ba, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.
Nhà nước Việt Nam là tổ chức chính trị của nhân dân, do nhân dân tổ chức ra dưới sự
lãnh đạo của ĐảngCộng sản Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, không chỉ
được phân công, phối hợp mà còn có sự kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Đây là một trong những nguyên tắc nền tảng về tổ chức
quyền lực nhà nước ở nước ta. Bởi nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước,
nên nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là một tất yếu.
Trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhân dân vừa là
chủ thể, vừa là đối tượng phục vụ mà nền kinh tế hướng tới, bởi vì: “Đó là nền kinh tế
được xây dựng ở một chế độ xã hội do nhân dân làm chủ, Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa quản lý, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhằm mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội”.
Thứ tư, xác lập quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp để thúc đẩy phát triển mạnh lực lượng sản xuất.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có quan hệ sản
xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần
kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật.
Ở Việt Nam, thực hiện phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế là nhằm giải phóng sức sản xuất, giải phóng tiềm năng phát triển trong mỗi
thành phần kinh tế, mỗi cá nhân, mỗi vùng miền... là cách để phát huy tối đa nội lực, tạo lOMoAR cPSD| 48599919
sức mạnh tổng hợp để phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế đất nước. Trong nền
kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo định hướng cho sự phát
triển vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Kinh tế nhà
nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu toàn dân (công hữu) về tư liệu sản
xuất; bao gồm các nguồn tài nguyên, khoáng sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
đại diện chủ sở hữu, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các quỹ dự trữ quốc gia,
các quỹ bảo hiểm, hệ thống ngân sách nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước, phần vốn
thuộc sở hữu toàn dân nằm trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác…
Doanh nghiệp nhà nước cũng như doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác đều
phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật.
Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước theo nghĩa thúc đẩy ổn định và phát triển
kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Đồng thời kinh tế nhà nước giữ vị trí then chốt
trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết
vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; là yếu tố vật chất đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của
nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam. “Kinh tế nhà nước là công cụ,
lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước giữ ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều
tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị
trường. Các nguồn lực kinh tế của Nhà nước được sử dụng phù hợp với chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và cơ bản được phân bổ theo cơ chế thị trường”[7].
Đi liền với đó, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn áp
dụng nhiều hình thức tổ chức quản lý và thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết
quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực
khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, thể hiện tính ưu
việt của chủ nghĩa xã hội.
Thứ năm, phát triển nền kinh tế thị trường phải bảo đảm hài hòa giữa tăng trưởng
kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển.
Định hướng xã hội chủ nghĩa phải thể hiện ngay trong từng chính sách, từng kế
hoạch và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Các chính sách, kế hoạch,
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước phải thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ
của từng giai đoạn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; phù hợp với cơ chế thị
trường và đảm bảo tính hiện đại. Tính hiện đại được thể hiện sự kế thừa có chọn lọc
những thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại; các yếu tố của thị trường,
các loại thị trường đồng bộ và vận hành thông suốt, gắn với các nền kinh tế thế giới.
Như vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là một
mô hình kinh tế thị trường cụ thể, là sản phẩm của vận dụng sáng tạo xu thế vận động
của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay, trong đó những yếu tố tích cực được phát
huy cao độ và hạn chế tối đa những khuyết tật tự phát của cơ chế thị trường, nhằm thực
hiện có hiệu quả mục tiêu từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. lOMoAR cPSD| 48599919 lOMoAR cPSD| 48599919 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ HỌC MÁC - LÊNIN
Hà Nội, ngày 18 tháng 12 năm 2023 PHÊ DUYỆT
PHÓ CHỦ NHIỆM KHOA
Đại tá Đỗ Văn Trịnh
Nhận diện thủ đoạn “bất tuân dân sự” ở nước ta
Hiểu theo nghĩa phổ thông, “bất tuân dân sự” là hoạt động phản kháng bất bạo
động nhằm công khai từ chối tuân theo, hoặc vi phạm một cách cố ý và có ý thức các
chủ trương, chính sách, quy định pháp luật, gây cản trở quá trình thực thi chính sách,
luật pháp của Nhà nước. Ở Việt Nam, những năm qua, các thế lực thù địch đã triệt để
sử dụng hoạt động "bất tuân dân sự" nhằm gây mất ổn định an ninh chính trị (ANCT),
trật tự, an toàn xã hội (TTATXH).
Ra đời từ rất sớm (thế kỷ 19), thuật ngữ "bất tuân dân sự" (hay còn gọi là chống
đối chính phủ dân sự) lần đầu tiên xuất hiện trong một bài luận với nhan đề "Dân sự bất
hợp tác" của nhà văn người Mỹ, Henry David Thoreau vào tháng 5-1849. Thoreau cho
rằng, cá nhân có thể không tuân thủ, không phục tùng nhà nước; thậm chí, có thể chống
lại luật pháp của nhà nước nếu thấy những điều luật đó không phù hợp với người dân,
kể cả là với thiểu số bằng phương pháp "cách mạng hòa bình".
Thoreau đề cao quyền tự quyết của mỗi cá nhân hơn là sự phục tùng theo đa số,
theo cộng đồng và các cá nhân có quyền làm bất cứ điều gì mà họ cho là đúng. Tác giả
cho rằng, về bản chất "bất tuân dân sự" chính là “bất tuân nhà nước”. Đến thế kỷ 20,
quan điểm của Thoreau về "bất tuân dân sự" đã được phát triển thành phương thức đấu
tranh bất bạo động và trở thành một mũi tiến công quan trọng trong chiến lược "diễn
biến hòa bình" của chủ nghĩa đế quốc nhằm thay đổi chế độ chính trị ở các nước xã hội
chủ nghĩa (XHCN) và những nước không cùng phe với họ.
Phương thức hoạt động này đã được áp dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới dưới
những tên gọi khác nhau như: "Cách mạng màu", "cách mạng đường phố" ở Đông Âu
và Liên Xô những năm cuối thế kỷ 20; làn sóng "Mùa xuân Ả Rập" ở các nước Trung
Đông và Bắc Phi năm 2010; phong trào chống sửa đổi dự luật dẫn độ tại Hồng Công Trung Quốc năm 2019...
Qua nghiên cứu thực tiễn cho thấy, "bất tuân dân sự" có mối quan hệ chặt chẽ với
các tổ chức “xã hội dân sự”. Các nước phương Tây luôn coi hình thành “xã hội dân sự”
là điều kiện, tiền đề cho việc cổ xúy tự do cá nhân, lấy "bất tuân dân sự" làm phương
thức cơ bản để lật đổ chế độ chính trị ở một quốc gia. Có thể thấy "bất tuân dân sự"
mang một số đặc trưng cơ bản như sau:
Thứ nhất, về mục đích và hình thức thể hiện: Thông qua việc từ chối tuân theo hay
vi phạm một cách cố ý các quy định của pháp luật hoặc cản trở việc thực thi chính sách,
pháp luật; các đối tượng thực hiện “bất tuân dân sự" nhằm mục đích cuối cùng là vô lOMoAR cPSD| 48599919
hiệu hóa hoạt động của chính quyền, tiến tới lật đổ nhà nước, thay thế bằng một chế độ
chính trị mới theo mô hình của chủ nghĩa tư bản.
Để che giấu mục đích đó, các thế lực thù địch thường che đậy, ngụy trang dưới
những vỏ bọc khác nhau, như: Tụ tập, tuần hành nhằm “phản kháng ôn hòa, bất bạo
động”, “biểu tình ôn hòa”. Ở Việt Nam, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng các vấn đề
dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo hoặc lợi dụng những vấn đề chính trị-xã hội phức
tạp, nhạy cảm liên quan đến quyền và lợi ích của con người để lôi kéo, kích động, thu
hút đông đảo người dân tham gia các hoạt động với mưu đồ được gọi là đấu tranh chống
tiêu cực, tham nhũng, bảo vệ môi trường, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, trả lại đất đai cho
người dân... thực chất là để thực hiện “bất tuân dân sự” nhằm chống lại Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Thứ hai, về chủ thể tiến hành, các đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị và những
người dân có trình độ thấp, ngộ nhận, có bức xúc, mâu thuẫn với chính quyền, bị lừa
bịp, mua chuộc tham gia; đứng sau hậu thuẫn là các cá nhân, tổ chức phản động lưu
vong do phương Tây hậu thuẫn lập ra như: “Việt Tân”, “Hội anh em dân chủ”, “Hội
văn đoàn độc lập Việt Nam”, “Hội Nhà báo độc lập Việt Nam”, “Mạng lưới Blogger
Việt Nam”... giữ vai trò chỉ đạo, tài trợ kinh phí, đào tạo, huấn luyện phương thức hoạt
động cho các đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị, đối tượng hình sự trong nước... trở
thành cộm cán thu hút, lôi kéo, tập hợp người dân tham gia các hoạt động “bất tuân dân sự”.
Số đối tượng trong nước ráo riết thu thập tình hình, phát triển lực lượng, hình thành
các hội/nhóm hoạt động theo hình thức “bất bạo động”. Các thế lực thù địch thông qua
mạng xã hội, internet để tuyên truyền, vận động thu hút, lôi kéo người dân tham gia các
hoạt động “bất tuân dân sự” do chúng chỉ đạo.
Thứ ba, về thời điểm, các thế lực thù địch đặc biệt lợi dụng thời điểm trong nước
diễn ra các sự kiện chính trị quan trọng như: Đại hội Đảng toàn quốc, bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu HĐND; thời điểm có các đoàn nguyên thủ quốc tế đến thăm và
làm việc tại Việt Nam; lợi dụng bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp,
xuất hiện những vấn đề nhạy cảm về chính trị, kinh tế, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ
giữa các quốc gia... để kích động, lôi kéo người dân tham gia “bất tuân dân sự” và đưa
ra những yêu sách, như: “Đòi bảo vệ chủ quyền, môi trường”, đòi “tự do tôn giáo”, “dân
chủ, nhân quyền”... gây phức tạp về an ninh trật tự tại địa phương. Khi gặp thời điểm
thuận lợi và đủ điều kiện chín muồi, các thế lực thù địch có thể chuyển hóa từ hình thức
bất bạo động thành bạo động rất nhanh chóng.
Khi đó, các đối tượng cộm cán, cầm đầu kêu gọi, kích động những người tham gia
đấu tranh “ôn hòa, bất bạo động” tiến hành các hoạt động bạo loạn như đập phá tài sản
nhà nước và công dân; chiếm trụ sở chính quyền; bắt giữ người thi hành công vụ; cản
trở hoạt động bình thường của xã hội... qua đó nhằm thực hiện kịch bản “cách mạng
màu”, “cách mạng đường phố” xâm phạm ANCT, TTATXH ở địa phương. Điển hình
như vụ người dân phản đối trạm BOT Cai Lậy (Tiền Giang) năm 2017; vụ tụ tập đông
người tại Bình Thuận, Bình Dương, Đồng Nai...
Bằng những phương thức và thủ đoạn nêu trên, các đối tượng kích động người dân
đập phá trụ sở chính quyền, gây cản trở giao thông, đốt phá tài sản của Nhà nước, doanh
nghiệp và người dân, làm bị thương nhiều cán bộ thực thi nhiệm vụ, gây ngừng trệ hoạt
động của các cơ quan chức năng, doanh nghiệp và người dân, xâm phạm nghiêm trọng
đến quyền và lợi ích của Nhà nước, của công dân và xã hội. Ngoài ra, các thế lực thù
địch còn lợi dụng việc các cơ quan chức năng xử lý những người vi phạm pháp luật; các lOMoAR cPSD| 48599919
đối tượng phản động, cơ hội chính trị ra sức rêu rao, xuyên tạc rằng Việt Nam “đàn áp”
những người biểu tình ôn hòa, yêu nước và kêu gọi cộng đồng quốc tế can thiệp. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ HỌC MÁC - LÊNIN
Hà Nội, ngày 18 tháng 12 năm 2023 PHÊ DUYỆT
PHÓ CHỦ NHIỆM KHOA
Đại tá Đỗ Văn Trịnh
Một số giải pháp phòng, chống thủ đoạn “bất tuân dân sự” ở nước ta
Những năm gần đây, để thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" chống phá
cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch thường sử dụng một thủ đoạn mới mang tên
"bất tuân dân sự". "Bất tuân dân sự" thể hiện tư tưởng cực đoan, "vô chính phủ", đang
được lợi dụng gắn với cái gọi là xã hội dân sự để chống phá Đảng, Nhà nước, lật đổ chế
độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam.
Để đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả với hoạt động “bất tuân dân sự” nhằm chống
phá nước ta, cần thực hiện một số giải pháp trọng tâm như sau:
Một là, các cơ quan chức năng cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao
nhận thức cho cán bộ, đảng viên và người dân về âm mưu, thủ đoạn, hoạt động của các
thế lực thù địch lợi dụng “bất tuân dân sự” để xâm phạm ANCT, TTATXH; về vị trí,
vai trò và tầm quan trọng của công tác phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn hoạt động “bất
tuân dân sự” chống phá ta, coi đó là trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành và các
tầng lớp nhân dân để huy động sự tham gia của cả xã hội trong công tác phòng ngừa,
phát hiện, đấu tranh với hoạt động này. Quan tâm, đẩy mạnh công tác vận động quần
chúng và tranh thủ chức sắc tôn giáo, người có uy tín trong tôn giáo, dân tộc thiểu số,
phát huy tác dụng của các tổ chức, đoàn thể và các tầng lớp nhân dân trong phòng ngừa,
đấu tranh với hoạt động “bất tuân dân sự”.
Hai là, tiếp tục nâng cao chất lượng công tác nắm tình hình, phân tích, dự báo kịp
thời mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo... của các
thế lực thù địch hòng kích động, lôi kéo nhân dân tham gia "bất tuân dân sự" để triển
khai các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh. Nắm tình hình tâm tư, nguyện vọng của nhân
dân để tham mưu, đề xuất các cơ quan chức năng giải quyết triệt để, thỏa đáng trên cơ
sở pháp luật. Kịp thời phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong thực hiện chính sách, pháp
luật về tôn giáo, dân tộc... để khắc phục; đồng thời phối hợp giải quyết dứt điểm các
điểm nóng về an ninh trật tự ngay từ cơ sở, không để kéo dài, không lây lan, vượt cấp.
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao
chất lượng đời sống, bảo đảm an sinh xã hội, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu
số, vùng sâu, vùng xa, bảo đảm tốt các quyền tự do dân chủ của người dân, giải quyết
tốt các vụ việc phức tạp liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của nhân dân, tránh tạo sơ
hở để bên ngoài lợi dụng xuyên tạc, kích động chống phá. Xây dựng và củng cố hệ thống
chính trị ở cơ sở bảo đảm thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà lOMoAR cPSD| 48599919
nước ở địa phương. Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp; tăng cường đấu
tranh chống quan liêu, tham nhũng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do
dân, vì dân. Tiếp tục tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, bảo đảm ANCT,
TTATXH ở các địa phương, nhất là các địa bàn vùng sâu, vùng xa, miền núi.
Bốn là, quán triệt tinh thần giải quyết vấn đề tụ tập đông người, biểu tình, tuần
hành theo đúng cơ chế: Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện; chính quyền
quản lý, điều hành; lấy vận động thuyết phục là chính, kiên quyết thu hẹp vụ việc, không
để lây lan, kéo dài. Khi phát hiện có tuần hành, tụ tập đông người hay lãn công, đình
công, cần nhanh chóng đánh giá đúng tính chất, mức độ, xác định rõ nguyên nhân của
vụ việc; thực hiện phân hóa số đối tượng cộm cán, cầm đầu với quần chúng bị dụ dỗ, lôi
kéo; tuyên truyền vận động, thuyết phục quần chúng giải tán; kiên quyết xử lý nghiêm
theo pháp luật số đối tượng cầm đầu, chủ mưu, cộm cán kích động, lôi kéo người dân
tham gia "bất tuân dân sự".
Năm là, tiếp tục tham mưu với cấp ủy, chính quyền địa phương chỉ đạo thực hiện
nghiêm túc, hiệu quả các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
tôn giáo, dân tộc, đất đai, chính sách đền bù giải phóng mặt bằng và các quy định về giải
quyết khiếu nại, tố cáo. Tăng cường kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện xử lý nghiêm
những cán bộ, đảng viên tham nhũng, xâm phạm quyền và lợi ích của người dân. Các
ban, bộ, ngành chức năng thường xuyên rà soát, đánh giá việc thực hiện chính sách,
pháp luật về tôn giáo, dân tộc, đất đai, các chính sách bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói,
giảm nghèo để kịp thời phát hiện những sơ hở, thiếu sót, kiến nghị sửa đổi, bổ sung,
hoàn thiện cho phù hợp với thực tế. lOMoAR cPSD| 48599919 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ HỌC MÁC - LÊNIN
Hà Nội, ngày 18 tháng 12 năm 2023 PHÊ DUYỆT
PHÓ CHỦ NHIỆM KHOA
Đại tá Đỗ Văn Trịnh
Phê phán quan điểm phủ nhận kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa của Việt Nam
Phạm Quang Hải – K5
Lâu nay, khi nói về kinh tế thị trường, các học giả tư sản và nhiều “trí thức giả
hiệu” ở Việt Nam cho rằng: “Kinh tế thị trường là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản”, rằng
“kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hồ, ảo tưởng, không có thực” hay
“Bản chất kinh tế thị trường ở Việt Nam không khác gì so với kinh tế thị trường ở các
nước tư bản chủ nghĩa”. Bằng những lập luận mập mờ, áp đặt họ tuyên truyền một cách
dối trá về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, phủ nhận những
thành quả to lớn mà đất nước đã đạt được trong 37 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời, tôn vinh, “rửa mặt” nền kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa, coi đó là đỉnh cao phát triển của nhân loại. Thực chất của những luận điệu
trên là nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nền kinh
tế, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, hướng lái nước ta đi theo con
đường tư bản chủ nghĩa.
Trước tiên, phải khẳng định rằng, kinh tế thị trường không phải là sản phẩm của
chủ nghĩa tư bản. Bởi lẽ, về mặt lịch sử, sự ra đời, phát triển của kinh tế thị trường xuất
hiện trước khi chủ nghĩa tư bản ra đời. Chúng ta đều thấy rằng, nguồn gốc của kinh tế
thị trường là kinh tế hàng hóa, đó là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội mà sản phẩm làm ra để
trao đổi, bán trên thị trường đã xuất hiện từ cuối chế độ chiếm hữu nô lệ. Mặt khác, kinh
tế hàng hóa giản đơn thực hiện bước chuyển sang kinh tế thị trường cũng tiến hành trước
khi chủ nghĩa tư bản ra đời, thậm chí đây còn là điều kiện, tiền đề thúc đẩy chủ nghĩa tư
bản ra đời. Đó là, quan hệ hàng hóa - tiền tệ trở nên ngày càng phổ biến, bao trùm nền
kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa nền kinh tế được đẩy mạnh và mở cửa nền kinh tế, gắn
kết thị trường các quốc gia với thị trường thế giới. Điều này khẳng định, kinh tế thị
trường là sản phẩm của văn minh nhân loại không phải là sản phẩm mà chủ nghĩa tư bản
tạo ra. Tuy nhiên, cũng có thể thấy rằng, cho đến cuối thế kỷ XX, cùng với sự phát triển
và thống trị của chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới, kinh tế thị trường cũng ngày
càng phát triển mạnh mẽ hơn, hoàn thiện hơn. Do đó, người ta nhầm tưởng rằng kinh tế
thị trường là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản và đồng nhất chúng với nhau. Điều này là hoàn toàn không đúng.
Với tư cách là sản phẩm của văn minh nhân loại, nên bất cứ quốc gia, dân tộc nào
cũng có thể được tiếp nhận, thụ hưởng thành tựu và giá trị chung phổ biến của kinh tế lOMoAR cPSD| 48599919
thị trường không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển. Đồng thời, các quốc gia,
dân tộc cũng có thể nghiên cứu, vận dụng, điều chỉnh những giá trị chung đó cho phù
hợp với điều kiện cụ thể nhằm phát huy cao nhất lợi thế của quốc gia, dân tộc mình và
khắc phục những khuyết tất của kinh tế thị trường. Ngay trong cùng một chế độ chính
trị, ở các quốc gia khác nhau, trình độ phát triển khác nhau, kinh tế thị trường cũng được
biểu hiện ở các mô hình cụ thể khác nhau. Ví dụ như kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
có những hình thức, trình độ phát triển và những mô hình không hoàn toàn giống nhau
giữa các nước tư bản. Có thể kể đến như: kinh tế thị trường tự do ở Mỹ, Anh; kinh tế thị
trường cộng đồng trách nhiệm ở Nhật; kinh tế thị trường xã hội ở Đức; kinh tế thị trường
nhà nước phúc lợi ở các nước Bắc Âu… Như vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là một mô hình kinh tế thị trường mang các giá trị phổ quát chung, đồng thời
có các đặc trưng riêng phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Dưới góc độ tiếp cận sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội cho thấy, chủ
nghĩa tư bản không phải là giới hạn cuối cùng của lịch sử phát triển nhân loại. Với những
mâu thuẫn nội tại không thể điều hòa được, chủ nghĩa tư bản sẽ được thay thế bởi một
hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, tiến bộ hơn là chủ nghĩa xã hội. Theo đó, kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa cũng không phải là phương án tối ưu và mô hình kinh tế cuối
cùng của xã hội loài người mà nó cũng sẽ bị thay thế bởi một mô hình kinh tế thị trường
tiến bộ hơn, ưu việt hơn.
Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước lạc hậu, chậm phát triển, bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa nên việc phát triển kinh tế thị trường là rất cần thiết, nhằm
giải phóng lực lượng sản xuất, khai thác mọi tiềm năng, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn
lực để phát triển, từng bước xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Mặt khác,
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng không phải là sự gán ghép khiên
cưỡng, chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội mà chúng là thể thống nhất,
có mối quan hệ biện chứng với nhau. Đó là mối quan hệ giữa “mục tiêu” và “phương
tiện”, trong đó, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, động lực phát triển kinh tế thị trường, còn
kinh tế thị trường là phương tiên cần thiết để Việt Nam đi tới mục tiêụ chủ nghĩa xã hôi
một cách nhanh hơn, hiệu quả hơn.̣
Nói đến kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tức là chúng ta đang phát
triển nền kinh tế thị trường hướng đến xây dựng và phản ánh các giá trị của xã hội xã
hội chủ nghĩa chứ không phải phát triển theo kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Song
các giá trị văn minh nhân loại đạt được trong quá trình phát triển kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa được kế thừa, phát triển, hoàn thiện trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: “Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không
ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch
và kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội”. lOMoAR cPSD| 48599919
Như vậy, giống như mọi nền kinh tế thị trường trên thế giới, kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng vận hành đồng bộ, đầy đủ theo các quy
luật thị trường. Trong đó, thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng
hóa, dịch vụ; huy động, phân bổ, sử dụng nguồn lực của xã hội. Song khác với kinh tế
thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa, trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế cũng như quản
lý của Nhà nước ngoài nguyên tắc tuân thủ các quy luật thị trường còn hàm chứa, gắn
với và hướng tới những giá trị cơ bản của chủ nghĩa xã hội. Bao gồm:
Về mục đích: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm phát triển
lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao
đời sống nhân dân, thực hiên “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văṇ minh”.
Về cơ sở kinh tế - xã hội: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Trong đó, kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các
chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật.
Về cơ chế quản lý: nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - đại biểu trung thành
lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam.
Về chế độ phân phối: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực
hiện công bằng trong phân phối các yếu tố sản xuất, tiếp cận và sử dụng các cơ hội, điều
kiện phát triển. Phân phối kết quả làm ra chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh
tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua
hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
Về tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội: Nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa thực hiện gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội; phát triển kinh
tế đi đôi với phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước và từng chính sách. Có thể coi đó còn là đặc trưng cơ bản, một thuộc tính
quan trọng mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Thực tiễn chứng minh, qua 37 năm đổi mới, bằng nỗ lực của toàn Đảng và toàn
dân ta, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với những đặc trưng nói trên
đã từng bước hình thành và phát triển. “Thể chế kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại và
hội nhập, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước được xác lập”; “Hệ thống pháp
luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh
tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường
từng bước phát triển, gắn với thị trường khu vực và thế giới”. Hầu hết các loại giá cả
hàng hóa được xác lập theo nguyên tắc thị trường. Vai trò của nhà nước được điều chỉnh
phù hợp hơn với cơ chế thị trường, ngày càng phát huy dân chủ trong đời sống kinh tế -
xã hội. Việc huy động và phân bổ các nguồn lực gắn với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội từng bước phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Môi trường đầu
tư, kinh doanh được cải thiện rõ rệt. Những tiến bộ nói trên là cơ sở để đến nay đã có 90
quốc gia công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường đầy đủ.
Như vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là một
đột phá về lý luận, một mô hình kinh tế thị trường cụ thể - sản phẩm của vận dụng sáng
tạo xu thế vận động của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay, trong đó có kết hợp lOMoAR cPSD| 48599919
những mặt tích cực, ưu điểm của kinh tế thị trường với bản chất ưu việt của chủ nghĩa
xã hội để hướng tới một nền kinh tế hiện đại, văn minh.