Người chăm ở vùng nam bộ trong nền văn hóa hiện nay - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen

Người chăm ở vùng nam bộ trong nền văn hóa hiện nay - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Senvà thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học.

VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
97Volume 8, Issue 4
NGƯỜI CHĂM Ở VÙNG NAM BỘ
TRONG PHÁT TRIỂN VĂN HÓA HIỆN NAY
Phú Văn Hẳn
Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ
Email: phuvanhan@gmail.com
Ngày nhận bài: 1/11/2019
Ngày phản biện: 5/11/2019
Ngày tác giả sửa: 10/11/2019
Ngày duyệt đăng: 12/11/2019
Ngày phát hành: 20/11/2019
DOI:
N
gười Chăm ở vùng Nam Bộ có khoảng 30.000 người cư trú
tập trung ở Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Tây Ninh,
Bình Phước, Đồng Nai, T Vinh, Kiên Giang, An Giang. Hầu hết
người Chăm vùng này đều theo tín ngưỡng Islam giáo, tiếp tục
lưu giữ những giá trị truyền thống, đồng thời tiếp thu những giá trị
văn hóa mới, góp phần tạo nên sự thống nhất trong đa dạng văn hóa
Chăm và văn hóa các dân tộc Việt Nam. Ở Nam Bộ, với không gian
sinh sống không hoàn toàn giống với những người đồng tộc gốc
Chăm ở miền Trung và Nam Trung phần, đã hình thành nên những
giá trị văn hóa Chăm Nam Bộ đặc thù. Tìm hiểu khả năng thích nghi
sáng tạo văn hóa của cộng đồng Chăm Nam Bộ để chiến
lược duy trì và phát triển phù hợp là rất cần thiết trong bối cảnh Việt
Nam đang hội nhập và phát triển hiện nay.
Từ khoá: Dân tộc Chăm; Chăm Islam; Chăm Nam Bộ; Văn hóa
Chăm; Tín ngưỡng; Tôn giáo; Phát triển bền vững.
1. Đặt vấn đề
Hiện nay, người Chăm trú tập trung trong
các (hoặc ) thuộc các tỉnh Bình Định, palei puk
Phú Yên, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Phước,
Bình Dương, Đồng Nai, Tây Ninh, An Giang
Thành phố Hồ Chí Minh. Một số ít người Chăm
còn sinh sống ở các tỉnh Tây Nguyên và một số tỉnh
khác. Họ là một trong những cư dân sinh sống lâu
đời trên mảnh đất Việt Nam. Về ngôn ngữ, tiếng
Chăm thuộc ngữ hệ Austronesian (Nam Đảo),
đại chi Malayo Polynesian (Mã lai Đa đảo:
M - P), chi Westen Malayo Polynesian, tiểu chi
Sundic, nhóm Malayic, nhóm Achinese Chamic,
tiểu nhóm Chamic. Cùng chung tiểu nhóm này,
Việt Nam còn các dân tộc Eđê, Giarai, Churu,
Raglai... Những phát hiện về khảo cổ học gần đây
gợi lên một giả thiết rằng, chủ nhân của nền văn
hóa Sa Huỳnh có thể là tổ tiên của người Chăm. Do
đặc điểm cư trú bản sắc văn hóa mang tính địa
phương, người Chăm ngày nay được phân thành ba
nhóm cộng đồng: Chăm Hroi tập trung ở Bình Định
Phú Yên, Chăm Panduranga tập trung Ninh
Thuận, Bình Thuận và Chăm ở Nam Bộ.
Người Chăm trong quá trình phát triển đã hình
thành bản sắc văn hóa phong phú về nội dung
đa dạng về diện mạo. Quá trình giao lưu, tiếp xúc
với những yếu tố văn hóa bên ngoài tại mỗi vùng
của đồng bào Chăm đã hình thành những sắc thái
văn hóa đặc thù. Địa bàn trú tập trung đồng
bằng, song do sinh sống gần biển tựa lưng vào
triền Đông dãy Trường Sơn, nên người Chăm
sớm biết khai thác các tiềm năng của cả biển
núi. Chính bằng đường biển dân Chăm xưa
hội tiếp xúc với bên ngoài, giao lưu với nền
văn minh Ấn Độ và văn hóa Islam. Dấu ấn của văn
minh Ấn Độ là ảnh hưởng của đạo Phật, đạo Hindu
trong việc thờ ba vị thần Shiva, Vishnu, Brahma
kiến trúc của các tháp Champa hiện còn tại các
tỉnh miền Trung. Hàng trăm tác phẩm văn chương
dân gian của người Chăm mang nét văn hóa Ấn cho
thấy ngôn ngữ Chăm không chỉ vay mượn nhiều từ
ngữ cùng gốc tiếng Pali – Sanskrit, mà mượn cả hệ
thống chữ Ấn Độ (chữ ghi tiếng Pali - Sanskrit).
Sự tiếp xúc với Islam giáo xưa trên đất Champa
diễn ra khá sớm, chứng cứ từ khoảng thế kỷ X
(qua văn bia bằng tự Jawi cổ) hơn vào thế kỷ
XIV - XV, hình thành nhóm Chăm Bani. Về nguồn
gốc tôn giáo, cả Chăm Bani Chăm Islam đều
chung tôn giáo Islam. Song do quá trình phát triển
trong lịch sử, người theo đạo Islam vẫn Chăm Bani
bảo tồn các yếu tố truyền thống, còn Chăm Islam
do tiếp xúc thường xuyên với người theo Islam
Malay, Nam Dương (nay là Malaysia, Indonesia...)
một số cộng đồng Islam quốc gia khác nên
sinh hoạt tôn giáo khá thống nhất với người Islam
ở Malaysia và các nước. Islam giáo ngày càng xâm
nhập vào văn hóa Chăm, thể hiện trong tín ngưỡng
tôn thờ Auluah (Allah) và các thánh thần của Islam.
Nghề làm gốm và dệt vải của người Chăm hiện
nay vừa bảo lưu được vốn truyền thống, vừa
nguồn thu nhập đối với một bộ phận người Chăm.
Nhưng do một nghề thủ công xưa, kỹ thuật sản
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
98 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
xuất chưa được cải tiến nên hàng làm ra không đủ
sức cạnh tranh với các sản phẩm công nghiệp.
Hàng năm người Chăm ở mỗi địa phương đều
những ngày lễ hội. Mỗi khi lễ hội truyền
thống, không khí ở các palei Chăm luôn nhộn nhịp,
sinh động như khơi dậy nguồn sinh lực mới. Ngoài
hàng ngàn tác phẩm cổ đang được bảo lưu, đã
thêm nhiều tác phẩm nghiên cứu, ca, muá, nhạc về
người Chăm. Các hoạt động nhằm bảo tồn và phát
huy nền văn hóa nghệ thuật dân tộc Chăm cũng
ngày càng được đầu tư, bồi dưỡng.
Mỗi vùng Chăm (do phát triển tự nhiên của ngôn
ngữ) đã hình thành các phương ngữ riêng. Thực
hiện chính sách ngôn ngữ dân tộc, chính quyền các
địa phương nơi đông người Chăm đã đẩy mạnh
biên soạn chương trình dạy chữ Chăm. Ngành giáo
dục cũng tổ chức nhiều hội nghị rút kinh nghiệm
muốn đưa chương trình dạy chữ Chăm akhar Thrah
áp dụng trong các trường con em người Chăm
các tỉnh. Hiện nay, Sở Giáo dục Đào tạo Tây
Ninh An Giang tổ chức biên soạn riêng giáo trình
dạy chữ Chăm theo mẫu tự Jawi và Rumi. Khá đông
người Chăm đang sử dụng chữ viết Chăm theo mẫu
tự Latinh. Người Chăm không ngừng tự vươn lên
hòa nhập vào hội văn minh, tích cực tham gia
vào các hoạt động xã hội và tiến trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa Việt Nam cũng như hòa nhập
vào sự phát triển chung của nhân loại.
2. Tổng quan nghiên cứu
Đến nay, có nhiều nghiên cứu về người Chăm và
Champa trên nhiều lĩnh vực của chuyên ngành khoa
học hội. Để sở cho việc nghiên cứu giai
đoạn đến năm 2020 các giai đoạn tiếp sau, việc
nghiên cứu phân tích tổng quan các công trình
nghiên cứu về người Chăm hết sức cần thiết. Việc
này vừa làm rõ những đóng góp trong lĩnh vực khoa
học xã hội về người Chăm, vừa định hướng cho các
nghiên cứu về người Chăm tiếp theo một cách căn
bản và hữu ích.
Với bề dày lịch sử, dân tộc Chăm có một di sản
văn hóa đồ sộ, góp phần làm nên sự đa dạng của bức
tranh toàn cảnh bản sắc văn hóa Việt. Nền văn hóa
của người Chăm cho đến nay vẫn là đối tượng hấp
dẫn đối với các nghiên cứu khoa học hội trong
ngoài nước. Theo thống kê của Nguyễn Hữu Thông
và các tác giả Phân viện Nghiên cứu Văn hóa nghệ
thuật miền Trung, đã 2.278 công trình về người
Chăm. Chắc chắn số liệu này chưa đầy đủ, bởi
chỉ riêng các bài viết khoa học đã công bố về người
Chăm của các tác giả trong ngoài nước cũng đã
có thể gấp đôi. Các nhà nghiên cứu phương Tây đã
nghiên cứu về người Chăm và được đánh giá như
sự khởi đầu cho nghiên cứu người Chăm trong lĩnh
vực khoa học hội, trong đó EFFO (Trường Viễn
Đông bác cổ Pháp) là khá liên tục. Trước năm 1975,
miền Nam, nhiều nhà nghiên cứu Hoa Kỳ, SIL
(Viện Ngôn ngữ Mùa hè) là cơ quan có nhiều đóng
góp trong nghiên cứu ngôn ngữ biên soạn các
sách dạy và học tiếng dân tộc Chăm.
Sau năm 1975, các Trường Đại học Khoa học
hội Nhân văn (KHXH&NV), Bộ Văn hóa
- Thông tin (nay Bộ Văn hóa, Thể thao Du
lịch (VHTT&DL)), Bộ Giáo dục và Đào tạo và các
viện nghiên cứu đều những đóng góp đáng kể
trong nghiên cứu về người Chăm. Ngành văn hóa
luôn đồng hành thực hiện các công trình bảo tồn
các tháp Champa, các hoạt động khuyến khích bảo
tồn phát huy bản sắc văn hóa của người Chăm.
Ngành giáo dục đào tạo nỗ lực biên soạn các sách
dạy học chữ Chăm. Trong không ít công trình
khoa học các nghiên cứu về người Chăm của
Trường Đại học KHXH&NV Thành phố Hồ Chí
Minh một số trường đại học khác, các giáo
trình Chăm học. Bên cạnh đó, còn số lượng không
nhỏ các khóa luận, luận văn, luận án về đề tài
người Chăm. Cũng nên kể đến những công bố tại
địa phương người Chăm cư trú đông như Phú
Yên (của Kasô Liễng…), Ninh Thuận (của Thiên
Sanh Cảnh, Phan Quốc Anh, Sử Văn Ngọc, Thập
Liên Trưởng, Trương Văn Món, Nguyễn Văn Tỷ,
Đổng Văn Dinh...), Bình Thuận (của Bố Xuân Hổ,
Nguyễn Xuân Lý, Lâm Tấn Bình, Thanh Thị Minh
Hiền…)...
Từ sau năm 1975, việc nghiên cứu người Chăm
được các nhà khoa học của Viện Khoa học hội
vùng Nam Bộ chú ý nhiều hơn. Trong những năm
đầu vừa thống nhất đất nước, việc nghiên cứu đã
thu được những kết quả đáng ghi nhận, như: Thông
báo nghệ thuật số 20 (1977), Những vấn đề dân tộc
học miền Nam Việt Nam (1978) có giá trị, tổng hợp
của nhiều chuyên ngành. Những bài viết của các
nhà khoa học thuộc Viện và các cộng tác viên như
Phan Lạc Tuyên, Kim Hoa, Mahmod, Hoàng
Túc, Hoàng Quý, Sử Văn Ngọc, Cao Xuân Phổ,
Phạm Xuân Thông… giá trị cho việc nghiên
cứu đánh giá khoa học xã hội về người Chăm. Viện
Khoa học xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh trước
đây cũng đã thành lập bộ môn nghiên cứu dân tộc
Chăm trong Ban Dân tộc góp phần thúc đẩy công
tác nghiên cứu về dân tộc Chăm. Trong đó thể
nhắc đến những đóng góp tài liệu của Phan Văn
Quỳnh, Phan Lạc Tuyên, Lê Văn Hảo, Mạc Đường,
Trần Kỳ Phương…
Từ năm 1986 đến nay, Viện tiếp tục những
công trình nghiên cứu về người Chăm được xuất
bản như: Người Chăm Thuận Hải (tỉnh Thuận
Hải, 1989), Văn hóa Chăm (Nxb. Khoa học xã hội,
1991). Hoặc trong kỷ yếu hội thảo Kinh tế – văn hóa
Chăm (Viện Đào tạo Mở rộng tổ chức) có nhiều bài
viết giá trị của các cán bộ nghiên cứu của Viện Viện
khoa học hội vùng Nam Bộ như Mạc Đường,
Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Lạc Tuyên,
Công Nguyện, Nguyễn Tuấn Triết, Vương Hoàng
Trù, Phan Văn Dốp, Phú Văn Hẳn…
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
99Volume 8, Issue 4
Những năm gần đây, việc nghiên cứu về người
Chăm nhiều biến đổi từ nội dung đến phương
pháp tiếp cận. Các công trình khoa học hội về
người Chăm đã công bố cho thấy chủ đề nghiên cứu
về người Chăm đa số tập trung vào vấn đề văn hóa
tộc người, đề xuất các giải pháp, chính sách dân tộc
vùng người Chăm, góp phần mở rộng hướng nghiên
cứu, tìm hiểu các vấn đề dân tộc, tôn giáo, văn hóa
hoặc nghiên cứu phục vụ tại các địa phương.
Các công trình khoa học hội về người Chăm
cho thấy nghiên cứu điền được quan tâm.
Phương pháp quan sát tham dự phỏng vấn sâu
được vận dụng để cho những kết quả tin cậy. Ngoài
ra, phương pháp nghiên cứu liên ngành trong khoa
học xã hội, nghiên cứu định tính và định lượng cũng
được chú trọng. Các công trình đã công bố về người
Chăm khá phong phú giá trị về liệu, giúp ích
cho các nghiên cứu tiếp theo, đồng thời bổ sung
thông tin hữu ích về đời sống tinh thần và sinh hoạt
xã hội, cũng như đời sống kinh tế người Chăm. Từ
đó có cái nhìn toàn diện hơn về người Chăm nhằm
hoạch định chiến lược phát triển người Chăm.
Các công trình nghiên cứu cũng đã đưa ra bức
tranh toàn cảnh về phong tục, tập quán, hôn nhân,
gia đình, những sinh hoạt văn hóa vật chất tinh
thần… của người Chăm, góp thêm hiểu biết về văn
hóa tộc người, làm cơ sở khoa học để bảo tồn, khai
thác, phát huy vốn văn hóa của người Chăm. Các
công trình nghiên cứu miêu tả hoạt động sản xuất đã
phản ánh đặc điểm kinh tế, hội, văn hóa truyền
thống tộc người Chăm, góp thêm liệu, cứ liệu
khoa học để nghiên cứu văn hóa Chăm trong nền
văn hóa Việt Nam thống nhất đa dạng các sắc
thái văn hóa tộc người.
Tín ngưỡng dân gian với nền tảng kinh tế
nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo, là nền móng trong
đời sống tâm linh của cư dân Chăm, ảnh hưởng lớn
đến đời sống tinh thần và sinh hoạt xã hội của người
Chăm. Trong quá trình phát triển, người Chăm
không chỉ dừng lại việc tiếp nhận Balamon giáo,
Phật giáo, Hồi giáo mà sau này còn theo Công giáo,
Tin lành, Baha’i… Những nghiên cứu về tôn giáo
của người Chăm cho thấy các tôn giáo khi du nhập
vào cộng đồng người Chăm đều thay đổi có vai
trò cố kết xã hội theo từng cộng đồng.
Nhìn chung, việc nghiên cứu về người Chăm
mới chỉ được đề cập trong các công trình nghiên
cứu về dân tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, văn hóa, thiếu
vắng các công trình chuyên sâu xuất phát từ mục
tiêu khoa học thiết thực phục vụ cho nhiệm vụ ổn
định phát triển dân tộc Chăm, cũng như thiếu
các giải pháp giúp người Chăm thuận lợi hơn trong
hòa nhập và phát triển bền vững. Tuy nhiên, các kết
quả nghiên cứu đã công bố đã giúp định hướng cho
các nghiên cứu tiếp theo về người Chăm trong thời
gian tới.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp điền đã được người viết sử
dụng trên sở nghiên cứu thực địa, quan sát, ghi
chép, chụp ảnh, ghi hình, ghi âm kết hợp phỏng vấn
sâu để nắm bắt các đặc thù trong đời sống văn hóa
người Chăm. Phương pháp này đã có những kết quả
hết sức tin cậy. Bên cạnh đó, phương pháp nghiên
cứu liên ngành trong khoa học hội, nghiên cứu
định tính định lượng cũng được chú trọng. Tác
giả đã kết hợp phân tích tổng hợp các tài liệu
nghiên cứu thứ cấp để từ đó đề xuất được các giải
pháp và định hướng cho việc phát triển văn hóa của
cộng đồng người Chăm ở Nam Bộ hiện nay.
4. Kết quả nghiên cứu
Người Chăm ngày nay không ngừng tự vươn lên
trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
hội nhập. Tuy nhiên, người Chăm ở vùng sâu, vùng
xa vẫn còn tình trạng khó khăn đói nghèo. Xóa
bỏ sự cách biệt giữa miền xuôi miền núi, giữa
dân tộc đa số và các dân tộc thiểu số trên tất cả các
mặt của đời sống là đòi hỏi cấp bách của việc thực
hiện chính sách dân tộc. Các kiến nghị cụ thể chỉ
ý nghĩa, tác dụng tích cực nếu sở khoa học.
Kết quả thu thập được từ nghiên cứu sẽ cung cấp
những cứ liệu xác thực để tham mưu cho các cấp
lãnh đạo trong xây dựng phát triển cộng đồng
người Chăm.
Tìm hiểu khả năng thích nghi sáng tạo văn
hóa của cộng đồng Chăm Nam Bộ để một chiến
lược duy trì và phát triển phù hợp rất cần thiết trong
bối cảnh Việt Nam đang phát triển và hội nhập hiện
nay, bổ sung sự hiểu biết về một nếp sinh hoạt văn
hóa độc đáo, pha trộn giữa tôn giáo, phong tục tập
quán dân tộc không gian văn hóa vùng Nam Bộ
trong phát triển bền vững.
4.1. Cộng đồng jammaah tự quản của người
Chăm ở Nam Bộ
Với người Việt, cộng đồng làng xã được thể hiện
rõ qua sân đình và bến nước. Palei truyền thống của
người Chăm Ninh Thuận và Bình Thuận thường
gắn với nhà cộng đồng có thể là một sang Po Yang
(đền thờ Thần) hoặc sang Palei (nhà Làng). Palei
của cộng đồng người Chăm Bani thường một
sang magik (thánh đường Bani), hoặc hai sang
magik nếu đó bộ phận Bani tách ra theo tôn giáo
Islam như palei Pamblap Klak (thôn An Nhơn,
Ninh Hải, Ninh Thuận); hoặc palei Ram (thôn Văn
Lâm, Phước Nam, Thuận Nam, Ninh Thuận), cửa
nhà cửa làng thường mở ra theo hướng Nam.
Trong khi đó, ngôi nhà của người Chăm ở Nam Bộ
thường dựng quây quần bên sang majik hoặc surau,
kiến trúc nhà cửa cũng không theo hướng bắt buộc
theo quan niệm xưa.
Người Chăm Nam Bộ trú thành từng
nhóm gia đình quan hệ huyết thống, cùng quê,
cùng đơn vị cư trú theo puk palei (làng xóm), theo
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
100 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIE
jammaah,… Jammaah là tổ chức có sự liên kết các
thành viên trong cộng đồng với nhau. Tính cộng
đồng jammaah làm cho người Chăm cùng hướng
đến nhiệm vụ chung của dân tộc, cộng đồng mình,
trở thành đặc trưng tiêu biểu trong văn hóa cộng
đồng Chăm.
Người Chăm cùng sinh hoạt chung trong một
cơ sở tôn giáo Islam (sang magik hay masjid/surau,
còn gọi thánh đường/tiểu thánh đường) quy tụ
thành cộng đồng jammaah. Trong một jammaah chỉ
một sang magik. Các thành viên sinh hoạt tôn
giáo tại surau trong cùng một jammaah đều thực
hiện sinh hoạt chung lễ trọng jammaat (ngày thứ
sáu trong tuần) tại sang magik của jammaah của
mình. Trong mỗi jammaah, người Chăm cùng nhau
chọn ra một “ban quản trị”, đứng đầu là Hakem để
tổ chức các hoạt động bảo lưu giá trị cộng đồng,
tương trợ nhau trong cuộc sống.
Nơi trú của cộng đồng (puk palei) người
Chăm Nam Bộ gắn với hình thức các jammaah.
Tên gọi các jammaah này cũng do người Chăm tự
đặt theo tên gọi của các sang magik hoặc ngược lại.
Tên các jammaah đều gắn với địa danh nguồn
gốc ngôn ngữ Arab được người Chăm sử dụng hoặc
đã được Chăm hóa bên cạnh tên gọi gắn với địa danh
hành chính (có thể bằng tiếng Chăm, tiếng Khmer,
tiếng Việt hoặc địa danh khác). dụ: Jammaah
Azhak (ấp Châu Giang, Châu Phong, Tân Châu, An
Giang)… còn gọi Jammaah Mochrut (tiếng Khmer);
Jammaah Châu Giang (tiếng Việt)…; phường 1
quận 8 Thành phố Hồ Chí Minh có Jammaah Anwar
(gốc tiếng Arab) hoặc còn gọi là Jammaah Tế Bần,
cầu chữ Y (tiếng Việt)…
Về văn hóa cư trú, do môi trường ở Tây Nam Bộ
gắn với sông nước nên hầu hết những ngôi nhà của
các jammaah người Chăm đều bố trí dọc theo bờ
sông, bờ kênh rạch, cửa chính các ngôi nhà hướng
ra đường chính và dẫn đến sang magik trong khu cư
trú. Có thể thấy, nơi nào Nam Bộ sang magik
hoặc surau, thì sớm muộn gì sẽ thu hút người Chăm
đến trú hoặc nơi nào người Chăm Islam
trú ổn định, sẽ hình thành sang magik hoặc surau.
Mỗi sang magik/surau của mỗi jammaah đều được
người Chăm tại chỗ bầu chọn người uy tín, hiểu biết
về đời đạo để vào vị trí Hakem (còn gọi giáo
cả). Hakem thường chọn người đại diện Naep
(cấp phó); chọn Ahly (người giúp việc trong khuôn
khổ cộng đồng jammaah); chọn cử Imam (người
hướng dẫn cầu nguyện trong sang magik) các
thành viên khác, hình thành một ban Hakem (hay
ban quản trị) từ 3 đến 5 người.
Hiện người Chăm Nam Bộ không còn bảo
lưu nguyên vẹn chế độ mẫu hệ như cách của người
Chăm Hroi Bình Định Phú Yên hay người
Chăm Panduranga Ninh Thuận Bình Thuận.
Nam Bộ, do qui định từ Islam, con trai người
Chăm được quyền hỏi vợ, cưới vợ, được phép nhận
chia tài sản khi qua đời “ưu tiên chôn cất” gần
mộ người thân (không phân biệt huyết thống bên
cha hoặc bên mẹ, bên vợ bên chồng). Người Chăm
Nam Bộ cũng không có nghĩa địa riêng của dòng họ
(kut hoặc ghur) như người Chăm Ninh Thuận và
Bình Thuận. Người đàn ông Chăm ở Nam Bộ được
đại diện nhà gái giao ước trong lễ kết hôn và hưởng
phần chia tài sản gấp đôi so với phụ nữ. Người
Chăm Ninh Thuận Bình Thuận quan hệ gần
gũi theo huyết thống bên mẹ xác định dòng họ
nhờ chung kut và ghur. Qui định của đạo Islam cho
phép những người cùng huyết thống bên cha là gần
hơn. Song trong đời thường vùng Chăm Nam
Bộ, những người cùng huyết thống bên mẹ vẫn có
quan hệ gần hơn. Hiện tượng này như một hình thức
song hệ không hẳn do có những quan hệ rõ ràng về
dòng họ, huyết thống được quy định bởi cùng nghĩa
địa hay như người Chăm Ninh Thuận kut ghur
và Bình Thuận hoặc thiên hẳn về phía cha như quy
định của tôn giáo Islam. Cũng thể thấy, Ninh
Thuận và Bình Thuận, người Chăm trong cùng một
dòng hay cùng huyết thống không kut ghur
được phép kết hôn. Trong khi đó, người Chăm Nam
Bộ chỉ cấm không kết hôn giữa anh chị em ruột, anh
chị em cùng chung bầu mẹ, con ruột của vợ
hoặc chồng.
Người Chăm Ninh Thuận Bình Thuận
thường nghĩa địa của dòng họ (kut hoặc ghur)
tổ chức theo huyết thống bên mẹ đặt ngoài khu
vực cư trú Puk Palei. Cho nên, trong những cuộc di
chuyển cư trú của người Chăm trước đây thường để
lại dấu vết của các kut hoặc ghur của palei cũ. Như
palei Pamblap Birau (thôn Phước Nhơn, huyện Ninh
Hải, tỉnh Ninh Thuận) trước đây có palei ở cạnh bờ
biển Darak Ranaih (gần bờ biển Ninh Chữ - Đông
Hải), sau đó di dời vào Kanduk (khu vực núi
Đú - vịnh Hòn Thiêng - Hộ Diêm), rồi chuyển vào
khu vực Pamblap (khu vực Xuân Hải, Ninh Thuận)
và cuối cùng tách một nửa bộ phận chuyển cư hình
thành palei Pamblap Birau thôn Phước Nhơn ngày
nay. Hằng năm, dân palei Pamblap tổ chức các
lễ viếng thăm mộ ở các nghĩa địa xưa của dòng tộc
vào dịp lễ Ramawan (Ramadon: tháng tịnh chay
của người Chăm theo Islam). Trong khi đó, người
Chăm Nam Bộ, tại khu vực trú Jammaah của
mình chỉ có khu nghĩa địa chung đặt luôn trong khu
vực sang magik, surau.
Mỗi jammaah của người Chăm Nam Bộ đơn
vị trú, đồng thời đơn vị kinh tế, văn hóa
hội mang tính tự quản. Trong các palei (xưa)
vùng người Chăm Ninh Thuận Bình Thuận
tổ chức truyền thống trong quản trị ruộng đất, kênh
mương (thủy lợi) mà ngày nay vẫn còn tồn tại, thể
hiện qua các chức sắc (ong Cai Lệ), các Binek ong
Dhia, (chức sắc phong tục), ong Pasaih ong Taha
(già làng)... Các hình thức này ở Nam Bộ dưới dạng
các jammaah, bao gồm Hakem các thành viên
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
101Volume 8, Issue 4
ban quản trị thường tồn tại bên cạnh hoặc chuyển
thành tổ chức tự quản mới thích hợp với quản
hành chính hội hiện tại. Các tổ chức bản
giống như tổ chức hành chính làng, xóm hiện nay
tại địa phương thường người Chăm trong
jammaah đảm nhiệm hoặc tham gia như cách
thay thế vai trò của po palei (chủ làng, già làng)
trước đây, tham gia “quản lý tài sản” phát triển kinh
tế cộng đồng, bảo tồn phát huy phong tục tập quán,
bảo vệ quyền lợi, nghĩa vụ trật tự an ninh của
cộng đồng jammaah – palei.
Nam Bộ, tổ chức cộng đồng jammaah có điểm
tương tự như palei Chăm Ninh Thuận Bình
Thuận. Tuy nhiên, phần lớn các jammaah đây
không hoàn toàn nằm gọn trong một đơn vị hành
chính giới hạn bởi khu vực trú palei (thôn,
xóm, khu vực,…) cong gồm các thành viên
cùng sinh hoạt tinh thần chung một sang magik.
Theo đó, những thành viên cùng đơn vị trú
làng (theo ranh giới hành chính) nhưng thể
không cùng jammaah nếu họ không tham gia sinh
hoạt “tinh thần” tôn giáo chung một sang magik.
dụ, tại ấp Châu Giang (xã Châu Phong, thị Tân
Châu, tỉnh An Giang) tới 2 jammaah: Mubarak
(thuộc Puk Angaok - xóm trên) Azhak (thuộc
Puk Yuak - xóm dưới); hoặc người Chăm
ngoài địa danh Châu Giang nhưng lại là thành viên
jammaah của Azhak. Thành phố Hồ Chí Minh,
nhiều thành viên trú ở phường 2, quận 8 không
sinh hoạt tại surau Mubarak tọa lạc tại địa bàn mình
trú đến sinh hoạt tại sang magik Madrasah
Anwar, phường 1, quận 8. Quy định này liên quan
đến đóng góp xây dựng cộng đồng jammaah cũng
như các chức sắc Hakim, Naep, Ahly, người đại
diện… có khả năng ảnh hưởng đến họ.
Ngoài tổ chức chính quyền, dòng họ và tôn giáo,
cộng đồng Chăm Nam Bộ còn hội đồng bô lão.
Các thành viên trong hội đồng thường gồm những
người cao tuổi, kinh nghiệm am hiểu phong
tục tập quán dân tộc. Ngày nay, tổ chức hội đồng
lão cộng đồng Chăm một số nơi theo hình thức
các tổ chức hội bảo thọ, hội khuyến học, người
uy tín tham gia vai trò giải quyết những trường hợp
lệch lạc truyền thống phong tục tập quán, thuần
phong mỹ tục. Để tăng hiệu quả giải quyết những
vấn đề của cộng đồng, Hội đồng bô lão thường kết
hợp với chính quyền, cán bộ sở để tăng vai trò
của mình trong cộng đồng và địa phương.
Jammaah của người Chăm một tổ chức
hội cộng đồng dân đặc thù Nam Bộ. Trong
đó, các tổ chức tín ngưỡng tôn giáo, tổ chức xã hội
tổ chức chính quyền song song tồn tại hoạt
động trong cộng đồng người Chăm ở Nam Bộ. Các
tổ chức này trong cùng jammaah thường liên kết
với nhau để điều hành những vấn đề liên quan đến
tôn giáo, tín ngưỡng hội trong phạm vi cộng
đồng mình. Trong công tác xây dựng nhà nước pháp
quyền, cơ chế quản hành chính nhà nước vai
trò chủ đạo trong vận hành hội. Song quá trình
xây dựng và cải biến cơ chế quản lý xã hội, sự quan
tâm thích đáng những yếu tố của tổ chức hội
truyền thống được chú ý kết hợp vận dụng hợp
các tổ chức hội truyền thống với những yếu
tố tích cực trong phong tục tập quán, trong truyền
thống văn hóa cộng đồng trong phát triển hiện tại.
4.2. Islam giáo trong văn hóa Chăm ở Nam Bộ
Nam Bộ vị trí địa thuận lợi cho việc giao
lưu, là nơi trung chuyển các đợt di dân, là vùng tiếp
nhận các yếu tố văn hóa từ bên ngoài du nhập vào
trong suốt tiến trình lịch sử. Nam Bộ cũng nơi
hiện diện các tôn giáo lớn trên thế giới (Phật giáo,
Kitô giáo, Islam), các tôn giáo trong khu vực
(như Ấn Độ giáo, Nho giáo, Đạo giáo…). thể
nói, Nam Bộ bức tranh thu nhỏ, nơi hội tụ điều
kiện thuận lợi của điều kiện tự nhiên hội. Do vậy,
văn hóa cộng đồng Chăm Nam Bộ vừa độc đáo, vừa
đảm bảo đặc thù của cộng đồng tộc người trong một
vùng đa dân tộc, đa văn hóa, vừa có điều kiện hòa
nhập cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Người Chăm Nam Bộ xem kinh Qur’an kim
chỉ nam cho mọi hành động, bao gồm giáo lý, các
tín điều, nguyên tắc tổ chức hội, luân lý, đạo
đức. Vì vậy, những quy định trong kinh Qur’an đã
trở thành “bất di, bất dịch”, không thể tự tiện thay
đổi đối với cộng đồng Chăm. Trong văn nghệ, cộng
đồng Chăm cho phép hát các đoạn kinh Qur’an
phổ nhạc. Nhưng các bản nhạc về kinh Qur’an
thường âm điệu buồn, chỉ phù hợp trong sinh
hoạt tôn giáo. Hiện người Chăm một số bài hát
cộng đồng thể theo thể loại tân nhạc. Người Chăm
không khuyến khích nghe những loại nhạc gây nên
sự cuồng loạn trong lòng người nghe. Thỉnh thoảng
các cô gái Chăm cũng tham gia biểu diễn các điệu
múa truyền thống trong các dịp sinh hoạt văn nghệ.
Những phong tục tập quán truyền thống trái với quy
định của giáo luật Islam đều không được đề cao.
Hôn nhân người Chăm được khuyến khích bởi
những lý do như tăng nguồn lực lao động, phát triển
(dân số) cộng đồng, ngăn ngừa tội lỗi do tình dục
gây ra. Hôn nhân con người Chăm Nam Bộ
được khuyến khích. Trong khi đó loại hôn nhân này
bị xem là loạn luân, do tính mẫu hệ quy định ở vùng
người Chăm Ninh Thuận Bình Thuận. Mặc
bị chi phối của yếu tố phụ hệ Islam, nhưng ở người
Chăm Nam Bộ vẫn tồn tại một số biểu hiện mẫu hệ
của tập tục cổ truyền như tục đưa rể, tục cư trú bên
vợ sau hôn nhân, nghi lễ chính trong đám cưới được
tổ chức bên nhà gái. Tàn mẫu hệ còn thấy qua
tục cô dâu chú rể tranh nhau mò các đồng tiền đựng
trong một chiếc ô đồng chứa nước (trong lễ cưới)
để đoán biết người nắm chủ quyền gia đình sau này
và cô dâu bao giờ cũng mò được số lượng tiền đồng
nhiều hơn.
Lễ tang của người Chăm Nam Bộ khác với
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
102 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIE
người Chăm Ninh Thuận Bình Thuận. Người
chết trong vòng 24 tiếng phải được hoàn tất việc
chôn cất. Người Chăm Islam không sử dụng quan
tài chỉ quấn vải liệm. Về tục thờ cúng tổ tiên,
do xuất phát từ quan niệm cho rằng người chết
về với Allah nên con cháu không phải thờ phụng
hay lập bàn thờ. Tuy nhiên, người Chăm Islam vẫn
tổ chức các buổi cầu nguyện vào các ngày thứ bảy,
ngày thứ mười, một tháng, bốn tháng hoặc vào một
ngày thuận tiện nào đó sau tang lễ và tục viếng mộ
vào dịp lễ trọng theo lịch Islam. Việc thờ cúng tổ
tiên không đặt thành các nghi lễ cầu kỳ mà diễn ra
với việc đọc kinh cho người chết sau khi chôn cất.
Người Chăm Nam Bộ không làm tuần, làm giỗ như
người Chăm Jat hoặc Chăm Bani. Ngày kỷ niệm
người qua đời thể tổ chức vào bất cứ lúc nào
khi gia đình có điều kiện, chứ không ấn định ngày.
Trong ngày đó, người ta mời những người đồng đạo
(Islam) đến đọc kinh cầu nguyện, cũng có khi mang
lễ vật đến chức sắc Imam nhờ cầu kinh hộ. Người
Chăm tin chỉ có Allah mới có quyền ban phúc hay
giáng họa cho con người, nên không thể cầu xin
vong linh tổ tiên (người đã khuất) che chở hay phù
hộ điều gì cho người sống.
Do những nguyên nhân lịch sử diễn ra trong
suốt thời gian rời cố hương định tả ngạn
sông Tiền, cù lao Katambong và ở vùng Châu Đốc,
Tân Châu, dọc theo hai bờ sông Hậu; rồi di lên
Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn nay Thành phố
Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng
Tàu, Bình Dương, Bình Phước làm cho đời sống
văn hóa cộng đồng Chăm ở Nam Bộ có những biến
đổi so với cộng đồng Chăm Jat (bộ phận Chăm
duy trì Balamon) và cộng đồng Chăm Bani Ninh
Thuận Bình Thuận. Người Chăm Nam Bộ lưu
truyền một cách mờ nhạt về các lễ hội cổ truyền
như Katê, Cabur, Rija… thay vào đó các tập
tục Islam như cầu nguyện 5 lần mỗi ngày, hành
hương đến Makah (thánh địa Mecca) hằng năm,
thực hiện tháng chay tịnh Ramadan… như là nhiệm
vụ tín ngưỡng thường xuyên hơn kinh Qur’an
của Islam được xem chuẩn mực cho văn hóa
hội của cộng đồng.
Thêm vào đó, với những thay đổi về địa bàn
cư trú, hoạt động kinh tế, giao lưu văn hóa, những
chuyển đổi, thay đổi của môi trường nông thôn, tập
tục nhà sàn, nhà tranh vách đất dần được thay
thế phù hợp với kết cấu nhà như thành thị hoặc
vùng đô thị hóa ở người Chăm Nam Bộ. Trong quá
trình phát triển hiện nay, đường sá được mở rộng
được bê tông hóa, cơ sở hạ tầng ngày càng cải thiện,
những ngôi nhà sàn xưa của người Chăm Nam Bộ
được thay bằng những ngôi nhà trệt, tường gạch,
lợp tôn hoặc ngói. Cách bài trí trong nhà cũng thay
đổi, nếu ngôi nhà sàn trước đây, phòng ngủ, phòng
khách, phòng cầu nguyện đều nằm trong nhà chính,
nhà bếp, nơi ăn nơi ngủ nằm phía sau, nhà vệ sinh
phòng tắm nằm cách chỗ ăn ở. Thì hiện nay, phần
lớn nhà vùng Chăm Nam Bộ đều gọn trong khuôn
viên của ngôi nhà có diện tích khoảng vài chục đến
một trăm mét vuông. Cách bài trí được chia theo
chiều dài của ngôi nhà, phía trước phòng khách,
đến phòng ngủ, phòng ăn, phòng tắm, vệ sinh.
Trong sự phát triển sôi động hiện nay, nông
thôn hay đô thị, cộng đồng Chăm Nam Bộ đều
sống xen kẽ với các cộng đồng tộc người khác,
trong đó có người Hoa, người Khmer và người Việt.
Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật cũng
như sự hội nhập của các nền văn hóa trên thế giới,
lối sống cũng như cách sống của người dân Nam
Bộ hiện nay, người Chăm luôn điều chỉnh mình
cho phù hợp với cuộc sống hiện đại. Chính nơi đây,
cộng đồng tộc người Chăm đã lưu giữ bản sắc văn
hóa đặc trưng để không hòa tan vào cộng đồng khu
vực chung.
Văn hóa Chăm biến đổi theo cách riêng trong
môi trường đa văn hóa Nam Bộ. Người Chăm
không những có các khu vực cư trú riêng, có những
biểu trưng kiến trúc sang magik hay surau của tôn
giáo Islam trong cộng đồng, còn cách ăn,
cách mặc, cách sinh hoạt cũng đặc thù so với các
cộng đồng tộc người xung quanh. Cách ăn bốc bằng
tay phải của người Chăm được cho đó một nét
tiêu biểu, đã tồn tại trong suốt quá trình chuyển
đến định lâu dài người Chăm vùng Nam
Bộ. Trong khi đó, người Việt, người Hoa bên cạnh
đã dùng đũa, muỗng nay khá thành thạo với dao nĩa
(như văn hóa “ăn” của phương Tây). Trong cách
mặc của người Chăm Nam Bộ cũng khác so với
các cộng đồng tộc người xung quanh. Đành rằng,
mỗi tộc người có phong cách trang phục riêng biệt,
nhưng sự riêng biệt ấy thường chỉ thể hiện ở những
vùng cao, vùng sâu, nơi ít diễn ra quá trình giao lưu
hội nhập văn hóa thì cách ăn mặc của các cộng
đồng dân tộc gần như điểm chung. Đó quần
tây, áo sơ mi khi ra đường; vét-tông của chú rể, xoa-
rê của cô dâu trong ngày cưới; đồ bộ hoặc áo thun,
quần soọc khi ở nhà hoặc bộ bà ba... Nhưng, đối với
cộng đồng Chăm Nam Bộ thì tính chất chung này
hầu như không hoàn toàn phổ biến. Người Chăm
Nam Bộ vẫn dùng trang phục truyền thống như
đối với nam giới thì đội (loại được kapiak
may bằng vải trắng đặc trưng của người Chăm theo
đạo Islam) hoặc khăn hay (loại khăn dài
sal haji
dành cho những người đã hoàn thành chuyến hành
hương Mecca), hàng ngày mặc áo (loại áo cổ bà lai
đứng, xẻ ba nút, tròng đầu) và quấn sarong (tấm vải
dài quấn quanh người từ thắt lưng đổ xuống); còn
đối với nữ giới thì đội khăn (khăn bằng vải maom
katê, kim tuyến viền hai bên), mặc áo (loại tah
áo tròng cổ, giống áo dài nhưng bít tài) quấn chăn
kak (giống váy dài có màu đen).
Về phương diện ẩm thực, người Chăm tuân thủ
theo qui định halal của Islam. Theo đó Halal là loại
thực phẩm được điều chế từ thực vật, từ thủy sản,
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
103Volume 8, Issue 4
hải sản; cấm sử dụng các sản phẩm được điều chế
từ chất trong con heo, các con vật dùng hai chi
trước đưa thức ăn vào miệng (như mèo, beo…), các
con vật sống hai môi trường (như rắn, ếch nhái,…);
còn thịt các con vật (như gà, vịt, dê, bò) đều phải
do chính người Islam cắt tiết, bỏ máu đọc đoạn
kinh (takbia) đúng nghi thức Islam. Thuốc cùng
với một số thức uống men như rượu, bia thuộc
loại cấm kỵ makroh (không sử dụng thì tốt hơn).
Trầu cau tuy xếp vào makroh nhưng tập tục ăn trầu
vẫn gặp ở các phụ nữ Chăm lớn tuổi sử dụng. Trầu
cau còn lễ vật không thể thiếu trong lễ như cưới
xin. Người Chăm vẫn còn thích dùng tay phải bốc
thức ăn được cho một tập tục thể hiện sự thân
thiện được ưa chuộng trong cộng đồng. Cách ăn,
mặc của người Chăm Nam Bộ vừa sự ràng
buộc bởi Islam vừa được giữ gìn theo truyền thống
đã trở thành một yếu tố văn hóa đặc trưng, giúp
người Chăm không dễ lẫn lộn với các dân tộc khác
trong vùng.
4.3. Người Chăm ở Nam Bộ trong giao lưu, hội
nhập văn hóa hiện nay
Tính cởi mở trong giao tiếp của cuộc sống hiện
đại đã ít nhiều tác động tích cực đến việc tiếp xúc
với bên ngoài. Người Chăm Nam Bộ trong quá
trình phát triển cũng đã từng bước dung hòa yếu
tố Islam với văn hóa truyền thống Chăm văn
hóa của các cộng đồng tộc người sống xung quanh.
Cộng đồng Chăm Nam Bộ tuân thủ chặt chẽ giáo lý
của Islam. Sức mạnh của tín ngưỡng giáo lý đã làm
thay đổi nhiều quan niệm, nếp sống đặc trưng của
dân tộc nhưng không hoàn toàn đoạn tuyệt với quá
khứ. Chẳng hạn, chế độ mẫu hệ của người Chăm
tuy phải nhường bước cho những đức tin Islam,
nhưng người phụ nữ Chăm không hoàn toàn bị ràng
buộc nặng nề.
Văn hóa Chăm Nam Bộ đã không ngừng
phong phú thêm về nội dung do sự phát triển nội
tại của cộng đồng sự tiếp thu những yếu tố văn
hóa bên ngoài. Người Chăm ngày nay không ngừng
vươn lên hòa nhập vào hội văn minh, tích cực
tham gia trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa hội nhập. Từ cái trục vừa tính cốt lõi,
vừa có vị trí nền tảng, các yếu tố văn hóa vật chất,
tinh thần cũng như tổ chức cộng đồng dân tộc mang
tính thống nhất và đa dạng của nó. Tính thống nhất
trong cộng đồng Chăm Nam Bộ được thấy trong
việc hình thành khu trú, cách thức nhà sàn,
ăn uống theo halal, mặc váy thổ cẩm với áo dài bít
tà, tổ chức cộng đồng làng xã theo jammaah, vòng
đời cá nhân theo lễ nghi Islam, cùng lưu truyền về
nguồn gốc, cội nguồn dân tộc, yêu lao động, đề cao
giá trị cộng đồng…
Nam Bộ một vị trí địa thuận lợi cho việc
giao lưu với các vùng khác nhau, nơi tiếp nhận,
trạm trung chuyển các đợt di dân, vùng tiếp
nhận các yếu tố văn hóa từ bên ngoài du nhập vào
trong suốt tiến trình lịch sử. Nam Bộ cũng nơi
sự hiện diện của các tôn giáo lớn trên thế giới
(Phật giáo, Kitô giáo, Islam), các tôn giáo trong
khu vực (như Ấn Độ giáo, Nho giáo, Đạo giáo…).
Có thể nói Nam Bộ là bức tranh thu nhỏ, là nơi hội
tụ những điều kiện thuận lợi của điều kiện tự nhiên
và xã hội. Do vậy, văn hóa cộng đồng Chăm ở Nam
Bộ vừa độc đáo, vừa đảm bảo tính đặc thù của cộng
đồng tộc người trong một vùng đa dân tộc, đa văn
hóa vừa điều kiện hòa nhập vào cộng đồng dân
tộc Việt Nam thống nhất.
Người Chăm ở Nam Bộ xem kinh Qur’an là kim
chỉ nam cho mọi hành động, bao gồm giáo lý, các
tín điều, nguyên tắc tổ chức xã hội, luân lý, đạo đức,
luật pháp,… vậy, những quy định trong kinh
Qur’an đã trở thành “bất di, bất dịch”, không thể tự
tiện thay đổi đối với cộng đồng Chăm. Về phương
diện ẩm thực, giáo luật Islam cho phép dùng thịt các
loại động vật như gà, vịt, dê, bò… nhưng phải do
chính tay người Chăm Islam đọc kinh Takbia trước
khi cắt tiết, còn thịt heo bị cấm tuyệt đối vì nó nằm
trong điều harăm (cấm tuyệt đối). Những thức ăn đã
dùng để cúng bái (các thần linh khác) cũng bị cấm
sử dụng. Thuốc cùng với một số thức uống
men như rượu, bia thuộc loại cấm kỵ makroh (xếp
vào loại không dùng thì tốt hơn). Trầu cau tuy xếp
vào makroh nhưng tập tục ăn trầu vẫn gặp ở các phụ
nữ Chăm lớn tuổi. Trầu cau còn là lễ vật không thể
thiếu trong những buổi lễ trang trọng như cưới xin.
Ăn bốc một tập tục truyền thống của các tín đồ
Islam thể hiện sự thân thiện bình đẳng giữa các
tín đồ. Tập quán này được ưa chuộng trong cộng
đồng Chăm, nhưng tập quán ăn đũa cũng khá phổ
biến hiện nay, nhất là trong các buổi tiệc có sự tham
dự của người Việt.
Trong văn nghệ, cộng đồng Chăm cho phép hát
các đoạn kinh Qur’an phổ nhạc. Nhưng các bản nhạc
về kinh Qur’an thường âm điệu buồn, chỉ phù
hợp trong sinh hoạt tôn giáo. Hiện người Chăm
một số bài hát cộng đồng thể theo thể loại tân nhạc.
Người Chăm không khuyến khích nghe những loại
nhạc gây nên sự cuồng loạn trong lòng người nghe.
Thỉnh thỏang các cô gái Chăm cũng tham gia biểu
diễn các điệu múa truyền thống trong các dịp sinh
hoạt văn nghệ nhưng ít được cộng đồng Chăm cổ
vũ. Những phong tục tập quán truyền thống nào trái
với quy định của giáo luật Islam đều không được đề
cao để bảo lưu. Kinh Qur’an bao gồm giáo lý, các
tín điều, nguyên tắc tổ chức xã hội, luân lý, đạo đức,
luật pháp,… Những quy định của kinh Qur’an bất
khả xâm phạm, là chuẩn mực cho mọi sinh hoạt và
các tín đồ không được phép thay đổi.
Hôn nhân trong người Chăm được khuyến khích
bởi những lý do như tăng nguồn lực lao động, phát
triển (dân số) cộng đồng, ngăn ngừa tội lỗi do tình
dục gây ra. Loạn luân một tội rất nặng đó
điều Allah đã cấm được ghi trong kinh Qur’an
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
104 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIE
(điều 27 chương IV). Hôn nhân con người
Chăm Nam Bộ được khuyến khích. Trong khi đó
loại hôn nhân này bị xem là loạn luân, do tính mẫu
hệ quy định vùng người Chăm Ninh Thuận
Bình Thuận. Mặc dù bị chi phối của yếu tố phụ hệ
Islam, nhưng ở người Chăm ở Nam Bộ vẫn còn tồn
tại một số biểu hiện mẫu hệ của tập tục cổ truyền
như tục đưa rể, tục cư trú bên vợ sau hôn nhân, nghi
lễ chính trong đám cưới được tổ chức bên nhà gái.
Tàn dư mẫu hệ còn thấy qua tục cô dâu chú rể tranh
nhau mò các đồng tiền đựng trong một chiếc ô đồng
chứa nước (trong lễ cưới) để đoán biết người nắm
chủ quyền gia đình sau này và cô dâu bao giờ cũng
mò được số lượng tiền đồng nhiều hơn.
Lễ tang của người Chăm ở Nam Bộ khác so với
người Chăm Ninh Thuận Bình Thuận. Người
chết trong vòng 24 tiếng đồng hồ phải được hoàn
tất việc chôn cất. Người Chăm Islam không sử dụng
quan tài chỉ quấn vải liệm. Về tục thờ cúng tổ
tiên, do xuất phát từ quan niệm cho rằng người chết
là về với Allah nên con cháu không phải thờ phụng
hay phải lập bàn thờ. Tuy nhiên người Chăm Islam
vẫn tổ chức các buổi cầu nguyện vào các ngày thứ
bảy, ngày thứ mười, một tháng, bốn tháng hoặc vào
một ngày thuận tiện nào đó sau tang lễ và tục viếng
mộ vào dịp cuối năm theo lịch Islam. Việc thờ cúng
tổ tiên không đặt thành các nghi lễ cầu kỳ chỉ
diễn ra với một vài buổi đọc kinh cho người chết sau
khi chôn cất. Người Chăm Nam Bộ không làm tuần,
làm giỗ linh đình như người Chăm Jat hoặc Chăm
Bani. Ngày kỷ niệm người quá cố qua đời có thể tổ
chức vào bất cứ lúc nào khi gia đình điều kiện
thuận lợi, chứ không bắt buộc vào những ngày nhất
định. Trong ngày đó, người ta mời những người
đồng đạo (Islam) đến đọc kinh cầu nguyện, cũng
có khi người ta mang lễ vật đến chức sắc Imam nhờ
cầu kinh hộ. Người Chăm tin chỉ Allah mới
quyền ban phúc hay giáng họa cho con người, nên
không thể cầu xin vong linh tổ tiên (người đã khuất)
che chở hay phù hộ điều gì cho người sống được.
Người Chăm Nam Bộ hai quan niệm khác
nhau về thờ cúng tổ tiên. Một phái tán thành việc
đọc kinh, cầu nguyện cho ông bà tổ tiên tại gia đình
hoặc tại thánh đường, phái này chiếm đa số trong
cộng đồng. Phái thứ hai cho rằng việc thờ cúng tổ
tiên không đúng giáo luật Islam. thế, tục thờ
cúng tổ tiên đã phân hóa cộng đồng Chăm Nam Bộ
thành hai nhóm khác nhau. Sự giao thoa giữa tôn
giáo tín ngưỡng trong hội người Chăm Nam
Bộ thể hiện sự tương tác giữa văn hóa bản địa
văn hóa phi bản địa, làm biến đổi các tập tục bản
địa dưới tác động của tôn giáo mà những khác biệt
trong tập tục thờ cúng tổ tiên ở người Chăm ở Nam
Bộ là điển hình.
Nhìn chung văn hóa trong cách nhìn kiến tạo ,
xã hội (social construction) là những biểu trưng tập
thể, những giá trị chuẩn mực định chế cho phép
con người lập thành nhóm xã hội có một cố kết bên
trong đời sống cộng đồng hay xã hội, hệ thống hóa
những nhận thức, cảm nhận hành vi trong thực
tiễn. Văn hóa nảy sinh có thể từ bên trong hoặc bên
ngoài cộng đồng xã hội, song nó luôn tham gia vào
quá trình cấu trúc hóa các quan hệ xã hội của cộng
đồng, thay đổi để thích ứng với trạng thái xã hội
nó tham gia, mà cộng đồng Chăm ở Nam Bộ là một
điển hình.
Người Chăm Nam Bộ trong quá trình phát
triển đã từng bước dung hòa yếu tố Islam với văn
hóa truyền thống dân tộc Chăm. Sức mạnh của giáo
lý Islam đã làm thay đổi nhiều quan niệm, nếp sống
đặc trưng của dân tộc nhưng không hoàn toàn đoạn
tuyệt với quá khứ. Trong công tác xây dựng nhà
nước pháp quyền hiện nay, chế quản hành
chính nhà nước vai trò chủ đạo trong vận hành
xã hội. Song quá trình xây dựng cải biến chế
quản hội, sự quan tâm thích đáng những yếu
tố hợp lý của tổ chức xã hội truyền thống được chú
ý kết hợp vận dụng hợp các tổ chức hội
truyền thống với những yếu tố tích cực trong phong
tục tập quán, trong truyền thống văn hóa cộng đồng.
Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật cũng như
sự hội nhập của các nền văn hóa, lối sống cũng như
cách sống hiện nay, người Chăm đã lưu giữ bản sắc
văn hóa đặc trưng để hòa nhập không hòa tan.
Trong quá trình chuyển đổi, nhiều lớp văn hóa cũ,
mới hội nhập, chuyển hóa lẫn nhau song những nét
văn hóa truyền thống Chăm vẫn đang được lưu giữ,
tiếp tục khôi phục và phát huy và phát triển.
5. Kết luận
Văn hóa Chăm Nam Bộ được xây dựng trong
suốt quá trình tồn tại và phát triển và trở thành các
giá trị, các quan niệm, tập quán, truyền thống ăn sâu
vào hoạt động của cộng đồng, chi phối tình cảm,
nếp suy nghĩ hành vi của mọi thành viên trong
việc theo đuổi thực hiện các mục đích của cộng
đồng dân tộc mình. Văn hóa Chăm Nam Bộ góp
phần tạo nên truyền thống, đặc trưng riêng ở Nam
Bộ. Phát huy, phát triển bền vững các giá trị văn hóa
cộng đồng Chăm Nam Bộ đòi hỏi chúng ta không
ngừng tìm hiểu, am hiểu thật tận tường. Chú trọng
nâng cao năng lực tổ chức đại diện cộng đồng cũng
như các chức sắc, chức việc trong hoạt động văn
hóa tín ngưỡng, phong tục tập quán, xây dựng quy
ước, hương ước trên cơ sở lợi ích dân tộc quốc gia
phương cách phát triển cộng đồng Chăm Nam Bộ
thiết thực và bền vững. Bên cạnh đó, các chính sách
đầu phát triển cộng đồng, phát triển giáo dục,
phát triển kinh tế - văn hóa - hội… cần tiếp tục
triển khai, đánh giá, điều chỉnh, bổ sung, xây dựng
cho phù hợp, tạo cơ hội tốt nhất để cộng đồng Chăm
thể tự nâng cao cuộc sống cho mình, mạnh dạn
trong hòa nhập và phát triển, góp phần tiếp tục bảo
tồn, phát huy phát triển văn hóa người Chăm
Nam Bộ.
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
105Volume 8, Issue 4
Tài liệu tham khảo
An, P., Biên, P. X., & Dốp, P. V. (1991). Văn hóa
Chăm. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.
Hẳn, P. V. (n.d.). Một số vấn đề bản trong
phát triển bền vững dân tộc Chăm hiện
nay. Mã số: CTDT.15.17/16-20, do Phú Văn
Hẳn làm chủ nhiệm.
Hẳn, P. V. (1995). Bản sắc văn hóa Chăm ở Nam
bộ. Báo cáo khoa học tại hội thảo khoa học
văn hóa nghệ thuật Champa, Đại học Tổng
hợp TPHCM. Thành phố Hồ Chí Minh.
Hẳn, P. V. (2001). Cộng đồng Islam Việt Nam
- Sự hình thành, hoà nhập, giao lưu phát
triển. , .Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo Số 1
Hẳn, P. V. (2005). Đời sống văn hóa hội
người Chăm thành phố Hồ Chí Minh (chủ
biên). Nxb. Văn hóa Dân tộc.
Hẳn, P. V. (2006). Hiện trạng nghiên cứu khoa
học hội về người Chăm Nam Bộ (1996 -
2006) những mục tiêu nghiên cứu trước
mắt. Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ
Hẳn, P. V. (2014). Tình hình nghiên cứu người
Chăm trong lĩnh vực khoa học hội
nhân văn. Tap chí Khoa học hội Số 3, .
Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ
Hẳn, P. V., & Thắng, S. M. (2018). Văn hóa các
dân tộc thiểu số tại chỗ vùng y Nam Bộ
- Những vấn đề đặt ra trong phát triển bền
vững (Đồng chủ biên). Nxb. Khoa học Xã hội.
Luận, N. V. (1974). Người Chàm Hồi giáo miền
Tây Nam phần Việt Nam. Bộ Văn hóa-Giáo
dục-Thanh niên. Sài Gòn.
Mod, M. (1975). Đặc điểm gia đình, thân tộc
và xã hội của đồng bào Chàm. Trong Những
vấn đề dân tộc học miền Nam Việt Nam
(Tập 2, quyển 2). Viện Khoa học hội tại
thành phố Hồ Chí Minh
Ngữ, N. K. (1967). . Sài Gòn: Tủ Mẫu hệ Chàm
sách Khoa học Nhân văn.
Trù, V. H., & Hẳn, P. V. ( 2012). Một số vấn đề về
dân tộc tôn giáo ở Nam Bộ trong phát triển
(đồng chủ biên). Viện KHXH Việt Nam.
www.arthistory.sbc.edu/imageswoman/
egyptmartriarchy.html
www.bachkhoatoanthu.gov.vn.
THE CHAM PEOPLE IN THE SOUTHERN REGION
IN PRESENT CULTURAL DEVELOPMENT
Phu Van Han
Southern Institute of Social Sciences
Email: phuvanhan@gmail.com
Received: 1/11/2019
Reviewed: 5/11/2019
Revised: 10/11/2019
Accepted: 12/11/2019
Released: 20/11/2019
DOI:
Abstract
Cham people in the Southern region have about 30,000 people
living in Ho Chi Minh City and the provinces of Tay Ninh, Binh
Phuoc, Dong Nai, Tra Vinh, Kien Giang and An Giang. Most of the
Cham people in this region follow the Islamic religion, continue
to preserve the traditional values, and at the same time absorb
new cultural values, contributing to the unity in diversity of Cham
culture and Vietnamese ethnic culture. In the Southern, the living
space is not quite similar to the Cham ethnic people in the Central
region and South Central region, has been formed speci昀椀c Cham
cultural values of Southern Understanding the cultural adaptability
and creativity of the Cham community in the Southern to have an
appropriate maintenance and development strategy is essential in
the context of Vietnam's integration and development today.
Keywords
Cham ethnic group; Cham Islam; Cham in the South; Cham
culture; Beliefs; Religion; Sustainable development.
| 1/9

Preview text:

VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
NGƯỜI CHĂM Ở VÙNG NAM BỘ
TRONG PHÁT TRIỂN VĂN HÓA HIỆN NAY Phú Văn Hẳn
Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ
Email: phuvanhan@gmail.com
Người Chăm ở vùng Nam Bộ có khoảng 30.000 người cư trú
tập trung ở Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Tây Ninh,
Bình Phước, Đồng Nai, Trà Vinh, Kiên Giang, An Giang. Hầu hết Ngày nhận bài: 1/11/2019
người Chăm ở vùng này đều theo tín ngưỡng Islam giáo, tiếp tục Ngày phản biện: 5/11/2019
lưu giữ những giá trị truyền thống, đồng thời tiếp thu những giá trị
Ngày tác giả sửa: 10/11/2019
văn hóa mới, góp phần tạo nên sự thống nhất trong đa dạng văn hóa
Ngày duyệt đăng: 12/11/2019
Chăm và văn hóa các dân tộc Việt Nam. Ở Nam Bộ, với không gian Ngày phát hành: 20/11/2019
sinh sống không hoàn toàn giống với những người đồng tộc gốc
Chăm ở miền Trung và Nam Trung phần, đã hình thành nên những DOI:
giá trị văn hóa Chăm Nam Bộ đặc thù. Tìm hiểu khả năng thích nghi
và sáng tạo văn hóa của cộng đồng Chăm ở Nam Bộ để có chiến
lược duy trì và phát triển phù hợp là rất cần thiết trong bối cảnh Việt
Nam đang hội nhập và phát triển hiện nay.
Từ khoá: Dân tộc Chăm; Chăm Islam; Chăm Nam Bộ; Văn hóa
Chăm; Tín ngưỡng; Tôn giáo; Phát triển bền vững. 1. Đặt vấn đề
sớm biết khai thác các tiềm năng của cả biển và
Hiện nay, người Chăm cư trú tập trung trong núi. Chính bằng đường biển mà cư dân Chăm xưa
các palei (hoặc puk) thuộc các tỉnh Bình Định, có cơ hội tiếp xúc với bên ngoài, giao lưu với nền
Phú Yên, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Phước, văn minh Ấn Độ và văn hóa Islam. Dấu ấn của văn
Bình Dương, Đồng Nai, Tây Ninh, An Giang và minh Ấn Độ là ảnh hưởng của đạo Phật, đạo Hindu
Thành phố Hồ Chí Minh. Một số ít người Chăm trong việc thờ ba vị thần Shiva, Vishnu, Brahma
còn sinh sống ở các tỉnh Tây Nguyên và một số tỉnh và kiến trúc của các tháp Champa hiện còn tại các
khác. Họ là một trong những cư dân sinh sống lâu tỉnh miền Trung. Hàng trăm tác phẩm văn chương
đời trên mảnh đất Việt Nam. Về ngôn ngữ, tiếng dân gian của người Chăm mang nét văn hóa Ấn cho
Chăm thuộc ngữ hệ Austronesian (Nam Đảo), thấy ngôn ngữ Chăm không chỉ vay mượn nhiều từ
đại chi Malayo – Polynesian (Mã lai – Đa đảo: ngữ cùng gốc tiếng Pali – Sanskrit, mà mượn cả hệ
M - P), chi Westen Malayo – Polynesian, tiểu chi thống chữ Ấn Độ (chữ ghi tiếng Pali - Sanskrit).
Sundic, nhóm Malayic, nhóm Achinese – Chamic,
Sự tiếp xúc với Islam giáo xưa trên đất Champa
tiểu nhóm Chamic. Cùng chung tiểu nhóm này, ở diễn ra khá sớm, có chứng cứ từ khoảng thế kỷ X
Việt Nam còn có các dân tộc Eđê, Giarai, Churu, (qua văn bia bằng ký tự Jawi cổ) và rõ hơn vào thế kỷ
Raglai... Những phát hiện về khảo cổ học gần đây XIV - XV, hình thành nhóm Chăm Bani. Về nguồn
gợi lên một giả thiết rằng, chủ nhân của nền văn gốc tôn giáo, cả Chăm Bani và Chăm Islam đều
hóa Sa Huỳnh có thể là tổ tiên của người Chăm. Do chung tôn giáo Islam. Song do quá trình phát triển
đặc điểm cư trú và bản sắc văn hóa mang tính địa trong lịch sử, người Chăm Bani theo đạo Islam vẫn
phương, người Chăm ngày nay được phân thành ba bảo tồn các yếu tố truyền thống, còn Chăm Islam
nhóm cộng đồng: Chăm Hroi tập trung ở Bình Định do tiếp xúc thường xuyên với người theo Islam ở
và Phú Yên, Chăm Panduranga tập trung ở Ninh Malay, Nam Dương (nay là Malaysia, Indonesia...)
Thuận, Bình Thuận và Chăm ở Nam Bộ.
và một số cộng đồng Islam ở quốc gia khác nên
Người Chăm trong quá trình phát triển đã hình sinh hoạt tôn giáo khá thống nhất với người Islam
thành bản sắc văn hóa phong phú về nội dung và ở Malaysia và các nước. Islam giáo ngày càng xâm
đa dạng về diện mạo. Quá trình giao lưu, tiếp xúc nhập vào văn hóa Chăm, thể hiện trong tín ngưỡng
với những yếu tố văn hóa bên ngoài tại mỗi vùng tôn thờ Auluah (Allah) và các thánh thần của Islam.
của đồng bào Chăm đã hình thành những sắc thái
Nghề làm gốm và dệt vải của người Chăm hiện
văn hóa đặc thù. Địa bàn cư trú tập trung ở đồng nay vừa bảo lưu được vốn truyền thống, vừa là
bằng, song do sinh sống gần biển và tựa lưng vào nguồn thu nhập đối với một bộ phận người Chăm.
triền Đông dãy Trường Sơn, nên người Chăm Nhưng do là một nghề thủ công xưa, kỹ thuật sản Volume 8, Issue 4 97
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
xuất chưa được cải tiến nên hàng làm ra không đủ góp trong nghiên cứu ngôn ngữ và biên soạn các
sức cạnh tranh với các sản phẩm công nghiệp.
sách dạy và học tiếng dân tộc Chăm.
Hàng năm người Chăm ở mỗi địa phương đều
Sau năm 1975, các Trường Đại học Khoa học
có những ngày lễ hội. Mỗi khi có lễ hội truyền xã hội và Nhân văn (KHXH&NV), Bộ Văn hóa
thống, không khí ở các palei Chăm luôn nhộn nhịp, - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
sinh động như khơi dậy nguồn sinh lực mới. Ngoài lịch (VHTT&DL)), Bộ Giáo dục và Đào tạo và các
hàng ngàn tác phẩm cổ đang được bảo lưu, đã có viện nghiên cứu đều có những đóng góp đáng kể
thêm nhiều tác phẩm nghiên cứu, ca, muá, nhạc về trong nghiên cứu về người Chăm. Ngành văn hóa
người Chăm. Các hoạt động nhằm bảo tồn và phát luôn đồng hành thực hiện các công trình bảo tồn
huy nền văn hóa nghệ thuật dân tộc Chăm cũng các tháp Champa, các hoạt động khuyến khích bảo
ngày càng được đầu tư, bồi dưỡng.
tồn và phát huy bản sắc văn hóa của người Chăm.
Mỗi vùng Chăm (do phát triển tự nhiên của ngôn Ngành giáo dục đào tạo nỗ lực biên soạn các sách
ngữ) đã hình thành các phương ngữ riêng. Thực dạy và học chữ Chăm. Trong không ít công trình
hiện chính sách ngôn ngữ dân tộc, chính quyền các khoa học và các nghiên cứu về người Chăm của
địa phương nơi có đông người Chăm đã đẩy mạnh Trường Đại học KHXH&NV Thành phố Hồ Chí
biên soạn chương trình dạy chữ Chăm. Ngành giáo Minh và một số trường đại học khác, có các giáo
dục cũng tổ chức nhiều hội nghị rút kinh nghiệm và trình Chăm học. Bên cạnh đó, còn số lượng không
muốn đưa chương trình dạy chữ Chăm akhar Thrah nhỏ các khóa luận, luận văn, luận án về đề tài
áp dụng trong các trường có con em người Chăm người Chăm. Cũng nên kể đến những công bố tại
ở các tỉnh. Hiện nay, Sở Giáo dục và Đào tạo Tây địa phương có người Chăm cư trú đông như ở Phú
Ninh và An Giang tổ chức biên soạn riêng giáo trình Yên (của Kasô Liễng…), Ninh Thuận (của Thiên
dạy chữ Chăm theo mẫu tự Jawi và Rumi. Khá đông Sanh Cảnh, Phan Quốc Anh, Sử Văn Ngọc, Thập
người Chăm đang sử dụng chữ viết Chăm theo mẫu Liên Trưởng, Trương Văn Món, Nguyễn Văn Tỷ,
tự Latinh. Người Chăm không ngừng tự vươn lên Đổng Văn Dinh...), Bình Thuận (của Bố Xuân Hổ,
hòa nhập vào xã hội văn minh, tích cực tham gia Nguyễn Xuân Lý, Lâm Tấn Bình, Thanh Thị Minh
vào các hoạt động xã hội và tiến trình công nghiệp Hiền…)...
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam cũng như hòa nhập
Từ sau năm 1975, việc nghiên cứu người Chăm
vào sự phát triển chung của nhân loại.
được các nhà khoa học của Viện Khoa học xã hội 2. Tổng quan nghiên cứu
vùng Nam Bộ chú ý nhiều hơn. Trong những năm
đầu vừa thống nhất đất nước, việc nghiên cứu đã
Đến nay, có nhiều nghiên cứu về người Chăm và thu được những kết quả đáng ghi nhận, như: Thông
Champa trên nhiều lĩnh vực của chuyên ngành khoa báo nghệ thuật số 20 (1977), Những vấn đề dân tộc
học xã hội. Để có cơ sở cho việc nghiên cứu giai học miền Nam Việt Nam (1978) có giá trị, tổng hợp
đoạn đến năm 2020 và các giai đoạn tiếp sau, việc
nghiên cứu và phân tích tổng quan các công trình của nhiều chuyên ngành. Những bài viết của các
nghiên cứu về người Chăm hết sức cần thiết. Việc nhà khoa học thuộc Viện và các cộng tác viên như
này vừa làm rõ những đóng góp trong lĩnh vực khoa Phan Lạc Tuyên, Lý Kim Hoa, Mahmod, Hoàng
Túc, Hoàng Sĩ Quý, Sử Văn Ngọc, Cao Xuân Phổ,
học xã hội về người Chăm, vừa định hướng cho các Phạm Xuân Thông… có giá trị cho việc nghiên
nghiên cứu về người Chăm tiếp theo một cách căn cứu đánh giá khoa học xã hội về người Chăm. Viện bản và hữu ích.
Khoa học xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh trước
Với bề dày lịch sử, dân tộc Chăm có một di sản đây cũng đã thành lập bộ môn nghiên cứu dân tộc
văn hóa đồ sộ, góp phần làm nên sự đa dạng của bức Chăm trong Ban Dân tộc góp phần thúc đẩy công
tranh toàn cảnh bản sắc văn hóa Việt. Nền văn hóa tác nghiên cứu về dân tộc Chăm. Trong đó có thể
của người Chăm cho đến nay vẫn là đối tượng hấp nhắc đến những đóng góp tài liệu của Phan Văn
dẫn đối với các nghiên cứu khoa học xã hội trong và Quỳnh, Phan Lạc Tuyên, Lê Văn Hảo, Mạc Đường,
ngoài nước. Theo thống kê của Nguyễn Hữu Thông Trần Kỳ Phương…
và các tác giả Phân viện Nghiên cứu Văn hóa nghệ
Từ năm 1986 đến nay, Viện tiếp tục có những
thuật miền Trung, đã có 2.278 công trình về người công trình nghiên cứu về người Chăm được xuất
Chăm. Chắc chắn số liệu này là chưa đầy đủ, bởi
chỉ riêng các bài viết khoa học đã công bố về người bản như: Người Chăm ở Thuận Hải (tỉnh Thuận
Chăm của các tác giả trong và ngoài nước cũng đã Hải, 1989), Văn hóa Chăm (Nxb. Khoa học xã hội,
1991). Hoặc trong kỷ yếu hội thảo Kinh tế – văn hóa
có thể gấp đôi. Các nhà nghiên cứu phương Tây đã Chăm (Viện Đào tạo Mở rộng tổ chức) có nhiều bài
nghiên cứu về người Chăm và được đánh giá như là viết giá trị của các cán bộ nghiên cứu của Viện Viện
sự khởi đầu cho nghiên cứu người Chăm trong lĩnh khoa học xã hội vùng Nam Bộ như Mạc Đường,
vực khoa học xã hội, trong đó EFFO (Trường Viễn
Đông bác cổ Pháp) là khá liên tục. Trước năm 1975, Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Lạc Tuyên, Võ
ở miền Nam, nhiều nhà nghiên cứu Hoa Kỳ, mà SIL Công Nguyện, Nguyễn Tuấn Triết, Vương Hoàng
(Viện Ngôn ngữ Mùa hè) là cơ quan có nhiều đóng Trù, Phan Văn Dốp, Phú Văn Hẳn… 98
JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
Những năm gần đây, việc nghiên cứu về người
3. Phương pháp nghiên cứu
Chăm có nhiều biến đổi từ nội dung đến phương
Phương pháp điền dã đã được người viết sử
pháp tiếp cận. Các công trình khoa học xã hội về dụng trên cơ sở nghiên cứu thực địa, quan sát, ghi
người Chăm đã công bố cho thấy chủ đề nghiên cứu chép, chụp ảnh, ghi hình, ghi âm kết hợp phỏng vấn
về người Chăm đa số tập trung vào vấn đề văn hóa sâu để nắm bắt các đặc thù trong đời sống văn hóa
tộc người, đề xuất các giải pháp, chính sách dân tộc người Chăm. Phương pháp này đã có những kết quả
vùng người Chăm, góp phần mở rộng hướng nghiên hết sức tin cậy. Bên cạnh đó, phương pháp nghiên
cứu, tìm hiểu các vấn đề dân tộc, tôn giáo, văn hóa cứu liên ngành trong khoa học xã hội, nghiên cứu
hoặc nghiên cứu phục vụ tại các địa phương.
định tính và định lượng cũng được chú trọng. Tác
Các công trình khoa học xã hội về người Chăm giả đã kết hợp phân tích và tổng hợp các tài liệu
cho thấy nghiên cứu điền dã được quan tâm. nghiên cứu thứ cấp để từ đó đề xuất được các giải
Phương pháp quan sát tham dự và phỏng vấn sâu pháp và định hướng cho việc phát triển văn hóa của
được vận dụng để cho những kết quả tin cậy. Ngoài cộng đồng người Chăm ở Nam Bộ hiện nay.
ra, phương pháp nghiên cứu liên ngành trong khoa 4. Kết quả nghiên cứu
học xã hội, nghiên cứu định tính và định lượng cũng
Người Chăm ngày nay không ngừng tự vươn lên
được chú trọng. Các công trình đã công bố về người trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
Chăm khá phong phú và giá trị về tư liệu, giúp ích
cho các nghiên cứu tiếp theo, đồng thời bổ sung hội nhập. Tuy nhiên, người Chăm ở vùng sâu, vùng
thông tin hữu ích về đời sống tinh thần và sinh hoạt xa vẫn còn tình trạng khó khăn và đói nghèo. Xóa
bỏ sự cách biệt giữa miền xuôi và miền núi, giữa
xã hội, cũng như đời sống kinh tế người Chăm. Từ dân tộc đa số và các dân tộc thiểu số trên tất cả các
đó có cái nhìn toàn diện hơn về người Chăm nhằm mặt của đời sống là đòi hỏi cấp bách của việc thực
hoạch định chiến lược phát triển người Chăm.
hiện chính sách dân tộc. Các kiến nghị cụ thể chỉ có
Các công trình nghiên cứu cũng đã đưa ra bức ý nghĩa, tác dụng tích cực nếu có cơ sở khoa học.
tranh toàn cảnh về phong tục, tập quán, hôn nhân, Kết quả thu thập được từ nghiên cứu sẽ cung cấp
gia đình, những sinh hoạt văn hóa vật chất và tinh những cứ liệu xác thực để tham mưu cho các cấp
thần… của người Chăm, góp thêm hiểu biết về văn lãnh đạo trong xây dựng và phát triển cộng đồng
hóa tộc người, làm cơ sở khoa học để bảo tồn, khai người Chăm.
thác, phát huy vốn văn hóa của người Chăm. Các
Tìm hiểu khả năng thích nghi và sáng tạo văn
công trình nghiên cứu miêu tả hoạt động sản xuất đã hóa của cộng đồng Chăm ở Nam Bộ để có một chiến
phản ánh đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa truyền lược duy trì và phát triển phù hợp rất cần thiết trong
thống tộc người Chăm, góp thêm tư liệu, cứ liệu
khoa học để nghiên cứu văn hóa Chăm trong nền bối cảnh Việt Nam đang phát triển và hội nhập hiện
văn hóa Việt Nam thống nhất và đa dạng các sắc nay, bổ sung sự hiểu biết về một nếp sinh hoạt văn
hóa độc đáo, pha trộn giữa tôn giáo, phong tục tập
thái văn hóa tộc người.
quán dân tộc và không gian văn hóa vùng Nam Bộ
Tín ngưỡng dân gian với nền tảng là kinh tế trong phát triển bền vững.
nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo, là nền móng trong
4.1. Cộng đồng jammaah tự quản của người
đời sống tâm linh của cư dân Chăm, ảnh hưởng lớn Chăm ở Nam Bộ
đến đời sống tinh thần và sinh hoạt xã hội của người
Chăm. Trong quá trình phát triển, người Chăm
Với người Việt, cộng đồng làng xã được thể hiện
không chỉ dừng lại việc tiếp nhận Balamon giáo, rõ qua sân đình và bến nước. Palei truyền thống của
Phật giáo, Hồi giáo mà sau này còn theo Công giáo, người Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận thường
Tin lành, Baha’i… Những nghiên cứu về tôn giáo gắn với nhà cộng đồng có thể là một sang Po Yang
của người Chăm cho thấy các tôn giáo khi du nhập (đền thờ Thần) hoặc sang Palei (nhà Làng). Palei
vào cộng đồng người Chăm đều thay đổi và có vai của cộng đồng người Chăm Bani thường có một
trò cố kết xã hội theo từng cộng đồng.
sang magik (thánh đường Bani), hoặc hai sang
magik nếu ở đó có bộ phận Bani tách ra theo tôn giáo
Nhìn chung, việc nghiên cứu về người Chăm Islam như ở palei Pamblap Klak (thôn An Nhơn,
mới chỉ được đề cập trong các công trình nghiên
cứu về dân tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, văn hóa, thiếu Ninh Hải, Ninh Thuận); hoặc palei Ram (thôn Văn
vắng các công trình chuyên sâu xuất phát từ mục Lâm, Phước Nam, Thuận Nam, Ninh Thuận), cửa
nhà và cửa làng thường mở ra theo hướng Nam.
tiêu khoa học thiết thực phục vụ cho nhiệm vụ ổn Trong khi đó, ngôi nhà của người Chăm ở Nam Bộ
định và phát triển dân tộc Chăm, cũng như thiếu thường dựng quây quần bên sang majik hoặc surau,
các giải pháp giúp người Chăm thuận lợi hơn trong kiến trúc nhà cửa cũng không theo hướng bắt buộc
hòa nhập và phát triển bền vững. Tuy nhiên, các kết
quả nghiên cứu đã công bố đã giúp định hướng cho theo quan niệm xưa.
các nghiên cứu tiếp theo về người Chăm trong thời
Người Chăm ở Nam Bộ cư trú thành từng gian tới.
nhóm gia đình có quan hệ huyết thống, cùng quê,
cùng đơn vị cư trú theo puk palei (làng xóm), theo Volume 8, Issue 4 99
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
jammaah,… Jammaah là tổ chức có sự liên kết các chia tài sản và khi qua đời “ưu tiên chôn cất” gần
thành viên trong cộng đồng với nhau. Tính cộng mộ người thân (không phân biệt huyết thống bên
đồng jammaah làm cho người Chăm cùng hướng cha hoặc bên mẹ, bên vợ bên chồng). Người Chăm
đến nhiệm vụ chung của dân tộc, cộng đồng mình, Nam Bộ cũng không có nghĩa địa riêng của dòng họ
trở thành đặc trưng tiêu biểu trong văn hóa cộng (kut hoặc ghur) như người Chăm ở Ninh Thuận và đồng Chăm.
Bình Thuận. Người đàn ông Chăm ở Nam Bộ được
Người Chăm cùng sinh hoạt chung trong một đại diện nhà gái giao ước trong lễ kết hôn và hưởng
cơ sở tôn giáo Islam (sang magik hay masjid/surau, phần chia tài sản gấp đôi so với phụ nữ. Người
còn gọi là thánh đường/tiểu thánh đường) quy tụ Chăm Ninh Thuận và Bình Thuận có quan hệ gần
thành cộng đồng jammaah. Trong một jammaah chỉ gũi theo huyết thống bên mẹ và xác định dòng họ
có một sang magik. Các thành viên sinh hoạt tôn nhờ chung kut và ghur. Qui định của đạo Islam cho
giáo tại surau trong cùng một jammaah đều thực phép những người cùng huyết thống bên cha là gần
hiện sinh hoạt chung lễ trọng jammaat (ngày thứ hơn. Song trong đời thường ở vùng Chăm Nam
sáu trong tuần) tại sang magik của jammaah của Bộ, những người cùng huyết thống bên mẹ vẫn có
mình. Trong mỗi jammaah, người Chăm cùng nhau quan hệ gần hơn. Hiện tượng này như một hình thức
chọn ra một “ban quản trị”, đứng đầu là Hakem để song hệ không hẳn do có những quan hệ rõ ràng về
tổ chức các hoạt động bảo lưu giá trị cộng đồng, dòng họ, huyết thống được quy định bởi cùng nghĩa
tương trợ nhau trong cuộc sống.
địa kut hay ghur như người Chăm ở Ninh Thuận
Nơi cư trú của cộng đồng (puk palei) người và Bình Thuận hoặc thiên hẳn về phía cha như quy
Chăm ở Nam Bộ gắn với hình thức các jammaah. định của tôn giáo Islam. Cũng có thể thấy, ở Ninh
Thuận và Bình Thuận, người Chăm trong cùng một
Tên gọi các jammaah này cũng do người Chăm tự dòng kut hay ghur là cùng huyết thống và không
đặt theo tên gọi của các sang magik hoặc ngược lại. được phép kết hôn. Trong khi đó, người Chăm Nam
Tên các jammaah đều gắn với địa danh có nguồn Bộ chỉ cấm không kết hôn giữa anh chị em ruột, anh
gốc ngôn ngữ Arab được người Chăm sử dụng hoặc
đã được Chăm hóa bên cạnh tên gọi gắn với địa danh chị em cùng bú chung bầu vú mẹ, con ruột của vợ
hành chính (có thể bằng tiếng Chăm, tiếng Khmer, hoặc chồng.
tiếng Việt hoặc địa danh khác). Ví dụ: Jammaah
Người Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận
Azhak (ấp Châu Giang, Châu Phong, Tân Châu, An thường có nghĩa địa của dòng họ (kut hoặc ghur)
Giang)… còn gọi Jammaah Mochrut (tiếng Khmer); tổ chức theo huyết thống bên mẹ và đặt ngoài khu
Jammaah Châu Giang (tiếng Việt)…; ở phường 1 vực cư trú Puk Palei. Cho nên, trong những cuộc di
quận 8 Thành phố Hồ Chí Minh có Jammaah Anwar chuyển cư trú của người Chăm trước đây thường để
(gốc tiếng Arab) hoặc còn gọi là Jammaah Tế Bần, lại dấu vết của các kut hoặc ghur của palei cũ. Như
cầu chữ Y (tiếng Việt)…
palei Pamblap Birau (thôn Phước Nhơn, huyện Ninh
Về văn hóa cư trú, do môi trường ở Tây Nam Bộ Hải, tỉnh Ninh Thuận) trước đây có palei ở cạnh bờ
biển Darak Ranaih (gần bờ biển Ninh Chữ - Đông
gắn với sông nước nên hầu hết những ngôi nhà của Hải), sau đó di dời vào Kanduk (khu vực núi Cà
các jammaah người Chăm đều bố trí dọc theo bờ Đú - vịnh Hòn Thiêng - Hộ Diêm), rồi chuyển vào
sông, bờ kênh rạch, cửa chính các ngôi nhà hướng khu vực Pamblap (khu vực Xuân Hải, Ninh Thuận)
ra đường chính và dẫn đến sang magik trong khu cư và cuối cùng tách một nửa bộ phận chuyển cư hình
trú. Có thể thấy, nơi nào ở Nam Bộ có sang magik
hoặc surau, thì sớm muộn gì sẽ thu hút người Chăm thành palei Pamblap Birau thôn Phước Nhơn ngày
đến cư trú hoặc nơi nào có người Chăm Islam cư nay. Hằng năm, dân cư palei Pamblap tổ chức các
lễ viếng thăm mộ ở các nghĩa địa xưa của dòng tộc
trú ổn định, sẽ hình thành sang magik hoặc surau. vào dịp lễ Ramawan (Ramadon: tháng tịnh chay
Mỗi sang magik/surau của mỗi jammaah đều được của người Chăm theo Islam). Trong khi đó, người
người Chăm tại chỗ bầu chọn người uy tín, hiểu biết Chăm Nam Bộ, tại khu vực cư trú Jammaah của
về đời và đạo để vào vị trí Hakem (còn gọi là giáo mình chỉ có khu nghĩa địa chung đặt luôn trong khu
cả). Hakem thường chọn người đại diện là Naep
(cấp phó); chọn Ahly (người giúp việc trong khuôn vực sang magik, surau.
khổ cộng đồng jammaah); chọn cử Imam (người
Mỗi jammaah của người Chăm Nam Bộ là đơn
hướng dẫn cầu nguyện trong sang magik) và các vị cư trú, đồng thời là đơn vị kinh tế, văn hóa và
thành viên khác, hình thành một ban Hakem (hay xã hội mang tính tự quản. Trong các palei (xưa) ở
ban quản trị) từ 3 đến 5 người.
vùng người Chăm Ninh Thuận và Bình Thuận có
tổ chức truyền thống trong quản trị ruộng đất, kênh
Hiện người Chăm ở Nam Bộ không còn bảo mương (thủy lợi) mà ngày nay vẫn còn tồn tại, thể
lưu nguyên vẹn chế độ mẫu hệ như cách của người
Chăm Hroi ở Bình Định và Phú Yên hay người hiện qua các chức sắc Binek (ong Cai Lệ), các ong
Chăm Panduranga ở Ninh Thuận và Bình Thuận. Dhia, ong Pasaih (chức sắc phong tục), ong Taha
Ở Nam Bộ, do qui định từ Islam, con trai người (già làng)... Các hình thức này ở Nam Bộ dưới dạng
các jammaah, bao gồm Hakem và các thành viên
Chăm được quyền hỏi vợ, cưới vợ, được phép nhận 100 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIE
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
ban quản trị thường tồn tại bên cạnh hoặc chuyển quyền, cơ chế quản lý hành chính nhà nước có vai
thành tổ chức tự quản mới thích hợp với quản lý trò chủ đạo trong vận hành xã hội. Song quá trình
hành chính và xã hội hiện tại. Các tổ chức cơ bản xây dựng và cải biến cơ chế quản lý xã hội, sự quan
giống như tổ chức hành chính làng, xóm hiện nay tâm thích đáng những yếu tố của tổ chức xã hội
tại địa phương và thường có người Chăm trong truyền thống được chú ý kết hợp và vận dụng hợp
jammaah đảm nhiệm hoặc tham gia như là cách lý các tổ chức xã hội truyền thống với những yếu
thay thế vai trò của po palei (chủ làng, già làng) tố tích cực trong phong tục tập quán, trong truyền
trước đây, tham gia “quản lý tài sản” phát triển kinh thống văn hóa cộng đồng trong phát triển hiện tại.
tế cộng đồng, bảo tồn phát huy phong tục tập quán,
4.2. Islam giáo trong văn hóa Chăm ở Nam Bộ
bảo vệ quyền lợi, nghĩa vụ và trật tự an ninh của
cộng đồng jammaah – palei.
Nam Bộ có vị trí địa lý thuận lợi cho việc giao
lưu, là nơi trung chuyển các đợt di dân, là vùng tiếp
Ở Nam Bộ, tổ chức cộng đồng jammaah có điểm nhận các yếu tố văn hóa từ bên ngoài du nhập vào
tương tự như palei Chăm ở Ninh Thuận và Bình trong suốt tiến trình lịch sử. Nam Bộ cũng là nơi
Thuận. Tuy nhiên, phần lớn các jammaah ở đây hiện diện các tôn giáo lớn trên thế giới (Phật giáo,
không hoàn toàn nằm gọn trong một đơn vị hành Kitô giáo, Islam), và các tôn giáo trong khu vực
chính giới hạn bởi khu vực cư trú là palei (thôn, (như Ấn Độ giáo, Nho giáo, Đạo giáo…). Có thể
xóm, khu vực,…) mà cong gồm các thành viên nói, Nam Bộ là bức tranh thu nhỏ, nơi hội tụ điều
cùng sinh hoạt tinh thần chung một sang magik. kiện thuận lợi của điều kiện tự nhiên xã hội. Do vậy,
Theo đó, có những thành viên cùng đơn vị cư trú văn hóa cộng đồng Chăm Nam Bộ vừa độc đáo, vừa
làng xã (theo ranh giới hành chính) nhưng có thể đảm bảo đặc thù của cộng đồng tộc người trong một
không cùng jammaah nếu họ không tham gia sinh vùng đa dân tộc, đa văn hóa, vừa có điều kiện hòa
hoạt “tinh thần” tôn giáo chung một sang magik. Ví nhập cộng đồng dân tộc Việt Nam.
dụ, tại ấp Châu Giang (xã Châu Phong, thị xã Tân
Châu, tỉnh An Giang) có tới 2 jammaah: Mubarak
Người Chăm Nam Bộ xem kinh Qur’an là kim
(thuộc Puk Angaok - xóm trên) và Azhak (thuộc chỉ nam cho mọi hành động, bao gồm giáo lý, các
Puk Yuak - xóm dưới); hoặc có người Chăm ở tín điều, nguyên tắc tổ chức xã hội, luân lý, đạo
đức. Vì vậy, những quy định trong kinh Qur’an đã
ngoài địa danh Châu Giang nhưng lại là thành viên trở thành “bất di, bất dịch”, không thể tự tiện thay
jammaah của Azhak. Ở Thành phố Hồ Chí Minh, đổi đối với cộng đồng Chăm. Trong văn nghệ, cộng
nhiều thành viên cư trú ở phường 2, quận 8 không
sinh hoạt tại surau Mubarak tọa lạc tại địa bàn mình đồng Chăm cho phép hát các đoạn kinh Qur’an
cư trú mà đến sinh hoạt tại sang magik Madrasah phổ nhạc. Nhưng các bản nhạc về kinh Qur’an
Anwar, phường 1, quận 8. Quy định này liên quan thường có âm điệu buồn, chỉ phù hợp trong sinh
hoạt tôn giáo. Hiện người Chăm có một số bài hát
đến đóng góp xây dựng cộng đồng jammaah cũng cộng đồng thể theo thể loại tân nhạc. Người Chăm
như các chức sắc Hakim, Naep, Ahly, người đại không khuyến khích nghe những loại nhạc gây nên
diện… có khả năng ảnh hưởng đến họ.
sự cuồng loạn trong lòng người nghe. Thỉnh thoảng
Ngoài tổ chức chính quyền, dòng họ và tôn giáo, các cô gái Chăm cũng tham gia biểu diễn các điệu
cộng đồng Chăm Nam Bộ còn có hội đồng bô lão. múa truyền thống trong các dịp sinh hoạt văn nghệ.
Các thành viên trong hội đồng thường gồm những Những phong tục tập quán truyền thống trái với quy
người cao tuổi, có kinh nghiệm và am hiểu phong định của giáo luật Islam đều không được đề cao.
tục tập quán dân tộc. Ngày nay, tổ chức hội đồng bô
Hôn nhân người Chăm được khuyến khích bởi
lão cộng đồng Chăm ở một số nơi theo hình thức những lý do như tăng nguồn lực lao động, phát triển
các tổ chức hội bảo thọ, hội khuyến học, người có (dân số) cộng đồng, ngăn ngừa tội lỗi do tình dục
uy tín tham gia vai trò giải quyết những trường hợp
lệch lạc truyền thống phong tục tập quán, thuần gây ra. Hôn nhân con dì ở người Chăm Nam Bộ
phong mỹ tục. Để tăng hiệu quả giải quyết những được khuyến khích. Trong khi đó loại hôn nhân này
vấn đề của cộng đồng, Hội đồng bô lão thường kết bị xem là loạn luân, do tính mẫu hệ quy định ở vùng
hợp với chính quyền, cán bộ cơ sở để tăng vai trò người Chăm Ninh Thuận và Bình Thuận. Mặc dù
bị chi phối của yếu tố phụ hệ Islam, nhưng ở người
của mình trong cộng đồng và địa phương.
Chăm Nam Bộ vẫn tồn tại một số biểu hiện mẫu hệ
Jammaah của người Chăm là một tổ chức xã của tập tục cổ truyền như tục đưa rể, tục cư trú bên
hội cộng đồng dân cư đặc thù ở Nam Bộ. Trong vợ sau hôn nhân, nghi lễ chính trong đám cưới được
đó, các tổ chức tín ngưỡng tôn giáo, tổ chức xã hội tổ chức bên nhà gái. Tàn dư mẫu hệ còn thấy qua
và tổ chức chính quyền song song tồn tại và hoạt tục cô dâu chú rể tranh nhau mò các đồng tiền đựng
động trong cộng đồng người Chăm ở Nam Bộ. Các trong một chiếc ô đồng chứa nước (trong lễ cưới)
tổ chức này trong cùng jammaah thường liên kết để đoán biết người nắm chủ quyền gia đình sau này
với nhau để điều hành những vấn đề liên quan đến và cô dâu bao giờ cũng mò được số lượng tiền đồng
tôn giáo, tín ngưỡng và xã hội trong phạm vi cộng nhiều hơn.
đồng mình. Trong công tác xây dựng nhà nước pháp
Lễ tang của người Chăm Nam Bộ khác với Volume 8, Issue 4 101
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
người Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận. Người lớn nhà vùng Chăm Nam Bộ đều gọn trong khuôn
chết trong vòng 24 tiếng phải được hoàn tất việc viên của ngôi nhà có diện tích khoảng vài chục đến
chôn cất. Người Chăm Islam không sử dụng quan một trăm mét vuông. Cách bài trí được chia theo
tài mà chỉ quấn vải liệm. Về tục thờ cúng tổ tiên, chiều dài của ngôi nhà, phía trước là phòng khách,
do xuất phát từ quan niệm cho rằng người chết là đến phòng ngủ, phòng ăn, phòng tắm, vệ sinh.
về với Allah nên con cháu không phải thờ phụng
Trong sự phát triển sôi động hiện nay, ở nông
hay lập bàn thờ. Tuy nhiên, người Chăm Islam vẫn thôn hay ở đô thị, cộng đồng Chăm Nam Bộ đều
tổ chức các buổi cầu nguyện vào các ngày thứ bảy, sống xen kẽ với các cộng đồng tộc người khác,
ngày thứ mười, một tháng, bốn tháng hoặc vào một trong đó có người Hoa, người Khmer và người Việt.
ngày thuận tiện nào đó sau tang lễ và tục viếng mộ Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật cũng
vào dịp lễ trọng theo lịch Islam. Việc thờ cúng tổ như sự hội nhập của các nền văn hóa trên thế giới,
tiên không đặt thành các nghi lễ cầu kỳ mà diễn ra lối sống cũng như cách sống của người dân Nam
với việc đọc kinh cho người chết sau khi chôn cất. Bộ hiện nay, người Chăm luôn điều chỉnh mình
Người Chăm Nam Bộ không làm tuần, làm giỗ như cho phù hợp với cuộc sống hiện đại. Chính nơi đây,
người Chăm Jat hoặc Chăm Bani. Ngày kỷ niệm cộng đồng tộc người Chăm đã lưu giữ bản sắc văn
người qua đời có thể tổ chức vào bất cứ lúc nào hóa đặc trưng để không hòa tan vào cộng đồng khu
khi gia đình có điều kiện, chứ không ấn định ngày. vực chung.
Trong ngày đó, người ta mời những người đồng đạo
(Islam) đến đọc kinh cầu nguyện, cũng có khi mang
Văn hóa Chăm biến đổi theo cách riêng trong
lễ vật đến chức sắc Imam nhờ cầu kinh hộ. Người môi trường đa văn hóa ở Nam Bộ. Người Chăm
Chăm tin chỉ có Allah mới có quyền ban phúc hay không những có các khu vực cư trú riêng, có những
giáng họa cho con người, nên không thể cầu xin biểu trưng kiến trúc sang magik hay surau của tôn
vong linh tổ tiên (người đã khuất) che chở hay phù giáo Islam trong cộng đồng, mà còn có cách ăn,
hộ điều gì cho người sống.
cách mặc, cách sinh hoạt cũng đặc thù so với các
Do những nguyên nhân lịch sử diễn ra trong cộng đồng tộc người xung quanh. Cách ăn bốc bằng
suốt thời gian rời cố hương và định cư ở tả ngạn tay phải của người Chăm được cho đó là một nét
sông Tiền, cù lao Katambong và ở vùng Châu Đốc, tiêu biểu, đã tồn tại trong suốt quá trình chuyển cư
Tân Châu, dọc theo hai bờ sông Hậu; rồi di cư lên đến và định cư lâu dài ở người Chăm vùng Nam
Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn nay là Thành phố Bộ. Trong khi đó, người Việt, người Hoa bên cạnh
Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng đã dùng đũa, muỗng nay khá thành thạo với dao nĩa
Tàu, Bình Dương, Bình Phước làm cho đời sống (như văn hóa “ăn” của phương Tây). Trong cách
văn hóa cộng đồng Chăm ở Nam Bộ có những biến mặc của người Chăm ở Nam Bộ cũng khác so với
đổi so với cộng đồng Chăm Jat (bộ phận Chăm các cộng đồng tộc người xung quanh. Đành rằng,
duy trì Balamon) và cộng đồng Chăm Bani ở Ninh mỗi tộc người có phong cách trang phục riêng biệt,
Thuận và Bình Thuận. Người Chăm Nam Bộ lưu nhưng sự riêng biệt ấy thường chỉ thể hiện ở những
truyền một cách mờ nhạt về các lễ hội cổ truyền vùng cao, vùng sâu, nơi ít diễn ra quá trình giao lưu
như Katê, Cabur, Rija… và thay vào đó là các tập và hội nhập văn hóa thì cách ăn mặc của các cộng
tục Islam như cầu nguyện 5 lần mỗi ngày, hành đồng dân tộc gần như có điểm chung. Đó là quần
hương đến Makah (thánh địa Mecca) hằng năm, tây, áo sơ mi khi ra đường; vét-tông của chú rể, xoa-
thực hiện tháng chay tịnh Ramadan… như là nhiệm rê của cô dâu trong ngày cưới; đồ bộ hoặc áo thun,
vụ tín ngưỡng thường xuyên hơn và kinh Qur’an quần soọc khi ở nhà hoặc bộ bà ba... Nhưng, đối với
của Islam được xem là chuẩn mực cho văn hóa xã cộng đồng Chăm Nam Bộ thì tính chất chung này hội của cộng đồng.
hầu như không hoàn toàn phổ biến. Người Chăm
Thêm vào đó, với những thay đổi về địa bàn ở Nam Bộ vẫn dùng trang phục truyền thống như
cư trú, hoạt động kinh tế, giao lưu văn hóa, những đối với nam giới thì đội mũ kapiak (loại mũ được
chuyển đổi, thay đổi của môi trường nông thôn, tập may bằng vải trắng đặc trưng của người Chăm theo
tục ở nhà sàn, nhà tranh vách đất dần được thay đạo Islam) hoặc khăn sal hay haji (loại khăn dài
thế phù hợp với kết cấu nhà như ở thành thị hoặc dành cho những người đã hoàn thành chuyến hành
vùng đô thị hóa ở người Chăm Nam Bộ. Trong quá hương Mecca), hàng ngày mặc áo bà lai (loại áo cổ
trình phát triển hiện nay, đường sá được mở rộng và đứng, xẻ ba nút, tròng đầu) và quấn sarong (tấm vải
được bê tông hóa, cơ sở hạ tầng ngày càng cải thiện, dài quấn quanh người từ thắt lưng đổ xuống); còn
những ngôi nhà sàn xưa của người Chăm Nam Bộ đối với nữ giới thì đội khăn maom (khăn bằng vải
được thay bằng những ngôi nhà trệt, tường gạch, katê, có kim tuyến viền hai bên), mặc áo tah (loại
lợp tôn hoặc ngói. Cách bài trí trong nhà cũng thay áo tròng cổ, giống áo dài nhưng bít tài) và quấn chăn
đổi, nếu ngôi nhà sàn trước đây, phòng ngủ, phòng kak (giống váy dài có màu đen).
khách, phòng cầu nguyện đều nằm trong nhà chính,
Về phương diện ẩm thực, người Chăm tuân thủ
nhà bếp, nơi ăn nơi ngủ nằm phía sau, nhà vệ sinh theo qui định halal của Islam. Theo đó Halal là loại
và phòng tắm nằm cách chỗ ăn ở. Thì hiện nay, phần thực phẩm được điều chế từ thực vật, từ thủy sản, 102 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIE
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
hải sản; cấm sử dụng các sản phẩm được điều chế trong suốt tiến trình lịch sử. Nam Bộ cũng là nơi
từ chất có trong con heo, các con vật dùng hai chi có sự hiện diện của các tôn giáo lớn trên thế giới
trước đưa thức ăn vào miệng (như mèo, beo…), các (Phật giáo, Kitô giáo, Islam), và các tôn giáo trong
con vật sống hai môi trường (như rắn, ếch nhái,…); khu vực (như Ấn Độ giáo, Nho giáo, Đạo giáo…).
còn thịt các con vật (như gà, vịt, dê, bò) đều phải Có thể nói Nam Bộ là bức tranh thu nhỏ, là nơi hội
do chính người Islam cắt tiết, bỏ máu và đọc đoạn tụ những điều kiện thuận lợi của điều kiện tự nhiên
kinh (takbia) đúng nghi thức Islam. Thuốc lá cùng và xã hội. Do vậy, văn hóa cộng đồng Chăm ở Nam
với một số thức uống có men như rượu, bia thuộc Bộ vừa độc đáo, vừa đảm bảo tính đặc thù của cộng
loại cấm kỵ makroh (không sử dụng thì tốt hơn). đồng tộc người trong một vùng đa dân tộc, đa văn
Trầu cau tuy xếp vào makroh nhưng tập tục ăn trầu hóa vừa có điều kiện hòa nhập vào cộng đồng dân
vẫn gặp ở các phụ nữ Chăm lớn tuổi sử dụng. Trầu tộc Việt Nam thống nhất.
cau còn là lễ vật không thể thiếu trong lễ như cưới
Người Chăm ở Nam Bộ xem kinh Qur’an là kim
xin. Người Chăm vẫn còn thích dùng tay phải bốc chỉ nam cho mọi hành động, bao gồm giáo lý, các
thức ăn được cho là một tập tục thể hiện sự thân tín điều, nguyên tắc tổ chức xã hội, luân lý, đạo đức,
thiện được ưa chuộng trong cộng đồng. Cách ăn, luật pháp,… Vì vậy, những quy định trong kinh
mặc của người Chăm ở Nam Bộ vừa có sự ràng Qur’an đã trở thành “bất di, bất dịch”, không thể tự
buộc bởi Islam vừa được giữ gìn theo truyền thống tiện thay đổi đối với cộng đồng Chăm. Về phương
đã trở thành một yếu tố văn hóa đặc trưng, giúp diện ẩm thực, giáo luật Islam cho phép dùng thịt các
người Chăm không dễ lẫn lộn với các dân tộc khác loại động vật như gà, vịt, dê, bò… nhưng phải do trong vùng.
chính tay người Chăm Islam đọc kinh Takbia trước
4.3. Người Chăm ở Nam Bộ trong giao lưu, hội
khi cắt tiết, còn thịt heo bị cấm tuyệt đối vì nó nằm nhập văn hóa hiện nay
trong điều harăm (cấm tuyệt đối). Những thức ăn đã
Tính cởi mở trong giao tiếp của cuộc sống hiện dùng để cúng bái (các thần linh khác) cũng bị cấm
đại đã ít nhiều tác động tích cực đến việc tiếp xúc sử dụng. Thuốc lá cùng với một số thức uống có
với bên ngoài. Người Chăm Nam Bộ trong quá men như rượu, bia thuộc loại cấm kỵ makroh (xếp
trình phát triển cũng đã từng bước dung hòa yếu vào loại không dùng thì tốt hơn). Trầu cau tuy xếp
tố Islam với văn hóa truyền thống Chăm và văn vào makroh nhưng tập tục ăn trầu vẫn gặp ở các phụ
hóa của các cộng đồng tộc người sống xung quanh. nữ Chăm lớn tuổi. Trầu cau còn là lễ vật không thể
Cộng đồng Chăm Nam Bộ tuân thủ chặt chẽ giáo lý thiếu trong những buổi lễ trang trọng như cưới xin.
của Islam. Sức mạnh của tín ngưỡng giáo lý đã làm Ăn bốc là một tập tục truyền thống của các tín đồ
thay đổi nhiều quan niệm, nếp sống đặc trưng của Islam thể hiện sự thân thiện và bình đẳng giữa các
dân tộc nhưng không hoàn toàn đoạn tuyệt với quá tín đồ. Tập quán này được ưa chuộng trong cộng
khứ. Chẳng hạn, chế độ mẫu hệ của người Chăm đồng Chăm, nhưng tập quán ăn đũa cũng khá phổ
tuy phải nhường bước cho những đức tin Islam, biến hiện nay, nhất là trong các buổi tiệc có sự tham
nhưng người phụ nữ Chăm không hoàn toàn bị ràng dự của người Việt. buộc nặng nề.
Trong văn nghệ, cộng đồng Chăm cho phép hát
Văn hóa Chăm ở Nam Bộ đã không ngừng các đoạn kinh Qur’an phổ nhạc. Nhưng các bản nhạc
phong phú thêm về nội dung do sự phát triển nội về kinh Qur’an thường có âm điệu buồn, chỉ phù
tại của cộng đồng và sự tiếp thu những yếu tố văn hợp trong sinh hoạt tôn giáo. Hiện người Chăm có
hóa bên ngoài. Người Chăm ngày nay không ngừng một số bài hát cộng đồng thể theo thể loại tân nhạc.
vươn lên hòa nhập vào xã hội văn minh, tích cực Người Chăm không khuyến khích nghe những loại
tham gia trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại nhạc gây nên sự cuồng loạn trong lòng người nghe.
hóa và hội nhập. Từ cái trục vừa có tính cốt lõi, Thỉnh thỏang các cô gái Chăm cũng tham gia biểu
vừa có vị trí nền tảng, các yếu tố văn hóa vật chất, diễn các điệu múa truyền thống trong các dịp sinh
tinh thần cũng như tổ chức cộng đồng dân tộc mang hoạt văn nghệ nhưng ít được cộng đồng Chăm cổ
tính thống nhất và đa dạng của nó. Tính thống nhất vũ. Những phong tục tập quán truyền thống nào trái
trong cộng đồng Chăm ở Nam Bộ được thấy trong với quy định của giáo luật Islam đều không được đề
việc hình thành khu cư trú, cách thức ở nhà sàn, cao để bảo lưu. Kinh Qur’an bao gồm giáo lý, các
ăn uống theo halal, mặc váy thổ cẩm với áo dài bít tín điều, nguyên tắc tổ chức xã hội, luân lý, đạo đức,
tà, tổ chức cộng đồng làng xã theo jammaah, vòng luật pháp,… Những quy định của kinh Qur’an là bất
đời cá nhân theo lễ nghi Islam, cùng lưu truyền về khả xâm phạm, là chuẩn mực cho mọi sinh hoạt và
nguồn gốc, cội nguồn dân tộc, yêu lao động, đề cao các tín đồ không được phép thay đổi. giá trị cộng đồng…
Hôn nhân trong người Chăm được khuyến khích
Nam Bộ có một vị trí địa lý thuận lợi cho việc bởi những lý do như tăng nguồn lực lao động, phát
giao lưu với các vùng khác nhau, là nơi tiếp nhận, triển (dân số) cộng đồng, ngăn ngừa tội lỗi do tình
là trạm trung chuyển các đợt di dân, là vùng tiếp dục gây ra. Loạn luân là một tội rất nặng vì đó là
nhận các yếu tố văn hóa từ bên ngoài du nhập vào điều mà Allah đã cấm và được ghi trong kinh Qur’an Volume 8, Issue 4 103
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
(điều 27 chương IV). Hôn nhân con dì ở người con người lập thành nhóm xã hội có một cố kết bên
Chăm Nam Bộ được khuyến khích. Trong khi đó trong đời sống cộng đồng hay xã hội, hệ thống hóa
loại hôn nhân này bị xem là loạn luân, do tính mẫu những nhận thức, cảm nhận và hành vi trong thực
hệ quy định ở vùng người Chăm Ninh Thuận và tiễn. Văn hóa nảy sinh có thể từ bên trong hoặc bên
Bình Thuận. Mặc dù bị chi phối của yếu tố phụ hệ ngoài cộng đồng xã hội, song nó luôn tham gia vào
Islam, nhưng ở người Chăm ở Nam Bộ vẫn còn tồn quá trình cấu trúc hóa các quan hệ xã hội của cộng
tại một số biểu hiện mẫu hệ của tập tục cổ truyền đồng, thay đổi để thích ứng với trạng thái xã hội mà
như tục đưa rể, tục cư trú bên vợ sau hôn nhân, nghi nó tham gia, mà cộng đồng Chăm ở Nam Bộ là một
lễ chính trong đám cưới được tổ chức bên nhà gái. điển hình.
Tàn dư mẫu hệ còn thấy qua tục cô dâu chú rể tranh
Người Chăm ở Nam Bộ trong quá trình phát
nhau mò các đồng tiền đựng trong một chiếc ô đồng triển đã từng bước dung hòa yếu tố Islam với văn
chứa nước (trong lễ cưới) để đoán biết người nắm hóa truyền thống dân tộc Chăm. Sức mạnh của giáo
chủ quyền gia đình sau này và cô dâu bao giờ cũng lý Islam đã làm thay đổi nhiều quan niệm, nếp sống
mò được số lượng tiền đồng nhiều hơn.
đặc trưng của dân tộc nhưng không hoàn toàn đoạn
Lễ tang của người Chăm ở Nam Bộ khác so với tuyệt với quá khứ. Trong công tác xây dựng nhà
người Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận. Người nước pháp quyền hiện nay, cơ chế quản lý hành
chết trong vòng 24 tiếng đồng hồ phải được hoàn chính nhà nước có vai trò chủ đạo trong vận hành
tất việc chôn cất. Người Chăm Islam không sử dụng xã hội. Song quá trình xây dựng và cải biến cơ chế
quan tài mà chỉ quấn vải liệm. Về tục thờ cúng tổ quản lý xã hội, sự quan tâm thích đáng những yếu
tiên, do xuất phát từ quan niệm cho rằng người chết tố hợp lý của tổ chức xã hội truyền thống được chú
là về với Allah nên con cháu không phải thờ phụng ý kết hợp và vận dụng hợp lý các tổ chức xã hội
hay phải lập bàn thờ. Tuy nhiên người Chăm Islam truyền thống với những yếu tố tích cực trong phong
vẫn tổ chức các buổi cầu nguyện vào các ngày thứ tục tập quán, trong truyền thống văn hóa cộng đồng.
bảy, ngày thứ mười, một tháng, bốn tháng hoặc vào Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật cũng như
một ngày thuận tiện nào đó sau tang lễ và tục viếng sự hội nhập của các nền văn hóa, lối sống cũng như
mộ vào dịp cuối năm theo lịch Islam. Việc thờ cúng cách sống hiện nay, người Chăm đã lưu giữ bản sắc
tổ tiên không đặt thành các nghi lễ cầu kỳ mà chỉ văn hóa đặc trưng để hòa nhập mà không hòa tan.
diễn ra với một vài buổi đọc kinh cho người chết sau Trong quá trình chuyển đổi, nhiều lớp văn hóa cũ,
khi chôn cất. Người Chăm Nam Bộ không làm tuần, mới hội nhập, chuyển hóa lẫn nhau song những nét
làm giỗ linh đình như người Chăm Jat hoặc Chăm văn hóa truyền thống Chăm vẫn đang được lưu giữ,
Bani. Ngày kỷ niệm người quá cố qua đời có thể tổ tiếp tục khôi phục và phát huy và phát triển.
chức vào bất cứ lúc nào khi gia đình có điều kiện 5. Kết luận
thuận lợi, chứ không bắt buộc vào những ngày nhất
Văn hóa Chăm Nam Bộ được xây dựng trong
định. Trong ngày đó, người ta mời những người suốt quá trình tồn tại và phát triển và trở thành các
đồng đạo (Islam) đến đọc kinh cầu nguyện, cũng
có khi người ta mang lễ vật đến chức sắc Imam nhờ giá trị, các quan niệm, tập quán, truyền thống ăn sâu
cầu kinh hộ. Người Chăm tin chỉ có Allah mới có vào hoạt động của cộng đồng, chi phối tình cảm,
quyền ban phúc hay giáng họa cho con người, nên nếp suy nghĩ và hành vi của mọi thành viên trong
không thể cầu xin vong linh tổ tiên (người đã khuất) việc theo đuổi và thực hiện các mục đích của cộng
đồng dân tộc mình. Văn hóa Chăm Nam Bộ góp
che chở hay phù hộ điều gì cho người sống được.
phần tạo nên truyền thống, là đặc trưng riêng ở Nam
Người Chăm ở Nam Bộ có hai quan niệm khác Bộ. Phát huy, phát triển bền vững các giá trị văn hóa
nhau về thờ cúng tổ tiên. Một phái tán thành việc cộng đồng Chăm Nam Bộ đòi hỏi chúng ta không
đọc kinh, cầu nguyện cho ông bà tổ tiên tại gia đình ngừng tìm hiểu, am hiểu thật tận tường. Chú trọng
hoặc tại thánh đường, phái này chiếm đa số trong nâng cao năng lực tổ chức đại diện cộng đồng cũng
cộng đồng. Phái thứ hai cho rằng việc thờ cúng tổ như các chức sắc, chức việc trong hoạt động văn
tiên không đúng giáo luật Islam. Vì thế, tục thờ hóa tín ngưỡng, phong tục tập quán, xây dựng quy
cúng tổ tiên đã phân hóa cộng đồng Chăm Nam Bộ ước, hương ước trên cơ sở lợi ích dân tộc quốc gia
thành hai nhóm khác nhau. Sự giao thoa giữa tôn là phương cách phát triển cộng đồng Chăm Nam Bộ
giáo và tín ngưỡng trong xã hội người Chăm Nam thiết thực và bền vững. Bên cạnh đó, các chính sách
Bộ thể hiện sự tương tác giữa văn hóa bản địa và đầu tư phát triển cộng đồng, phát triển giáo dục,
văn hóa phi bản địa, làm biến đổi các tập tục bản phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội… cần tiếp tục
địa dưới tác động của tôn giáo mà những khác biệt triển khai, đánh giá, điều chỉnh, bổ sung, xây dựng
trong tập tục thờ cúng tổ tiên ở người Chăm ở Nam cho phù hợp, tạo cơ hội tốt nhất để cộng đồng Chăm Bộ là điển hình.
có thể tự nâng cao cuộc sống cho mình, mạnh dạn
Nhìn chung, văn hóa trong cách nhìn kiến tạo trong hòa nhập và phát triển, góp phần tiếp tục bảo
xã hội (social construction) là những biểu trưng tập tồn, phát huy và phát triển văn hóa người Chăm ở
thể, những giá trị chuẩn mực và định chế cho phép Nam Bộ. 104 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIE
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN Tài liệu tham khảo
An, P., Biên, P. X., & Dốp, P. V. (1991). Văn hóa
Hẳn, P. V., & Thắng, S. M. (2018). Văn hóa các
Chăm. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.
dân tộc thiểu số tại chỗ vùng Tây Nam Bộ
Hẳn, P. V. (n.d.). Một số vấn đề cơ bản trong
- Những vấn đề đặt ra trong phát triển bền
phát triển bền vững ở dân tộc Chăm hiện
vững (Đồng chủ biên). Nxb. Khoa học Xã hội.
nay. Mã số: CTDT.15.17/16-20, do Phú Văn
Luận, N. V. (1974). Người Chàm Hồi giáo miền Hẳn làm chủ nhiệm.
Tây Nam phần Việt Nam. Bộ Văn hóa-Giáo
Hẳn, P. V. (1995). Bản sắc văn hóa Chăm ở Nam dục-Thanh niên. Sài Gòn.
bộ. Báo cáo khoa học tại hội thảo khoa học
Mod, M. (1975). Đặc điểm gia đình, thân tộc
văn hóa nghệ thuật Champa, Đại học Tổng
và xã hội của đồng bào Chàm. Trong Những
hợp TPHCM. Thành phố Hồ Chí Minh.
vấn đề dân tộc học ở miền Nam Việt Nam
Hẳn, P. V. (2001). Cộng đồng Islam Việt Nam
(Tập 2, quyển 2). Viện Khoa học Xã hội tại
- Sự hình thành, hoà nhập, giao lưu và phát thành phố Hồ Chí Minh
triển. Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Số 1.
Ngữ, N. K. (1967). Mẫu hệ Chàm. Sài Gòn: Tủ
Hẳn, P. V. (2005). Đời sống văn hóa và xã hội sách Khoa học Nhân văn.
người Chăm thành phố Hồ Chí Minh (chủ
Trù, V. H., & Hẳn, P. V. ( 2012). Một số vấn đề về
biên). Nxb. Văn hóa Dân tộc.
dân tộc và tôn giáo ở Nam Bộ trong phát triển
Hẳn, P. V. (2006). Hiện trạng nghiên cứu khoa
(đồng chủ biên). Viện KHXH Việt Nam.
học xã hội về người Chăm Nam Bộ (1996 -
www.arthistory.sbc.edu/imageswoman/
2006) và những mục tiêu nghiên cứu trước egyptmartriarchy.html
mắt. Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ www.bachkhoatoanthu.gov.vn.
Hẳn, P. V. (2014). Tình hình nghiên cứu người
Chăm trong lĩnh vực khoa học xã hội và
nhân văn. Tap chí Khoa học Xã hội, Số 3.
Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ
THE CHAM PEOPLE IN THE SOUTHERN REGION
IN PRESENT CULTURAL DEVELOPMENT Phu Van Han
Southern Institute of Social Sciences Abstract Email: phuvanhan@gmail.com
Cham people in the Southern region have about 30,000 people
living in Ho Chi Minh City and the provinces of Tay Ninh, Binh Received: 1/11/2019
Phuoc, Dong Nai, Tra Vinh, Kien Giang and An Giang. Most of the Reviewed: 5/11/2019
Cham people in this region follow the Islamic religion, continue Revised: 10/11/2019
to preserve the traditional values, and at the same time absorb Accepted: 12/11/2019
new cultural values, contributing to the unity in diversity of Cham Released: 20/11/2019
culture and Vietnamese ethnic culture. In the Southern, the living
space is not quite similar to the Cham ethnic people in the Central
region and South Central region, has been formed speci昀椀c Cham DOI:
cultural values of Southern Understanding the cultural adaptability
and creativity of the Cham community in the Southern to have an
appropriate maintenance and development strategy is essential in
the context of Vietnam's integration and development today. Keywords
Cham ethnic group; Cham Islam; Cham in the South; Cham
culture; Beliefs; Religion; Sustainable development. Volume 8, Issue 4 105