lOMoARcPSD| 39651089
Câu 1. Phân tích nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước.
1.1.2.1. Chế độ cộng sản nguyên thủy và tổ chức thị tộc, bộ lạc
Chế độ cộng sản nguyên thủy là hình thái kinh tế - xã hội đầu tiên trong lịch sử nhân loại.
Đó là một xã hội không có giai cấp, chưa có nhà nước và pháp luật. a. Cơ sở kinh tế
Sở hữu chung về liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Mọi người đều bình đẳng trong
lao động, hưởng thụ, không ai có tài sản riêng, không có người giàu, kẻ nghèo, không có
tình trạng người y chiếm đoạt tài sản người kia (nguyên tắc bình quân). hội chưa
phân chia thành giai cấp và không có đấu tranh giai cấp. b. Cơ sở xã hội
Trong hội cộng sản nguyên thủy, mọi người đều tự do, bình đẳng, không ai đặc
quyền, đặc lợi đối với người khác trong cùng một thị tộc. thời ky đã có sự phân công
lao động, nhưng là sự phân công lao động tự nhiên giữa đàn ông và đàn bà, giữa người già
trẻ nhỏ để thực hiện những công việc khác nhau chứ chưa mang tính hội. c. Quyền
lực xã hội và quy phạm xã hội trong chế độ cộng sản nguyên thủy
Trong chế độ cộng sản nguyên thủy, quyền lực chưa tách khỏi xã hội gắn liền với
xã hội, hòa nhập với xã hội.
- Hội đồng thị tộc là tổ chức quyền lực cao nhất của thị tộc, trong đó mọi người lớn tuổi
không phân biệt đàn ông hay đàn bà, đều thành viên của hội đồng thị tộc. Hội đồng
quyền quyết định tất cả những vấn đề quan trọng nhất của thtộc, các quyết định của
hội đồng thị tộc thể hiện ý chí chung của mọi thành viên và có tính bắt buộc chung với tất
cả mọi người.
1.1.2.2. Sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy và sự xuất hiện của nhà nước
Sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự phân công lao động hội theo ớng chuyên môn
hóa, với việc tham gia của công cụ lao động bằng kim loại đã nâng cao năng suất lao động
kéo theo sự phát triển trình độ sản xuất, đời sống vật chất, tinh thần của xã hội, đã dần dần
tạo ra những tiền đề cho sự tan của chế độ cộng sản nguyên thủy. Lịch sử hội cộng
sản nguyên thủy vào thời kỳ cuối đã trải qua ba lần phân công lao động xã hội, mỗi lần tạo
ra những tiền đề mới làm tan rã chế độ cộng sản nguyên thủy. Lần thứ nhất: Nghề chăn
nuôi phát triển mạnh mẽ đã tách ra khỏi trồng trọt.
(Tư hữu
Chủ nô><nô lệ (ít))
Do việc con người thuần dưỡng được động vật đã hình thành nên đàn gia súc và trở thành
nguồn tích y quan trọng, là mầm mống của chế độ tư hữu. Xuất hiện tầng lớp nô lệ là các
binh chiến tranh tham gia vào quá trình sản xuất. Chế độ hữu xuất hiện m cho kết
cấu xã hội phân chia thành giai cấp chủ nô và nô lệ, tác động và làm thay đổi quan hệ hôn
lOMoARcPSD| 39651089
nhân: hôn nhân một vợ một chồng, chế độ mẫu hệ dần chuyển sang chế độ phụ hệ. Gia
đình cá thể trở thành một lực lượng đe dọa sự tồn tại của thị tộc.
Lần thứ hai: Thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp
(Tư hữu hoàn toàn
Chủ nô ><nô lệ(chủ yếu))
Việc tìm ra kim loại và chế tạo công cụ lao động bằng kim loại đã nâng cao năng suất lao
động; nghề chế tạo đồ kim loại, nghề dệt, làm đồ gốm phát triển. Nô lệ trở thành bộ phận
cấu thành chủ yếu của hệ thống hội. Sự phân công lao động hội lần thứ hai đã đẩy
nhanh quá trình phân hóa hội làm cho sự phân biệt giữa kẻ giàu và người nghèo, giữa
chủ nô và nô lệ ngày càng sâu sắc; mâu thuẫn giai cấp ngày càng tăng.
Lần thứ ba: Buôn bán phát triển và thương nghiệp xuất hiện
(Giàu><nghèo
Chủ nô><nô lệ gay gắt)
Nhu cầu trao đổi hàng hóa đã làm xuất hiện tầng lớp thương nhân không tham gia vào sản
xuất nhưng lại nắm quyền lãnh đạo sản xuất, bắt những người sản xuất phải phụ thuộc
mình về kinh tế. Sự ra đời phát triển của thương mại cũng dẫn đến sự xuất hiện đồng
tiền; nạn cho vay lãi, quyền hữu ruộng đất, chế độ cầm cphát triển đã tăng cường sự
tích tụ tập trung của cải vào tay thiểu số người trong xã hội, từ đó sự phân hóa giữa chủ
và nô lệ ngày càng thêm sâu sắc.
Trong xã hội hình thành giai cấp thống trị (giai cấp bóc lột) có những quyền và lợi ích mâu
thuẫn sâu sắc với giai cấp bị trị (giai cấp bị bóc lột). Mâu thuẫn giai cấp càng quyết liệt đã
làm cho điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại của thị tộc bị phá vỡ. Ba lần phân công lao động
xã hội đã làm đảo lộn đời sống thị tộc và phá vỡ sự tồn tại của thị tộc.
Trước thực trạng trên, chế độ thị tộc tỏ ra bất lực vốn “sinh ra tmột hội không
biết đến mâu thuẫn nội tại nào cả và chỉ thích ứng với xã hội y”. Nhưng bây giờ, một
hội mới đã ra đời, một xã hội mà do toàn bộ những điều kiện kinh tế của sự tồn tại của nó
phải phân chia thành các giai cấp đối lập nhau mâu thuẫn với nhau ngày càng gay
gắt, tổ chức thị tộc trở thành bất lực, không phù hợp được nữa. hội đó đòi hỏi phải
một tổ chức mới đủ sức dập tắt cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp y, tổ chức đó
là nhà nước và nhà nước xuất hiện.
Câu 2: Hình thức n nước
Hình thức nhà nước là cách tổ chức quyền lực nhà nước và những phương pháp để
thực hiện quyền lực nhà nước.
lOMoARcPSD| 39651089
1.5.1. Hình thức chính thể
Hình thức chính thể nhà nước cách thức trình tự thành lập các quan cao nhất của
quyền lực nhà nước, xác lập mối quan hệ giữa các quan đó với nhau với nhân dân.
Hình thức chính thể bao gồm: chính thể quân chủ và chính thể cộng hòa:
Chính thể quân chủ là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà nước tập trung toàn bộ
(hay một phần) trong tay người đứng đầu nhà nước theo nguyên tắc thừa kế.
- Quân chủ chuyên chế (tuyệt đối) là hình thức mà nhà vua có quyền lực tối cao và vô hạn
trong cả ba lĩnh vực: lập pháp, hành pháp và pháp, không bị chia sẻ cho ai cũng
không chịu một sự hạn chế nào.
- Quân chủ hạn chế một hình thức tổ chức nhà nước mà nhà vua chỉ nắm giữ một phần
quyền lực tối cao của nhà nước, bên cạnh vua còn có cơ quan khác để chia sẻ quyền lực
với vua hoặc hạn chế quyền lực của vua.
Chính thể cộng hòa hình thức quyền lực cao nhất của nhà ớc thuộc về một hoặc
một số cơ quan được thành lập theo nguyên tắc bầu cử.
- Cộng hòa quý tộc nh thức quyền bầu cử được bầu vào quan tối cao của
quyền lực nhà nước chỉ thuộc về tầng lớp quý tộc.
- Cộng hòa dân chủ chính thể về mặt pháp lý, quyền bầu cử ứng cử vào các cơ
quan tối cao của quyền lực nhà nước thuộc về mọi công dân khi đnhững điều kiện
luật định.
1.5.2. Hình thức cấu trúc
Hình thức cấu trúc nhà nước cách cấu tạo nnước thành các quan theo các đơn vị
hành chính lãnh thổ, xác lập mối quan hệ giữa các quan đó với nhau với các
quan cao nhất của quyền lực nhà nước.
hai hình thức cấu trúc nhà nước chủ yếu hình thức nhà nước đơn nhất nh thức
nhà nước liên bang.
- Nhà nước đơn nhất là nhà nước có chủ quyền chung, có hệ thống cơ quan
quyền lực và quản lý thống nhất từ trung ương đến địa phương và có các đơn vị hành chính
bao gồm tỉnh (thành phố), huyện (quận), xã (phường).
dụ: Những nước hình thức Nhà nước đơn nhất hiện nay: Việt Nam, Lào, Trung
Quốc, Nhật, Pháp, BaLan…
- Nhà nước liên bang là nhà nước có từ hai hay nhiều nước thành viên hợp lại.
lOMoARcPSD| 39651089
Ngoài hai dạng bản trên còn nhà nước liên minh, đó một nhóm các nhà nước
chủ quyền hoàn toàn liên kết với nhau để thực hiện những mục đích cụ thể nhưng mỗi nhà
nước vẫn giữ chủ quyền riêng của mình.
1.5.3. Chế độ chính trị
Chế độ chính trị tổng thể những phương pháp, thủ đoạn các quan nhà nước sử
dụng để thực hiện quyền lực nhà nước.
Chế độ chính trị bao gồm hai dạng cơ bản là dân chủ và phản dân chủ.
Dân chủ là chế độ mà nhân dân có quyền tham gia vào việc tổ chức, hoạt động của các
quan nhà nước, bàn bạc, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng của nhà nước.
Phản dân chủ chế độ nhân dân không quyền tham gia vào việc tổ chức BMNN
(đặc biệt cơ quan tối cao của quyền lực nhà nước) hoặc o việc bàn bạc, thảo luận
quyết định những vấn đề quan trọng của nhà nước.
Câu 3: Nguồn gốc của pháp luật
Theo học thuyết Mác - LêNin, nhà nước pháp luật hai hiện tượng lịch sử
bản nhất của đời sống chính trị - hội, cùng xuất hiện, cùng tồn tại và phát triển và cùng
tiêu vong khi nhân loại tiến tới chủ nghĩa cộng sản.
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy chưa có nhà nước nên cũng chưapháp luật,
nhưng đã có các quy phạm xã hội hay những quy tắc xử sự chung tồn tại dưới dạng phong
tục tập quán, đạo đức, các tín điều tôn giáo để hướng dẫn cách xử sự cho mọi người.
Khi nhà nước xuất hiện, trong hội đã xuất hiện thêm một loại quy phạm hội
mới chỉ do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện, đó pháp luật. Pháp
luật hình thành bằng các con đường sau:
Thnhất, nnước thừa nhận những quy tắc xử sự chung đã tồn tại trong hội
dưới dạng phong tục tập quán, đạo đức, tín điều tôn giáo nhưng phù hợp với ý chí của nhà
nước thành pháp luật, tức thành các quy tắc xử sự chung được nhà nước bảo đảm thực
hiện.
Thứ hai, nhà nước đặt ra các quy tắc xử sự mới để điều chỉnh các quan hệ hội
mới xuất hiện hoặc để thay thế các quy tắc xử sự khi chúng không phù hợp với ý chí
của nhà nước, đồng thời bảo đảm cho các quy tắc đó được thực hiện.
Thứ ba, nhà nước thừa nhận các quyết định, các lập luận, các nguyên tắc hoặc sự
giải thích pháp luật do quan xét xử (tòa án hay trọng tài) đưa ra khi giải quyết các vụ
lOMoARcPSD| 39651089
việc thực tế, cụ thể làm mẫu, bắt buộc các cơ quan xét xử phải tuân theo khi giải quyết các
vụ việc khác xảy ra về sau có nội dung tương tự như vậy.
Như vậy, pháp luật ra đời cùng với nhà ớc, pháp luật công cụ sắc bén để thực
hiện quyền lực nhà nước, duy trì địa vị bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Nhà nước
ban hành ra pháp luật và bảo đảm cho pháp luật được thực hiện.
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà nước đặt ra hoặc
thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ hội, thể hiện ý chí của Nhà nước được nhà
nước đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội và là nhân tố cơ
bản điều chỉnh các quan hệ xã hội.
2.2. Bản chất của pháp luật
2.2.1. Tính giai cấp của pháp luật
- Tính giai cấp của pháp luật thể hiện chỗ sự thể hiện ý ccủa giai
cấpthống trị hay lực lượng cầm quyền trong xã hội
- Tính giai cấp của pháp luật còn thể hiện ở mục đích điều chỉnh các quan hệ
xãhội theo mục tiêu trật tự, phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị
2.2.2. Tính xã hội của pháp luật
Vì pháp luật do nhà nước, đại diện chính thức của toàn xã hội ban hành nên nó còn
mang tính chất xã hội.
- Pháp luật thể hiện ý chí chung của toàn xã hội và nhằm bảo vệ lợi ích chung
củatất cả các giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
- Pháp luật là công cụ để điều chỉnh các quan hệ xã hội
Câu 4: Quy phạm pháp luật
3.1.1. Khái niệm quy phạm pháp luật
Quy phạm pháp luật quy tắc xử sự chung, hiệu lực bắt buộc chung do nhà
nước đặt ra hoặc thừa nhận bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ hội theo
định hướng của nhà nước.
3.1.2. Đặc điểm quy phạm pháp luật
- Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung.
lOMoARcPSD| 39651089
- Quy phạm pháp luật tiêu chuẩn để xác định giới hạn đánh giá
hành vi của con người.
- Quy phạm pháp luật do các quan nhà ớc ban hành hoặc thừa
nhận và bảo đảm thực hiện.
- Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự bắt buộc chung cho mọi người.
- Quy phạm pháp luật có tính hệ thống.
3.1.3. Cấu trúc của quy phạm pháp luật
3.1.3.1. Phần giả định
- Giả định thường nói đến địa điểm, thời gian, các chủ thể, các hoàn cảnh thực
tế trong đó mệnh lệnh của quy phạm được thực hiện. Giả định thường trả lời cho câu
hỏi ai, khi nào, trong điều kiện, hoàn cảnh nào.
3.1.3.2. Phần quy định
- Quy định nêu lên quy tắc xử sự buộc mọi chủ thể phải tuân theo khi ở trong
hoàncảnh, điều kiện mà bộ phận giả định đã nêu lên. Bộ phận giả định trả lời cho câu hỏi
phải làm gì? Không được làm gì?
3.1.3.3. Phần chế tài
- Chế tài nêu lên hậu quả mà nhà nước dự kiến áp dụng đối với chủ thể không
thựchiện đúng mệnh lệnh đã nêu ở bộ phận quy định của QPPL. Bộ phận chế tài sẽ trả lời
cho câu hỏi nếu không làm thì hậu quả sẽ ntn?
Trong thực tế không phải điều nào của văn bản quy phạm pháp luật cũng đầy đủ 3 bộ phận
(tùy vào đặc điểm từng ngành luật, từng lĩnh vực quản lý) mà việc y dựng các quy phạm
pháp luật có sự thể hiện khác nhau (quy phạm pháp luật của Luật Hiến pháp thường chỉ có
2 yếu tố: giả định quy định; quy phạm pháp luật của Luật hình sự thường phần giả
định và chế tài).
Ví dụ: “ Công dân(GĐ có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật(QĐ) ”.
lOMoARcPSD| 39651089
Câu 5: Quan hệ pháp luật
3.2.1. Khái niệm quan hệ pháp luật
Quan hệ pháp luật những quan hệ nảy sinh trong hội được các quy phạm pháp
luật điều chỉnh, trong đó các bên tham gia đáp ứng được những điều kiện do nhà nước quy
định, có những quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật.
3.2.2. Đặc điểm của quan hệ pháp luật
- Quan hệ pháp luật là quan hệ thể hiện ý chí của Nhà nước.
- Quan hệ pháp luật là quan hệ được xác lập trên cơ sở các quy phạm
pháp luật
- Quan hệ pháp luật quan hệ phát sinh giữa các chthể được xác
định rõ nội dung thực hiện.
- Quan hệ pháp luật xuất hiện, thay đổi hay chấm dứt gắn liền với sự
kiện pháp lý.
3.2.3. Thành phần của quan hệ pháp luật
Quan hệ pháp luật được cấu thành bởi: chủ thể, nội dung và khách thể.
3.2.3.1. Chủ thể quan hệ pháp luật
Chủ thể của quan hệ pháp luật các bên tham gia quan hệ pháp luật; nhân, tổ
chức có năng lực chủ thể tham gia vào QPPL.
Năng lực chủ thể gồm: năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
Năng lực pháp luật là khả năng của chủ thể được nhà nước thừa nhận, có thể thực
hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý.( phụ thuộc vào Nhà nước) Ví dụ:
Trẻ cất tiếng khóc khi chào đời có NLPL Một
đứa trẻ được thừa kế khi bố, mẹ chết.
Năng lực hành vi khả năng của chủ thể được nhà nước thừa nhận bằng hành vi
của mình thực hiện một cách độc lập các quyền và nghĩa vụ pháp lý, độc lập tham gia các
quan hệ xã hội cũng như độc lập chịu trách nhiệm về những hành vi của mình.( phụ thuộc
vào chính mình)
Điều kiện để có NLHV:
Đạt đến một độ tuổi nhất định
Đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi
Phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
lOMoARcPSD| 39651089
Không có NLHV
NLHV hạn chế
...
3.2.3.2. Nội dung của quan hệ pháp luật
Nội dung của quan hệ pháp luật bao gồm quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể khi
tham gia cào các QHPL.
a. Quyền chủ thể:
Một là, khả năng của chủ thể xử sự theo cách thức nhất định mà pháp luật cho phép.
Hai là, khả năng yêu cầu các chủ thể khác phải thực hiện hoặc không thực hiện một
hành vi nào đó.
Ba là, khả năng các chủ thể yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ lợi
ích của mình.
Quyền của chủ thể không phải phạm trù bất biến, quyền của chủ thể cũng thể chuyển
giao cho chủ thể khác trong những điều kiện được PL thừa nhận, Quyền của chủ thể cũng
có thể bị hạn chế hoặc bị mất bởi chính hành vi lỗi của chủ thể.
b. Nghĩa vụ pháp lý của chủ thể:
Chủ thể cần phải tiến hành những hành vi bắt buộc nhất định
Kiềm chế không được tiến hành một số hành động nhất định
Phải chịu trách nhiệm pháp lý khi không thực hiện những hành vi bắt buộc
3.2.3.3. Khách thể của quan hệ pháp luật
- yếu tố tạo nên sự quan m của chủ thể trong việc thực hiện quyền nghĩa vụ
pháp lý của mình
Khách thể quan hệ pháp luật lợi ích vật chất, tinh thần những lợi ích hội
khác thể thỏa mãn những nhu cầu, đòi hỏi của các tổ chức hoặc nhân chúng
các chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật, nghĩa là, chúng họ thực hiện các
quyền và nghĩa vụ chủ thể của mình. Câu 6: Thực hiện pháp luật
4.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật
Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích, làm cho những quy định
của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp
luật. Nói cách khác, thực hiện pháp luật đưa pháp luật vào cuộc sống, vào thực tiễn hoạt
động.
lOMoARcPSD| 39651089
4.1.2. Các hình thức thực hiện pháp luật
4.1.2.1. Tuân thủ pháp luật (xử sự thụ động)
Tuân thủ pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp
luật kiềm chế, không làm những gì pháp luật không cho phép hoặc ngăn cấm.
dụ: Không tự tiện chặt phá cây rừng; không săn bắt động vật quý hiếm; không
khai thác, đánh bắt cá ở sông, biển bằng công cụ, phương tiện có tính hủy diệt (mìn, chất
nổ…).
4.1.2.2. Thi hành pháp luật (xử sự chủ động)
Thi hành pháp luật - hay là chấp hành pháp luật: là hình thức xử sự tích cực khi các
chủ thể thực hiện nghĩa vụ do pháp luật quy định.
dụ: Thực hiện nghĩa vụ đóng thuế đối với Nhà nước khi hoạt động kinh doanh;
thực hiện đi nghĩa vụ quân sự theo quy định Nhà nước.
4.1.2.3. Sử dụng pháp luật
Sử dụng pháp luật hình thức chủ thể thực hiện quyền chủ thể của mình do pháp
luật cho phép (thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép). Hình thức này thể hiện ở
chỗ chủ thể pháp luật được thực hiện các hành vi cho phép theo quy định của pháp luật.
Ví dụ: Khi một người bị người khác xâm hại đến quyền lợi của họ thì họquyền
khởi kiện trước Tòa án đòi bồi thường. Pháp luật quy định công dân quyền khiếu nại
(Công dân A gửi đơn khiếu nại Giám đốc ng ty khi bị kỷ luật cảnh cáo nhằm bảo v
quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị vi phạm. Trong trường hợp này công dân A đã
sử dụng quyền khiếu nại của mình theo quy định của pháp luật, tức là công dân A đã sử
dụng pháp luật).
4.1.2.4. Áp dụng pháp luật
Khi thực hiện pháp luật, nhiều trường hợp nếu không sự can thiệp của quan
Nhà nước, các quy phạm pháp luật sẽ không được thực hiện hoặc thực hiện không đúng,
do đó áp dụng pháp luật tức áp dụng quy phạm pháp luật vào trong các trường hợp cụ
thể.
lOMoARcPSD| 39651089
- Các trường hợp áp dụng pháp luật
+ Thứ nhất, khi quyền nghĩa vụ pháp của các chủ thể pháp luật không mặc
nhiên phát sinh nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước.
Ví dụ: Nữ đủ 18 tuổi, nam đủ 20 tuổi muốn trở thành quan hệ hôn nhân phải được
UBND xã, phường, thị trấn nơi thường trú của một trong hai bên công nhận.
+ Thứ hai, khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên
tham gia quan hệ pháp luật mà các bên không thể tự mình giải quyết được.
dụ: Tranh chấp hợp đồng kinh tế hoặc hợp đồng dân sự cụ thể nào về điều khoản
về thời gian, chất lượng, nếu có yêu cầu của một trong hai bên thì Tòa kinh tế sẽ giải quyết.
+ Thứ ba, khi cần áp dụng những biện pháp cưỡng chế Nhà nước hoặc áp dụng các
chế tài pháp luật đối với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật.
dụ: Một người đi xe gắn máy (110 phân phối) không có bằng lái bị cảnh sát giao
thông xử phạt hành chính, căn cứ vào Pháp lệnh xử vi phạm hành chính ra quyết định
xử phạt. Cảnh sát giao thông xử phạt người không đội mũ bảo hiểm là 100.000 đồng; Tòa
án ra quyết định phạt cải tạo không giam giữyêu cầu bồi thường thiệt hại đối với hành
vi đốt rừng, phá rừng trái phép.
+ Thứ , trong một số trường hợp Nhà ớc thấy cần tham gia để kiểm tra,
giám sát việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia hoặc Nhà nước xác nhận sự
tồn tại hay không tồn tại một số sự việc, hiện tượng, sự kiện thực tế cụ thể nào đó...
Ví dụ: Tòa án tuyên bố một người đã chết hoặc mất tích, từ đó nhà ớc chứng tử
cho người đó. Nhà nước chứng thực hợp đồng mua bán nhà giữa 2 ng dân; nhà nước xác
nhận di chúc hợp pháp; Nhà nước pchuẩn điều lệ hợp tác sản xuất nông nghiệp,
chứng thực thế chấp, việc xác định di chúc…
Tóm lại, Áp dụng pháp luật hình thức Nhà nước thông qua các quan Nhà
nước có thẩm quyền của mình để các chủ thể (cá nhân, tổ chức) thực hiện những quy định
của pháp luật (chủ thể thực hiện pháp luật có sự can thiệp của Nhà nước) hoặc tự mình căn
cứ vào những quy định làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật cụ thể. Đây là
hình thức rất quan trọng, phức tạp trong việc thực hiện pháp luật.
lOMoARcPSD| 39651089
Câu 7: Vi phạm pháp luật
4.2.1. Khái niệm vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể năng lực pháp
thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
4.2.2. Dấu hiệu vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật một hiện tượng xã hội có những dấu hiệu cơ bản sau: Là hành
vi nguy hiểm cho hội, trái pháp luật, có lỗi chủ thể thực hiện phải có năng lực trách
nhiệm pháp lý.
- Dấu hiệu thứ nhất, vi phạm pháp luật luôn hành vi (hành động hoặc
không hành động) xác định của con người hoặc là hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội (các chủ thể pháp luật) nguy hiểm hoặc có khả năng gây nguy hiểm cho
hội.
Hành vi (hành động hay không hành động) sự thể hiện ý chí ra bên ngoài một
cách có ý thức nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật.
dụ: Đi xe y vượt đèn đỏ khi tham gia giao thông; trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế;
không thực hiện nghĩa vụ khi giao kết hợp đồng…
Một người chỉ ý định cướp giật tài sản của người khác, thì không bị buộc tội cướp
giật tài sản. Chỉ khi người đó thể hiện bằng hành động thì mới bị coi là vi phạm pháp luật.
Chỉ bằng nh vi cụ thể của con người, họ mới gây ra thiệt hại cho xã hội hoặc người khác
và do đó mới đánh giá được những sai sót trong ý nghĩ, trong tâm tư, tình cảm của họ. Cho
nên, vi phạm pháp luật hành vi của con người hoặc hoạt động của các quan Nhà
nước, các tổ chức xã hội…
- Dấu hiệu thứ hai, vi phạm pháp luật hành vi trái pháp luật, xâm hại
tới các quan hệ hội được pháp luật bảo vệ. Đây dấu hiệu không thể thiếu của
hành vi vi phạm pháp luật.
Hành vi trái pháp luật là hành vi không phù hợp với những quy định của pháp luật.
Hành vi trái pháp luật thể hiện dưới dạng:
+ Hành động (1 việc làm) mà pháp luật cấm không được làm. dụ:
Đi xe máy o đường ngược chiều; tàn trữ ma y, thuốc lắc… +
Không hành động (không làm 1 việc mà pháp luật đòi hỏi).
lOMoARcPSD| 39651089
dụ: Trong quan hệ hôn nhân gia đình, vợ chồng phải giấy đăng kết
hôn. Nếu không đăng ký coi như là đã vi phạm. Trốn tránh nghĩa vụ phụng dưỡng ông bà,
cha mẹ…
+ Sử dụng quyền hạn vượt quá mức quy định của pháp luật (những gì không được
phép làm mà làm thì sẽ vi phạm).
Ví dụ: Trưởng thôn n đất công cho một số nhân nhất định…
- Dấu hiệu thứ ba, vi phạm pháp luật là hành vi có lỗi.
Dấu hiệu trái pháp luật mới chỉ biểu hiện bên ngoài của hành vi (mặt khách quan).
Để xác định hành vi vi phạm pháp luật cần xem xét cả mặt chủ quan của hành vi, nghĩa
phải xác định trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật của mình.
- Dấu hiệu thứ tư, chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật phải năng lực
trách nhiệm pháp . Trong pháp luật xã hội chủ nghĩa, sự độc lập gánh chịu nghĩa vụ
pháp lý chỉ quy định đối với những người có khả năng tự lựa chọn cách xử sự và có tự do
ý chí.
dụ: Một người điên thực hiện hành vi trái pháp luật, nhưng không phải hành
vi vi phạm pháp luật vì tại thời điểm thực hiện hành vi này họ không nhận thức được hành
vi của mình.
4.2.3. Phân loại vi phạm pháp luật
- Vi phạm pháp luật hình sự (tội phạm): hành vi nguy hiểm cho hội được
quy định trong Bộ luật hình sự, do người năng lực trách nhiệm pháp hình sự gây ra
một cách vô ý hoặc cố ý (Điều 8 BLHS 1999).
- Vi phạm hành chính: là hành vi m phạm các quy tắc quản của Nhà nước
không phải tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính do
cá nhân hoặc tổ chức thực hiện cố ý hay vô ý.
- Vi phạm dân sự: là những hành vi xâm hại đến tài sản, quan hệ nhân thân có
liên quan đến tài sản hoặc không liên quan đến tài sản được quy định trong Bộ luật n sự.
- Vi phạm kỷ luật: là những hành vi có lỗi, trái với những quy chế, quy tắc xác
lập trật tự trong nội bộ một cơ quan, xí nghiệp, trường học…
4.2.4. Cấu thành vi phạm pháp luật
lOMoARcPSD| 39651089
1. Mặt khách quan của vi phạm pháp luật
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật toàn bộ các dấu hiệu bên ngoài của vi
phạm pháp luật, bao gồm: hành vi trái pháp luật; hậu quả thiệt hại cho xã hội; mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi trái pháp luật hậu quả thiệt hại cho hội, cùng các dấu hiệu
khác.
- Hành vi trái pháp luật: Bất kmột vi phạm pháp luật nào cũng được cấu
thành bởi hành vi trái pháp luật.
- Hậu qu(sự thiệt hại) do hành vi trái pháp luật gây ra cho hội. Hành vi
trái pháp luật ở những mức độ khác nhau đều nguy hiểm và gây hại cho xã hội. Tính nguy
hiểm của hành vi trái pháp luật thể hiện chỗ đã hoặc nguy gây ra những thiệt
hại về vật chất, về tinh thần và những thiệt hại khác cho xã hội.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với hậu quả (sự thiệt hại)
mànó gây ra cho xã hội được biểu hiện: sự thiệt hại chohội phải do chính hành vi trái
pháp luật nói trên trực tiếp gây ra
Ngoài ra, trong mặt khách quan còn các dấu hiệu khác như: thời gian, địa điểm,
phương tiện, công cụ,... vi phạm pháp luật.
2. Khách thể của vi phạm pháp luật
Khách thể vi phạm pháp luật là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, nhưng
bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại.
3. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật
Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật là toàn bộ các dấu hiệu bên trong của nó, bao
gồm yếu tố lỗi các yếu tố liên quan đến lỗi động cơ, mục đích của chủ thể thực
hiện vi phạm pháp luật.
- Lỗi là trạng thái tâm lý phản ánh thái độ của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật
của mình, cũng như đối với hậu quả của hành vi đó.
Lỗi được xem như thước đo của trách nhiệm pháp lý, nó thể hiện thái độ tiêu cực
của chủ thể đối với hành vi VPPL của mình, cũng như đối với hậu quả của hành vi đó, của
xã hội tại thời điểm thực hiện hành vi đó.
Lỗi được thể hiện dưới 2 hình thức: lỗi cố ý và lỗi vô ý.
+ Lỗi cố ý: gồm lỗi cố ý trực tiếp và gián tiếp
Lỗi cố ý trực tiếp: Người vi phạm (chủ thể) nhận thức được hành vi mình gây ra
nguy hiểm cho hội, nhìn thấy trước hậu quả nguy hiểm cho hội của hành vi mình y
ra và mong muốn điều đó xảy ra. Ví dụ: tội giết người, cướp của…
lOMoARcPSD| 39651089
Lỗi cố ý gián tiếp: Chủ thể vi phạm pháp luật nhận thức hành vi của mình nguy
hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc
cho hậu quả xảy ra.
Ví dụ: Thấy người bị tai nại nguy hiểm đến tính mạng nhưng để mặc cho
người đó, không cứu giúp họ.
+ Lỗi vô ý: gồm lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi vô ý do cẩu thả
Lỗi vô ý vì quá tự tin: Chủ thể vi phạm pháp luật thấy trước được hành vi của mình
có thể y ra hậu quả nguy hiểm nhưng tin rằng không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
Ví dụ: Lái xe quá tốc độ tin rằng không xảy ra tai nạn nhưng thực tế đã xảy ra tai
nạn.
Lỗi cố ý do cẩu thả: Chủ thể vi phạm pháp luật không nhận thấy được hậu quả nguy
hiểm do hành vi của mình mặc dù trách nhiệm phải biết và có thể biết.
Ví dụ: Kinh doanh thuốc nông dược, không sắp xếp bảo đảm an toàn để xảy ra ngộ
độc.
- Động cơ vi phạm: Động cơ được hiểu là động lực thúc đẩy chủ thể thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật. Động cơ đó có thể là vụ lợi, trả thù, đê hèn...
- Mục đích vi phạm: Mục đích kết quả cuối cùng trong suy nghĩ của
mình chủ thể muốn đạt được khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Trong mặt chủ quan, lỗi là dấu hiệu bắt buộc, còn động cơ và mục đích không phải
là dấu hiệu bắt buộc.
4. Chủ thể vi phạm pháp luật
Chủ thể vi phạm pháp luật là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lý thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Khi truy cứu trách nhiệm pháp lý nếu chủ thể hành vi trái pháp luật
+ nhân phải xác định người đó năng lực trách nhiệm pháp trong trường
hợp đó hay không, muốn vậy phải xem họ đã đủ độ tuổi theo quy định của pháp luật phải
chịu trách nhiệm pháp lý trong trường hợp đó hay chưa? Khả năng nhận thức điều khiển
hành vi trong trường hợp đó như thế nào?
+ tchức phải chú ý tới cách pháp nhân hoặc địa vị pháp của tổ chức đó.
Câu 8: Tội phạm, Cấu thành, Hình phạt
6.1. 2. Tội phạm 6.1. 2.1. Khái niệm tội
phạm
Tội phạm hành vi nguy hiểm cho hội được quy định trong Bộ luật hình sự do
người năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc ý xâm phạm độc
lOMoARcPSD| 39651089
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ
kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh trật tự, an toàn hội, quyền lợi ích hợp pháp
của tổ chức, xâm phạm tính mạng sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền
lợi ích hợp pháp khác của công n, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa.
6.1. 2.2. c dấu hiệu (đặc điểm) của tội phạm
a, Tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội
Bất kỳ một hành vi vi phạm pháp luật nàong đều có tính nguy hiểm cho xã hội,
nhưng đối với tội phạm thì tính nguy hiểm cho hội luôn mức độ cao hơn so với các
loại vi phạm pháp luật khác.
b, Tính có lỗi
Lỗi thái độ chủ quan của con người đối với hành vi nguy hiểm cho hội của
mình và đối với hậu quả của hành vi đó thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý.
c, Tính trái pháp luật hình sự
Bất kmột hành vi o bị coi tội phạm cũng đều được quy định trong Bộ luật
hình sự.
d, Tính phải chịu hình phạt
Nói tội phạm có tính chịu hình phạt có nghĩa là bất cứ hành vi phạm tội nào, do tính
nguy hiểm cho hội cũng đều bị đe dọa phải chịu hình phạt biện pháp cưỡng chế nhà
nước có tính nghiêm khắc nhất trong hệ thống những biện pháp cưỡng chế nhà nước.
6.1. 3. Cấu thành tội phạm
Cấu thành tội phạm là tổng hợp các dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho một loại
tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự.
- Khách thể của tội phạm là quan hệ hội bị tội phạm xâm hại. Bất cứ hành
vi phạm tội nào cũng đều gây thiệt hại hoặc đe dọa y thiệt hại cho một số quan hệ xã hội
nhất định được luật hình sự bảo vệ.
- Chủ thể của tội phạm con người cụ thể có năng lực trách nhiệm hình sự và
đạt độ tuổi luật định đã thực hiện hành vi phạm tội. Bất cứ tội phạm cụ thể nào cũng phải
có chủ thể, không có chủ thể của tội phạm thì không có tội phạm.
- Mặt khách quan của tội phạm những biểu hiện bên ngoài của tội phạm,
bao gồm: Hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho hội, mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi hậu quả cũng như những điều kiện bên ngoài khác (công cụ, phương
tiện, thời gian, hoàn cảnh phạm tội, địa điểm...).
- Mặt chủ quan của tội phạm những biểu hiện tâm bên trong của tội phạm,
bao gồm: Lỗi, mục đích và động cơ phạm tội. Bất cứ tội phạm cụ thể nào cũng là hành vi
lOMoARcPSD| 39651089
có lỗi (lỗi cố ý hoặc vô ý). Động cơ và mục đích phạm tội là nội dung biểu hiện của
mặt chủ quan ở một số tội nhất định.
6.1. 4. Hình phạt và các biện pháp tư pháp
6.1. 4.1. Khái niệm đặc điểm hình phạt
Hình phạt có bốn đặc điểm sau:
Thứ nhất, hình phạt biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước nhằm tước
bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội
Thứ hai, hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự ở phần chung và phần các tội phạm
cụ thể.
Thứ ba, hình phạt chỉ do Tòa án nhân danh nhà nước áp dụng trên cơ sở của bản án. Thứ
tư, hình phạt chỉ áp dụng đối với người có hành vi phạm tội
6.1. 4.2. Các loại hình phạt
Các loại hình phạt trong hệ thống hình phạt chia làm hai nhóm: nhóm nh phạt
chính và hình phạt bổ sung.
Hình phạt chính gồm bảy loại cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ,
trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình;
Nhóm hình phạt bổ sung bảy loại phạt tiền, trục xuất, quản chế, cấm trú,
tước một số quyền công dân, tịch thu tài sản cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định.
Như vậy, trong hệ thống hình phạt có hai loại hình phạt là trục xuất và phạt tiền vừa
là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung.
6.1. 4.3. Các biện pháp tư pháp
Các biện pháp tư pháp là các biện pháp hình sự được Bộ luật hình sự quy định, do
các quan pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy hiểm cho hội tác dụng
hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt.
Các biện pháp pháp gồm: tịch thu vật tiền bạc trực tiếp liên quan đến tội phạm;
trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi; bắt buộc chữa
bệnh.
Câu 9: Giao dịch dân sự. Các điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực
7.1. 3. Giao dịch dân sự
7.1.3.1. Khái niệm và các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự a,
Khái niệm
Theo Điều 121 BLDS 2005: “Giao dịch dân sự hành vi pháp đơn phương hoặc
hợp đồng n sự của nhân, pháp nhân, các chủ thể khác làm phát sinh, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”.
lOMoARcPSD| 39651089
Hành vi pháp đơn phương sự tuyên bố ý chí công khai của một phía chthể
nên việc xác lập, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự trước hết phụ thuộc vào
ý chí của chủ thể đó.
Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các
quyền và nghĩa vụ dân sự.
b, Các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
Theo quy định tại Điều 122 BLDS 2005 thì một giao dịch dân sự được pháp luật
thừa nhận có hiệu lực pháp lý khi đảm bảo các điều kiện sau:
Người tham gia giao dịch năng lực hành vi dân sự
- Đối với cá nhân
+ Người từ đủ 18 tuổi trở lên có khnăng nhận thức và điều chỉnh nh vi của mình
có quyền tự mình tham gia mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của mình hoặc vì lợi ích của chủ
thể khác.
+ Người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi: Những người y đã thể tham gia lao
động thu nhập, xuất phát từ do y, pháp luật dân sự đã chấp nhận một số giao
dịch dân sự nhất định phát sinh hậu quả pháp nếu do người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18
tuổi thực hiện.
+ Người đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi, người bị tòa án ra quyết định hạn chế năng lực
hành vi dân sự: có quyền tự mình tham gia giao dịch dân sự nhỏ phục vụ nhu cầu hàng
ngày. Đối với những giao dịch dân sự có giá trị lớn thì phải thông qua người đại diện theo
pháp luật mới coi là hợp pháp, nếu không thì giao dịch dân sự có thể bị coi là vô hiệu.
+ Đối với người dưới 6 tuổi, người bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự
do bị bệnh tâm thần, pháp luật không cho phép họ tự mình tham gia giao dịch dân sự
phải thông qua người đại diện theo pháp luật.
Mục đích nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của pháp
luật, trái đạo đức xã hội
Mục đích của giao dịch dân sự lợi ích vật chất hoặc tinh thần các chủ thể mong
muốn đạt tới khi xác lập giao dịch dân sự.
Người tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện
Trong trường hợp thiếu sự tự nguyện thì trái với bản chất của giao dịch dân sự
giao dịch dân sự có thể bị coi là vô hiệu trong trường hợp sau:
- Giao dịch dân sự giả to.
- Giao dịch dân sự được xác lập do nhầm lẫn; giao dịch dân sự được xác lập
do bịlừa dối.
lOMoARcPSD| 39651089
- Hoặc giao dịch dân sự được xác lập do bị đe dọa.
- Giao dịch n sự được xác lập vào thời điểm xác lập, người xác lập
khôngnhận thức hoặc làm chủ được hành vi của mình.
Hình thức của giao dịch dân sự phải phù hợp với quy định của pháp luật
Hình thức của giao dịch dân sự thường được thể hiện dưới các hình thức như sau:
bằng lời nói; bằng hành vi cụ thể; bằng văn bản thường hoặc văn bản có chứng thực, chứng
nhận của quan nhà nước thẩm quyền hoặc phải đăng (hợp đồng mua bán nhà ở,
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất,...) “hình thức của giao dịch điều kiện
hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định”.
7.1.3.2. Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý (đọc thêm) a, Giao dịch dân sự
vô hiệu: là giao dịch dân sự không thỏa mãn một trong các điều kiện có hiệu lực của giao
dịch dân sự do pháp luật quy định.
b, Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
Đối với trường hợp đối ợng tài sản không còn nên các bên không thể hoàn trả
được bằng hiện vật mà phải hoàn trả cho nhau bằng tiền.
Tuỳ từng trường hợp xét theo tính chất của giao dịch hiệu, tài sản giao dịch
hoa lợi, lợi tức thu được có thể bị tịch thu theo quy định của pháp luật.
Khi giao dịch bị vô hiệu cần xác định lỗi của các bên để yêu cầu bồi thường. Ví dụ
như trong hợp đồng mua bán nhà ở.
- Bên bán bị coi lỗi: Bên bán bị coi có lỗi nếu làm cho bên mua tin tưởng
bên bán có quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở hoặc có hành vi gian dối để được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, đất ở và sử dụng
các giấy tờ này làm bằng chứng để cho bên mua tin giao kết hợp đồng mua bán nhà
đó.
- Bên mua bị coi lỗi: Bên mua bị coi là có lỗi nếu hành vi gian dối làm cho
bên bán tin tưởng là tài sản đặt cọc, tài sản để thực hiện nghĩa vụ thuộc quyền sở hữu của
bên mua nên đã giao kết hoặc giao nhà ở cho bên mua. Câu 10: Thừa kế
7.1. 4. Quyền thừa kế
7.1.4.1. Những quy định chung về thừa kế
- Quyền thừa kế được hiểu là một chế định pháp luật dân sự (chế định thừa kế)
bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ về việc dịch chuyển tài
sản từ người chết cho những người còn sống khác theo ý chí của họ được thể hiện trong di
chúc hoặc theo ý chí của Nhà nước được thể hiện trong các quy phạm pháp luật.
lOMoARcPSD| 39651089
Quyền thừa kế của cá nhân là quyền để lại tài sản của mình theo di chúc hoặc cho
những người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
- Di sản thừa kế bao gồm tài sản riêng của người chết: thu nhập hợp pháp, của
cải để nh, nhà ở,liệu tiêu dùng,liệu sản xuất tài sản của người chết trong khối
tài sản chung với người khác.
Bên cạnh việc hưởng quyền tài sản, pháp luật quy định người hưởng thừa kế
trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại trong phạm vi di sản như nghĩa
vụ trả nợ, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại,...
- Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế.
- Địa điểm mở thừa kế: là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản.
7.1.4.2. Thừa kế theo di chúc a, Khái niệm di chúc, di chúc vô hiệu và
hiệu lực pháp luật của di chúc
Di chúc sự thể hiện ý chí của nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người
khác sau khi chết.
- Thừa kế theo di chúc là việc chuyển tài sản của người đã chết cho những
người thừa kế theo ý chí tự nguyện của người để lại di sản thể hiện trong di chúc.
- Điều kiện có hiệu lực của di chúc
+ Người lập di chúc phải có năng lực chủ thể trong việc lập di chúc.
+ Người lập di chúc phải tự nguyện.
+ Nội dung của di chúc không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
+ Hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.
Di chúc vô hiệu và hiệu lực pháp luật của di chúc
- Di chúc vô hiệu: là di chúc không thỏa mãn các điều kiện hiệu lực của di
chúc do pháp luật quy định hoặc các quy định khác của pháp luật không liên quan đến điều
kiện có hiệu lực của di chúc.
+ Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di
chúc.
+ quan, tổ chức được chỉ định người thừa kế không còn vào thời điểm mở
thừa kế.
+ Di chúc không hiệu lực pháp luật, nếu di sản để lại cho người thừa kế không
còn vào thời điểm mở thừa kế
+ Di chúc có thể vô hiệu một phần hoặc vô hiệu toàn bộ
- Hiệu lực pháp luật của di chúc
lOMoARcPSD| 39651089
Di chúc hiệu lực kể từ thời điểm mở thừa kế, tức thời điểm người tài sản
chết hoặc bị tòa án ra quyết định tuyên bố là đã chết. Để di chúc hiệu lực thì phải thỏa
mãn 2 điều kiện:
+ Người lập di chúc chết;
+ Di chúc phải thỏa mãn các điều kiện có hiệu lực của di chúc.
b, Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc
BLDS quy định những người sau đây vẫn ởng di sản bằng hai phần ba suất của
một người thừa kế theo pháp luật, nếu như di sản được chia theo pháp luật trong trường
hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng hoặc chỉ cho hưởng ít hơn hai phần ba
suất đó, trừ khi họ là những người từ chối hưởng di sản hoặc không có quyền hưởng di sản
theo Điều 642 và khoản 1 Điều 643 BLDS: Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; con
đã thành niên không có khả năng lao động.
7.1. 4.3. Thừa kế theo pháp luật a, Khái niệm những
trường hợp thừa kế theo pháp luật
Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện trình tự thừa kế
do pháp luật quy định (Điều 674, BLDS 2005). Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong
những trường hợp sau đây:
- Không di chúc (nghĩa người tài sản không định đoạt bằng việc lập
dichúc);
- Di chúc không hợp pháp;
- Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm
vớingười lập di chúc
- quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào
thờiđiểm mở thừa kế.
Khác với thừa kế theo di chúc dựa vào ý chí của người tài sản, thừa kế theo
pháp luật dựa vào diện và hàng thừa kế.
Diện thừa kế là phạm vi những người có quyền hưởng di sản được xác định trên ba
sở quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi ỡng giữa người để lại thừa
kế và người thừa kế.
Hàng thừa kế được pháp luật phân chia thành ba hàng như sau:
- Hàng thứ nhất: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,
connuôi của người chết.
- Hàng thứ hai: ông nội, nội, ông ngoại, ngoại, các cháu nội ngoại,
anhchị em ruột của người chết.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 39651089
Câu 1. Phân tích nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước.
1.1.2.1. Chế độ cộng sản nguyên thủy và tổ chức thị tộc, bộ lạc
Chế độ cộng sản nguyên thủy là hình thái kinh tế - xã hội đầu tiên trong lịch sử nhân loại.
Đó là một xã hội không có giai cấp, chưa có nhà nước và pháp luật. a. Cơ sở kinh tế
Sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Mọi người đều bình đẳng trong
lao động, hưởng thụ, không ai có tài sản riêng, không có người giàu, kẻ nghèo, không có
tình trạng người này chiếm đoạt tài sản người kia (nguyên tắc bình quân). Xã hội chưa
phân chia thành giai cấp và không có đấu tranh giai cấp. b. Cơ sở xã hội
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, mọi người đều tự do, bình đẳng, không ai có đặc
quyền, đặc lợi đối với người khác trong cùng một thị tộc. Ở thời kỳ này đã có sự phân công
lao động, nhưng là sự phân công lao động tự nhiên giữa đàn ông và đàn bà, giữa người già
và trẻ nhỏ để thực hiện những công việc khác nhau chứ chưa mang tính xã hội. c. Quyền
lực xã hội và quy phạm xã hội trong chế độ cộng sản nguyên thủy

Trong chế độ cộng sản nguyên thủy, quyền lực chưa tách khỏi xã hội mà nó gắn liền với
xã hội, hòa nhập với xã hội.
- Hội đồng thị tộc là tổ chức quyền lực cao nhất của thị tộc, trong đó mọi người lớn tuổi
không phân biệt là đàn ông hay đàn bà, đều là thành viên của hội đồng thị tộc. Hội đồng
có quyền quyết định tất cả những vấn đề quan trọng nhất của thị tộc, các quyết định của
hội đồng thị tộc thể hiện ý chí chung của mọi thành viên và có tính bắt buộc chung với tất cả mọi người.
1.1.2.2. Sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy và sự xuất hiện của nhà nước
Sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự phân công lao động xã hội theo hướng chuyên môn
hóa, với việc tham gia của công cụ lao động bằng kim loại đã nâng cao năng suất lao động
kéo theo sự phát triển trình độ sản xuất, đời sống vật chất, tinh thần của xã hội, đã dần dần
tạo ra những tiền đề cho sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy. Lịch sử xã hội cộng
sản nguyên thủy vào thời kỳ cuối đã trải qua ba lần phân công lao động xã hội, mỗi lần tạo
ra những tiền đề mới làm tan rã chế độ cộng sản nguyên thủy. Lần thứ nhất: Nghề chăn
nuôi phát triển mạnh mẽ đã tách ra khỏi trồng trọt. (Tư hữu
Chủ nô>Do việc con người thuần dưỡng được động vật đã hình thành nên đàn gia súc và trở thành
nguồn tích lũy quan trọng, là mầm mống của chế độ tư hữu. Xuất hiện tầng lớp nô lệ là các
tù binh chiến tranh tham gia vào quá trình sản xuất. Chế độ tư hữu xuất hiện làm cho kết
cấu xã hội phân chia thành giai cấp chủ nô và nô lệ, tác động và làm thay đổi quan hệ hôn lOMoAR cPSD| 39651089
nhân: hôn nhân một vợ một chồng, chế độ mẫu hệ dần chuyển sang chế độ phụ hệ. Gia
đình cá thể trở thành một lực lượng đe dọa sự tồn tại của thị tộc.
Lần thứ hai: Thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp (Tư hữu hoàn toàn
Chủ nô >Việc tìm ra kim loại và chế tạo công cụ lao động bằng kim loại đã nâng cao năng suất lao
động; nghề chế tạo đồ kim loại, nghề dệt, làm đồ gốm phát triển. Nô lệ trở thành bộ phận
cấu thành chủ yếu của hệ thống xã hội. Sự phân công lao động xã hội lần thứ hai đã đẩy
nhanh quá trình phân hóa xã hội làm cho sự phân biệt giữa kẻ giàu và người nghèo, giữa
chủ nô và nô lệ ngày càng sâu sắc; mâu thuẫn giai cấp ngày càng tăng.
Lần thứ ba: Buôn bán phát triển và thương nghiệp xuất hiện
(Giàu>Chủ nô>Nhu cầu trao đổi hàng hóa đã làm xuất hiện tầng lớp thương nhân không tham gia vào sản
xuất nhưng lại nắm quyền lãnh đạo sản xuất, bắt những người sản xuất phải phụ thuộc
mình về kinh tế. Sự ra đời và phát triển của thương mại cũng dẫn đến sự xuất hiện đồng
tiền; nạn cho vay lãi, quyền tư hữu ruộng đất, chế độ cầm cố phát triển đã tăng cường sự
tích tụ tập trung của cải vào tay thiểu số người trong xã hội, từ đó sự phân hóa giữa chủ nô
và nô lệ ngày càng thêm sâu sắc.
Trong xã hội hình thành giai cấp thống trị (giai cấp bóc lột) có những quyền và lợi ích mâu
thuẫn sâu sắc với giai cấp bị trị (giai cấp bị bóc lột). Mâu thuẫn giai cấp càng quyết liệt đã
làm cho điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại của thị tộc bị phá vỡ. Ba lần phân công lao động
xã hội đã làm đảo lộn đời sống thị tộc và phá vỡ sự tồn tại của thị tộc.
Trước thực trạng trên, chế độ thị tộc tỏ ra bất lực vì nó vốn “sinh ra từ một xã hội không
biết đến mâu thuẫn nội tại nào cả và chỉ thích ứng với xã hội ấy”. Nhưng bây giờ, một xã
hội mới đã ra đời, một xã hội mà do toàn bộ những điều kiện kinh tế của sự tồn tại của nó
mà phải phân chia thành các giai cấp đối lập nhau và mâu thuẫn với nhau ngày càng gay
gắt, tổ chức thị tộc trở thành bất lực, không phù hợp được nữa. Xã hội đó đòi hỏi phải có
một tổ chức mới đủ sức dập tắt cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp ấy, tổ chức đó
là nhà nước và nhà nước xuất hiện.
Câu 2: Hình thức nhà nước
Hình thức nhà nước là cách tổ chức quyền lực nhà nước và những phương pháp để
thực hiện quyền lực nhà nước. lOMoAR cPSD| 39651089
1.5.1. Hình thức chính thể
Hình thức chính thể nhà nước là cách thức và trình tự thành lập các cơ quan cao nhất của
quyền lực nhà nước, xác lập mối quan hệ giữa các cơ quan đó với nhau và với nhân dân.
Hình thức chính thể bao gồm: chính thể quân chủ và chính thể cộng hòa:
Chính thể quân chủ là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà nước tập trung toàn bộ
(hay một phần) trong tay người đứng đầu nhà nước theo nguyên tắc thừa kế.
- Quân chủ chuyên chế (tuyệt đối) là hình thức mà nhà vua có quyền lực tối cao và vô hạn
trong cả ba lĩnh vực: lập pháp, hành pháp và tư pháp, không bị chia sẻ cho ai và cũng
không chịu một sự hạn chế nào.
- Quân chủ hạn chế là một hình thức tổ chức nhà nước mà nhà vua chỉ nắm giữ một phần
quyền lực tối cao của nhà nước, bên cạnh vua còn có cơ quan khác để chia sẻ quyền lực
với vua hoặc hạn chế quyền lực của vua.
Chính thể cộng hòa là hình thức mà quyền lực cao nhất của nhà nước thuộc về một hoặc
một số cơ quan được thành lập theo nguyên tắc bầu cử.
- Cộng hòa quý tộc là hình thức mà quyền bầu cử và được bầu vào cơ quan tối cao của
quyền lực nhà nước chỉ thuộc về tầng lớp quý tộc.
- Cộng hòa dân chủ là chính thể mà về mặt pháp lý, quyền bầu cử và ứng cử vào các cơ
quan tối cao của quyền lực nhà nước thuộc về mọi công dân khi có đủ những điều kiện luật định.
1.5.2. Hình thức cấu trúc
Hình thức cấu trúc nhà nước là cách cấu tạo nhà nước thành các cơ quan theo các đơn vị
hành chính – lãnh thổ, xác lập mối quan hệ giữa các cơ quan đó với nhau và với các cơ
quan cao nhất của quyền lực nhà nước.
Có hai hình thức cấu trúc nhà nước chủ yếu là hình thức nhà nước đơn nhất và hình thức nhà nước liên bang.
- Nhà nước đơn nhất là nhà nước có chủ quyền chung, có hệ thống cơ quan
quyền lực và quản lý thống nhất từ trung ương đến địa phương và có các đơn vị hành chính
bao gồm tỉnh (thành phố), huyện (quận), xã (phường).
Ví dụ: Những nước có hình thức Nhà nước đơn nhất hiện nay: Việt Nam, Lào, Trung
Quốc, Nhật, Pháp, BaLan…
- Nhà nước liên bang là nhà nước có từ hai hay nhiều nước thành viên hợp lại. lOMoAR cPSD| 39651089
Ngoài hai dạng cơ bản trên còn có nhà nước liên minh, đó là một nhóm các nhà nước có
chủ quyền hoàn toàn liên kết với nhau để thực hiện những mục đích cụ thể nhưng mỗi nhà
nước vẫn giữ chủ quyền riêng của mình.
1.5.3. Chế độ chính trị
Chế độ chính trị là tổng thể những phương pháp, thủ đoạn mà các cơ quan nhà nước sử
dụng để thực hiện quyền lực nhà nước.
Chế độ chính trị bao gồm hai dạng cơ bản là dân chủ và phản dân chủ.
Dân chủ là chế độ mà nhân dân có quyền tham gia vào việc tổ chức, hoạt động của các cơ
quan nhà nước, bàn bạc, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng của nhà nước.
Phản dân chủ là chế độ mà nhân dân không có quyền tham gia vào việc tổ chức BMNN
(đặc biệt là cơ quan tối cao của quyền lực nhà nước) hoặc vào việc bàn bạc, thảo luận và
quyết định những vấn đề quan trọng của nhà nước.
Câu 3: Nguồn gốc của pháp luật
Theo học thuyết Mác - LêNin, nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng lịch sử cơ
bản nhất của đời sống chính trị - xã hội, cùng xuất hiện, cùng tồn tại và phát triển và cùng
tiêu vong khi nhân loại tiến tới chủ nghĩa cộng sản.
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy chưa có nhà nước nên cũng chưa có pháp luật,
nhưng đã có các quy phạm xã hội hay những quy tắc xử sự chung tồn tại dưới dạng phong
tục tập quán, đạo đức, các tín điều tôn giáo để hướng dẫn cách xử sự cho mọi người.
Khi nhà nước xuất hiện, trong xã hội đã xuất hiện thêm một loại quy phạm xã hội
mới chỉ do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện, đó là pháp luật. Pháp
luật hình thành bằng các con đường sau:
Thứ nhất, nhà nước thừa nhận những quy tắc xử sự chung đã tồn tại trong xã hội
dưới dạng phong tục tập quán, đạo đức, tín điều tôn giáo nhưng phù hợp với ý chí của nhà
nước thành pháp luật, tức là thành các quy tắc xử sự chung được nhà nước bảo đảm thực hiện.
Thứ hai, nhà nước đặt ra các quy tắc xử sự mới để điều chỉnh các quan hệ xã hội
mới xuất hiện hoặc để thay thế các quy tắc xử sự cũ khi chúng không phù hợp với ý chí
của nhà nước, đồng thời bảo đảm cho các quy tắc đó được thực hiện.
Thứ ba, nhà nước thừa nhận các quyết định, các lập luận, các nguyên tắc hoặc sự
giải thích pháp luật do cơ quan xét xử (tòa án hay trọng tài) đưa ra khi giải quyết các vụ lOMoAR cPSD| 39651089
việc thực tế, cụ thể làm mẫu, bắt buộc các cơ quan xét xử phải tuân theo khi giải quyết các
vụ việc khác xảy ra về sau có nội dung tương tự như vậy.
Như vậy, pháp luật ra đời cùng với nhà nước, pháp luật là công cụ sắc bén để thực
hiện quyền lực nhà nước, duy trì địa vị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Nhà nước
ban hành ra pháp luật và bảo đảm cho pháp luật được thực hiện.
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà nước đặt ra hoặc
thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, thể hiện ý chí của Nhà nước và được nhà
nước đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội và là nhân tố cơ
bản điều chỉnh các quan hệ xã hội.
2.2. Bản chất của pháp luật
2.2.1. Tính giai cấp của pháp luật -
Tính giai cấp của pháp luật thể hiện ở chỗ nó là sự thể hiện ý chí của giai
cấpthống trị hay lực lượng cầm quyền trong xã hội -
Tính giai cấp của pháp luật còn thể hiện ở mục đích điều chỉnh các quan hệ
xãhội theo mục tiêu trật tự, phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị
2.2.2. Tính xã hội của pháp luật
Vì pháp luật do nhà nước, đại diện chính thức của toàn xã hội ban hành nên nó còn mang tính chất xã hội. -
Pháp luật thể hiện ý chí chung của toàn xã hội và nhằm bảo vệ lợi ích chung
củatất cả các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. -
Pháp luật là công cụ để điều chỉnh các quan hệ xã hội
Câu 4: Quy phạm pháp luật
3.1.1. Khái niệm quy phạm pháp luật
Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung do nhà
nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo
định hướng của nhà nước.

3.1.2. Đặc điểm quy phạm pháp luật -
Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung. lOMoAR cPSD| 39651089 -
Quy phạm pháp luật là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá
hành vi của con người. -
Quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước ban hành hoặc thừa
nhận và bảo đảm thực hiện. -
Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự bắt buộc chung cho mọi người. -
Quy phạm pháp luật có tính hệ thống.
3.1.3. Cấu trúc của quy phạm pháp luật
3.1.3.1. Phần giả định -
Giả định thường nói đến địa điểm, thời gian, các chủ thể, các hoàn cảnh thực
tế mà trong đó mệnh lệnh của quy phạm được thực hiện. Giả định thường trả lời cho câu
hỏi ai, khi nào, trong điều kiện, hoàn cảnh nào.
3.1.3.2. Phần quy định -
Quy định nêu lên quy tắc xử sự buộc mọi chủ thể phải tuân theo khi ở trong
hoàncảnh, điều kiện mà bộ phận giả định đã nêu lên. Bộ phận giả định trả lời cho câu hỏi
phải làm gì? Không được làm gì?
3.1.3.3. Phần chế tài -
Chế tài nêu lên hậu quả mà nhà nước dự kiến áp dụng đối với chủ thể không
thựchiện đúng mệnh lệnh đã nêu ở bộ phận quy định của QPPL. Bộ phận chế tài sẽ trả lời
cho câu hỏi nếu không làm thì hậu quả sẽ ntn?
Trong thực tế không phải điều nào của văn bản quy phạm pháp luật cũng đầy đủ 3 bộ phận
(tùy vào đặc điểm từng ngành luật, từng lĩnh vực quản lý) mà việc xây dựng các quy phạm
pháp luật có sự thể hiện khác nhau (quy phạm pháp luật của Luật Hiến pháp thường chỉ có
2 yếu tố: giả định và quy định; quy phạm pháp luật của Luật hình sự thường có phần giả định và chế tài).
Ví dụ: “ Công dân(GĐ có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật(QĐ) ”. lOMoAR cPSD| 39651089
Câu 5: Quan hệ pháp luật
3.2.1. Khái niệm quan hệ pháp luật
Quan hệ pháp luật là những quan hệ nảy sinh trong xã hội được các quy phạm pháp
luật điều chỉnh, trong đó các bên tham gia đáp ứng được những điều kiện do nhà nước quy
định, có những quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật.

3.2.2. Đặc điểm của quan hệ pháp luật -
Quan hệ pháp luật là quan hệ thể hiện ý chí của Nhà nước. -
Quan hệ pháp luật là quan hệ được xác lập trên cơ sở các quy phạm pháp luật -
Quan hệ pháp luật là quan hệ phát sinh giữa các chủ thể được xác
định rõ nội dung thực hiện. -
Quan hệ pháp luật xuất hiện, thay đổi hay chấm dứt gắn liền với sự kiện pháp lý.
3.2.3. Thành phần của quan hệ pháp luật
Quan hệ pháp luật được cấu thành bởi: chủ thể, nội dung và khách thể.
3.2.3.1. Chủ thể quan hệ pháp luật
Chủ thể của quan hệ pháp luật là các bên tham gia quan hệ pháp luật; cá nhân, tổ
chức có năng lực chủ thể tham gia vào QPPL.
Năng lực chủ thể gồm: năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
Năng lực pháp luật là khả năng của chủ thể được nhà nước thừa nhận, có thể thực
hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý.( phụ thuộc vào Nhà nước) Ví dụ:
Trẻ cất tiếng khóc khi chào đời có NLPL Một
đứa trẻ được thừa kế khi bố, mẹ chết.
Năng lực hành vi là khả năng của chủ thể được nhà nước thừa nhận bằng hành vi
của mình thực hiện một cách độc lập các quyền và nghĩa vụ pháp lý, độc lập tham gia các
quan hệ xã hội cũng như độc lập chịu trách nhiệm về những hành vi của mình.( phụ thuộc vào chính mình)

Điều kiện để có NLHV:
Đạt đến một độ tuổi nhất định
Đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi
Phụ thuộc vào nhiều yếu tố: lOMoAR cPSD| 39651089 Không có NLHV NLHV hạn chế ...
3.2.3.2. Nội dung của quan hệ pháp luật
Nội dung của quan hệ pháp luật bao gồm quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể khi tham gia cào các QHPL.
a. Quyền chủ thể:
Một là, khả năng của chủ thể xử sự theo cách thức nhất định mà pháp luật cho phép.
Hai là, khả năng yêu cầu các chủ thể khác phải thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi nào đó.
Ba là, khả năng các chủ thể yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ lợi ích của mình.
Quyền của chủ thể không phải là phạm trù bất biến, quyền của chủ thể cũng có thể chuyển
giao cho chủ thể khác trong những điều kiện được PL thừa nhận, Quyền của chủ thể cũng
có thể bị hạn chế hoặc bị mất bởi chính hành vi lỗi của chủ thể.
b. Nghĩa vụ pháp lý của chủ thể:
Chủ thể cần phải tiến hành những hành vi bắt buộc nhất định
Kiềm chế không được tiến hành một số hành động nhất định
Phải chịu trách nhiệm pháp lý khi không thực hiện những hành vi bắt buộc
3.2.3.3. Khách thể của quan hệ pháp luật
- Là yếu tố tạo nên sự quan tâm của chủ thể trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình
Khách thể quan hệ pháp luật là lợi ích vật chất, tinh thần và những lợi ích xã hội
khác có thể thỏa mãn những nhu cầu, đòi hỏi của các tổ chức hoặc cá nhân mà vì chúng
các chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật, nghĩa là, vì chúng mà họ thực hiện các
quyền và nghĩa vụ chủ thể của mình. Câu 6: Thực hiện pháp luật
4.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật
Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích, làm cho những quy định
của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp
luật. Nói cách khác, thực hiện pháp luật là đưa pháp luật vào cuộc sống, vào thực tiễn hoạt động.
lOMoAR cPSD| 39651089
4.1.2. Các hình thức thực hiện pháp luật
4.1.2.1. Tuân thủ pháp luật (xử sự thụ động)
Tuân thủ pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp
luật kiềm chế, không làm những gì pháp luật không cho phép hoặc ngăn cấm.
Ví dụ: Không tự tiện chặt phá cây rừng; không săn bắt động vật quý hiếm; không
khai thác, đánh bắt cá ở sông, ở biển bằng công cụ, phương tiện có tính hủy diệt (mìn, chất nổ…).
4.1.2.2. Thi hành pháp luật (xử sự chủ động)
Thi hành pháp luật - hay là chấp hành pháp luật: là hình thức xử sự tích cực khi các
chủ thể thực hiện nghĩa vụ do pháp luật quy định.
Ví dụ: Thực hiện nghĩa vụ đóng thuế đối với Nhà nước khi có hoạt động kinh doanh;
thực hiện đi nghĩa vụ quân sự theo quy định Nhà nước.
4.1.2.3. Sử dụng pháp luật
Sử dụng pháp luật là hình thức chủ thể thực hiện quyền chủ thể của mình do pháp
luật cho phép (thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép). Hình thức này thể hiện ở
chỗ chủ thể pháp luật được thực hiện các hành vi cho phép theo quy định của pháp luật.
Ví dụ: Khi một người bị người khác xâm hại đến quyền lợi của họ thì họ có quyền
khởi kiện trước Tòa án đòi bồi thường. Pháp luật quy định công dân có quyền khiếu nại
(Công dân A gửi đơn khiếu nại Giám đốc công ty khi bị kỷ luật cảnh cáo nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị vi phạm. Trong trường hợp này công dân A đã
sử dụng quyền khiếu nại của mình theo quy định của pháp luật, tức là công dân A đã sử dụng pháp luật).
4.1.2.4. Áp dụng pháp luật
Khi thực hiện pháp luật, có nhiều trường hợp nếu không có sự can thiệp của cơ quan
Nhà nước, các quy phạm pháp luật sẽ không được thực hiện hoặc thực hiện không đúng,
do đó áp dụng pháp luật tức là áp dụng quy phạm pháp luật vào trong các trường hợp cụ thể. lOMoAR cPSD| 39651089
- Các trường hợp áp dụng pháp luật
+ Thứ nhất, khi quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể pháp luật không mặc
nhiên phát sinh nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước.
Ví dụ: Nữ đủ 18 tuổi, nam đủ 20 tuổi muốn trở thành quan hệ hôn nhân phải được
UBND xã, phường, thị trấn nơi thường trú của một trong hai bên công nhận.
+ Thứ hai, khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên
tham gia quan hệ pháp luật mà các bên không thể tự mình giải quyết được.
Ví dụ: Tranh chấp hợp đồng kinh tế hoặc hợp đồng dân sự cụ thể nào về điều khoản
về thời gian, chất lượng, nếu có yêu cầu của một trong hai bên thì Tòa kinh tế sẽ giải quyết.
+ Thứ ba, khi cần áp dụng những biện pháp cưỡng chế Nhà nước hoặc áp dụng các
chế tài pháp luật đối với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật.
Ví dụ: Một người đi xe gắn máy (110 phân phối) không có bằng lái bị cảnh sát giao
thông xử phạt hành chính, căn cứ vào Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ra quyết định
xử phạt. Cảnh sát giao thông xử phạt người không đội mũ bảo hiểm là 100.000 đồng; Tòa
án ra quyết định phạt cải tạo không giam giữ và yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với hành
vi đốt rừng, phá rừng trái phép.
+ Thứ tư, trong một số trường hợp mà Nhà nước thấy cần tham gia để kiểm tra,
giám sát việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia hoặc Nhà nước xác nhận sự
tồn tại hay không tồn tại một số sự việc, hiện tượng, sự kiện thực tế cụ thể nào đó...
Ví dụ: Tòa án tuyên bố một người đã chết hoặc mất tích, từ đó nhà nước chứng tử
cho người đó. Nhà nước chứng thực hợp đồng mua bán nhà giữa 2 công dân; nhà nước xác
nhận di chúc hợp pháp; Nhà nước phê chuẩn điều lệ hợp tác xã sản xuất nông nghiệp,
chứng thực thế chấp, việc xác định di chúc…
Tóm lại, Áp dụng pháp luật là hình thức Nhà nước thông qua các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền của mình để các chủ thể (cá nhân, tổ chức) thực hiện những quy định
của pháp luật (chủ thể thực hiện pháp luật có sự can thiệp của Nhà nước) hoặc tự mình căn
cứ vào những quy định làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật cụ thể. Đây là
hình thức rất quan trọng, phức tạp trong việc thực hiện pháp luật. lOMoAR cPSD| 39651089
Câu 7: Vi phạm pháp luật
4.2.1. Khái niệm vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có năng lực pháp lý
thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
4.2.2. Dấu hiệu vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật là một hiện tượng xã hội có những dấu hiệu cơ bản sau: Là hành
vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật, có lỗi và chủ thể thực hiện phải có năng lực trách nhiệm pháp lý. -
Dấu hiệu thứ nhất, vi phạm pháp luật luôn là hành vi (hành động hoặc
không hành động) xác định của con người hoặc là hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội (các chủ thể pháp luật) nguy hiểm hoặc có khả năng gây nguy hiểm cho xã hội.

Hành vi (hành động hay không hành động) là sự thể hiện ý chí ra bên ngoài một
cách có ý thức nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật.
Ví dụ: Đi xe máy vượt đèn đỏ khi tham gia giao thông; trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế;
không thực hiện nghĩa vụ khi giao kết hợp đồng…
Một người chỉ có ý định cướp giật tài sản của người khác, thì không bị buộc tội cướp
giật tài sản. Chỉ khi người đó thể hiện bằng hành động thì mới bị coi là vi phạm pháp luật.
Chỉ bằng hành vi cụ thể của con người, họ mới gây ra thiệt hại cho xã hội hoặc người khác
và do đó mới đánh giá được những sai sót trong ý nghĩ, trong tâm tư, tình cảm của họ. Cho
nên, vi phạm pháp luật là hành vi của con người hoặc là hoạt động của các cơ quan Nhà
nước, các tổ chức xã hội… -
Dấu hiệu thứ hai, vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, xâm hại
tới các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Đây là dấu hiệu không thể thiếu của
hành vi vi phạm pháp luật.

Hành vi trái pháp luật là hành vi không phù hợp với những quy định của pháp luật.
Hành vi trái pháp luật thể hiện dưới dạng:
+ Hành động (1 việc làm) mà pháp luật cấm không được làm. Ví dụ:
Đi xe máy vào đường ngược chiều; tàn trữ ma túy, thuốc lắc… +
Không hành động (không làm 1 việc mà pháp luật đòi hỏi). lOMoAR cPSD| 39651089
Ví dụ: Trong quan hệ hôn nhân – gia đình, là vợ chồng phải có giấy đăng ký kết
hôn. Nếu không đăng ký coi như là đã vi phạm. Trốn tránh nghĩa vụ phụng dưỡng ông bà, cha mẹ…
+ Sử dụng quyền hạn vượt quá mức quy định của pháp luật (những gì không được
phép làm mà làm thì sẽ vi phạm).
Ví dụ: Trưởng thôn bán đất công cho một số cá nhân nhất định…
- Dấu hiệu thứ ba, vi phạm pháp luật là hành vi có lỗi.
Dấu hiệu trái pháp luật mới chỉ là biểu hiện bên ngoài của hành vi (mặt khách quan).
Để xác định hành vi vi phạm pháp luật cần xem xét cả mặt chủ quan của hành vi, nghĩa là
phải xác định trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật của mình.
- Dấu hiệu thứ tư, chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật phải có năng lực
trách nhiệm pháp lý. Trong pháp luật xã hội chủ nghĩa, sự độc lập gánh chịu nghĩa vụ
pháp lý chỉ quy định đối với những người có khả năng tự lựa chọn cách xử sự và có tự do ý chí.
Ví dụ: Một người điên thực hiện hành vi trái pháp luật, nhưng không phải là hành
vi vi phạm pháp luật vì tại thời điểm thực hiện hành vi này họ không nhận thức được hành vi của mình.
4.2.3. Phân loại vi phạm pháp luật -
Vi phạm pháp luật hình sự (tội phạm): Là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm pháp lý hình sự gây ra
một cách vô ý hoặc cố ý (Điều 8 BLHS 1999). -
Vi phạm hành chính: là hành vi xâm phạm các quy tắc quản lý của Nhà nước
mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính do
cá nhân hoặc tổ chức thực hiện cố ý hay vô ý. -
Vi phạm dân sự: là những hành vi xâm hại đến tài sản, quan hệ nhân thân có
liên quan đến tài sản hoặc không liên quan đến tài sản được quy định trong Bộ luật dân sự. -
Vi phạm kỷ luật: là những hành vi có lỗi, trái với những quy chế, quy tắc xác
lập trật tự trong nội bộ một cơ quan, xí nghiệp, trường học…
4.2.4. Cấu thành vi phạm pháp luật lOMoAR cPSD| 39651089
1. Mặt khách quan của vi phạm pháp luật
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật là toàn bộ các dấu hiệu bên ngoài của vi
phạm pháp luật, bao gồm: hành vi trái pháp luật; hậu quả thiệt hại cho xã hội; mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và hậu quả thiệt hại cho xã hội, cùng các dấu hiệu khác. -
Hành vi trái pháp luật: Bất kỳ một vi phạm pháp luật nào cũng được cấu
thành bởi hành vi trái pháp luật. -
Hậu quả (sự thiệt hại) do hành vi trái pháp luật gây ra cho xã hội. Hành vi
trái pháp luật ở những mức độ khác nhau đều nguy hiểm và gây hại cho xã hội. Tính nguy
hiểm của hành vi trái pháp luật thể hiện ở chỗ nó đã hoặc có nguy cơ gây ra những thiệt
hại về vật chất, về tinh thần và những thiệt hại khác cho xã hội. -
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với hậu quả (sự thiệt hại)
mànó gây ra cho xã hội được biểu hiện: sự thiệt hại cho xã hội phải do chính hành vi trái
pháp luật nói trên trực tiếp gây ra
Ngoài ra, trong mặt khách quan còn có các dấu hiệu khác như: thời gian, địa điểm,
phương tiện, công cụ,... vi phạm pháp luật.
2. Khách thể của vi phạm pháp luật
Khách thể vi phạm pháp luật là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, nhưng
bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại.
3. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật
Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật là toàn bộ các dấu hiệu bên trong của nó, bao
gồm yếu tố lỗi và các yếu tố có liên quan đến lỗi là động cơ, mục đích của chủ thể thực
hiện vi phạm pháp luật.
- Lỗi là trạng thái tâm lý phản ánh thái độ của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật
của mình, cũng như đối với hậu quả của hành vi đó.
Lỗi được xem như là thước đo của trách nhiệm pháp lý, nó thể hiện thái độ tiêu cực
của chủ thể đối với hành vi VPPL của mình, cũng như đối với hậu quả của hành vi đó, của
xã hội tại thời điểm thực hiện hành vi đó.
Lỗi được thể hiện dưới 2 hình thức: lỗi cố ý và lỗi vô ý.
+ Lỗi cố ý: gồm lỗi cố ý trực tiếp và gián tiếp
Lỗi cố ý trực tiếp: Người vi phạm (chủ thể) nhận thức được hành vi mình gây ra là
nguy hiểm cho xã hội, nhìn thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi mình gây
ra và mong muốn điều đó xảy ra. Ví dụ: tội giết người, cướp của… lOMoAR cPSD| 39651089
Lỗi cố ý gián tiếp: Chủ thể vi phạm pháp luật nhận thức hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Ví dụ: Thấy người bị tai nại nguy hiểm đến tính mạng nhưng để mặc cho
người đó, không cứu giúp họ.
+ Lỗi vô ý: gồm lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi vô ý do cẩu thả
Lỗi vô ý vì quá tự tin: Chủ thể vi phạm pháp luật thấy trước được hành vi của mình
có thể gây ra hậu quả nguy hiểm nhưng tin rằng không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
Ví dụ: Lái xe quá tốc độ tin rằng không xảy ra tai nạn nhưng thực tế đã xảy ra tai nạn.
Lỗi cố ý do cẩu thả: Chủ thể vi phạm pháp luật không nhận thấy được hậu quả nguy
hiểm do hành vi của mình mặc dù trách nhiệm phải biết và có thể biết.
Ví dụ: Kinh doanh thuốc nông dược, không sắp xếp bảo đảm an toàn để xảy ra ngộ độc. -
Động cơ vi phạm: Động cơ được hiểu là động lực thúc đẩy chủ thể thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật. Động cơ đó có thể là vụ lợi, trả thù, đê hèn... -
Mục đích vi phạm: Mục đích là kết quả cuối cùng mà trong suy nghĩ của
mình chủ thể muốn đạt được khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Trong mặt chủ quan, lỗi là dấu hiệu bắt buộc, còn động cơ và mục đích không phải
là dấu hiệu bắt buộc.
4. Chủ thể vi phạm pháp luật
Chủ thể vi phạm pháp luật là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lý thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Khi truy cứu trách nhiệm pháp lý nếu chủ thể hành vi trái pháp luật
+ là cá nhân phải xác định người đó có năng lực trách nhiệm pháp lý trong trường
hợp đó hay không, muốn vậy phải xem họ đã đủ độ tuổi theo quy định của pháp luật phải
chịu trách nhiệm pháp lý trong trường hợp đó hay chưa? Khả năng nhận thức và điều khiển
hành vi trong trường hợp đó như thế nào?
+ là tổ chức phải chú ý tới tư cách pháp nhân hoặc địa vị pháp lý của tổ chức đó.
Câu 8: Tội phạm, Cấu thành, Hình phạt
6.1. 2. Tội phạm 6.1. 2.1. Khái niệm tội phạm
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự do
người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm độc lOMoAR cPSD| 39651089
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ
kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, xâm phạm tính mạng sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền
và lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa
.
6.1. 2.2. Các dấu hiệu (đặc điểm) của tội phạm
a, Tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội
Bất kỳ một hành vi vi phạm pháp luật nào cũng đều có tính nguy hiểm cho xã hội,
nhưng đối với tội phạm thì tính nguy hiểm cho xã hội luôn ở mức độ cao hơn so với các
loại vi phạm pháp luật khác.
b, Tính có lỗi
Lỗi là thái độ chủ quan của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của
mình và đối với hậu quả của hành vi đó thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý.
c, Tính trái pháp luật hình sự
Bất kỳ một hành vi nào bị coi là tội phạm cũng đều được quy định trong Bộ luật hình sự.
d, Tính phải chịu hình phạt
Nói tội phạm có tính chịu hình phạt có nghĩa là bất cứ hành vi phạm tội nào, do tính
nguy hiểm cho xã hội cũng đều bị đe dọa phải chịu hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà
nước có tính nghiêm khắc nhất trong hệ thống những biện pháp cưỡng chế nhà nước.
6.1. 3. Cấu thành tội phạm
Cấu thành tội phạm là tổng hợp các dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho một loại
tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự. -
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại. Bất cứ hành
vi phạm tội nào cũng đều gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho một số quan hệ xã hội
nhất định được luật hình sự bảo vệ. -
Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể có năng lực trách nhiệm hình sự và
đạt độ tuổi luật định đã thực hiện hành vi phạm tội. Bất cứ tội phạm cụ thể nào cũng phải
có chủ thể, không có chủ thể của tội phạm thì không có tội phạm. -
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm,
bao gồm: Hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi và hậu quả cũng như những điều kiện bên ngoài khác (công cụ, phương
tiện, thời gian, hoàn cảnh phạm tội, địa điểm...). -
Mặt chủ quan của tội phạm là những biểu hiện tâm lý bên trong của tội phạm,
bao gồm: Lỗi, mục đích và động cơ phạm tội. Bất cứ tội phạm cụ thể nào cũng là hành vi lOMoAR cPSD| 39651089
có lỗi (lỗi cố ý hoặc vô ý). Động cơ và mục đích phạm tội là nội dung biểu hiện của
mặt chủ quan ở một số tội nhất định.
6.1. 4. Hình phạt và các biện pháp tư pháp
6.1. 4.1. Khái niệm và đặc điểm hình phạt
Hình phạt có bốn đặc điểm sau:
Thứ nhất, hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước nhằm tước
bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội
Thứ hai, hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự ở phần chung và phần các tội phạm cụ thể.
Thứ ba, hình phạt chỉ do Tòa án nhân danh nhà nước áp dụng trên cơ sở của bản án. Thứ
tư, hình phạt chỉ áp dụng đối với người có hành vi phạm tội
6.1. 4.2. Các loại hình phạt
Các loại hình phạt trong hệ thống hình phạt chia làm hai nhóm: nhóm hình phạt
chính và hình phạt bổ sung.
Hình phạt chính gồm có bảy loại là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ,
trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình;
Nhóm hình phạt bổ sung có bảy loại là phạt tiền, trục xuất, quản chế, cấm cư trú,
tước một số quyền công dân, tịch thu tài sản và cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định.
Như vậy, trong hệ thống hình phạt có hai loại hình phạt là trục xuất và phạt tiền vừa
là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung.
6.1. 4.3. Các biện pháp tư pháp
Các biện pháp tư pháp là các biện pháp hình sự được Bộ luật hình sự quy định, do
các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy hiểm cho xã hội có tác dụng
hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt.

Các biện pháp tư pháp gồm: tịch thu vật và tiền bạc trực tiếp liên quan đến tội phạm;
trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi; bắt buộc chữa bệnh.
Câu 9: Giao dịch dân sự. Các điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực
7.1. 3. Giao dịch dân sự
7.1.3.1. Khái niệm và các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự a, Khái niệm
Theo Điều 121 BLDS 2005: “Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đơn phương hoặc
hợp đồng dân sự của cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác làm phát sinh, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”.
lOMoAR cPSD| 39651089
Hành vi pháp lý đơn phương là sự tuyên bố ý chí công khai của một phía chủ thể
nên việc xác lập, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự trước hết phụ thuộc vào
ý chí của chủ thể đó.
Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các
quyền và nghĩa vụ dân sự.
b, Các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
Theo quy định tại Điều 122 BLDS 2005 thì một giao dịch dân sự được pháp luật
thừa nhận có hiệu lực pháp lý khi đảm bảo các điều kiện sau:
Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự
- Đối với cá nhân
+ Người từ đủ 18 tuổi trở lên có khả năng nhận thức và điều chỉnh hành vi của mình
có quyền tự mình tham gia mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của mình hoặc vì lợi ích của chủ thể khác.
+ Người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi: Những người này đã có thể tham gia lao
động và có thu nhập, xuất phát từ lý do này, pháp luật dân sự đã chấp nhận một số giao
dịch dân sự nhất định phát sinh hậu quả pháp lý nếu do người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện.
+ Người đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi, người bị tòa án ra quyết định hạn chế năng lực
hành vi dân sự: có quyền tự mình tham gia giao dịch dân sự nhỏ phục vụ nhu cầu hàng
ngày. Đối với những giao dịch dân sự có giá trị lớn thì phải thông qua người đại diện theo
pháp luật mới coi là hợp pháp, nếu không thì giao dịch dân sự có thể bị coi là vô hiệu.
+ Đối với người dưới 6 tuổi, người bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự
do bị bệnh tâm thần, pháp luật không cho phép họ tự mình tham gia giao dịch dân sự mà
phải thông qua người đại diện theo pháp luật.
Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của pháp
luật, trái đạo đức xã hội
Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích vật chất hoặc tinh thần mà các chủ thể mong
muốn đạt tới khi xác lập giao dịch dân sự.
Người tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện
Trong trường hợp thiếu sự tự nguyện thì trái với bản chất của giao dịch dân sự và
giao dịch dân sự có thể bị coi là vô hiệu trong trường hợp sau:
- Giao dịch dân sự giả tạo.
- Giao dịch dân sự được xác lập do nhầm lẫn; giao dịch dân sự được xác lập do bịlừa dối. lOMoAR cPSD| 39651089
- Hoặc giao dịch dân sự được xác lập do bị đe dọa.
- Giao dịch dân sự được xác lập mà vào thời điểm xác lập, người xác lập
khôngnhận thức hoặc làm chủ được hành vi của mình.
Hình thức của giao dịch dân sự phải phù hợp với quy định của pháp luật
Hình thức của giao dịch dân sự thường được thể hiện dưới các hình thức như sau:
bằng lời nói; bằng hành vi cụ thể; bằng văn bản thường hoặc văn bản có chứng thực, chứng
nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc phải đăng ký (hợp đồng mua bán nhà ở,
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất,...) “hình thức của giao dịch là điều kiện có
hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định”.

7.1.3.2. Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý (đọc thêm) a, Giao dịch dân sự
vô hiệu: là giao dịch dân sự không thỏa mãn một trong các điều kiện có hiệu lực của giao
dịch dân sự do pháp luật quy định.
b, Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
Đối với trường hợp đối tượng là tài sản không còn nên các bên không thể hoàn trả
được bằng hiện vật mà phải hoàn trả cho nhau bằng tiền.
Tuỳ từng trường hợp xét theo tính chất của giao dịch vô hiệu, tài sản giao dịch và
hoa lợi, lợi tức thu được có thể bị tịch thu theo quy định của pháp luật.
Khi giao dịch bị vô hiệu cần xác định lỗi của các bên để yêu cầu bồi thường. Ví dụ
như trong hợp đồng mua bán nhà ở. -
Bên bán bị coi là có lỗi: Bên bán bị coi là có lỗi nếu làm cho bên mua tin tưởng là
bên bán có quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở hoặc có hành vi gian dối để được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, đất ở và sử dụng
các giấy tờ này làm bằng chứng để cho bên mua tin và giao kết hợp đồng mua bán nhà ở đó. -
Bên mua bị coi là có lỗi: Bên mua bị coi là có lỗi nếu có hành vi gian dối làm cho
bên bán tin tưởng là tài sản đặt cọc, tài sản để thực hiện nghĩa vụ thuộc quyền sở hữu của
bên mua nên đã giao kết hoặc giao nhà ở cho bên mua. Câu 10: Thừa kế 7.1. 4. Quyền thừa kế
7.1.4.1. Những quy định chung về thừa kế -
Quyền thừa kế được hiểu là một chế định pháp luật dân sự (chế định thừa kế)
bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ về việc dịch chuyển tài
sản từ người chết cho những người còn sống khác theo ý chí của họ được thể hiện trong di
chúc hoặc theo ý chí của Nhà nước được thể hiện trong các quy phạm pháp luật. lOMoAR cPSD| 39651089
Quyền thừa kế của cá nhân là quyền để lại tài sản của mình theo di chúc hoặc cho
những người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. -
Di sản thừa kế bao gồm tài sản riêng của người chết: thu nhập hợp pháp, của
cải để dành, nhà ở, tư liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất và tài sản của người chết trong khối
tài sản chung với người khác.
Bên cạnh việc hưởng quyền tài sản, pháp luật quy định người hưởng thừa kế có
trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại trong phạm vi di sản như nghĩa
vụ trả nợ, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại,... -
Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế.
- Địa điểm mở thừa kế: là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản.
7.1.4.2. Thừa kế theo di chúc a, Khái niệm di chúc, di chúc vô hiệu và
hiệu lực pháp luật của di chúc
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. -
Thừa kế theo di chúc là việc chuyển tài sản của người đã chết cho những
người thừa kế theo ý chí tự nguyện của người để lại di sản thể hiện trong di chúc. -
Điều kiện có hiệu lực của di chúc
+ Người lập di chúc phải có năng lực chủ thể trong việc lập di chúc.
+ Người lập di chúc phải tự nguyện.
+ Nội dung của di chúc không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
+ Hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.
Di chúc vô hiệu và hiệu lực pháp luật của di chúc -
Di chúc vô hiệu: là di chúc không thỏa mãn các điều kiện có hiệu lực của di
chúc do pháp luật quy định hoặc các quy định khác của pháp luật không liên quan đến điều
kiện có hiệu lực của di chúc.
+ Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc.
+ Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế.
+ Di chúc không có hiệu lực pháp luật, nếu di sản để lại cho người thừa kế không
còn vào thời điểm mở thừa kế
+ Di chúc có thể vô hiệu một phần hoặc vô hiệu toàn bộ -
Hiệu lực pháp luật của di chúc lOMoAR cPSD| 39651089
Di chúc có hiệu lực kể từ thời điểm mở thừa kế, tức là thời điểm người có tài sản
chết hoặc bị tòa án ra quyết định tuyên bố là đã chết. Để di chúc có hiệu lực thì phải thỏa mãn 2 điều kiện:
+ Người lập di chúc chết;
+ Di chúc phải thỏa mãn các điều kiện có hiệu lực của di chúc.
b, Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc
BLDS quy định những người sau đây vẫn hưởng di sản bằng hai phần ba suất của
một người thừa kế theo pháp luật, nếu như di sản được chia theo pháp luật trong trường
hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng hoặc chỉ cho hưởng ít hơn hai phần ba
suất đó, trừ khi họ là những người từ chối hưởng di sản hoặc không có quyền hưởng di sản
theo Điều 642 và khoản 1 Điều 643 BLDS: Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; con
đã thành niên không có khả năng lao động.
7.1. 4.3. Thừa kế theo pháp luật a, Khái niệm và những
trường hợp thừa kế theo pháp luật
Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế
do pháp luật quy định (Điều 674, BLDS 2005). Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong
những trường hợp sau đây: -
Không có di chúc (nghĩa là người có tài sản không định đoạt bằng việc lập dichúc); - Di chúc không hợp pháp; -
Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm vớingười lập di chúc -
Cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào
thờiđiểm mở thừa kế.
Khác với thừa kế theo di chúc là dựa vào ý chí của người có tài sản, thừa kế theo
pháp luật dựa vào diện và hàng thừa kế.
Diện thừa kế là phạm vi những người có quyền hưởng di sản được xác định trên ba
cơ sở quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng giữa người để lại thừa
kế và người thừa kế.
Hàng thừa kế được pháp luật phân chia thành ba hàng như sau: -
Hàng thứ nhất: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,
connuôi của người chết. -
Hàng thứ hai: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, các cháu nội ngoại,
anhchị em ruột của người chết.