Nguyên tắc đối xử quốc gia, mục đích của nguyên tắc đối xử quốc gia

Nguyên tắc đối xử quốc gia là một trong những nguyên tắc cơ bản
trong thương mại quốc tế nhằm thúc đẩy giao thương giữa các nước , đảm bảosự công bằng bình đẳng giữa các chủ thể.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem

lOMoARcPSD| 45619127
1. Nguyên tắc đối xử quốc gia
Nguyên tắc đối xử quốc gia là một trong những nguyên tắc cơ bản trong
thương mại quốc tế nhằm thúc đẩy giao thương giữa các nước , đảm bảo sự
công bằng bình đẳng giữa các chủ thể.
Căn cứ pháp lý:
Hiệp định GATT 1994;
Hiệp định TRIPS;
Pháp lệnh số 41/2002/PL-UBTVQH10.
Nguyên tắc đối xử quốc gia quy chế yêu cầu các quốc gia thực hiện
những biện pháp nhằm đảm bảo cho sản phẩm nước ngoài và cả nhà cung cấp
những sản phẩm đó được đối xử trên thị trường nội địa không kém ưu đãi hơn
các sản phẩm nội địa và nhà cung cấp nội địa.
Mục đích của nguyên tắc đối xử quốc gia:
Thực hiện nguyên tắc đối xử quốc gia NT trong hệ thống thương mại
đa phương nhằm tạo sự bình đẳng vhội cạnh tranh giữa các nhà sản xuất
kinh doanh nước ngoài với nhà sản xuất kinh doanh trong nước.
Nội dung của nguyên tắc đối xử quốc gia:
Nguyên tắc này được hiểu dựa trên cam kết thương mại, một nước sẽ
dành cho sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp của nước khác những ưu đãi không
kém hơn so với ưu đãi mà nước đó dang sẽ dành cho sản phẩm, dịch vụ, nhà
cung cấp của nước mình.
Điều này nghĩa nước nhập khẩu không được đối xử phản biệt giữa
sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp trong nước với sản phẩm, dịch vụ, nhà cung
cấp nước ngoài về thuế và các khoản lệ phí trong nước cũng như vđiều kiện
cạnh tranh.
Thông qua các cam kết nhượng bộ về cắt giảm thuế quan, và dựa trên
nguyên tắc đối xử tối huệ quốc, sản phẩm nhập khẩu từ các nước thành viên
được đối xử bình đẳng với nhau trên thị trường của nước nhập khẩu. Tuy nhiên,
nếu như nước nhập khẩu tùy tiện áp dụng thuế nội địa các quy định mang
lOMoARcPSD| 45619127
tính phân biệt đối xử giữa hàng nhập khẩu với sản phẩm trong nước nhằm mục
dích bảo hộ ngành sản xuất trong nước thì hiệu quả của việc tự do hóa thương
mại kể trên sẽ không còn ý nghĩa. Chính thế hai nguyên tắc này được áp dụng
kết hợp nhằm bảo đảm điều kiện canh tranh bình đẳng không chỉ giữa sản phẩm
nhập khẩu từ các nước thành viên n giữa sản phẩm nhập khẩu với sản
phẩm nội địa của nước nhập khẩu. Cũng với do đó hai nguyên tắc này
được coi là hòn đá tảng của GATT/WTO nhằm thực hiện mục tiêu không phân
biệt đối xử và tự do hóa thương mại giữa các nước thành viên.
2. Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc
Căn cứ pháp lý:
Hiệp định GATT 1994;
Hiệp định TRIPS;Nội dung nguyên tắc:
Nguyên tắc MFN được hiểu nếu một nước dành cho một nước thành
viên một sự đối xử ưu đãi nào đó thì nước này cũng sẽ phải dành sự ưu đãi đó
cho tất cả các nước thành viên khác. Thông thường nguyên tắc MFN được quy
định trong các hiệp định thương mại song phương. Khi nguyên tắc MFN được
áp dụng đa phương đối với tất cả các nước thành viên WTO thì cũng đồng nghĩa
với nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử vì tất cả các nước sẽ dành
cho nhau sự "đối xử ưu đãi nhất". Nguyên tắc MFN trong WTO không có tính
chất áp dụng tuyệt đối. Hiệp định GATT 1947 quy định mỗi nước quyền
tuyên bố không áp dụng tất cả các điều khoản trong Hiệp định đối với một nước
thành viên khác (Trường hợp Mỹ không áp dụng MFN đối với Cuba mặc
Cuba là thành viên sáng lập GATT và WTO).
Điều I. 1 Hiệp định GATT quy định nghĩa vụ của mọi bên kết dành
"ngay lập tức không điều kiện” bất kỳ ưu đãi, ưu tiên, đặc quyền hoặc đặc
miễn nào liên quan đến thuế quan và bất kỳ loại lệ phí nào mà bên ký kết đó áp
dụng cho hoặc liên quan đến việc nhập khẩu, xuất khẩu hoặc cho việc chuyển
tiền thanh toán quốc tế, hoặc liên quan đến phương pháp tính thuế quân lệ
phí hoặc liên quan đến tất cả các quy định và thủ tục đối với việc xuất và nhập
lOMoARcPSD| 45619127
khẩu một sản phẩm xuất xứ hoặc nhập khẩu sang một Bên ký kết cho một sản
phẩm cùng loại xuất xứ hoặc nhập khẩu sang các Bên ký kết khác.
Nếu như ngày nay quy chế MFN đồng nghĩa với nguyên tắc bình đẳng
thì trong lịch sử đã chỉ một nhóm nhỏ các cường quốc phương Tây được
hưởng quy chế “Tối huệ quốc”, thực sự có tính ưu đãi hơn các nước khác được
đưa ra trong các hiệp định thương mại ng hải ký với c nước A’Phi-Mỹ
Latinh.
Nếu như nguyên tắc MFN trong GATT 1947 chỉ áp dụng đối với "hàng
hoá" thì trong WTO, nguyên tắc này đã được mở rộng sang thương mại dịch vụ
(Điều 2 Hiệp định GATS), và sỏ hữu trí tuệ (Điều 4 Hiệp định TRIPS).
Mặc được coi là "hòn đá tảng" trong hệ thống thương mại đa phương,
Hiệp định GATT 1947 WTO vẫn quy định một số ngoại lệ (exception)
miễn trừ (waiver) quan trọng đối với nguyên tắc MFN1. dụ như Điều XXIV
của GATT quy định các nước thành viên trong các hiệp định thương mại khu
vực thể dành cho nhau sự đối xử ưu đãi hơn mang tính chất phân biệt đối xử
với các nước thứ ba, trái với nguyên tắc MFN. GATT 1947 cũng hai miễn
trừ về đối xử đặc biệt và ưu đãi hơn với các nước đang phát triển.
Miễn trừ thứ nhất Quyết định ngày 25-06-1971 của Đại hội đồng
GATT về việc thiết lập "Hệ thống ưu đãi phổ cập" (GSP) chỉ áp dụng cho hàng
hoá xuất xứ từ những nước đang phát triển và chậm phát triển. Trong khuôn
khổ GSP, các nước phát triển thể thiết lập số mức thuế ưu đãi hoặc miễn thuế
quan cho một số nhóm mặt hàng xuất xtừ các nước đang phát triển và
chậm phát triển không nghĩa vụ phải áp dụng những mức thuế quan ưu
đãi đó cho các nước phát triển theo nguyên tắc MFN.
Miễn trừ thứ hai là Quyết định ngày 26-11-1971 của Đại hội đồng GATT
về "Đàm phán thương mại giữa các nước đang phát triển”, cho phép các nước
này quyền đàm phán, kết những hiệp định thương mại dành cho nhau
những ưu đãi hơn về thuế quan không nghĩa vụ phải áp dụng cho hàng
hoá đến tcác nước phát triển. Trên sở Quyết định này, Hiệp định về "Hệ
lOMoARcPSD| 45619127
thống ưu đãi thương mại toàn cầu giữa các nước đang phát triển" (Global
System of Trade Preferences among Developing Countries - GSPT) đã được
năm 1989.
Mặc dù, được tất cả các nước trong GATT/WTO công nhận nguyên
tắc nền tảng, nhưng thực tế cho thấy các nước phát triển cũng như đang phát
triển không phải lúc nào cũng tuân thủ nghiêm túc nguyên tắc MFN đã
rất nhiều tranh chấp trong lịch sử của GATT liên quan đến việc áp dụng nguyên
tắc này. Thông thường tvi phạm của các nước đang phát triển dễ b phát hiện
và bị kiện nhiều hơn vi phạm của các nước phát triển.
Năm 1981, Braxin đã kiện Tây Ban Nga ra trước GATT về thuế suất đăc
biệt đối với cà phê chưa rang. Braxin cho rằng Nghị định 1764/79 của Tây Ban
Nha quy định các mức thuế quan khác nhau đối với năm loại cà phê chưa rang
khác nhau (cà phê Arập chưa rang, phê Robusta, phê Côlômbia, phê
nhẹ và cà phê khác). Hai loại cà phê đều được nhập khẩu miễn thuế, ba loại cà
phê còn lại chịu mức thuế giá trị gia tăng là 7%. Sau khi xem xet Nghị định nói
trên, Nhóm chuyên gia của GATT đã đi đến kết luận như sau:
"Hiệp định GATT không quy định nghĩa vụ cho các bên ký kết phải tuân
thủ một hthống phân loại hàng hoá đặc biệt nào. Tuy nhiên, Điều I,1 của
GATT quy định nghĩa vụ của các Bên ký kết phải dành một sự đối xử như nhau
cho những sản phẩm tương tự, .... Lập luận của Tây Ban Nha biện minh cho s
cần thiết phải sự đối xkhác nhau đối với từng loại phê khác nhau chủ
yếu dựa trên những yếu tố như địa lý, phương pháp trồng trọt, quá trình thu
hoạch hạt giống. Những yếu tố này tuy khác nhau nhưng không đủ để
Tây Ban Nha thể áp dụng những thuế suất khác nhau đối với từng loại
phê khác nhau. Đối với tất cả những người tiêu thphê trên thế giới thì cà
phê chưa rang được bán dưới dạng hạt cho dù thuộc nhiều loại khác nhau cũng
chỉ một lại sản phẩm cùng loại, có tính năng sử dụng duy nhất để uống mà
không phân biệt độ caphêin mạnh hay nhẹ. Năm loại phê chưa rang nhập
khẩu tên trong danh mục thuế của Tây Ban Nha đều những sản phẩm ng
lOMoARcPSD| 45619127
loại. Việc Tây Ban Nha áp dụng mức thuế quan cao hơn đối với hai loại càc phê
A rập và Robusta, được nhập khẩu từ Braxin mang tính chất phân biệt đối xử
đối với những sản phẩm cùng loại như vậy trái với quy định của Điều I,
khoản 1 Hiệp định GATT."
| 1/5

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45619127
1. Nguyên tắc đối xử quốc gia
Nguyên tắc đối xử quốc gia là một trong những nguyên tắc cơ bản trong
thương mại quốc tế nhằm thúc đẩy giao thương giữa các nước , đảm bảo sự
công bằng bình đẳng giữa các chủ thể. Căn cứ pháp lý: – Hiệp định GATT 1994; – Hiệp định TRIPS;
– Pháp lệnh số 41/2002/PL-UBTVQH10.
Nguyên tắc đối xử quốc gia là quy chế yêu cầu các quốc gia thực hiện
những biện pháp nhằm đảm bảo cho sản phẩm nước ngoài và cả nhà cung cấp
những sản phẩm đó được đối xử trên thị trường nội địa không kém ưu đãi hơn
các sản phẩm nội địa và nhà cung cấp nội địa.
Mục đích của nguyên tắc đối xử quốc gia:
Thực hiện nguyên tắc đối xử quốc gia – NT trong hệ thống thương mại
đa phương nhằm tạo sự bình đẳng về cơ hội cạnh tranh giữa các nhà sản xuất
kinh doanh nước ngoài với nhà sản xuất kinh doanh trong nước.
Nội dung của nguyên tắc đối xử quốc gia:
Nguyên tắc này được hiểu là dựa trên cam kết thương mại, một nước sẽ
dành cho sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp của nước khác những ưu đãi không
kém hơn so với ưu đãi mà nước đó dang và sẽ dành cho sản phẩm, dịch vụ, nhà
cung cấp của nước mình.
Điều này có nghĩa là nước nhập khẩu không được đối xử phản biệt giữa
sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp trong nước với sản phẩm, dịch vụ, nhà cung
cấp nước ngoài về thuế và các khoản lệ phí trong nước cũng như về điều kiện cạnh tranh.
Thông qua các cam kết nhượng bộ về cắt giảm thuế quan, và dựa trên
nguyên tắc đối xử tối huệ quốc, sản phẩm nhập khẩu từ các nước thành viên
được đối xử bình đẳng với nhau trên thị trường của nước nhập khẩu. Tuy nhiên,
nếu như nước nhập khẩu tùy tiện áp dụng thuế nội địa và các quy định mang lOMoAR cPSD| 45619127
tính phân biệt đối xử giữa hàng nhập khẩu với sản phẩm trong nước nhằm mục
dích bảo hộ ngành sản xuất trong nước thì hiệu quả của việc tự do hóa thương
mại kể trên sẽ không còn ý nghĩa. Chính vì thế hai nguyên tắc này được áp dụng
kết hợp nhằm bảo đảm điều kiện canh tranh bình đẳng không chỉ giữa sản phẩm
nhập khẩu từ các nước thành viên mà còn giữa sản phẩm nhập khẩu với sản
phẩm nội địa của nước nhập khẩu. Cũng với lí do đó mà hai nguyên tắc này
được coi là hòn đá tảng của GATT/WTO nhằm thực hiện mục tiêu không phân
biệt đối xử và tự do hóa thương mại giữa các nước thành viên.
2. Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc Căn cứ pháp lý: – Hiệp định GATT 1994;
– Hiệp định TRIPS;Nội dung nguyên tắc:
Nguyên tắc MFN được hiểu là nếu một nước dành cho một nước thành
viên một sự đối xử ưu đãi nào đó thì nước này cũng sẽ phải dành sự ưu đãi đó
cho tất cả các nước thành viên khác. Thông thường nguyên tắc MFN được quy
định trong các hiệp định thương mại song phương. Khi nguyên tắc MFN được
áp dụng đa phương đối với tất cả các nước thành viên WTO thì cũng đồng nghĩa
với nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử vì tất cả các nước sẽ dành
cho nhau sự "đối xử ưu đãi nhất". Nguyên tắc MFN trong WTO không có tính
chất áp dụng tuyệt đối. Hiệp định GATT 1947 quy định mỗi nước có quyền
tuyên bố không áp dụng tất cả các điều khoản trong Hiệp định đối với một nước
thành viên khác (Trường hợp Mỹ không áp dụng MFN đối với Cuba mặc dù
Cuba là thành viên sáng lập GATT và WTO).
Điều I. 1 Hiệp định GATT quy định nghĩa vụ của mọi bên ký kết dành
"ngay lập tức và không điều kiện” bất kỳ ưu đãi, ưu tiên, đặc quyền hoặc đặc
miễn nào liên quan đến thuế quan và bất kỳ loại lệ phí nào mà bên ký kết đó áp
dụng cho hoặc liên quan đến việc nhập khẩu, xuất khẩu hoặc cho việc chuyển
tiền thanh toán quốc tế, hoặc liên quan đến phương pháp tính thuế quân và lệ
phí hoặc liên quan đến tất cả các quy định và thủ tục đối với việc xuất và nhập lOMoAR cPSD| 45619127
khẩu một sản phẩm xuất xứ hoặc nhập khẩu sang một Bên ký kết cho một sản
phẩm cùng loại xuất xứ hoặc nhập khẩu sang các Bên ký kết khác.
Nếu như ngày nay quy chế MFN đồng nghĩa với nguyên tắc bình đẳng
thì trong lịch sử đã chỉ có một nhóm nhỏ các cường quốc phương Tây được
hưởng quy chế “Tối huệ quốc”, thực sự có tính ưu đãi hơn các nước khác được
đưa ra trong các hiệp định thương mại và hàng hải ký với các nước A’Phi-Mỹ Latinh.
Nếu như nguyên tắc MFN trong GATT 1947 chỉ áp dụng đối với "hàng
hoá" thì trong WTO, nguyên tắc này đã được mở rộng sang thương mại dịch vụ
(Điều 2 Hiệp định GATS), và sỏ hữu trí tuệ (Điều 4 Hiệp định TRIPS).
Mặc dù được coi là "hòn đá tảng" trong hệ thống thương mại đa phương,
Hiệp định GATT 1947 và WTO vẫn quy định một số ngoại lệ (exception) và
miễn trừ (waiver) quan trọng đối với nguyên tắc MFN1. Ví dụ như Điều XXIV
của GATT quy định các nước thành viên trong các hiệp định thương mại khu
vực có thể dành cho nhau sự đối xử ưu đãi hơn mang tính chất phân biệt đối xử
với các nước thứ ba, trái với nguyên tắc MFN. GATT 1947 cũng có hai miễn
trừ về đối xử đặc biệt và ưu đãi hơn với các nước đang phát triển.
Miễn trừ thứ nhất là Quyết định ngày 25-06-1971 của Đại hội đồng
GATT về việc thiết lập "Hệ thống ưu đãi phổ cập" (GSP) chỉ áp dụng cho hàng
hoá xuất xứ từ những nước đang phát triển và chậm phát triển. Trong khuôn
khổ GSP, các nước phát triển có thể thiết lập số mức thuế ưu đãi hoặc miễn thuế
quan cho một số nhóm mặt hàng có xuất xứ từ các nước đang phát triển và
chậm phát triển và không có nghĩa vụ phải áp dụng những mức thuế quan ưu
đãi đó cho các nước phát triển theo nguyên tắc MFN.
Miễn trừ thứ hai là Quyết định ngày 26-11-1971 của Đại hội đồng GATT
về "Đàm phán thương mại giữa các nước đang phát triển”, cho phép các nước
này có quyền đàm phán, ký kết những hiệp định thương mại dành cho nhau
những ưu đãi hơn về thuế quan và không có nghĩa vụ phải áp dụng cho hàng
hoá đến từ các nước phát triển. Trên cơ sở Quyết định này, Hiệp định về "Hệ lOMoAR cPSD| 45619127
thống ưu đãi thương mại toàn cầu giữa các nước đang phát triển" (Global
System of Trade Preferences among Developing Countries - GSPT) đã được ký năm 1989.
Mặc dù, được tất cả các nước trong GATT/WTO công nhận là nguyên
tắc nền tảng, nhưng thực tế cho thấy các nước phát triển cũng như đang phát
triển không phải lúc nào cũng tuân thủ nghiêm túc nguyên tắc MFN và đã có
rất nhiều tranh chấp trong lịch sử của GATT liên quan đến việc áp dụng nguyên
tắc này. Thông thường thì vi phạm của các nước đang phát triển dễ bị phát hiện
và bị kiện nhiều hơn vi phạm của các nước phát triển.
Năm 1981, Braxin đã kiện Tây Ban Nga ra trước GATT về thuế suất đăc
biệt đối với cà phê chưa rang. Braxin cho rằng Nghị định 1764/79 của Tây Ban
Nha quy định các mức thuế quan khác nhau đối với năm loại cà phê chưa rang
khác nhau (cà phê Arập chưa rang, cà phê Robusta, cà phê Côlômbia, cà phê
nhẹ và cà phê khác). Hai loại cà phê đều được nhập khẩu miễn thuế, ba loại cà
phê còn lại chịu mức thuế giá trị gia tăng là 7%. Sau khi xem xet Nghị định nói
trên, Nhóm chuyên gia của GATT đã đi đến kết luận như sau:
"Hiệp định GATT không quy định nghĩa vụ cho các bên ký kết phải tuân
thủ một hệ thống phân loại hàng hoá đặc biệt nào. Tuy nhiên, Điều I,1 của
GATT quy định nghĩa vụ của các Bên ký kết phải dành một sự đối xử như nhau
cho những sản phẩm tương tự, .... Lập luận của Tây Ban Nha biện minh cho sự
cần thiết phải có sự đối xử khác nhau đối với từng loại cà phê khác nhau chủ
yếu dựa trên những yếu tố như địa lý, phương pháp trồng trọt, quá trình thu
hoạch hạt và giống. Những yếu tố này tuy có khác nhau nhưng không đủ để
Tây Ban Nha có thể áp dụng những thuế suất khác nhau đối với từng loại cà
phê khác nhau. Đối với tất cả những người tiêu thụ cà phê trên thế giới thì cà
phê chưa rang được bán dưới dạng hạt cho dù thuộc nhiều loại khác nhau cũng
chỉ là một lại sản phẩm cùng loại, có tính năng sử dụng duy nhất là để uống mà
không phân biệt độ caphêin mạnh hay nhẹ. Năm loại cà phê chưa rang nhập
khẩu có tên trong danh mục thuế của Tây Ban Nha đều là những sản phẩm cùng lOMoAR cPSD| 45619127
loại. Việc Tây Ban Nha áp dụng mức thuế quan cao hơn đối với hai loại càc phê
là A rập và Robusta, được nhập khẩu từ Braxin mang tính chất phân biệt đối xử
đối với những sản phẩm cùng loại và như vậy trái với quy định của Điều I,
khoản 1 Hiệp định GATT."