-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Nguyên tắc xây dựng nhân vật trong Chủ nghĩa cổ điển | Đại học Sư Phạm Hà Nội
Nguyên tắc xây dựng nhân vật trong Chủ nghĩa cổ điển | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống.
Lý luận Văn học 79 tài liệu
Đại học Sư Phạm Hà Nội 2.1 K tài liệu
Nguyên tắc xây dựng nhân vật trong Chủ nghĩa cổ điển | Đại học Sư Phạm Hà Nội
Nguyên tắc xây dựng nhân vật trong Chủ nghĩa cổ điển | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống.
Môn: Lý luận Văn học 79 tài liệu
Trường: Đại học Sư Phạm Hà Nội 2.1 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 40703272
Nháp: nguyên tắc xây dựng nhân vật trong Chủ nghĩa cổ điển
Nhà văn học sử Lăng xông viết: "Điểm xuất phát của Bàn về nghệ thuật thơ ca của Boalô
cũng chính là điểm xuất phát của Bàn về phương pháp, tức là Lí tính" (Lích sử văn học
Pháp)."Lí tính" phi lịch sử - cụ thể là nguyên tắc quán xuyến trong Bàn về nghệ thuật thơ
ca của Boalô, nhà lập pháp của chủ nghĩa cổ điển, sẽ chi phối một cách nghiêm ngặt việc
xây dựng hình tượng của chủ nghĩa cổ điển. Trong chương I của tập sách, Boalô đã viết như sau:
"Phải yêu lí tính, hãy để cho hết thảy văn chương của anh mãi mãi có được giá trị và hào
quang của lí tính... Lí tính trong hành trình của nó chỉ có một con đường".
Boalô khuyên nhà văn xây dựng nhân vật cũng phải như vậy: "Viết về mỗi người phải luôn
luôn theo sát không lúc nào được rời bản tính của nố". Trong chủ nghĩa cổ điển, tính cách
nhân vật có dáng dấp là một sản phẩm của hoạt động tư duy nhằm trừu tượng hóa nhân
vật... Triết học Đềcác về căn bản chỉ thừa nhận một phương pháp nhận thức thực tại duy
nhất là sự khái quát hóa duy lí chủ nghĩa. Đi sâu nghiên cứu phân tích nhân vật, các nhà
văn cổ điển chủ nghĩa cốt làm nổi bật và phóng đại nét tính cách nào mà họ cho là bản chất
nhất. Nguyên tắc này cũng có tác dụng tột trong việc xây dựng nhân vật, tạo nên được
những tính cách thấu triệt. Chủ nghĩa duy lí đã soi sáng vào các uẩn khúc của tậm lí, của
lòng người, tuyệt đối hóá cái cao cả trong các nhân vật của Cornây, cái thấp kém ở các ông
hoàng bà chúa của Raxin... Từ đó những Hécmiôn phức tạp, Ăngđrômác thuy chung,
Giuốcđanh hám danh, Ácpagông keo kiệt, Ôrgông mê đạo, rồi những con sư tủ hách dịch,
những con sối tàn ác... đã trở thành những tính cách sắc sảo góp phần mở đường cho chủ
nghĩa hiện thực sau này.
Nhưng cũng chính vì chủ nghĩa duy lí của Đềcác coi bản chất con người là một thực thể
tuyệt đối, nên những tính cách trong chủ nghĩa cổ điển có phần trừu tượng, thiếu cá tính
sinh động. Ngay trong Bàn về nghệ thuật thơ ca của Boalô, nói một cách nghiêm ngặt chưa
có lí luận về điển hình theo nghĩa chặt chẽ của khái niệm này. Ông bàn đến việc xây dựng
nhân vật gần như "loại hình" (tính khái quát cao nhưng thiếu cá tính) hoặc là "định hình" lOMoAR cPSD| 40703272
(người xưa miêu tả tính cách thế nào thì bây giờ miêu tả thế ấy). Cũng như Hôraxơ xưa
kia, ông nói: "Viết Agamemnông thì phải tả thành kiêu ngạo ngang tàng. Viết Ênê thì phải
làm rõ cái oai phong"'... Các nhà văn cổ điển chủ nghĩa muốn đi tìm cái bản chất tinh tuý
cố định, vĩnh cửu của con người, và gạt bỏ cái riêng tư, phủ nhận cái đột biến. Vì vậy mà
cá tính nhân vật thường mờ nhạt. Khó mà thấy sự khác nhau về mặt cá tính giữa Rôđrigo và Simen.
Bêlinxki có nhận xét rằng: "Người hà tiện của Môlie là sự nhân hoá có tính chất hùng biện
của tính hà tiện". Khái quát hơn, Létxing còn cho rằng những nhân vật trong chủ nghĩa cổ
điển chẳng qua là "quan niệm về tính cách được nhân cách hoa", có nghĩa là nhân vật xây
dựng được không xuất phát từ con người hiện thực sinh động, kết quả là chỉ có tính cách
đơn nhất, độc diện, không đa dạng. Con người trong thực tế, mặc dù có thể có vài nét tính
cách nổi bật, nhưng châu tuần chung quanh đó vẫn còn có những nét tính cách khác. Điều
này vốn liên quan chặt chẽ với sự khái quát duy lí chủ nghĩa nói trên. Một khi đã tuyệt đối
hoa cái chung, cái bản chất nhất thì sẽ làm cho tính cách không những thiếu cá tính sinh
động, mà còn trở nên một chiều, đơn thuần, không gần gũi cuộc sống.
Chủ nghĩa duy lí quan niệm bản chất con người là vĩnh hằng bất biến, không phụ thuộc vào
không gian và thời gian, cho nên tính cách nhân vật không những thiếu màu sắc thời đại,
mà cũng thiếu bản sắc dân tộc. Đã đành trong Bàn về nghệ thuật thơ ca, Boalô có nói:
"Cũng phải nghiên cứu phong tục tập quán các nước, các thời. Khí hậu làm cho tính khí
con người khác nhau". Nói đến phong tục tập quán, khí hậu là có liên quan ít nhiều đến
tính dân tộc. Nhưng thật ra, Boalô chỉ ghi nhận tác dụng của nó đến khí chất (humeur), chứ
không gây ảnh hưởng gì đến "tính cách", "bản tính" (propre caractère). La Bruyerơ còn nói
rằng: 'Mặc dù chúng (chỉ những tính cách - P.L) nhiều khi được vay mượn ở triều đình
Pháp và ở những con người nước tôi, song không thể vì vậy mà thu hẹp ý nghĩa của chúng,
đem gán chúng cho một triều đình thôi, đặt chúng vào một nước thôi. Làm khác đi cuốn
sách của tôi sẽ mất nhiều ý nghĩa bao quát của nội dung và công dụng, sẽ xa rời kế hoạch
mà tôi đã đặt ra cho mình là mô tả những con người nói chung" (Những tính cách). lOMoAR cPSD| 40703272
Chủ nghĩa duy kí quan niệm bản chất sự vật một cách siêu hình, tĩnh tại, cho bản tính con
người là dĩ thành bất biến, cho nên tính cách trong chủ nghĩa cổ điển không phát triển. Mở
màn là Táctuýp thì đóng màn vẫn là tên đạo đức giả ấy. Mở màn là một lão hà tiện, thì đóng
màn vẫn là anh chàng Ácpagông không có gì khác. Trong lúc đó, những nhân vật trong chủ
nghĩa hiện thực, tính cách không lúc nào bất biến: AQ, chị Dậu, Sáclơ...
Tính cách thiếu cá tính, độc diện, thiếu bản sắc dân tộc, không phát triển... có căn nguyên
ở chủ nghĩa duy lí, nhưng cũng đều có căn nguyên trực tiếp vì chủ nghĩa cổ điển coi nhẹ
việc xây dựng hoàn cảnh điển hình. Mà xét cho cùng, việc coi nhẹ hoàn cảnh điển hình này
cũng có nguồn gốc ở chủ nghĩa duy lí, vì như trên đã nói, Đềcác quan niệm bản chất con
người là muôn thuở không phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử - cụ thể.
Cho nên, thật ra những hiện tượng trên kia có tác động qua lại trên cùng một căn nguyên.
Trước kia Điđơrô cũng đã từng nhận xét, Môlic đã quá chú ý đến tính cách mà coi nhẹ hoàn
cảnh. Ông còn nói chung về các nhà văn cổ điển chủ nghĩa Tằng: "Thường thì người ta tìm
kiếm những cảnh trong đó tính cách bộc lộ một cách xác định, rồi người ta nối những cảnh
đó lạt". Theo ông, đáng lẽ "địa vị xã hội, những nhiệm vụ của nó, những đặc quyền đặc lợi
của nó, những khó khăn của nó phải là cơ sở của tác phẩm". Trong lúc đó ở chủ nghĩa cổ
điển, những quan hệ giai cấp phức tạp, những tình thế đấu tranh xã hội phong phú, những
cảnh đời muôn màu muôn vẻ đều không được đưa vào tác phẩm như chủ nghĩa hiện thực.
Trong tác phẩm cổ điển chủ nghĩa, chúng ta thường bắt gặp những nét về ngoại cảnh hiện
ra như một khung trang trí. Diện mạo hiện thực thường được tái hiện một cách hạn chế,
Boalô chỉ kêu gọi: "nghiên cứu cung đình, hiểu biết thành thị". Tất nhiên là chủ nghĩa cổ
điển có nêu khẩu hiệu "mô phỏng tự nhiên" nói chung.
Điều đó trước hết là vì triết học duy lí cho rằng cái đẹp phải gắn liền với cái thật: "Chỉ có
thật mới đẹp, chỉ có thật mới đáng yêu" (Boalô). Mà cũng theo ông, "Tự nhiên là chân thực,
người thực có thể thể nghiệm được". Do đó, Boalô mới kêu gọi: "Hãy để cho tự nhiên trở
thành đối tượng nghiên cứu duy nhất". Tự nhiên (nature) không phải chỉ có thiên nhiên, lOMoAR cPSD| 40703272
mà là thế giới khách quạn nói chung. Trên ý nghĩa này mà nói, khẩu hiệu "mô phỏng tự
nhiên" của chủ nghĩa cổ điển là sự tiếp tục "triết Lí tự nhiên" của thời đại Phục hưng.
Nhưng đối với chủ nghĩa cổ điển, không phải cái gì của "tự nhiên" cũng được phản ánh.
Tự nhiên phải được lí trí gạn lọc, sắp xếp lại. Sự mô tả tự nhiên ở dây thực ra là dừng lại ở
bản chất duy lí mà không đi vào thể ii nội tâm vô cùng phức tạp, "bắt hợp l' của con người
cùng nguồn gốc của nó là đời sống hiện thực muôn màu muôn vẻ bên ngoài. Hiển nhiên
nó càng không chú ý mô tả phong tục tập quán, những sắc thái riêng biệt trong đời sống
của một dân tộc, một thời đại.
Thật ra, mặc dù "tự nhiên" bảo gồm cả xã hội, nhưng các nhà văn cổ điển chủ nghĩa lại
quan niệm con người là sản phẩm của lí tính tuyệt đối theo logic "tôi tư duy tức là tôi tồn
tại" của Đềcác. Họ chưa thể nào có quan niệm con người là "con người xã hội" (I'homme
social) như các nhà văn hiện thực mà tiêu biểu là Bandắc sau này. Cho nên họ cũng chưa
có thể và do đó cũng tự thấy không cần thiết tiến hành điển hình hóa những hoàn cảnh xã
hội lịch sử - cụ thể vào trong tác phẩm của mình. Nhưng cũng chính vì thế mà ngược trở
lại, các nhà văn cổ điển chủ nghĩa chưa thể thực sự xây dựng được những
"điển hình xã hội" như các nhà vằn hiện thực chủ nghĩa, mà chỉ có thể khái quát được
những "điển hình tâm lr" như ta đã biết. Nói "điển hình xã hội" không phải là nói những
điển hình vốn có trong xã hội, mà đã nằm trong hình thái nghệ thuật, nhưng nó mang nội
dung xã hội lịch sử - cụ thể về giai cấp, thời đại và dân tộc. "Điển hình tâm lí" chỉ bao gồm
những đặc trưng nổi bật nào đó về tư tưởng (dạnh dự, nghĩa vụ,...) và tình cảm (tình yêu,
tình bạn, trung thực, giá đối...). Dĩ nhiên không nên tuyệt đối hoa sự khác biệt giữa "điển
hình xã hội" và "điển hình tâm lí'. Bất kà "điển hình xã hội" nào cũng có một vài trạng thái
tâm lí nổi bật. Ngược lại, bất kì "điển hình tâm If" thành công nào, xét cho cùng, cũng là
con đẻ của hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ. Có điều tính chất xã hội đó chưa thể hiện rõ qua
nội dung của điển hình mà phải qua sự suy luận sâu sắc và sự cảm thụ nhạy bén của người
đọc mới cảm biết được. Bi kịch Lơ Xít của Cornây mượn câu chuyện kị sĩ Tây Ban Nha
thế kỉ XI, nhưng kì thực đó là viết về hình ảnh những anh hùng lí tưởng của nam nữ thanh
niên Pháp thế kỉ XVII. Vở kịch được viết vào năm 1636, cũng là năm nước Pháp phải lOMoAR cPSD| 40703272
đương đầu với đội quân xâm lược Tây Ban Nha, chiến sự xảy ra dữ dội ở thành Corbi.
Theo P. Đex, tác giả của Bảy thế kỉ tiểu thuyết, thì sau chiến thắng Corbi, thành công của
Lơ Xít cũng là một chiến thắng của dân tộc Pháp. Còn về tác phẩm Kẻ đạo đức giả, thì P.
Đex cho rằng Táctuyp có liên quan đến việc Conbe đồ dành nàng La Vanlie ưng thuận làm
nhân tình của Luy XIV. Và khi vở Iphighêni ở Ôlixơ của Raxin vốn là mô phỏng của
Ơripiđơ được diễn thì một công chúa của dòng vua Buốcbông khóc thảm thiết, nói với mọi
người: "Vở kịch như đưa luôn vị hôn phu của tôi vào". Ềvrơmôn cũng phê bình vở
Alêcxanđrơ của Raxin như sau: "Trong vở kịch này, tôi chỉ nghe cái tên chứ không nhận
ra được Alếchxanđrơ... Piruyx đã trở thành một người Pháp chính cống.
Tác giả không đưa chúng ta sang Ấn Độ mà quay trở về nước Pháp". lOMoAR cPSD| 40703272
Nhân vật lý tưởng của chủ nghĩa cổ điển nhằm phản ánh tính chất và nhu cầu của nhà nước
phong kiến tập quyền và của chủ nghĩa duy lý Descartes. Mẫu người đẹp của thời đại là
nhằm thỏa mãn thị hiếu của hai giai cấp phong kiến và tư sản, đó là con người xuất thân từ
tầng lớp cao quý, có nghĩa vụ công dân, có tình cảm cá nhân, trở thành lý tưởng xã hội –
thẩm mỹ và là nhân vật trung tâm của chủ nghĩa cổ điển. Tác phẩm mở đầu là vở kịch Le
Cid của Corneille ra đời năm 1637 (cùng năm với tác phẩm kinh điển Luận về phương
pháp của Descartes), đã thúc đẩy một trào lưu phát triển mạnh mẽ trong nghệ thuật: bên
cạnh Corneille còn có các tác giả bi kịch, hài kịch như Racine, Molière, thơ trào phúng và
lý luận thi pháp của Boileau, thơ ngụ ngôn La Fontaine, hội họa của Poussin (1594 –
1665)… Ưu tiên cho lý trí chứ không phải thần quyền, nhưng con người lý tưởng luôn phải
đấu tranh giữa đam mê, dục vọng và phục tùng quyền lợi chung, đề cao cá nhân nhưng
buộc cá nhân phải phục tùng nghĩa vụ. Qua hành động, ứng xử của
hai con người vừa là tình nhân, vừa là cừu địch trong Le Cid thể hiện rõ quan niệm này.
Rôđrigiơ không thể vì tình yêu với Simen mà không giết bố nàng để rửa nhục cho cha
mình. Ngược lại Simen cũng không thể vì mối tình đằm thắm với Rôđrigơ mà không báo
thù cho cha. Sau khi giết Đông Gormat, cha của người yêu, Rôđrigơ trao kiếm cho Simen
bảo nàng hãy giết mình để trả thù cha. Còn Simen sau này cũng thổ lộ: “Bằng việc xúc
phạm đến thiếp, chàng đã tỏ ra xứng đáng với thiếp. Nhưng thiếp phải giết chàng để được
xứng đáng với chàng.” Từ đời sống nội tâm, đến phát ngôn và hành động đều theo những
tiêu chuẩn đạo đức – thẩm mỹ của chủ nghĩa duy lý, điều này báo hiệu sự phục tùng tạm
thời của cá tính tư sản, tất yếu phải đến lúc phát triển thành chủ nghĩa cá nhân cực đoan.
Nhân vật lý tưởng trong văn học chủ nghĩa cổ điển thường giữ vai trò trung tâm và phát
ngôn cho chủ nghĩa duy lý, nó được soi rọi bởi vẻ đẹp lý tưởng của thời đại, trong cuộc
đấu tranh không khoan nhượng giữa dục vọng cá nhân và nghĩa vụ, nhưng cuối cùng nghĩa
vụ cũng thắng thế, là sản phẩm của lý trí chứ không phải tình cảm, cảm xúc.
Ở phương Đông, nhân vật trung tâm trong khuynh hướng văn học cổ điển là người thể hiện
lý tưởng xã hội – thẩm mỹ, do đó là những người kiểu mẫu về đạo đức phong kiến: trượng
phu, quân tử, nhưng có lúc còn có liệt nữ – do quan niệm “trọng nam khinh nữ”. lOMoAR cPSD| 40703272
Ngoài ra, còn có quan niệm “trọng văn khinh võ” do nền giáo dục văn chương cử tử, cho
nên có chí khí, có năng lực chưa đủ, còn phải là bậc văn tài, biết hưởng thụ những lạc thú
thanh tao: cầm, kỳ, thi, tửu mới là mẫu người lý tưởng. Phụ nữ phải tam tòng tứ đức, “tiết hạnh khả phong”…
Việc xây dựng tính cách của chủ nghĩa cổ điển đều xuất phát từ những nguyên tắc quán
xuyến toàn bộ tinh thần của tiểu luận bằng thơ Nghệ thuật thi ca (Art poétique, 1674) của
Boileau. Người ta tìm thấy ý tưởng cốt lõi của tiểu luận này xuất phát từ Luận về phương
pháp của Descartes ở nguyên tắc về tính phi lịch sử – cụ thể, đã chi phối một cách nghiêm
ngặt việc xây dựng hình tượng của chủ nghĩa cổ điển. Boileau quan niệm: “Phải yêu lý
tính, hãy để hết thảy văn chương của anh mãi mãi có được giá trị và hào quang của lý tính
(…) Lý tính trong hành trình của nó chỉ có một con đường.” Từ đó, ông đưa ra nguyên tắc
thứ nhất của ông: “Viết về mỗi người phải luôn luôn theo sát không lúc nào được rời bản
tính của họ.” Nguyên tắc này tạo cho chủ nghĩa cổ điển tuy có ít nhiều khám phá về đời
sống tâm lý, đề cao lý tưởng cao cả, nhưng do tuyệt đối hóa nó nên chỉ tạo nên những điển
hình có tính chất đại diện cho một phẩm chất, một bản tính, một mặt nào đó trong phẩm
chất của con người: Ácpagông keo kiệt, Ăngđrômác thủy chung, Giuốcđanh hám danh,
Ôrgong mê đạo, đến loài vật cũng là con sói tàn ác, con sư tử hách dịch… Nghĩa là sản
phẩm của chủ nghĩa duy lý, coi con người là một thực thể tuyệt đối, nên tính cách của nhân
vật được khái quát trừu tượng, thiếu cá tính sinh động. Chính vì quá tin vào bản chất tinh
túy cố định, vĩnh cửu của con người, phủ nhận cái đột biến, gạt bỏ cái riêng tư, nên tính
cách nhân vật mờ nhạt, chỉ thấy cái chung, cái khái quát mà thiếu cái riêng, cái cụ thể.
Trong thực tế đời sống, con người có thể có vài nét nổi trội, được coi là yếu tố bản chất,
nhưng trong nó còn có nhiều yếu tố khác. Chủ nghĩa cổ điển coi bản chất của con người là
vĩnh hằng bất biến, không bị chi phối bởi không gian thời gian, nên tính cách nhân vật thiếu
hơi thở thời đại và bản sắc dân tộc. Vì thế tính cách nhân vật cũng không phát triển. Mở
đầu tác phẩm đã là người xấu, kẻ đạo đức giả thì đến cuối tác phẩm vẫn thế, không có gì
thay đổi. Cũng vì thế, về nguyên tắc xây dựng tính cách, chủ nghĩa cổ điển đã tách con
người ra khỏi môi trường, hoàn cảnh, không phụ thuộc vào hoàn cảnh điển hình. Descartes lOMoAR cPSD| 40703272
quan niệm bản chất của con người là muôn thuở, không bị chi phối bởi hoàn cảnh lịch sử
cụ thể. Do vậy, những nhà văn chủ nghĩa cổ điển chỉ xây dựng được những điển hình tâm
lý, chứ chưa có được những điển hình xã hội như chủ nghĩa hiện thực sau này.
Sự mô phỏng tự nhiên chỉ dừng lại ở bản chất duy lý mà không đi vào thế giới nội tâm vô
cùng phong phú của con người cùng nguồn gốc của nó là đời sống hiện thực muôn màu
muôn vẻ bên ngoài, không chú ý đến miêu tả phong tục tập quán, những sắc thái riêng biệt
trong đời sống của một dân tộc, một thời đại, cố nhiên là nhược điểm, thiếu sự toàn diện
trong nguyên tắc xây dựng tính cách của chủ nghĩa cổ điển. Nhưng phải thấy rằng, trong
vô số những phẩm chất và tố chất biểu hiện đa dạng của một con người, chủ nghĩa cổ điển
chỉ chọn một phẩm chất nào đó tiêu biểu, là nhằm đúng vào quy luật bản chất của nghệ
thuật, đó là sự chọn lựa. Nghệ thuật không ôm đồm, không phản ánh hoặc biểu hiện tràn
lan, mà nhằm vào yếu tố bản chất.
Dưới ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo việc khắc họa tính cách trong khuynh hướng cổ
điển của văn học phương Đông cũng mang tính chất lý tính, nhưng tuân thủ thần quyền,
theo cái chung, đánh mất cái riêng. Nho giáo chủ trương “khắc kỷ phục lễ” (tự kiềm chế
mình để phục tùng lễ giáo), coi nhẹ nhân phẩm và cá tính con người. Tất cả mọi ứng xử,
từ ngôn ngữ, cử chỉ, quan hệ, hành động đều tuân theo những quy định về luân lý, không
còn khả năng cảm thụ thế giới. Điều đó dẫn đến tính chất “phi ngã” thiếu cá tính hóa trong
nguyên tắc xây dựng hình tượng. Những hình tượng được khắc họa trên cơ sở những nét
chung, được lý tưởng hóa đến tận thiện, tận mỹ thành những hình ảnh công thức. Nói đến
vua, phải dùng hình ảnh con rồng, con vật đứng đầu trong tứ linh, thành long nhan, long
thể, long bào. Nói đến người quân tử phải trúc, mai, sen thắm, người tráng sĩ phải cây tùng,
cây bách… Dẫn đến những chi tiết tượng trưng ước lệ: nữ nhân mắt phượng mày ngài, anh
hùng phải hàm hén mày ngài,,… Vì vậy, khuynh hướng cổ điển trong văn học phương
Đông không hề miêu tả con người cụ thể, từ ngoại hình, nội tâm, hành động đều theo một
công thức khái quát. Ngay cả khi đề cập đến cái tôi bản thân tác giả cũng không quan tâm
thấu đáo. Cái tôi cá nhân không được thừa nhận, không
có công dân mà chỉ có thần dân, thảo dân, tiện dân, con người sống phụ thuộc vào bề lOMoAR cPSD| 40703272
trên, nên quan niệm nghệ thuật về con người cũng tuân thủ theo như vậy, từ đó dẫn đến
nguyên tắc khắc họa hình tượng cũng cứ theo công thức đó, mô hình đó.