nh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH? | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh

nh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH? Đảng Cộng sản Việt Nam đã vẫn dụng quan điểm nêu trên như thế nào trong xây dựng nền kinh tế nước ta hiện nay? | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

lOMoARcPSD| 45734214
Bộ Giáo dục và Đào tạo Trường Đại học Kinh Tế Quốc dân
Viện Tài chính – Ngân hàng
BÀI TẬP LỚN
Môn học: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đề tài: Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu nền
kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH? Đảng Cộng sản Việt Nam đã vẫn dụng quan
điểm nêu trên như thế nào trong xây dựng nền kinh tế nước ta hiện nay?
Hà Nội, ngày 11 tháng 02 năm 2023
lOMoARcPSD| 45734214
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 3
PHẦN I: NGUỒN GỐC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH .................................................. 3
PHẦN II: PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ CẤU NỀN
KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH .................................................... 6
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế và quá trình hình thành, phát triển tư
tưởngHồ Chí Minh về kinh tế ........................................................................................ 6
1. Khái niệm “Kinh tế” trong tư tưởng Hồ Chí Minh ............................................. 6
2. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế .............. 7
II. Quan niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở ... 8
Việt Nam .......................................................................................................................... 8
1.1 Đặc điểm, nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ...... 8
1.2 Nội dung chủ yếu về phát triển nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam ............................................................................................ 10
2. Bước đi và các phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta ................. 13
PHẦN III: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG XÂY DỰNG NỀN
KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN
NAY..................................................................................13 ............................................ 14
1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế ........................................ 14
2. Một số hạn chế trong quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế ..... 16
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát
triểnkinh tế .................................................................................................................... 17
4. Nhiệm vụ: quan điểm, chính kiến để khẳng định sự phát triển trong tương lai
của mình.......................................................................................................................16
PHẦN IV: KẾT LUẬN...................................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................18
lOMoARcPSD| 45734214
LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam, khai sinh ra
nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Nhắc đến Người, chúng ta nhớ ngay đến một
người anh hùng vĩ đại giải phóng dân tộc, là một người thầy tài giỏi của Cách mạng
Việt Nam, là một vị lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc. Cả
cuộc đời Bác đều dâng hiến cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giành lại độc lập
hòa bình – tự do cho nhân dân.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập
và rèn luyện, gần 70 năm qua, Cách mạng Việt Nam đã liên tiếp giành được những
thắng lợi vô cùng vẻ vang. Từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, Việt Nam đã trở
thành một quốc gia độc lập, xây dựng nên Nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á,
trở thành ngọn cờ tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc. Và những thắng lợi
to lớn đó đều nhờ Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh
về phát triển kinh tế. Những tư tưởng kinh tế của Người chứa đựng nội dung thiết
thực, có ý nghĩa lý luận và thực tiến gắn với lịch sử đấu tranh vì độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội và vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân ta. Và hệ thống tư
tưởng đó của Hồ Chí Minh không chỉ đóng vai trò quan trọng cho các giai đoạn về
trước khi đã chỉ đạo cho Đảng ta hoạch định đường lối, chính sách kinh tế trong từng
thời kì, từng giai đoạn của cách mạng nhằm đảm bảo kháng chiến thắng lợi mà đó giờ
đây còn là một tài sản tinh thần vô giá cho nhân dân ta đến ngày nay để cùng nhau
chung tay xây dựng nên một nền kinh tế vững mạnh.
Hiện nay, điều kiện trong nước và thế giới đã có nhiều những đổi mới, phát triển
nhưng vẫn còn tồn tại không ít khó khăn và thách thức vẫn còn ở phía trước. Thực tiễn
đòi hỏi chúng ta cần phải đi sâu nghiên cứu thêm trong tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh
nhằm rút ra những bài học quan trọng và vận dụng nó hiệu quả vào trong bối cảnh,
thực tế của Đất nước ta để hướng tới vào việc phát triển nền kinh tế nói chung, thúc
đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói riêng.
Qua đó muốn góp phần làm sáng tỏ thêm những quan điểm của chủ tịch Hồ Chí
Minh về kinh tế trong thời kỳ quá độ và cách Nhà nước ta đã vận dụng được những gì
để giúp kinh tế ngày càng lớn mạnh. Xuất phát từ lí do đó, em chọn đề tài “Tìm hiểu
và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu nền kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên CNXH? Đảng Cộng sản Việt Nam đã vẫn dụng quan điểm nêu trên như thế
nào trong xây dựng nền kinh tế nước ta hiện nay?” với mục đích hiểu một cách hệ
thống tư tưởng Hồ Chí Minh từ đó đưa ra phương hướng cần thiết trong xây dựng
kinh tế nước ta.
PHẦN I: NGUỒN GỐC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hiểu cơ bản là một hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc cụ thể về những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí
lOMoARcPSD| 45734214
Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lenin vào điều
kiện cụ thể nước ta, cũng chính là quá trình kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã soi
đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành được thắng lợi. Ta nhận thấy rằng tư
tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và toàn thể dân tộc ta.
Khái niệm về tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện cụ thể qua bốn nội dung chủ
yếu sau: Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cuộc cách mạng tại Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chính là
kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin của Hồ Chí
Minh vào điều kiện cụ thể của nước ta; Tư tưởng Hồ Chí Minh còn là sự kết hợp tinh
hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm mục đích chính là giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và giải phóng con người; Bên cạnh đó thì tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là ngọn
cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn 70 năm qua và tư tưởng Hồ Chí
Minh cũng vẫn sẽ tiếp tục soi sáng con đường chúng ta tiến lên phía trước để xây
dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và xã hội chủ nghĩa,
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Vậy thì nguồn gốc hình thành lên tư tưởng Hồ Chí Minh đã dựa trên những tiền đề
tư tưởng lí luận nào:
Những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trước hết là chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam là nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh ra đời và nó được bắt nguồn từ truyền thống cần cù lao
động, anh dũng chiến đấu trong quá trình xây dựng đất nước và giữ nước, trong truyền
thống đoàn kết, sống có tình, có nghĩa, nhân ái của toàn bộ người dân Việt Nam. Khi
tìm hiểu về lịch sử dân tộc ta, trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
thì chủ nghĩa yêu nước vẫn luôn là dòng chảy xuyên suốt có ý nghĩa quan trọng.
Chủ nghĩa yêu nước của nhân dân cũng đã trở thành động lực, sức mạnh truyền
thống, đạo lý làm người, niềm tự hào và là nhân tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh
thần của con người Việt Nam. Cũng bởi truyền thống yêu nước của dân tộc đã trở
thành sức mạnh động lực mạnh mẽ thúc giục Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) đi tìm
đường cứu nước cho dân tộc ta.
Tinh hoa văn hóa nhân loại
Tinh hoa văn hoá nhân loại sự kết hợp của văn hóa phương Tây và văn hóa
Phương Đông đã góp phần hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của văn hoá phương Đông. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng sau khi tìm hiểu đã tiếp thu và kế thừa có phê phán tư tưởng dân chủ, nhân văn
của văn hoá Phục hưng, thế kỷ Ánh sáng, của cách mạng tư sản phương Tây và cách
mạng Trung Quốc.
Hồ Chí Minh được theo học chữ Nho với các thầy vốn là những nhà Nho yêu
nước. Đạo đức Nho giáo thấm vào tư tưởng tình cảm của Người và nhiều tư tưởng của
các nhà hiền triết phương Đông được Hồ Chí Minh hết sức trân trọng. Trong quá trình
lOMoARcPSD| 45734214
tiếp thu, vận dụng những yếu tố tích cực của Nho giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
đồng thời phê phán loại bỏ những yếu tố thủ cựu, tiêu cực của những quan điểm Nho
giáo này.
Trước khi Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã quan tâm
nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng dân chủ tư sản Pháp, Mỹ, đặc biệt là tư tưởng Tự do,
Bình đẳng, Bác ái, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và nhiều tư tưởng khác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã vận dụng và phát triển các trào lưu tư tưởng học thuyết
ấy lên một trình độ mới để các tư tưởng đó phù hợp với dân tộc và thời đại mới.
Như vậy, ta nhận thấy rằng, trong quá trình hình thành phát triển tư tưởng của
mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã kế thừa có chọn lọc tinh hoa văn hoá phương
Đông và phương Tây.
Chủ nghĩa Mác-Lênin:
Từ khi rời Tổ quốc (1911) cho đến năm 1917, Hồ Chí Minh đã đến nhiều nước
thuộc địa và nhiều nước tư bản đế quốc. Trong khoảng thời gian đó, Hồ Chí Minh
được bổ sung thêm những nhận thức mới về những gì ẩn dấu đằng sau các từ Tự do,
Bình đẳng, Bác ái mà vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên Người đã nghe. Khoảng cuối năm
1917, khi trở lại Pari, Hồ Chí Minh đã làm quen với nhiều nhà hoạt động chính trị, xã
hội của nước Pháp và nhiều nước trên thế giới. Năm 1919, Hồ Chí Minh tham gia
Đảng Xã hội Pháp (SFIO), một đảng tiến bộ lúc bấy giờ thuộc Quốc tế II.
Việc Hồ Chí Minh tiếp thu bản Luận cương của Lênin tháng 7-1920 và trở thành
người cộng sản vào cuối năm đó đã tạo nên bước ngoặt căn bản trong tư tưởng của
Người. Thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí Minh nhìn
nhận, đánh giá phân tích tổng kết các học thuyết, tư tưởng, đường lối các cuộc cách
mạng một cách khoa học; cùng với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của mình để đề ra
con dường cách mạng giải phóng dân tộc đứng đắn.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận cơ sở chủ yếu nhất của sự hình thành
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
Tài năng và hoạt động thực tiễn sáng tạo của Hồ Chí Minh
Lý luận tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của Hồ Chí Minh và do Người sáng
tạo ra dựa trên cơ sở nhận thức các nhân tố khách quan. Từ những trải nghiệm thực tế
và việc được tiếp xúc với các nguồn tư tưởng mới đã hình thành tư tưởng của Người.
Ngay từ khi còn trẻ, Hồ Chí Minh đã có hoài bão lớn, có bản lĩnh kiên định, giàu
lòng nhân ái và sớm có chí cứu nước, giúp nhân dân được độc lập, tự do.
Với tư chất thông minh, tư duy độc lập, sáng tạo cùng với tính ham hiểu biết và
nhạy bén với cái mới cũng chính là những đức tính rất dễ thấy ở người thanh niên
Nguyễn Tất Thành. Các phẩm chất đó cũng dần được rèn luyện, phát huy trong suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của Người và từ đó đã tạo ra tư tưởng Hồ Chí Minh.
lOMoARcPSD| 45734214
PHẦN II: PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ CẤU NỀN
KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế và quá trình hình thành, phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế.
1. Khái niệm “Kinh tế” trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Khái niệm kinh tế thường được hiểu theo các nghĩa cơ bản:
Chỉ các hoạt động kinh tế bao gồm những hoạt động về sản xuất, phân phối, trao
đổi hoặc tiêu dùng.
Chỉ chung nền kinh tế quốc dân của một nước, hoặc các ngành kinh tế như nông
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, sản xuất công nghệ (từ ý tưởng -> nghiên cứu -> chế tạo
thử -> sản xuất hàng loạt sản phẩm công nghệ diễn ra rất ngắn và liên tục)
Chỉ tổng thể các quan hệ sản xuất - xã hội nhất định hoặc chế độ kinh tế của xã
hội, phù hợp với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất (nhân tố quyết
định của chế độ kinh tế là sở hữu đối với tư liệu sản xuất)
Kinh tế học (Ê---mic) là ngành học nghiên cứu cách thức lựa
chọn của Xã hội trong việc sử dụng các nguồn lực có giới hạn để sản
xuất sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người.
Trong thực tế, nguồn lực của sản xuất nhìn chung ở thời điểm nhất định thường
khan hiếm do đó việc lựa chọn cách thức sản xuất các loại sản phẩm để sản xuát
hiệu quả là vấn đề đặt ra thường xuyên cho mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp, đặc biệt
trong thời đại hiện nay. Lịch sử nhân loại đã trải qua các loại hình kinh tế chủ yếu:
+ Kinh tế lao động (sử dụng sức cơ bắp con người là chủ yếu có từ thời kỳ phong
kiến trở về trước (A-si-xtốt đã nêu tiêu chuẩn để phân biệt chiến tranh chính nghĩa là:
chiến tranh cướp đoạt được nhiều nô lệ hay không )
+ Kinh tế tài nguyên (dựa vào khai thác tài nguyên là chủ yếu) có từ thời kỳ TBCN
đến nay, nó tàn phá môi trường lớn.
+ Kinh tế tri thức (KT hậu công nghiệp) sử dụng tri thức là yếu tố chủ lực cho sự
tăng trưởng kinh tế, tạo ra sự phát triển mang tính chất bền vững.
Có thể nói kinh tế học là môn học bắt nguồn từ sự khan hiếm tài nguyên, khan
hiếm các nguồn lực.
Thuật ngữ "Kinh tế" trong tư tưởng Hổ Chí Minh được Người chỉ ra với hai nghĩa
cơ bản:
- Nghĩa rộng:
Là hệ thống các quan hệ sán xuất xã hội, hệ thống này gắn với trình độ phát triển
của sức sản xuất xã hội (quan điểm sức sản xuất xã hội được Hổ Chí Minh nêu lên
trong tác phẩm "Thường thức chính trị- 1953)
- Nghĩa hẹp:
Nền kinh tế Việt nam vừa mới thoát ra khỏi chế độ thuộc địa nửa phong kiến với
đặc điểm, cơ cấu, cách thức quản lý và nội dung, biện pháp cần phải thực hiện để xây
lOMoARcPSD| 45734214
dựng nền kinh tế trong giai đoạn quá độ lên CNXH nhằm chiến thắng nghèo nàn và
lạc hậu, đem lại cho nhân dân cuộc sống ngày càng no đủ hơn.
Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế là một hệ thống các quan điểm, lý
luận được rút ra từ thực tiễn xây dựng và phát triển nền kinh tế cho chế độ mới ở Việt
Nam, kế thừa và nâng cao những giá trị trong tư tưởng xây dựng kinh tế, phát triển
sản xuất của dân tộc Việt Nam cùng những tinh hoa của tư tưởng kinh tế nhân loại mà
cốt lõi là chủ nghĩa Mác-Lênin nhằm giải quyết những vấn đề cơ bản về kinh tế và
quản lý kinh tế của qua trình phái triển đất nước từ sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu
tiến lên xây dựng CNXH với cơ cấu kinh tế hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến, đủ
khả năng để không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống mọi mặt cho nhân dân.
2. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế.
Căn cứ vào nhiệm vụ của cách mạng và những hoạt động lý luận, thực tiễn của Hồ
Chí Minh, có thể chia quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về
kinh tế thành 3 giai đoạn với các đặc trưng chủ yếu sau:
- Giai đoạn 1890 - 1945: Đây là giai đoạn tiếp thu, nghiên cứu, sàng lọc tri thức,
kinh nghiệm hoạt động kinh tế chủ yếu là kinh tế nông nghiệp của dân tộc Việt
Nam cũng như quan điểm cần kiệm trong sản xuất và tiêu dùng, quan điểm về
phân phối nhằm tạo ra sự công bằng trong xã hội, về kế hoạch phát triển sản xuất
với chăm lo đời sống của nhân dân của Khổng Tử, Mạnh Tử... Giai đoạn này Hồ
Chí Minh cũng nghiên cứu, tiếp thu các quan điểm của Mác, Ănggen về vai trò của
kinh tế đối với sự phát triển của xã hội và con người, tư tưởng của Lênin về chính
sách kinh tế mới, về quan hệ giữa kinh tế với chính trị cũng như văn hóa, xã hội
trong thời kỳ quá độ.
- Giai đoạn 1945 - 1954: Đây là giai đoạn chúng ta vừa "kháng chiến" vừa "kiến
quốc" đầy khó khăn, gian khổ. Trong giai đoạn này mặc dù phải giải quyết nhiều
vấn đề phức tạp về chính trị, quân sự, văn hóa nhưng các vấn đề của kinh tế vẫn
được Hồ Chí Minh hết sức quan tâm và Người đã đề xuất nhiều tư tưởng 12 quan
trọng cũng như đưa ra những biện pháp thiết thực nhằm giải quyết có kết quả
những vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp thiết của việc phục hồi, xây dựng và phát triển
nền kinh tế của chế độ mới và hội nhập thế giới.
- Giai đoạn 1954 - 1969: Giai đoạn này chúng ta tiến hành đồng thời hai chiến lược
cách mạng đó là: Cách mạng xã hội chủ nghĩa miền Bắc và cách mạng dân tộc,
dân chủ nhân dân ở miền Nam để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải
quyết một cách khoa học, sáng tạo trong đó có vấn đề kinh tế.
- tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế đã tập trung giải quyết hàng loạt những vấn đề
mới mẻ, phức tạp khó khăn trong quá trình xây dựng nền kinh tế của xã hội mới.
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu, góp
phần to lớn vào giải quyết thành công nhiều vấn đề khó khăn về xây dựng và phát
triển kinh tế, cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân trong điều kiện đất nước
có chiến tranh
lOMoARcPSD| 45734214
II. Quan niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
1.1 Đặc điểm, nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
a) Quan niệm của Hồ Chí Minh
Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin, có hai con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Con đường thứ nhất là quá độ trực tiếp lên ch
nghĩa xã hội từ những nước tư bản chủ nghĩa phát triển ở trình độ cao. Con đường thứ
hai là quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội ở những nước chủ nghĩa tư bản phát triển
còn thấp, hoặc như V.I. Lenin cho rằng, những nước có nền kinh tế lạc hậu, chưa trải
qua thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản cũng có thể đi lên chủ nghĩa xã hội được
trong điều kiện cụ thể nào đó, nhất là trong điều kiện đảng kiểu mới của giai cấp
sản nắm quyền lãnh đạo (trở thành đảng cầm quyền) và được một hay nhiều nước tiên
tiến giúp đỡ.
Quan niệm của chủ tịch Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự
tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mac-Lenin vào Việt Nam.Trên cơ sở vận
dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của
chủ nghĩa Mác- Lênin và xuất phát từ đặc điểm tình hình thực tế Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã khẳng định:” Con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành giải phóng dân
tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội.”
Như vậy, quan niệm Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
là quan niệm về một hình thái quá độ gián tiếp cụ thể -quá độ từ một xã hội thuộc địa
nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu sau khi giành được độc lập dân tộc đi lên chủ
nghĩa xã hội. Chính ở nội dung cụ thể này, Hồ Chí Minh đã cụ thể và làm phong phú
thêm lý luận Mác-Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đi vào thời kỳ quá độ ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã chỉ ra đặc điểm và mâu thuẫn
của xã hội Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, nước ta có đặc điểm lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ
nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này
sẽ chi phối, quy định nội dung con đường, những hình thức và bước đi, cách làm chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước phong
kiến, một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, trong điều kiện đất nước vừa có chiến
tranh vừa có hòa bình, miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội khi miền Nam tiếp tục
hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân. Chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã
hội khi các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới đang phát triển ở thời kỳ cao trào. Đặc
điểm này chi phối đặc điểm khác, thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội và làm cơ sở nảy sinh nhiều mâu thuẫn.
Trong đó Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý đến mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ, đó
là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực
trạng kinh tế- xã hội quá thấp kém của nước ta. Do đó, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài chứ không thể một sớm
một chiều. Bởi vì “Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa
từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói
quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ hàng ngàn năm…biến nước ta từ một nước nông
lOMoARcPSD| 45734214
nghiệp thành một nước công nghiệp’’. Tuy nhiên muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì
không phải cứ ngồi mà chờ là sẽ có được chủ nghĩa xã hội. Nếu nhân dân ta mọi
người cố gắng, phấn khởi thi đua xây dựng thì thời kỳ quá độ có thể rút ngắn hơn.
b) Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Theo Hồ Chí Minh, thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là
quá trình cải biến nền sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất tiên tiến, hiện đại. Thực
chất của quá trình cải tạo và phát triển nền kinh tế quốc dân cũng là cuộc đấu tranh
giai cấp gay go, phức tạp trong điều kiện mới, khi mà nhân dân ta hoàn thành cơ bản
cách mạng dân tộc dân chủ, so sánh lực lượng trong nước và quốc tế đã có những biến
đổi. Điều này đòi hỏi phải áp dụng toàn diện các hình thức đấu tranh cả về chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm chống lại các thế lực đi ngược lại con đường xã hội chủ
nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh, do những đặc điểm và tính chất quy định, con đường quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một quá trình dần dần, phức tạp, khó khăn và lâu
dài. Nhiệm vụ của thời kỳ quá độ là đấu tranh cải tạo, xóa bỏ tàn tích của chế độ xã
hội cũ, xây dựng các yếu tố mới phù hợp với quy luật tiến lên chủ nghĩa xã hội trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống. Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam bao gồm hai nội dung lớn:Một là, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ
thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng các tiền đề về kinh tế, chính trị, văn hóa, tư
tưởng cho chủ nghĩa xã hội.
Hai là, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng, trong
đó lấy xây dựng làm trọng tâm, làm nội dung cốt yếu nhất, chủ chốt, lâu dài. Hồ Chí
Minh nhấn mạnh đến tính chất tuần tự, dần dần của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
hội. Tính chất phức tạp và khó khăn của nó được Người lý giải trên các đặc điểm sau:
+ Thứ nhất, đây thực sự là một cuộc cách mạng. Nó làm đảo lộn mọi mặt của đời
sống xã hội, cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng. Nó đặt ra và đòi hỏi đồng thời giải quyết hàng loạt mâu thuẫn khác nhau.
Trong Di chúc, Bác đã coi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc chiến đấu
khổng lồ của toàn Đảng, toàn dân Việt Nam.
+ Thứ hai, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta chưa có kinh nghiệm, nhất là trên lĩnh vực về kinh tế. Chính vì vậy, đây là một
công việc vô cùng mới mẻ đối với Đảng ta nên phải vừa làm, vừa học và có thể có
những vấp váp, thiếu sót. Việc xây dựng xã hội mới bao giờ cũng khó khăn, phức tạp
hơn đánh đổ xã hội cũ đã lỗi thời.
+ Thứ ba, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta luôn luôn bị các thế lực
phản động trong và ngoài nước tìm cách chống phá.
Từ việc chỉ rõ tính chất của thời kỳ quá độ, Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở cán
bộ, đảng viên trong xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thận trọng, tránh nôn nóng đặc
biệt là tránh chủ quan, đốt cháy giai đoạn. Vấn đề cơ bản là phải xác định đúng bước
đi và hình thức phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, biết kết hợp các khâu
trung gian, quá độ, tuần tự từng bước từ thấp đến cao. Vì vậy, xây dựng chủ nghĩa xã
hội đòi hỏi một năng lực lãnh đạo mang tính khoa học, vừa hiểu biết các quy luật vận
động xã hội, lại phải có nghệ thuật khôn khéo cho thật sát với tình hình thực tế. Ta xây
lOMoARcPSD| 45734214
dựng chủ nghĩa xã hội từ hai bàn tay trắng đi lên thì khó khăn còn nhiều và lâu dài.
Phải làm dần dần, không thể một sớm một chiều, ai nói dễ là chủ quan và sẽ thất bại.
1.2 Nội dung chủ yếu về phát triển nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của
nước ta, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều luận điểm, tư tưởng chỉ đạo sáng suốt, có tính
nguyên tắc về phát triển kinh tế ở Việt Nam.
Phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội:
Xuất phát từ đặc điểm nước ta đi lên chủ nghĩa hội từ một nước thuộc địa nửa
phong kiến, sức sản xuất chưa phát triển, đời sống vật chất văn hóa của nhân dân
thấp kém, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “…nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta phải
xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,… có công nghiệp và nông
nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế xây dựng nền kinh tế mới, xây dựng
là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”.
Phải xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp và nông nghiệp hợp lý:
Người khẳng định: “Nền kinh tế hội chủ nghĩa hai chân công nghiệp và ng
nghiệp… hai chân không đều nhau, không thể ớc mạnh được”. Nông nghiệp phải phát
triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân dân; cung cấp đủ nguyên liệu … Công
nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước
hết cho nông dân; cung cấp máy bơm nước, phân hóa học, thuốc trừ sâu… để đẩy
mạnh nông nghiệp và cung cấp dần máy cày, máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp.
Cho nên công nghiệp nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau cùng nhau phát triển,
như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích.
Thế là thực hiện liên minh công nông để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống
ấm no, sung sướng cho nhân dân.
Tất yếu khách quan phải tiến hành công nghiệp hóa:
Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm
thực sự của nhân dân ta. Trong bài Con đường phía trước (ngày 20-1-1960), Người viết:
“Đời sống nhân dân chỉ thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất một
cách thật rộng rãi: dùng máy móc cả trong công nghiệp trong nông nghiệp. Máy sẽ
chắp thêm tay cho người, làm cho sức người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người
làm những việc phi thường. Muốn có nhiều máy, thì phải mở mang các ngành công
nghiệp làm ra máy, ra gang, thép, than, dầu Đó con đường phải đi của chúng ta:
Con đường công nghiệp hóa nước nhà”.
lOMoARcPSD| 45734214
Các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và định hướng lên chủ nghĩa xã hội
trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam còn nhiều hình thức sở hữu
và nhiều thành phần kinh tế.
Người chỉ ra rằng, ở thời kỳ quá độ, nền kinh tế đó còn các hình thức sở hữu chính:
“Sở hữu của nhà nước tức là của toàn dân. Sở hữu của hợp tác tức sở hữu tập thể
của nhân dân lao động. Sở hữu của người lao động riêng lẻ. liệu sản xuất thuộc sở
hữu của nhà tư bản”. Tương ứng với chế độ sở hữu là thành phần kinh tế. Hồ Chí Minh
xác định: “Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tế khác nhau … Trong năm loại
ấy, loại A [kinh tế quốc doanh] kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên
kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư
bản”.
Để xây dựng và phát triển nền kinh tế có nhiều thành phần như trên, Hồ Chí Minh
đưa ra chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ gồm bốn điểm mấu chốt:
+ Một là, công đều lợi. Kinh tế quốc doanh công. nền tảng sức lãnh
đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta
phải ủng hộ nó. Đối với những người phá hoại nó, trộm cắp của công, khai gian lậu thuế
thì phải trừng trị. những nhà bản dân tộc kinh tế nhân của nông dân
thủ công nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà. Cho
nên Chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế
quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân.
+ Hai là, chủ thợ đều lợi. Nhà tư bản thì không khỏi bóc lột. Nhưng Chính phủ ngăn
cấm họ bóc lột nhân dân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi của công nhân. Đồng
thời, lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng đcho chủ được slợi hợp lý, không yêu
cầu quá mức. Chủ và thợ đều tự giác tự động, tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên.
+ Ba là, công nông giúp nhau. Công nhân ra sức sản xuất nông cụ các thứ cần
dùng khác, để cung cấp cho nông dân. Nông dân thì ra sức tăng gia sản xuất, để cung
cấp lương thực và các thứ nguyên liệu cho công nhân. Do đó càng thắt chặt liên
minh giữa công nông.
+ Bốn là, lưu thông trong ngoài. Ta ra sức khai thác lâm thổ sản để bán cho các nước
bạn dể mua những thứ ta cần dùng. Các nước bạn mua những thta đưa ra bán
cho ta những hàng hóa ta chưa chế tạo được. Đó chính sách mậu dịch, giúp đỡ lẫn
nhau rất có lợi cho kinh tế ta.
=> thể khái quát chính sách kinh tế của Đảng Chính phủ theo tư tưởng Hồ Chí
Minh là: Công đều lợi - Chủ thợ đều lợi - Công nông giúp nhau - Lưu thông trong
ngoài” và "Bốn chính sách ấy là mấu chốt để phát triển kinh tế của nước ta". Ở đây, Hồ
Chí Minh nêu quan điểm "công đều lợi", "chủ thợ đều lợi" trong thời kỳ quá độ
khi nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, Người vẫn đồng thời khẳng định,
lOMoARcPSD| 45734214
thành phần kinh tế bản nhân, kinh tế thể "là lực ợng cần thiết cho xây dựng
kinh tế nước nhà".
Chỉ bằng những câu ngắn gọn, Hồ Chí Minh đã cho chúng ta thấy những nguyên tắc,
mục tiêu cần hướng tới của nền kinh tế nhiều thành phần. Đó là các thành phần kinh tế
phải tồn tại trong mối quan hệ bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi, tạo nên sự phát triển cân
đối của nền kinh tế quốc dân. Những quan điểm trên thể hiện rất ởng Hồ Chí
Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Vận dụng tưởng Hồ Chí Minh vào phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong
thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam sẽ góp phần giải phóng mọi năng lực sản xuất, là
vấn đề ý nghĩa chiến lược lâu dài, tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH. Phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta, một mặt chính là
sự tiếp tục logic khách quan của nền kinh tế, mặt khác còn sự tiếp tục tưởng của
-nin và Hồ Chí Minh về nền kinh tế nhiều thành phần trên một nền tảng và trong một
hoàn cảnh khác, được phát triển lên một trình độ mới và hình thức mới.
Phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan
liêu:
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tăng gia sản xuất thực hành tiết kiệm là con đường đi đến
xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Tăng gia là tay
phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”, “Sản xuất không tiết kiệm
thì khác nào gió vào ntrống”. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sản xuất
tiết kiệm gắn với nhau như một phương châm. Phải luôn thực hành trong một nền
kinh tế nghèo nàn lạc hậu lại phải chịu nhiều bom đạn chiến tranh, chịu nhiều thiên tai
bất thường. Phát triển sản xuất để tăng sản phẩm hội thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí là hai mặt biện chứng trong các chặng đường phát triển đất nước, nâng cao đời
sống nhân dân.
Đồng thời, Người căn dặn trong phát triển kinh tế phải chống tham ô, lãng phí, quan
liêu những “giặc nội xâm”, đồng minh với giặc ngoại xâm. Chủ tịch Hồ CMinh
cho rằng, ba căn bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu “là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và
của Chính phủ”. Loại kẻ thù này “khá nguy hiểm, vì nó không mang gươm mang súng,
nằm trong các tchức của ta, đề làm hỏng công việc của ta”. cố ý hay
không, tham ô, lãng phí, quan liêu “cũng bạn đồng minh của thực dân phong kiến”.
“Nó làm hỏng tinh thần trong sạch ý chí khắc khổ của cán bộ ta. phá hoại đạo
đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính. “phá hoại tinh thần, phí phạm sức
lực, tiêu hao của cải của Chính phủ của nhân dân. Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi
Việt gian, mật thám”.
lOMoARcPSD| 45734214
2. Bước đi và các phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nêu cao mục tiêu của phát triển kinh tế mà còn
chỉ ra biện pháp để đạt được mục tiêu đó. Nhiều biện pháp cụ thể đã được Chủ tịch Hồ
Chí Minh chỉ ra có thể trực tiếp, có thể gián tiếp, có thể cụ thể, có biện pháp chung…
lợi dụng mọi cơ hội để hướng mọi người vào việc thực hiện mục tiêu không cao xa mà
gần gũi với đời sống hiện thực của mỗi người. Đó là:
- Xây dựng dần, từng bước nền móng kinh tế của chủ nghĩa xã hội để từng bước nâng
cao đời sống nhân dân. Với quan điểm đó, ngay sau khi miền Bắc hoàn toàn giải
phóng, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: nước ta công nghiệp chưa phát triển, tỷ
trọng GDP của công nghiệp thấp, do đó phải từ nông nghiệp để giải quyết vấn đề đời
sống trước mắt. Hơn nữa sau chiến tranh, nhiều làng mạc bị tàn phá, các công trình
thủy lợi lớn và vừa đều bị phá hỏng. Vì vậy muốn phát triển kinh tế để nâng cao đời
sống cho nhân dân thì phải bắt đầu từ khôi phục nông nghiệp.
- Lựa chọn cấu kinh tế hợp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội. Bác đã
căn cứ vào tình hình kinh tế của các ớc phát triển, hình kinh tế của các nước
xã hội chủ nghĩa và hoàn cảnh thực tế của nước ta để lựa chọn một cơ cấu kinh tế để
đảm bảo được sự kết hợp chặt chẽ, tác động biện chứng thúc đẩy lẫn nhau giữa hai
ngành công nghiệp nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Người xác định
Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy việc phát triển
nông nghiệp làm gốc. Nếu không phát triển nông nghiệp thì không có cơ sở để phát
triển công nghiệp vì nông nghiệp cung cấp nguyên liệu, lương thực cho công nghiệp
và tiêu thụ hàng hóa của công nghiệp làm ra”. Nông thôn giàu có sẽ mua nhiều hàng
hóa của công nghiệp. Như thế nông thôn giàu sẽ giúp cho công nghiệp phát
triển. Công nghiệp phát triển thì dân giàu nước mạnh.
- Nhưng bên cạnh việc chú trọng phát triển nông nghiệp để giải quyết vấn đề lương
thực thì cũng phải coi trọng phát triển công nghiệp. Người cho rằng: “Công nghiệp
phát triển thì nông nghiệp mới phát triển. Cho nên công nghiệp và nông nghiệp phải
giúp đỡ lẫn nhau cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe đi đều thì tiến
bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích.”
- Công nghiệp nông nghiệp như hai chân của nền kinh tế, nghĩa là nông nghiệp
phải phát triển mạnh để cung cấp lương thực cho nhân dân, cung cấp đủ nguyên liệu
nhà máy, cung cấp đủ nông sản để xuất khẩu, đổi lấy máy móc. Công nghiệp phải
phát triển mạnh để cung cấp hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là cho
nông dân, cung cấp máy bơm ớc, phân hóa học, để đẩy mạnh nông nghiệp.
Công nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát triển, cho nền công nghiệp nông
nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau phát triển.
- Mặt khác, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho rằng công nghiệp và nông nghiệp liên hệ
với nhau thông qua thương nghiệp, thương nghiệp là khâu giữa công nghiệp nông
nghiệp, thể hiện liên minh công nông. Bởi vì “ trong nền kinh tế quốc dân có ba mặt
quan trọng: nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp. Ba mặt công tác quan hệ mật
lOMoARcPSD| 45734214
thiết với nhau. Thương nghiệp cái khâu giữa nông nghiệp ng nghiệp. Thương
nghiệp đưa hàng đến nông thôn phục vụ nông dân, thương nghiệp lại đưa nông sản,
nguyên liệu cho thành thị tiêu dùng. Nếu khâu thương nghiệp bị đứt thì không liên
kết được nông nghiệp với công nghiệp, không củng cố được công nông liên minh.
Công tác thương nghiệp không chạy thì hoạt động nông nghiệp, công nghiệp sẽ bị
rời rạc.”
PHẦN III
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ
NƯỚC TA HIỆN NAY
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam bao quát tất cả những vấn đề cốt lõi, cơ bản, dựa trên cơ sở vận dụng
và phát triển sáng tạo học thuyết Mác-Lênin. Đó là những luận điểm về bản chất, mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội; nhiệm vụ lịch sử, nội dung, các hình thức và bước đi tiến
hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.Tư tưởng ấy trở thành tài sản vô
giá của dân tộc, là cơ sở lý luận và kim chỉ nam cho việc kiên trì giữ vững chủ nghĩa
xã hội của Đảng và đưa ra nhiều biện pháp và bước đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp
với những đặc điểm dân tộc và xu thế vận động của thời đại ngày nay.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được rất nhiều thành
tựu, đó là tiền đề làm đòn bẩy cho con đường phát triển xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Quan điểm của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày
càng sát thực tiễn, cụ thể hơn. Tuy nhiên, trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội,
bên cạnh những cơ hội thì nước ta vẫn đang phải đương đầu với hàng loạt khó khăn,
thách thức cả trên diện quốc tế, cũng như các vấn đề từ điều kiện thực tế trong nước
tạo nên. Trong bối cảnh đó, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và
con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần tập trung giải quyết những vấn
đề quan trọng nhất.
1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
CNXH được trình bày một cách giản dị, dễ hiểu nhưng mang giá trị to lớn trong công
cuộc xây dựng và kiến thiết nước nhà. Nhìn lại chặng đường vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, có thể thấy như sau:
- Thứ nhất, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế.
Giai đoạn đầu sau cuộc kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam tiến hành quản lý kinh tế
theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung dẫn đến khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Đến
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (Tháng 6/1991), vận dụng tư
lOMoARcPSD| 45734214
tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã xác định “bước đầu hình thành nền kinh tế nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Việt
Nam đã từng bước xóa bỏ cơ chế quản lý kế hoạch hóa, chuyển sang cơ chế thị
trường thông qua: xác định các hình thức sở hữu chủ yếu (toàn dân, tập thể, tư
nhân), thừa nhận sự tồn tại tất yếu của nhiều thành phần kinh tế; xóa bỏ mọi hình
thức phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế kinh
doanh theo pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
- Thứ hai, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nền kinh tế.
+ Từ công nghiệp hóa theo kiểu cũ, khép kín, hướng nội, thiên về phát triển công
nghiệp nặng, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên, đất đai và nguồn
viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa đi trước đã chuyển dần sang công nghiệp
hóa gắn liền với hiện đại hóa trong nền kinh tế mở; chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ, gắn công nghiệp hóa, hiện đại
hóa với từng bước phát triển nền kinh tế tri thức, các ngành, lĩnh vực kinh tế đòi
hỏi hàm lượng trí tuệ, chất xám cao. Theo Tổng cục Thống kê, năm 1986, nông
nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất với 38,1%. Tỷ trọng ngành dịch vụ là 33%, còn
công nghiệp chiếm tỷ trọng thấp nhất với 28,9%. Đến năm 2019, khu vực nông,
lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 13,96% GDP; khu vực công nghiệp và xây
dựng chiếm 34,49%; khu vực dịch vụ chiếm 41,64%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp
sản phẩm chiếm 9,91%
+ Từ chỗ xác định lực lượng chủ yếu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước, Đảng và Nhà nước ta đã xác định, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của toàn xã hội. Nhà nước phải
có chính sách để khơi dậy, phát huy các nguồn lực của nhân dân, của mọi thành
phần kinh tế, đồng thời huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ bên
ngoài để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
+ Về cơ chế phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa, từ chỗ chủ yếu bằng cơ chế kế
hoạch hóa tập trung của Nhà nước và giao cho doanh nghiệp nhà nước làm, đã dần
dần chuyển sang phân bổ nguồn lực theo cơ chế thị trường, lấy tiêu chuẩn trước
hết là hiệu quả kinh tế để đầu tư; Nhà nước có chính sách khuyến khích và ưu đãi
cho một số ngành, lĩnh vực, địa bàn, doanh nghiệp vừa và nhỏ và một số mục tiêu
như xuất khẩu, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo.
- Thứ ba, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức
mạnh thời đại. Với phương châm “Nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng”,
Việt Nam đã thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại; gắn
kết kinh tế nước ta với khu vực và thế giới thông qua các hoạt động thương mại,
đầu tư và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Sau khi xóa bỏ thành công chính sách
bao vây cấm vận của Mỹ và các lực lượng thù địch nước ngoài, Việt Nam đã tham
gia hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế trên các cấp độ và trong các lĩnh vực kinh tế
lOMoARcPSD| 45734214
then chốt, không ngừng mở rộng các quan hệ kinh tế song phương, tiểu vùng,
vùng, liên vùng và tiến tới tham gia liên kết kinh tế toàn cầu.
2. Một số hạn chế trong quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế.
- Bên cạnh những kết quả đạt được, thực trạng phát triển kinh tế và việc vận dụng tư
tưởng kinh tế của Hồ Chí Minh vẫn còn một số hạn chế, tồn tại, thể hiện như:
+ Chất lượng tăng trưởng kinh tế của nước ta còn thấp; chủ yếu dựa vào các nhân
tố tăng trưởng theo chiều rộng, với những ngành/sản phẩm truyền thống, công
nghệ thấp, tiêu hao vật tư cao, chưa đi mạnh vào chất lượng, còn phụ thuộc quá
nhiều vào đầu tư và bảo hộ, bao cấp dưới nhiều hình thức của Nhà nước. Công
nghiệp phụ trợ và các dịch vụ khác chưa phát triển dẫn đến giá trị quốc gia trong
sản phẩm còn thấp. Hầu hết các ngành công nghiệp đều có hệ suất tiêu hao năng
lượng và nguyên liệu cao hơn so với các nước trong khu vực. Năng lực cạnh tranh
tuy có tiến bộ nhưng còn thấp so với yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Các thành phần kinh tế chưa phát triển đúng tiềm năng: Kinh tế nhà nước chưa làm
thật tốt vai trò chủ đạo; chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp. Kinh tế
tập thể phát triển chậm và còn nhỏ bé. Kinh tế tư nhân chưa đáp ứng vai trò động
lực của nền kinh tế, chưa được quan tâm tạo điều kiện thỏa đáng. Kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài còn khó khăn về môi trường đầu tư và một số vướng mắc về cơ
chế, chính sách...
+ Những tồn tại trên xuất phát từ những nguyên nhân khách quan (như sự chống
phá của lực lượng thù địch, bối cảnh kinh tế thị trường biến động phức tạp) và cả
nguyên nhân chủ quan. Trong đó, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế
chưa thật sự đúng đắn cũng dẫn đến những hạn chế trên. Hạn chế trong quá trình
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh có thể kể đến như sau:
+ Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa ngang tầm với nhu cầu phát
triển. Nhận thức một số vấn đề còn chưa có nghiên cứu sâu sắc dẫn đến sự không
thống nhất trong hoạch định các chủ trương, chính sách.
+ Việc tổ chức tuyên truyền, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh còn hình thức, giáo
điều, hiệu quả chưa cao. Công tác tuyên truyền, biểu dương, nhân rộng các điển
hình tiên tiến, mô hình hay, cách làm hiệu quả trong học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chưa thực sự tạo sức lan tỏa trong xã hội.
lOMoARcPSD| 45734214
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển
kinh tế
Nhằm quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh một cách hiệu quả, tác giả đề
xuất một số giải pháp sau:
- Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt trong
hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở mỗi giai
đoạn xây dựng và phát triển nền kinh tế.
- Thứ hai, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở
nguyên tắc lịch sử cụ thể. Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh có nghĩa
là trên cơ sở nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí
Minh, làm cho tư tưởng đó phù hợp, gắn bó sống động trong bối cảnh lịch sử cụ
thể. Ngoài ra, công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế Việt Nam có diễn biến
phức tạp, xuất hiện các vấn đề, sự kiện mới mà bối cảnh hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh chưa có. Sự trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi trên cơ sở đổi
mới có nguyên tắc, vận dụng sáng tạo, không rập khuôn, để phát triển tư tưởng của
Người cho phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay.
- Thứ ba, tăng cường tuyên truyền, vận động nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh, khắc phục những biểu hiện của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, giáo điều,
nhất là bệnh coi nhẹ lý luận, ngại học lý luận chính trị và các chủ trương, đường
lối của Đảng. Các hoạt động tuyên truyền, nghiên cứu và vận dụng cần được thực
hiện nghiêm túc, định kỳ kiểm tra, giám sát, khen thưởng...
4. Nhiệm vụ: quan điểm, chính kiến để khẳng định sự phát triển trong tương lai của
mình.
Việt Nam là một quốc gia thuộc Đông Nam Á có diện tích 32 vạn km2, tổng số
dân khoảng 80 triệu người từ năm 1986 đến nay nhờ thực hiện đường lối đổi mới,
Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử làm thay đổi bộ
mặt của đất nước, cải thiện đáng kể đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế và khu vực cũng được nâng cao.
Sau 20 năm đổi mới, Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. kinh tế tăng
trưởng khá cao, GDP bình quân hàng năm đều tăng , nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN bước đầu được xây dựng, theo đó nền kinh tế nhà nước đóng vai trò
chủ đạo, nhiều thành phần kinh tế cũng được phát triển. Công cuộc CNH-HĐH đang
được đẩy mạnh cơ cấu ngành. Kinh tế được chuyển dịch đúng hướng: Chỉ số phát
triển còn người của Việt Nam đang tăng mạnh; Đời sống nhân dân được cải thiện đáng
kể; Thu nhập bình quân đầu người tăng.
lOMoARcPSD| 45734214
Nhờ môi trường chính trị - xã hội của Việt Nam ổn định, được quốc tế ghi nhận và
khẳng định.Cùng với tăng cường đổi mới ở bên trong, Việt Nam còn tích cực và
chủđộng hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhờ mô hình kinh tế hướng ngoại, nên ngoại thương và đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại VN(FDI) đã tăng nhanh chóng, trở thành động lực quan trọng cho sự tăng
trưởng kinh tế của VN trong thời gian qua. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc. Đổi mới
toàn diện và đồng bộ hơn, động viên mọi nguồn lực của toàn xã hội, đẩy mạnh CNH-
HĐH đất nước và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển mạnh nhanh và bền
vững nhằm sớm đưa nước ta khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống
nhân dân tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
Hơn nữa hiện nay, sự phát triển của khoa học và công nghệ tạo ra sức sản xuất mới
dẫn đến tất yếu phải có một xã hội mới phát triển cao hơn xã hội phong kiến đó
XHCN.
Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường đi lên CNXH ở những nước chưa phát
triển như Việt Nam, không chỉ là đấu tranh giai cấp là trước hết và trên hết phải tạo
công ăn việc làm cho người lao động làm sao cho dân giàu nước mạnh, nhân dân được
tự do, hạnh phúc - Đó là con đường phấn đấu lâu dài, gian khổ liên tục trên mọi
phương diện từ kinh tế, chính trị đến văn hóa xã hội, y tế giáo dục.
Như vậy, có thể khẳng định con đường mà Việt Nam đang đi là đúng đắn, để đạt
tới thành quả là một nước XHCN còn nhiều khó khăn và gian khổ, nhưng chỉ cần xác
định rõ mục tiêu, đi đúng con đường mà mình đã chọn, trên cơ sở vận dụng triết học
Mac-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất định chúng ta sẽ tiến đến cái đích thành
công, sớm sánh vai với các cường quốc năm châu,có một nền kinh tế phát triển, chính
trị ổn định vững chắc và đời sống nhân dân thực sự no đủ, chúng ta sẽ xây dựng thành
công một đất nước thực sự của dân, do dân và vì dân
Tất cả những thành quả mà Việt Nam đã đạt được trong thời gian qua bản thân
luôn tin tưởng vào sự phát triển trong tương lai của nước mình. Sự cố gắng và nỗ lực
của mỗi con người, mỗi thành viên ngày hôm nay chính là một viên gạch quý xây
dựng nên thành công của cách mạng XHCN sau này. Cho nên chúng ta sẽ cùng nhau
phấn đấu vì đó là sự phấn đấu cho hạnh phúc của bản thân, cho hạnh phúc của cộng
đồng , đó cũng là điều kiện càn thiết để tiến tới thành công của cách mạng XHCN.
PHẦN IV KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH ở Việt Nam ta đã trở thành một tài sản vô cùng
quý giá , là cơ sở lý luận và kim chỉ nam cho việc kiên trì, giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa của Đảng ta đồng thời gợi mở nhiều vấn đề về xác định hình thức, biện
lOMoARcPSD| 45734214
pháp và bước đi lên CNXH phù hợp với những đặc điểm dân tộc và xu thế vận động
của thời đại ngày nay. Và Tư tưởng đó của Người đã bao quát những vấn đề cốt lõi cơ
bản nhất trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác – Lênin về bản
chất, mục tiêu và động lực của CNXH, về tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ,
về đặc điểm, nhiệm vụ lịch sự, nội dung các hình thức, bước đi và biện pháp tiến
thành công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta.
Cùng với việc tổng kết lý luận thực tiễn công cuộc xây dựng đất nước trong mấy
thập kỷ qua, quan niệm về CNXH, về con đường đi lên CNXH ngày càng được cụ thể
hóa. Nhưng trong quá trình xây dựng CNXH, bên cạnh những thời cơ Việt Nam đang
phải đối đầu với nhiều thách thức, khó khăn trên nhiều lĩnh vực. Trong bối cảnh đó,
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con CNXH và con đường quá độ lên CNXH,
chúng ta cần tập trung giải quyết những vấn đề quan trọng nhất. Đó là:
(1) Kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
(2) Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tự tôn dân tộc, khơi dậy mạnh mẽ tất
cả các nguồn lực để đẩy mạnh phát triển kinh tế nhiều thành phần, kinh tế tri thức
(3) Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
(4) Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước, đầu
tư đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chí công vô tư để xây
dựng CNXH
(5) Bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, hòa nhập không hòa tan. Luôn xác định
đúng hướng con đường CNXH.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. https://truongleduan.quangtri.gov.vn/vi/hoat-dong-khoa-hoc/Nghien-cuu-
trao-doi/quan-diem-cua-chu-tich-ho-chi-minh-ve-nhung-thanh-phan-
kinhte-trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-va-su-van-dung-sang-
taocua-dang-ta-350.html
2. https://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-thoi-ky-
qua-do-len-cnxh-o-viet-nam-gia-tri-va-nhung-luan-diem-can-bo-
sung123889
3. https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-kinh-te-tai-chinh-
thanh-pho-ho-chi-minh/quan-tri-hoc/tieu-luan-tu-tuong-ho-chi-minh-
vethoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam/33778274
4. https://vinhloi.baclieu.gov.vn/vi/-/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-phat-trien-
kinh-te-trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-1103
5. https://hochiminh.vn/tu-tuong-dao-duc-ho-chi-minh/nguon-goc-hinh-
thanh/nguon-goc-qua-trinh-hinh-thanh-va-phat-trien-tu-tuong-ho-
chiminh-21
6. http://songda9.com/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-xay-dung-chu-nghia-xa-hoi-
o-viet-nam-15714
7. https://dichvuvietluanvan.com/tieu-luan-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-
hoi-o-viet-nam/
lOMoARcPSD| 45734214
8. https://dichvuvietluanvan.com/tieu-luan-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-
hoi-o-viet-nam/
| 1/20

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45734214
Bộ Giáo dục và Đào tạo Trường Đại học Kinh Tế Quốc dân
Viện Tài chính – Ngân hàng BÀI TẬP LỚN
Môn học: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đề tài: Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu nền
kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH? Đảng Cộng sản Việt Nam đã vẫn dụng quan
điểm nêu trên như thế nào trong xây dựng nền kinh tế nước ta hiện nay?
Hà Nội, ngày 11 tháng 02 năm 2023 lOMoAR cPSD| 45734214 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 3
PHẦN I: NGUỒN GỐC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH .................................................. 3
PHẦN II: PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ CẤU NỀN
KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH .................................................... 6
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế và quá trình hình thành, phát triển tư
tưởngHồ Chí Minh về kinh tế ........................................................................................ 6
1. Khái niệm “Kinh tế” trong tư tưởng Hồ Chí Minh ............................................. 6
2. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế .............. 7
II. Quan niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở ... 8
Việt Nam .......................................................................................................................... 8

1.1 Đặc điểm, nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ...... 8
1.2 Nội dung chủ yếu về phát triển nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam ............................................................................................ 10
2. Bước đi và các phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta ................. 13
PHẦN III: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG XÂY DỰNG NỀN
KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN
NAY
..................................................................................13 ............................................ 14
1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế ........................................ 14
2. Một số hạn chế trong quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế ..... 16
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát
triểnkinh tế .................................................................................................................... 17 4.
Nhiệm vụ: quan điểm, chính kiến để khẳng định sự phát triển trong tương lai
của mình.......................................................................................................................16
PHẦN IV: KẾT LUẬN...................................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................18 lOMoAR cPSD| 45734214 LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam, khai sinh ra
nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Nhắc đến Người, chúng ta nhớ ngay đến một
người anh hùng vĩ đại giải phóng dân tộc, là một người thầy tài giỏi của Cách mạng
Việt Nam, là một vị lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc. Cả
cuộc đời Bác đều dâng hiến cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giành lại độc lập –
hòa bình – tự do cho nhân dân.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập
và rèn luyện, gần 70 năm qua, Cách mạng Việt Nam đã liên tiếp giành được những
thắng lợi vô cùng vẻ vang. Từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, Việt Nam đã trở
thành một quốc gia độc lập, xây dựng nên Nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á,
trở thành ngọn cờ tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc. Và những thắng lợi
to lớn đó đều nhờ Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh
về phát triển kinh tế. Những tư tưởng kinh tế của Người chứa đựng nội dung thiết
thực, có ý nghĩa lý luận và thực tiến gắn với lịch sử đấu tranh vì độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội và vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân ta. Và hệ thống tư
tưởng đó của Hồ Chí Minh không chỉ đóng vai trò quan trọng cho các giai đoạn về
trước khi đã chỉ đạo cho Đảng ta hoạch định đường lối, chính sách kinh tế trong từng
thời kì, từng giai đoạn của cách mạng nhằm đảm bảo kháng chiến thắng lợi mà đó giờ
đây còn là một tài sản tinh thần vô giá cho nhân dân ta đến ngày nay để cùng nhau
chung tay xây dựng nên một nền kinh tế vững mạnh.
Hiện nay, điều kiện trong nước và thế giới đã có nhiều những đổi mới, phát triển
nhưng vẫn còn tồn tại không ít khó khăn và thách thức vẫn còn ở phía trước. Thực tiễn
đòi hỏi chúng ta cần phải đi sâu nghiên cứu thêm trong tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh
nhằm rút ra những bài học quan trọng và vận dụng nó hiệu quả vào trong bối cảnh,
thực tế của Đất nước ta để hướng tới vào việc phát triển nền kinh tế nói chung, thúc
đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói riêng.
Qua đó muốn góp phần làm sáng tỏ thêm những quan điểm của chủ tịch Hồ Chí
Minh về kinh tế trong thời kỳ quá độ và cách Nhà nước ta đã vận dụng được những gì
để giúp kinh tế ngày càng lớn mạnh. Xuất phát từ lí do đó, em chọn đề tài “Tìm hiểu
và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu nền kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên CNXH? Đảng Cộng sản Việt Nam đã vẫn dụng quan điểm nêu trên như thế
nào trong xây dựng nền kinh tế nước ta hiện nay?”
với mục đích hiểu một cách hệ
thống tư tưởng Hồ Chí Minh từ đó đưa ra phương hướng cần thiết trong xây dựng kinh tế nước ta.
PHẦN I: NGUỒN GỐC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hiểu cơ bản là một hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc cụ thể về những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí lOMoAR cPSD| 45734214
Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lenin vào điều
kiện cụ thể nước ta, cũng chính là quá trình kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã soi
đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành được thắng lợi. Ta nhận thấy rằng tư
tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và toàn thể dân tộc ta.
Khái niệm về tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện cụ thể qua bốn nội dung chủ
yếu sau: Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cuộc cách mạng tại Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chính là
kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin của Hồ Chí
Minh vào điều kiện cụ thể của nước ta; Tư tưởng Hồ Chí Minh còn là sự kết hợp tinh
hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm mục đích chính là giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và giải phóng con người; Bên cạnh đó thì tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là ngọn
cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn 70 năm qua và tư tưởng Hồ Chí
Minh cũng vẫn sẽ tiếp tục soi sáng con đường chúng ta tiến lên phía trước để xây
dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và xã hội chủ nghĩa,
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Vậy thì nguồn gốc hình thành lên tư tưởng Hồ Chí Minh đã dựa trên những tiền đề tư tưởng lí luận nào:
Những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trước hết là chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam là nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh ra đời và nó được bắt nguồn từ truyền thống cần cù lao
động, anh dũng chiến đấu trong quá trình xây dựng đất nước và giữ nước, trong truyền
thống đoàn kết, sống có tình, có nghĩa, nhân ái của toàn bộ người dân Việt Nam. Khi
tìm hiểu về lịch sử dân tộc ta, trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
thì chủ nghĩa yêu nước vẫn luôn là dòng chảy xuyên suốt có ý nghĩa quan trọng.
Chủ nghĩa yêu nước của nhân dân cũng đã trở thành động lực, sức mạnh truyền
thống, đạo lý làm người, niềm tự hào và là nhân tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh
thần của con người Việt Nam. Cũng bởi truyền thống yêu nước của dân tộc đã trở
thành sức mạnh động lực mạnh mẽ thúc giục Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) đi tìm
đường cứu nước cho dân tộc ta.
Tinh hoa văn hóa nhân loại
Tinh hoa văn hoá nhân loại sự kết hợp của văn hóa phương Tây và văn hóa
Phương Đông đã góp phần hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của văn hoá phương Đông. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng sau khi tìm hiểu đã tiếp thu và kế thừa có phê phán tư tưởng dân chủ, nhân văn
của văn hoá Phục hưng, thế kỷ Ánh sáng, của cách mạng tư sản phương Tây và cách mạng Trung Quốc.
Hồ Chí Minh được theo học chữ Nho với các thầy vốn là những nhà Nho yêu
nước. Đạo đức Nho giáo thấm vào tư tưởng tình cảm của Người và nhiều tư tưởng của
các nhà hiền triết phương Đông được Hồ Chí Minh hết sức trân trọng. Trong quá trình lOMoAR cPSD| 45734214
tiếp thu, vận dụng những yếu tố tích cực của Nho giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
đồng thời phê phán loại bỏ những yếu tố thủ cựu, tiêu cực của những quan điểm Nho giáo này.
Trước khi Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã quan tâm
nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng dân chủ tư sản Pháp, Mỹ, đặc biệt là tư tưởng Tự do,
Bình đẳng, Bác ái, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và nhiều tư tưởng khác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã vận dụng và phát triển các trào lưu tư tưởng học thuyết
ấy lên một trình độ mới để các tư tưởng đó phù hợp với dân tộc và thời đại mới.
Như vậy, ta nhận thấy rằng, trong quá trình hình thành phát triển tư tưởng của
mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã kế thừa có chọn lọc tinh hoa văn hoá phương Đông và phương Tây.
Chủ nghĩa Mác-Lênin:
Từ khi rời Tổ quốc (1911) cho đến năm 1917, Hồ Chí Minh đã đến nhiều nước
thuộc địa và nhiều nước tư bản đế quốc. Trong khoảng thời gian đó, Hồ Chí Minh
được bổ sung thêm những nhận thức mới về những gì ẩn dấu đằng sau các từ Tự do,
Bình đẳng, Bác ái mà vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên Người đã nghe. Khoảng cuối năm
1917, khi trở lại Pari, Hồ Chí Minh đã làm quen với nhiều nhà hoạt động chính trị, xã
hội của nước Pháp và nhiều nước trên thế giới. Năm 1919, Hồ Chí Minh tham gia
Đảng Xã hội Pháp (SFIO), một đảng tiến bộ lúc bấy giờ thuộc Quốc tế II.
Việc Hồ Chí Minh tiếp thu bản Luận cương của Lênin tháng 7-1920 và trở thành
người cộng sản vào cuối năm đó đã tạo nên bước ngoặt căn bản trong tư tưởng của
Người. Thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí Minh nhìn
nhận, đánh giá phân tích tổng kết các học thuyết, tư tưởng, đường lối các cuộc cách
mạng một cách khoa học; cùng với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của mình để đề ra
con dường cách mạng giải phóng dân tộc đứng đắn.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận cơ sở chủ yếu nhất của sự hình thành
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
Tài năng và hoạt động thực tiễn sáng tạo của Hồ Chí Minh
Lý luận tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của Hồ Chí Minh và do Người sáng
tạo ra dựa trên cơ sở nhận thức các nhân tố khách quan. Từ những trải nghiệm thực tế
và việc được tiếp xúc với các nguồn tư tưởng mới đã hình thành tư tưởng của Người.
Ngay từ khi còn trẻ, Hồ Chí Minh đã có hoài bão lớn, có bản lĩnh kiên định, giàu
lòng nhân ái và sớm có chí cứu nước, giúp nhân dân được độc lập, tự do.
Với tư chất thông minh, tư duy độc lập, sáng tạo cùng với tính ham hiểu biết và
nhạy bén với cái mới cũng chính là những đức tính rất dễ thấy ở người thanh niên
Nguyễn Tất Thành. Các phẩm chất đó cũng dần được rèn luyện, phát huy trong suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của Người và từ đó đã tạo ra tư tưởng Hồ Chí Minh. lOMoAR cPSD| 45734214
PHẦN II: PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ CẤU NỀN
KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH I.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế và quá trình hình thành, phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế.

1. Khái niệm “Kinh tế” trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Khái niệm kinh tế thường được hiểu theo các nghĩa cơ bản:
Chỉ các hoạt động kinh tế bao gồm những hoạt động về sản xuất, phân phối, trao đổi hoặc tiêu dùng.
Chỉ chung nền kinh tế quốc dân của một nước, hoặc các ngành kinh tế như nông
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, sản xuất công nghệ (từ ý tưởng -> nghiên cứu -> chế tạo
thử -> sản xuất hàng loạt sản phẩm công nghệ diễn ra rất ngắn và liên tục)
Chỉ tổng thể các quan hệ sản xuất - xã hội nhất định hoặc chế độ kinh tế của xã
hội, phù hợp với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất (nhân tố quyết
định của chế độ kinh tế là sở hữu đối với tư liệu sản xuất)
Kinh tế học (Ê-cô-nô-mic) là ngành học nghiên cứu cách thức lựa
chọn của Xã hội trong việc sử dụng các nguồn lực có giới hạn để sản
xuất sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người.

Trong thực tế, nguồn lực của sản xuất nhìn chung ở thời điểm nhất định thường
khan hiếm do đó việc lựa chọn cách thức sản xuất các loại sản phẩm để sản xuát có
hiệu quả là vấn đề đặt ra thường xuyên cho mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp, đặc biệt
trong thời đại hiện nay. Lịch sử nhân loại đã trải qua các loại hình kinh tế chủ yếu:
+ Kinh tế lao động (sử dụng sức cơ bắp con người là chủ yếu có từ thời kỳ phong
kiến trở về trước (A-si-xtốt đã nêu tiêu chuẩn để phân biệt chiến tranh chính nghĩa là:
chiến tranh cướp đoạt được nhiều nô lệ hay không )
+ Kinh tế tài nguyên (dựa vào khai thác tài nguyên là chủ yếu) có từ thời kỳ TBCN
đến nay, nó tàn phá môi trường lớn.
+ Kinh tế tri thức (KT hậu công nghiệp) sử dụng tri thức là yếu tố chủ lực cho sự
tăng trưởng kinh tế, tạo ra sự phát triển mang tính chất bền vững.
Có thể nói kinh tế học là môn học bắt nguồn từ sự khan hiếm tài nguyên, khan hiếm các nguồn lực.
Thuật ngữ "Kinh tế" trong tư tưởng Hổ Chí Minh được Người chỉ ra với hai nghĩa cơ bản: - Nghĩa rộng:
Là hệ thống các quan hệ sán xuất xã hội, hệ thống này gắn với trình độ phát triển
của sức sản xuất xã hội (quan điểm sức sản xuất xã hội được Hổ Chí Minh nêu lên
trong tác phẩm "Thường thức chính trị”- 1953) - Nghĩa hẹp:
Nền kinh tế Việt nam vừa mới thoát ra khỏi chế độ thuộc địa nửa phong kiến với
đặc điểm, cơ cấu, cách thức quản lý và nội dung, biện pháp cần phải thực hiện để xây lOMoAR cPSD| 45734214
dựng nền kinh tế trong giai đoạn quá độ lên CNXH nhằm chiến thắng nghèo nàn và
lạc hậu, đem lại cho nhân dân cuộc sống ngày càng no đủ hơn.
Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế là một hệ thống các quan điểm, lý
luận được rút ra từ thực tiễn xây dựng và phát triển nền kinh tế cho chế độ mới ở Việt
Nam, kế thừa và nâng cao những giá trị trong tư tưởng xây dựng kinh tế, phát triển
sản xuất của dân tộc Việt Nam cùng những tinh hoa của tư tưởng kinh tế nhân loại mà
cốt lõi là chủ nghĩa Mác-Lênin nhằm giải quyết những vấn đề cơ bản về kinh tế và
quản lý kinh tế của qua trình phái triển đất nước từ sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu
tiến lên xây dựng CNXH với cơ cấu kinh tế hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến, đủ
khả năng để không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống mọi mặt cho nhân dân.
2. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế.
Căn cứ vào nhiệm vụ của cách mạng và những hoạt động lý luận, thực tiễn của Hồ
Chí Minh, có thể chia quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về
kinh tế thành 3 giai đoạn với các đặc trưng chủ yếu sau:
- Giai đoạn 1890 - 1945: Đây là giai đoạn tiếp thu, nghiên cứu, sàng lọc tri thức,
kinh nghiệm hoạt động kinh tế chủ yếu là kinh tế nông nghiệp của dân tộc Việt
Nam cũng như quan điểm cần kiệm trong sản xuất và tiêu dùng, quan điểm về
phân phối nhằm tạo ra sự công bằng trong xã hội, về kế hoạch phát triển sản xuất
với chăm lo đời sống của nhân dân của Khổng Tử, Mạnh Tử... Giai đoạn này Hồ
Chí Minh cũng nghiên cứu, tiếp thu các quan điểm của Mác, Ănggen về vai trò của
kinh tế đối với sự phát triển của xã hội và con người, tư tưởng của Lênin về chính
sách kinh tế mới, về quan hệ giữa kinh tế với chính trị cũng như văn hóa, xã hội trong thời kỳ quá độ.
- Giai đoạn 1945 - 1954: Đây là giai đoạn chúng ta vừa "kháng chiến" vừa "kiến
quốc" đầy khó khăn, gian khổ. Trong giai đoạn này mặc dù phải giải quyết nhiều
vấn đề phức tạp về chính trị, quân sự, văn hóa nhưng các vấn đề của kinh tế vẫn
được Hồ Chí Minh hết sức quan tâm và Người đã đề xuất nhiều tư tưởng 12 quan
trọng cũng như đưa ra những biện pháp thiết thực nhằm giải quyết có kết quả
những vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp thiết của việc phục hồi, xây dựng và phát triển
nền kinh tế của chế độ mới và hội nhập thế giới.
- Giai đoạn 1954 - 1969: Giai đoạn này chúng ta tiến hành đồng thời hai chiến lược
cách mạng đó là: Cách mạng xã hội chủ nghĩa miền Bắc và cách mạng dân tộc,
dân chủ nhân dân ở miền Nam để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải
quyết một cách khoa học, sáng tạo trong đó có vấn đề kinh tế.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế đã tập trung giải quyết hàng loạt những vấn đề
mới mẻ, phức tạp khó khăn trong quá trình xây dựng nền kinh tế của xã hội mới.
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu, góp
phần to lớn vào giải quyết thành công nhiều vấn đề khó khăn về xây dựng và phát
triển kinh tế, cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân trong điều kiện đất nước có chiến tranh lOMoAR cPSD| 45734214 II.
Quan niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1.1 Đặc điểm, nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

a) Quan niệm của Hồ Chí Minh
Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin, có hai con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Con đường thứ nhất là quá độ trực tiếp lên chủ
nghĩa xã hội từ những nước tư bản chủ nghĩa phát triển ở trình độ cao. Con đường thứ
hai là quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội ở những nước chủ nghĩa tư bản phát triển
còn thấp, hoặc như V.I. Lenin cho rằng, những nước có nền kinh tế lạc hậu, chưa trải
qua thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản cũng có thể đi lên chủ nghĩa xã hội được
trong điều kiện cụ thể nào đó, nhất là trong điều kiện đảng kiểu mới của giai cấp vô
sản nắm quyền lãnh đạo (trở thành đảng cầm quyền) và được một hay nhiều nước tiên tiến giúp đỡ.
Quan niệm của chủ tịch Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự
tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mac-Lenin vào Việt Nam.Trên cơ sở vận
dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của
chủ nghĩa Mác- Lênin và xuất phát từ đặc điểm tình hình thực tế Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã khẳng định:” Con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành giải phóng dân
tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội.”
Như vậy, quan niệm Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
là quan niệm về một hình thái quá độ gián tiếp cụ thể -quá độ từ một xã hội thuộc địa
nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu sau khi giành được độc lập dân tộc đi lên chủ
nghĩa xã hội. Chính ở nội dung cụ thể này, Hồ Chí Minh đã cụ thể và làm phong phú
thêm lý luận Mác-Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đi vào thời kỳ quá độ ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã chỉ ra đặc điểm và mâu thuẫn
của xã hội Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, nước ta có đặc điểm lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ
nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này
sẽ chi phối, quy định nội dung con đường, những hình thức và bước đi, cách làm chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước phong
kiến, một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, trong điều kiện đất nước vừa có chiến
tranh vừa có hòa bình, miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội khi miền Nam tiếp tục
hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân. Chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã
hội khi các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới đang phát triển ở thời kỳ cao trào. Đặc
điểm này chi phối đặc điểm khác, thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội và làm cơ sở nảy sinh nhiều mâu thuẫn.
Trong đó Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý đến mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ, đó
là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực
trạng kinh tế- xã hội quá thấp kém của nước ta. Do đó, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài chứ không thể một sớm
một chiều. Bởi vì “Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa
từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói
quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ hàng ngàn năm…biến nước ta từ một nước nông lOMoAR cPSD| 45734214
nghiệp thành một nước công nghiệp’’. Tuy nhiên muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì
không phải cứ ngồi mà chờ là sẽ có được chủ nghĩa xã hội. Nếu nhân dân ta mọi
người cố gắng, phấn khởi thi đua xây dựng thì thời kỳ quá độ có thể rút ngắn hơn.
b) Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Theo Hồ Chí Minh, thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là
quá trình cải biến nền sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất tiên tiến, hiện đại. Thực
chất của quá trình cải tạo và phát triển nền kinh tế quốc dân cũng là cuộc đấu tranh
giai cấp gay go, phức tạp trong điều kiện mới, khi mà nhân dân ta hoàn thành cơ bản
cách mạng dân tộc dân chủ, so sánh lực lượng trong nước và quốc tế đã có những biến
đổi. Điều này đòi hỏi phải áp dụng toàn diện các hình thức đấu tranh cả về chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm chống lại các thế lực đi ngược lại con đường xã hội chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh, do những đặc điểm và tính chất quy định, con đường quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một quá trình dần dần, phức tạp, khó khăn và lâu
dài. Nhiệm vụ của thời kỳ quá độ là đấu tranh cải tạo, xóa bỏ tàn tích của chế độ xã
hội cũ, xây dựng các yếu tố mới phù hợp với quy luật tiến lên chủ nghĩa xã hội trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống. Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam bao gồm hai nội dung lớn:Một là, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ
thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng các tiền đề về kinh tế, chính trị, văn hóa, tư
tưởng cho chủ nghĩa xã hội.
Hai là, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng, trong
đó lấy xây dựng làm trọng tâm, làm nội dung cốt yếu nhất, chủ chốt, lâu dài. Hồ Chí
Minh nhấn mạnh đến tính chất tuần tự, dần dần của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Tính chất phức tạp và khó khăn của nó được Người lý giải trên các đặc điểm sau:
+ Thứ nhất, đây thực sự là một cuộc cách mạng. Nó làm đảo lộn mọi mặt của đời
sống xã hội, cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng. Nó đặt ra và đòi hỏi đồng thời giải quyết hàng loạt mâu thuẫn khác nhau.
Trong Di chúc, Bác đã coi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc chiến đấu
khổng lồ của toàn Đảng, toàn dân Việt Nam.
+ Thứ hai, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta chưa có kinh nghiệm, nhất là trên lĩnh vực về kinh tế. Chính vì vậy, đây là một
công việc vô cùng mới mẻ đối với Đảng ta nên phải vừa làm, vừa học và có thể có
những vấp váp, thiếu sót. Việc xây dựng xã hội mới bao giờ cũng khó khăn, phức tạp
hơn đánh đổ xã hội cũ đã lỗi thời.
+ Thứ ba, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta luôn luôn bị các thế lực
phản động trong và ngoài nước tìm cách chống phá.
Từ việc chỉ rõ tính chất của thời kỳ quá độ, Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở cán
bộ, đảng viên trong xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thận trọng, tránh nôn nóng đặc
biệt là tránh chủ quan, đốt cháy giai đoạn. Vấn đề cơ bản là phải xác định đúng bước
đi và hình thức phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, biết kết hợp các khâu
trung gian, quá độ, tuần tự từng bước từ thấp đến cao. Vì vậy, xây dựng chủ nghĩa xã
hội đòi hỏi một năng lực lãnh đạo mang tính khoa học, vừa hiểu biết các quy luật vận
động xã hội, lại phải có nghệ thuật khôn khéo cho thật sát với tình hình thực tế. Ta xây lOMoAR cPSD| 45734214
dựng chủ nghĩa xã hội từ hai bàn tay trắng đi lên thì khó khăn còn nhiều và lâu dài.
Phải làm dần dần, không thể một sớm một chiều, ai nói dễ là chủ quan và sẽ thất bại.
1.2 Nội dung chủ yếu về phát triển nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của
nước ta, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều luận điểm, tư tưởng chỉ đạo sáng suốt, có tính
nguyên tắc về phát triển kinh tế ở Việt Nam.
Phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Xuất phát từ đặc điểm nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa
phong kiến, sức sản xuất chưa phát triển, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân
thấp kém, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “…nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải
xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,… có công nghiệp và nông
nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng
là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”.
Phải xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp và nông nghiệp hợp lý:
Người khẳng định: “Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công nghiệp và nông
nghiệp… hai chân không đều nhau, không thể bước mạnh được”. Nông nghiệp phải phát
triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân dân; cung cấp đủ nguyên liệu … Công
nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước
hết là cho nông dân; cung cấp máy bơm nước, phân hóa học, thuốc trừ sâu… để đẩy
mạnh nông nghiệp và cung cấp dần máy cày, máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp.
Cho nên công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển,
như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích.
Thế là thực hiện liên minh công nông để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống
ấm no, sung sướng cho nhân dân.
Tất yếu khách quan phải tiến hành công nghiệp hóa:
Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm
thực sự của nhân dân ta. Trong bài Con đường phía trước (ngày 20-1-1960), Người viết:
“Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất một
cách thật rộng rãi: dùng máy móc cả trong công nghiệp và trong nông nghiệp. Máy sẽ
chắp thêm tay cho người, làm cho sức người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người
làm những việc phi thường. Muốn có nhiều máy, thì phải mở mang các ngành công
nghiệp làm ra máy, ra gang, thép, than, dầu … Đó là con đường phải đi của chúng ta:
Con đường công nghiệp hóa nước nhà”. lOMoAR cPSD| 45734214
Các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và định hướng lên chủ nghĩa xã hội
trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam còn nhiều hình thức sở hữu
và nhiều thành phần kinh tế.
Người chỉ ra rằng, ở thời kỳ quá độ, nền kinh tế đó còn các hình thức sở hữu chính:
“Sở hữu của nhà nước tức là của toàn dân. Sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể
của nhân dân lao động. Sở hữu của người lao động riêng lẻ. Tư liệu sản xuất thuộc sở
hữu của nhà tư bản”. Tương ứng với chế độ sở hữu là thành phần kinh tế. Hồ Chí Minh
xác định: “Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tế khác nhau … Trong năm loại
ấy, loại A [kinh tế quốc doanh] là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên
kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản”.
Để xây dựng và phát triển nền kinh tế có nhiều thành phần như trên, Hồ Chí Minh
đưa ra chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ gồm bốn điểm mấu chốt:
+ Một là, công tư đều lợi. Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và sức lãnh
đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta
phải ủng hộ nó. Đối với những người phá hoại nó, trộm cắp của công, khai gian lậu thuế
thì phải trừng trị. Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và
thủ công nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà. Cho
nên Chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế
quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân.
+ Hai là, chủ thợ đều lợi. Nhà tư bản thì không khỏi bóc lột. Nhưng Chính phủ ngăn
cấm họ bóc lột nhân dân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi của công nhân. Đồng
thời, vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ được số lợi hợp lý, không yêu
cầu quá mức. Chủ và thợ đều tự giác tự động, tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên.
+ Ba là, công nông giúp nhau. Công nhân ra sức sản xuất nông cụ và các thứ cần
dùng khác, để cung cấp cho nông dân. Nông dân thì ra sức tăng gia sản xuất, để cung
cấp lương thực và các thứ nguyên liệu cho công nhân. Do đó mà càng thắt chặt liên minh giữa công nông.
+ Bốn là, lưu thông trong ngoài. Ta ra sức khai thác lâm thổ sản để bán cho các nước
bạn và dể mua những thứ ta cần dùng. Các nước bạn mua những thứ ta đưa ra và bán
cho ta những hàng hóa ta chưa chế tạo được. Đó là chính sách mậu dịch, giúp đỡ lẫn
nhau rất có lợi cho kinh tế ta.
=> Có thể khái quát chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ theo tư tưởng Hồ Chí
Minh là: “Công tư đều lợi - Chủ thợ đều lợi - Công nông giúp nhau - Lưu thông trong
ngoài” và "Bốn chính sách ấy là mấu chốt để phát triển kinh tế của nước ta". Ở đây, Hồ
Chí Minh nêu quan điểm "công tư đều lợi", "chủ thợ đều lợi" trong thời kỳ quá độ và
khi nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, Người vẫn đồng thời khẳng định, lOMoAR cPSD| 45734214
thành phần kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể "là lực lượng cần thiết cho xây dựng kinh tế nước nhà".
Chỉ bằng những câu ngắn gọn, Hồ Chí Minh đã cho chúng ta thấy những nguyên tắc,
mục tiêu cần hướng tới của nền kinh tế nhiều thành phần. Đó là các thành phần kinh tế
phải tồn tại trong mối quan hệ bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi, tạo nên sự phát triển cân
đối của nền kinh tế quốc dân. Những quan điểm trên thể hiện rất rõ tư tưởng Hồ Chí
Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong
thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam sẽ góp phần giải phóng mọi năng lực sản xuất, là
vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH. Phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta, một mặt chính là
sự tiếp tục logic khách quan của nền kinh tế, mặt khác còn là sự tiếp tục tư tưởng của
Lê-nin và Hồ Chí Minh về nền kinh tế nhiều thành phần trên một nền tảng và trong một
hoàn cảnh khác, được phát triển lên một trình độ mới và hình thức mới.
Phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu:
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến
xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Tăng gia là tay
phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”, “Sản xuất mà không tiết kiệm
thì khác nào gió vào nhà trống”. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sản xuất
và tiết kiệm gắn với nhau như một phương châm. Phải luôn thực hành trong một nền
kinh tế nghèo nàn lạc hậu lại phải chịu nhiều bom đạn chiến tranh, chịu nhiều thiên tai
bất thường. Phát triển sản xuất để tăng sản phẩm xã hội và thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí là hai mặt biện chứng trong các chặng đường phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân.
Đồng thời, Người căn dặn trong phát triển kinh tế phải chống tham ô, lãng phí, quan
liêu là những “giặc nội xâm”, đồng minh với giặc ngoại xâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho rằng, ba căn bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu “là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và
của Chính phủ”. Loại kẻ thù này “khá nguy hiểm, vì nó không mang gươm mang súng,
mà nó nằm trong các tổ chức của ta, đề làm hỏng công việc của ta”. Dù có cố ý hay
không, tham ô, lãng phí, quan liêu “cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến”.
“Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo
đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính. Nó “phá hoại tinh thần, phí phạm sức
lực, tiêu hao của cải của Chính phủ và của nhân dân. Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám”. lOMoAR cPSD| 45734214
2. Bước đi và các phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nêu cao mục tiêu của phát triển kinh tế mà còn
chỉ ra biện pháp để đạt được mục tiêu đó. Nhiều biện pháp cụ thể đã được Chủ tịch Hồ
Chí Minh chỉ ra có thể trực tiếp, có thể gián tiếp, có thể cụ thể, có biện pháp chung…
lợi dụng mọi cơ hội để hướng mọi người vào việc thực hiện mục tiêu không cao xa mà
gần gũi với đời sống hiện thực của mỗi người. Đó là:
- Xây dựng dần, từng bước nền móng kinh tế của chủ nghĩa xã hội để từng bước nâng
cao đời sống nhân dân. Với quan điểm đó, ngay sau khi miền Bắc hoàn toàn giải
phóng, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: Ở nước ta công nghiệp chưa phát triển, tỷ
trọng GDP của công nghiệp thấp, do đó phải từ nông nghiệp để giải quyết vấn đề đời
sống trước mắt. Hơn nữa sau chiến tranh, nhiều làng mạc bị tàn phá, các công trình
thủy lợi lớn và vừa đều bị phá hỏng. Vì vậy muốn phát triển kinh tế để nâng cao đời
sống cho nhân dân thì phải bắt đầu từ khôi phục nông nghiệp.
- Lựa chọn cơ cấu kinh tế hợp lý trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Bác đã
căn cứ vào tình hình kinh tế của các nước phát triển, mô hình kinh tế của các nước
xã hội chủ nghĩa và hoàn cảnh thực tế của nước ta để lựa chọn một cơ cấu kinh tế để
đảm bảo được sự kết hợp chặt chẽ, tác động biện chứng thúc đẩy lẫn nhau giữa hai
ngành công nghiệp và nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Người xác định “
Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy việc phát triển
nông nghiệp làm gốc. Nếu không phát triển nông nghiệp thì không có cơ sở để phát
triển công nghiệp vì nông nghiệp cung cấp nguyên liệu, lương thực cho công nghiệp
và tiêu thụ hàng hóa của công nghiệp làm ra”. Nông thôn giàu có sẽ mua nhiều hàng
hóa của công nghiệp. Như thế là nông thôn giàu có sẽ giúp cho công nghiệp phát
triển. Công nghiệp phát triển thì dân giàu nước mạnh.
- Nhưng bên cạnh việc chú trọng phát triển nông nghiệp để giải quyết vấn đề lương
thực thì cũng phải coi trọng phát triển công nghiệp. Người cho rằng: “Công nghiệp
phát triển thì nông nghiệp mới phát triển. Cho nên công nghiệp và nông nghiệp phải
giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến
bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích.”
- Công nghiệp và nông nghiệp như hai chân của nền kinh tế, nghĩa là nông nghiệp
phải phát triển mạnh để cung cấp lương thực cho nhân dân, cung cấp đủ nguyên liệu
nhà máy, cung cấp đủ nông sản để xuất khẩu, đổi lấy máy móc. Công nghiệp phải
phát triển mạnh để cung cấp hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là cho
nông dân, cung cấp máy bơm nước, phân hóa học, … để đẩy mạnh nông nghiệp.
Công nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát triển, cho nền công nghiệp và nông
nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau phát triển.
- Mặt khác, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho rằng công nghiệp và nông nghiệp liên hệ
với nhau thông qua thương nghiệp, thương nghiệp là khâu giữa công nghiệp và nông
nghiệp, thể hiện liên minh công nông. Bởi vì “ trong nền kinh tế quốc dân có ba mặt
quan trọng: nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp. Ba mặt công tác quan hệ mật lOMoAR cPSD| 45734214
thiết với nhau. Thương nghiệp là cái khâu giữa nông nghiệp và công nghiệp. Thương
nghiệp đưa hàng đến nông thôn phục vụ nông dân, thương nghiệp lại đưa nông sản,
nguyên liệu cho thành thị tiêu dùng. Nếu khâu thương nghiệp bị đứt thì không liên
kết được nông nghiệp với công nghiệp, không củng cố được công nông liên minh.
Công tác thương nghiệp không chạy thì hoạt động nông nghiệp, công nghiệp sẽ bị rời rạc.” PHẦN III
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam bao quát tất cả những vấn đề cốt lõi, cơ bản, dựa trên cơ sở vận dụng
và phát triển sáng tạo học thuyết Mác-Lênin. Đó là những luận điểm về bản chất, mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội; nhiệm vụ lịch sử, nội dung, các hình thức và bước đi tiến
hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.Tư tưởng ấy trở thành tài sản vô
giá của dân tộc, là cơ sở lý luận và kim chỉ nam cho việc kiên trì giữ vững chủ nghĩa
xã hội của Đảng và đưa ra nhiều biện pháp và bước đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp
với những đặc điểm dân tộc và xu thế vận động của thời đại ngày nay.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được rất nhiều thành
tựu, đó là tiền đề làm đòn bẩy cho con đường phát triển xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Quan điểm của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày
càng sát thực tiễn, cụ thể hơn. Tuy nhiên, trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội,
bên cạnh những cơ hội thì nước ta vẫn đang phải đương đầu với hàng loạt khó khăn,
thách thức cả trên diện quốc tế, cũng như các vấn đề từ điều kiện thực tế trong nước
tạo nên. Trong bối cảnh đó, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và
con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần tập trung giải quyết những vấn đề quan trọng nhất.
1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
CNXH được trình bày một cách giản dị, dễ hiểu nhưng mang giá trị to lớn trong công
cuộc xây dựng và kiến thiết nước nhà. Nhìn lại chặng đường vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, có thể thấy như sau:
- Thứ nhất, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế.
Giai đoạn đầu sau cuộc kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam tiến hành quản lý kinh tế
theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung dẫn đến khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Đến
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (Tháng 6/1991), vận dụng tư lOMoAR cPSD| 45734214
tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã xác định “bước đầu hình thành nền kinh tế nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Việt
Nam đã từng bước xóa bỏ cơ chế quản lý kế hoạch hóa, chuyển sang cơ chế thị
trường thông qua: xác định các hình thức sở hữu chủ yếu (toàn dân, tập thể, tư
nhân), thừa nhận sự tồn tại tất yếu của nhiều thành phần kinh tế; xóa bỏ mọi hình
thức phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế kinh
doanh theo pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
- Thứ hai, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế.
+ Từ công nghiệp hóa theo kiểu cũ, khép kín, hướng nội, thiên về phát triển công
nghiệp nặng, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên, đất đai và nguồn
viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa đi trước đã chuyển dần sang công nghiệp
hóa gắn liền với hiện đại hóa trong nền kinh tế mở; chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ, gắn công nghiệp hóa, hiện đại
hóa với từng bước phát triển nền kinh tế tri thức, các ngành, lĩnh vực kinh tế đòi
hỏi hàm lượng trí tuệ, chất xám cao. Theo Tổng cục Thống kê, năm 1986, nông
nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất với 38,1%. Tỷ trọng ngành dịch vụ là 33%, còn
công nghiệp chiếm tỷ trọng thấp nhất với 28,9%. Đến năm 2019, khu vực nông,
lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 13,96% GDP; khu vực công nghiệp và xây
dựng chiếm 34,49%; khu vực dịch vụ chiếm 41,64%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,91%
+ Từ chỗ xác định lực lượng chủ yếu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước, Đảng và Nhà nước ta đã xác định, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của toàn xã hội. Nhà nước phải
có chính sách để khơi dậy, phát huy các nguồn lực của nhân dân, của mọi thành
phần kinh tế, đồng thời huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ bên
ngoài để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
+ Về cơ chế phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa, từ chỗ chủ yếu bằng cơ chế kế
hoạch hóa tập trung của Nhà nước và giao cho doanh nghiệp nhà nước làm, đã dần
dần chuyển sang phân bổ nguồn lực theo cơ chế thị trường, lấy tiêu chuẩn trước
hết là hiệu quả kinh tế để đầu tư; Nhà nước có chính sách khuyến khích và ưu đãi
cho một số ngành, lĩnh vực, địa bàn, doanh nghiệp vừa và nhỏ và một số mục tiêu
như xuất khẩu, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo.
- Thứ ba, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức
mạnh thời đại. Với phương châm “Nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng”,
Việt Nam đã thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại; gắn
kết kinh tế nước ta với khu vực và thế giới thông qua các hoạt động thương mại,
đầu tư và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Sau khi xóa bỏ thành công chính sách
bao vây cấm vận của Mỹ và các lực lượng thù địch nước ngoài, Việt Nam đã tham
gia hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế trên các cấp độ và trong các lĩnh vực kinh tế lOMoAR cPSD| 45734214
then chốt, không ngừng mở rộng các quan hệ kinh tế song phương, tiểu vùng,
vùng, liên vùng và tiến tới tham gia liên kết kinh tế toàn cầu.
2. Một số hạn chế trong quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế.
- Bên cạnh những kết quả đạt được, thực trạng phát triển kinh tế và việc vận dụng tư
tưởng kinh tế của Hồ Chí Minh vẫn còn một số hạn chế, tồn tại, thể hiện như:
+ Chất lượng tăng trưởng kinh tế của nước ta còn thấp; chủ yếu dựa vào các nhân
tố tăng trưởng theo chiều rộng, với những ngành/sản phẩm truyền thống, công
nghệ thấp, tiêu hao vật tư cao, chưa đi mạnh vào chất lượng, còn phụ thuộc quá
nhiều vào đầu tư và bảo hộ, bao cấp dưới nhiều hình thức của Nhà nước. Công
nghiệp phụ trợ và các dịch vụ khác chưa phát triển dẫn đến giá trị quốc gia trong
sản phẩm còn thấp. Hầu hết các ngành công nghiệp đều có hệ suất tiêu hao năng
lượng và nguyên liệu cao hơn so với các nước trong khu vực. Năng lực cạnh tranh
tuy có tiến bộ nhưng còn thấp so với yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Các thành phần kinh tế chưa phát triển đúng tiềm năng: Kinh tế nhà nước chưa làm
thật tốt vai trò chủ đạo; chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp. Kinh tế
tập thể phát triển chậm và còn nhỏ bé. Kinh tế tư nhân chưa đáp ứng vai trò động
lực của nền kinh tế, chưa được quan tâm tạo điều kiện thỏa đáng. Kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài còn khó khăn về môi trường đầu tư và một số vướng mắc về cơ chế, chính sách...
+ Những tồn tại trên xuất phát từ những nguyên nhân khách quan (như sự chống
phá của lực lượng thù địch, bối cảnh kinh tế thị trường biến động phức tạp) và cả
nguyên nhân chủ quan. Trong đó, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế
chưa thật sự đúng đắn cũng dẫn đến những hạn chế trên. Hạn chế trong quá trình
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh có thể kể đến như sau:
+ Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa ngang tầm với nhu cầu phát
triển. Nhận thức một số vấn đề còn chưa có nghiên cứu sâu sắc dẫn đến sự không
thống nhất trong hoạch định các chủ trương, chính sách.
+ Việc tổ chức tuyên truyền, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh còn hình thức, giáo
điều, hiệu quả chưa cao. Công tác tuyên truyền, biểu dương, nhân rộng các điển
hình tiên tiến, mô hình hay, cách làm hiệu quả trong học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chưa thực sự tạo sức lan tỏa trong xã hội. lOMoAR cPSD| 45734214
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển kinh tế
Nhằm quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh một cách hiệu quả, tác giả đề
xuất một số giải pháp sau:
- Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt trong
hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở mỗi giai
đoạn xây dựng và phát triển nền kinh tế.
- Thứ hai, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở
nguyên tắc lịch sử cụ thể. Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh có nghĩa
là trên cơ sở nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí
Minh, làm cho tư tưởng đó phù hợp, gắn bó sống động trong bối cảnh lịch sử cụ
thể. Ngoài ra, công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế Việt Nam có diễn biến
phức tạp, xuất hiện các vấn đề, sự kiện mới mà bối cảnh hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh chưa có. Sự trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi trên cơ sở đổi
mới có nguyên tắc, vận dụng sáng tạo, không rập khuôn, để phát triển tư tưởng của
Người cho phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay.
- Thứ ba, tăng cường tuyên truyền, vận động nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh, khắc phục những biểu hiện của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, giáo điều,
nhất là bệnh coi nhẹ lý luận, ngại học lý luận chính trị và các chủ trương, đường
lối của Đảng. Các hoạt động tuyên truyền, nghiên cứu và vận dụng cần được thực
hiện nghiêm túc, định kỳ kiểm tra, giám sát, khen thưởng...
4. Nhiệm vụ: quan điểm, chính kiến để khẳng định sự phát triển trong tương lai của mình.
Việt Nam là một quốc gia thuộc Đông Nam Á có diện tích 32 vạn km2, tổng số
dân khoảng 80 triệu người từ năm 1986 đến nay nhờ thực hiện đường lối đổi mới,
Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử làm thay đổi bộ
mặt của đất nước, cải thiện đáng kể đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế và khu vực cũng được nâng cao.
Sau 20 năm đổi mới, Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. kinh tế tăng
trưởng khá cao, GDP bình quân hàng năm đều tăng , nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN bước đầu được xây dựng, theo đó nền kinh tế nhà nước đóng vai trò
chủ đạo, nhiều thành phần kinh tế cũng được phát triển. Công cuộc CNH-HĐH đang
được đẩy mạnh cơ cấu ngành. Kinh tế được chuyển dịch đúng hướng: Chỉ số phát
triển còn người của Việt Nam đang tăng mạnh; Đời sống nhân dân được cải thiện đáng
kể; Thu nhập bình quân đầu người tăng. lOMoAR cPSD| 45734214
Nhờ môi trường chính trị - xã hội của Việt Nam ổn định, được quốc tế ghi nhận và
khẳng định.Cùng với tăng cường đổi mới ở bên trong, Việt Nam còn tích cực và
chủđộng hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhờ mô hình kinh tế hướng ngoại, nên ngoại thương và đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại VN(FDI) đã tăng nhanh chóng, trở thành động lực quan trọng cho sự tăng
trưởng kinh tế của VN trong thời gian qua. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc. Đổi mới
toàn diện và đồng bộ hơn, động viên mọi nguồn lực của toàn xã hội, đẩy mạnh CNH-
HĐH đất nước và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển mạnh nhanh và bền
vững nhằm sớm đưa nước ta khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống
nhân dân tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
Hơn nữa hiện nay, sự phát triển của khoa học và công nghệ tạo ra sức sản xuất mới
dẫn đến tất yếu phải có một xã hội mới phát triển cao hơn xã hội phong kiến đó là XHCN.
Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường đi lên CNXH ở những nước chưa phát
triển như Việt Nam, không chỉ là đấu tranh giai cấp là trước hết và trên hết phải tạo
công ăn việc làm cho người lao động làm sao cho dân giàu nước mạnh, nhân dân được
tự do, hạnh phúc - Đó là con đường phấn đấu lâu dài, gian khổ liên tục trên mọi
phương diện từ kinh tế, chính trị đến văn hóa xã hội, y tế giáo dục.
Như vậy, có thể khẳng định con đường mà Việt Nam đang đi là đúng đắn, để đạt
tới thành quả là một nước XHCN còn nhiều khó khăn và gian khổ, nhưng chỉ cần xác
định rõ mục tiêu, đi đúng con đường mà mình đã chọn, trên cơ sở vận dụng triết học
Mac-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất định chúng ta sẽ tiến đến cái đích thành
công, sớm sánh vai với các cường quốc năm châu,có một nền kinh tế phát triển, chính
trị ổn định vững chắc và đời sống nhân dân thực sự no đủ, chúng ta sẽ xây dựng thành
công một đất nước thực sự của dân, do dân và vì dân
Tất cả những thành quả mà Việt Nam đã đạt được trong thời gian qua bản thân
luôn tin tưởng vào sự phát triển trong tương lai của nước mình. Sự cố gắng và nỗ lực
của mỗi con người, mỗi thành viên ngày hôm nay chính là một viên gạch quý xây
dựng nên thành công của cách mạng XHCN sau này. Cho nên chúng ta sẽ cùng nhau
phấn đấu vì đó là sự phấn đấu cho hạnh phúc của bản thân, cho hạnh phúc của cộng
đồng , đó cũng là điều kiện càn thiết để tiến tới thành công của cách mạng XHCN. PHẦN IV KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH ở Việt Nam ta đã trở thành một tài sản vô cùng
quý giá , là cơ sở lý luận và kim chỉ nam cho việc kiên trì, giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa của Đảng ta đồng thời gợi mở nhiều vấn đề về xác định hình thức, biện lOMoAR cPSD| 45734214
pháp và bước đi lên CNXH phù hợp với những đặc điểm dân tộc và xu thế vận động
của thời đại ngày nay. Và Tư tưởng đó của Người đã bao quát những vấn đề cốt lõi cơ
bản nhất trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác – Lênin về bản
chất, mục tiêu và động lực của CNXH, về tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ,
về đặc điểm, nhiệm vụ lịch sự, nội dung các hình thức, bước đi và biện pháp tiến
thành công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta.
Cùng với việc tổng kết lý luận thực tiễn công cuộc xây dựng đất nước trong mấy
thập kỷ qua, quan niệm về CNXH, về con đường đi lên CNXH ngày càng được cụ thể
hóa. Nhưng trong quá trình xây dựng CNXH, bên cạnh những thời cơ Việt Nam đang
phải đối đầu với nhiều thách thức, khó khăn trên nhiều lĩnh vực. Trong bối cảnh đó,
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con CNXH và con đường quá độ lên CNXH,
chúng ta cần tập trung giải quyết những vấn đề quan trọng nhất. Đó là: (1)
Kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (2)
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tự tôn dân tộc, khơi dậy mạnh mẽ tất
cả các nguồn lực để đẩy mạnh phát triển kinh tế nhiều thành phần, kinh tế tri thức (3)
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại (4)
Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước, đầu
tư đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chí công vô tư để xây dựng CNXH (5)
Bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, hòa nhập không hòa tan. Luôn xác định
đúng hướng con đường CNXH.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. https://truongleduan.quangtri.gov.vn/vi/hoat-dong-khoa-hoc/Nghien-cuu-
trao-doi/quan-diem-cua-chu-tich-ho-chi-minh-ve-nhung-thanh-phan-
kinhte-trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-va-su-van-dung-sang- taocua-dang-ta-350.html

2. https://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-thoi-ky-
qua-do-len-cnxh-o-viet-nam-gia-tri-va-nhung-luan-diem-can-bo- sung123889
3. https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-kinh-te-tai-chinh-
thanh-pho-ho-chi-minh/quan-tri-hoc/tieu-luan-tu-tuong-ho-chi-minh-
vethoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam/33778274

4. https://vinhloi.baclieu.gov.vn/vi/-/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-phat-trien-
kinh-te-trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-1103
5. https://hochiminh.vn/tu-tuong-dao-duc-ho-chi-minh/nguon-goc-hinh-
thanh/nguon-goc-qua-trinh-hinh-thanh-va-phat-trien-tu-tuong-ho- chiminh-21
6. http://songda9.com/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-xay-dung-chu-nghia-xa-hoi- o-viet-nam-15714
7. https://dichvuvietluanvan.com/tieu-luan-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa- hoi-o-viet-nam/ lOMoAR cPSD| 45734214
8. https://dichvuvietluanvan.com/tieu-luan-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa- hoi-o-viet-nam/