Nhà nước và pháp luật thế giới cổ đại | Trường Đại học Kinh tế – Luật
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc nhà nước. Theo thuyết Thần học, cho rằng nhà nươc là do thượng đế sinh ra để quản lý xã hội, quyền lực nhà nước là vĩnh cửu và vô tận nên việc phục tùng quyền lực ấy là cần thiết và tất yếu. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Lý luận nhà nước và pháp luật (llnnvpl)
Trường: Trường Đại học Kinh Tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45943468
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THẾ GIỚI THỜI CỔ ĐẠI
A. Quá trình hình thành nhà nước, pháp luật
a. Nguồn gốc Nhà nước
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc nhà nước.
Theo thuyết Thần học, cho rằng nhà nươc là do thượng đế sinh ra để quản lý xã hội, quyền
lực nhà nước là vĩnh cửu và vô tận nên việc phục tùng quyền lực ấy là cần thiết và tất yếu.
Theo thuyết khế ước xã hội, nhà nước là một sản phẩm của một bản hợp đồng(khế ước)
giữa những con người sống trong trạng thái tự nhiên không có nhà nước. Khi đó, nhà nước
phải phục tùng xã hội, phục vụ mọi thành viên của xã hội. Khi nhà nước không thực hiện
được chức năng của nó, các thành viên trong xã hội sẽ huỷ bỏ khế ước cũ lập ra một khế
ước mới, một nhà nước tiến bộ hơn sẽ ra đời.
Ngoài ra còn có thuyết gia trưởng, thuyết tâm lý, thuyết bạo lực...
Theo học thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhà nước ra đời trên cơ sở của sự tan rã chế độ
công xã nguyên thuỷ. Có hai nguyên nhân dẫn đến sự tan rã của chế độ công xã nguyên
thuỷ, đó là sự xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất (nguyên nhân kinh tế) và sự mâu
thuẫn giữa hai giai cấp đối kháng trong xã hôị, mâu thuẫn này ngày càng trở nên gay gắt
đến mức không thể điều hoà được nữa (nguyên nhân xã hội).
Chế độ công xã nguyên thuỷ, thị tộc, bộ lạc, bào tộc là cách thức tổ chức đầu tiên của loài
người trong buổi bình minh. Trong chế độ công xã nguyên thuỷ, mọi người đều bình đẳng
như nhau trong lao động và hưởng thụ, trong quyền lợi và nghĩa vụ. Khi lực lượng sản xuất
phát triển dẫn đến năng suất lao động ngày càng tăng lên, đặc biệt khi có công cụ lao động
bằng kim loại xuất hiện cùng với những kinh nghiệm đã tích luỹ được đã tạo nên bước phát
triển nhảy vọt trong trồng trọt và nghề thủ công. Dẫn đến sự phân công lao động lần thứ
nhất, trồng trọt tách khỏi chăn nuôi. Sau đó, các nghề thủ công cũng phát triển mạnh tạo ra
sự phân công lao động lầ thứ hai : thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp. Sau hai lần phân
công lao động, xã hội đã có sự phân tầng. Sự chuyên môn hoá của các ngành sản xuất đã
làm cho nhu cầu trao đổi hàng hoá giữa các bộ phận dân cư ngày một tăng cao. Điều này
dẫn đến sự phân công lao động lần thứ ba, giao lưu hàng hoá tăng nhanh và thương nghiệp
xuất hiện. Sau lần phân công lao động thứ ba này, xã hội đã bị phân hoá một cách sâu sắc. lOMoAR cPSD| 45943468
Do sự phân công lao động nên các ngành kinh tế phát triển mạnh, làm cho sản phẩm lao
động ngày càng nhiều lên dẫn đến dư thừa. Lúc này trong xã hội đã xuất hiện một số người
có quyền lực công nhiên đi chiếm đoạt phần sản phẩm dư thừa đó và biến nó thành của
riêng. Chế độ tư hữu về tài sản dần dần xuất hiện. Những người này dần dần trở thành
những người chuyên đi bóc lột còn bộ phận đông dân cư trở thành những người bị bóc lột
cả về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Chế độ tư hữu ngày càng được củng cố và
phát triển tất yếu dẫn đến việc hình thành các tập đoàn người trong xã hội có địa vị kinh tế
khác hẳnh nhau đó là tập đoàn những người giàu có (chủ nô), tập đoàn nông dân-thợ thủ
công với chút ít tài sản (bình dân) và tập đoàn thứ ba là tù binh chiến tranh và nô lệ (nô lệ).
Mâu thuẫn giữa giai cấp bóc lột và bị bóc lột ngày càng trở nên gay gắt, làm cho chế độ
công xã nguyên thuỷ trước đây với thị tộc, bộ lạc không thể kiểm soát, quản lý xã hội được
nữa, mà cần một tổ chuác mới ra đời, đó chính là nhà nước.Nhà nước ra đời, đó là sự thay
đổi hẳn về lượng. Đó là một bộ máy bạo lức, gồm có quân đội, cảnh sát, nhà tù...để đàn áp những người lao động.
b. Nguồn gốc pháp luật
Pháp luật ra đời cùng với sự xuất hiện của nhà nước, đó là một điều tất yếu khách quan.
Xét về phương diện chủ quan, pháp luật do nhà nước đề ra và đảm bảo thực hiện bằng sức
mạnh của mình, trở thành một công cụ có hiệu quả nhất để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống
trị trong xã hội, nó quản lý xã hội theo mục đích của nhà nước cũng tức là mục đích của giai cấp thống trị.
Trước khi pháp luật xuất hiện, tổ chức thị tộc, bộ lạc quản lý xã hội bằng những phong tục
tập quán với bản chất của nó là nguyên tắc bình đẳng giữa các thành viên trong xã hội. Khi
nhà nước xuất hiện cùng với việc các quan hệ trong xã hội phát triển vượt bậc cả về bề
rộng và chiều sâu, các phong tục tập quán này không còn có thể điều chỉnh được nữa mà
cần một loại quy phạm xã hội mới đó chính là pháp luật.
Pháp luật được hình thành bằng nhiều cách với những hình thức khác nhau. -
Con đường thứ nhất là “luật pháp hoá”, “nhà nước hoá”. Nhà nước thừa
nhận và nâng lên những tập quán có lợi cho mình. Đó là “ tập quán pháp”. Có tập
quán được nhà nước chính thức thừa nhận và đưa vào nội dung bột luật, nhưng cũng
cõ những tập quán được nhà nước mặc niên thừa nhận. Như vậy có tập quán pháp lOMoAR cPSD| 45943468
thành văn và tập quán pháp không thành văn. Điển hình là ở các nước phương Đông
như ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam... -
Con đường thứ hai là do nhà nước ban hành mới. Do nhu cầu điều chỉnh
những quan hệ ngày càng phức tạp, phong phú, sâu và rộng mà tập quán pháp không
thể điều chỉnh được hết. Pháp luật được tồn tại dưới dạng thành văn và bất thành
văn. Pháp luật thành văn ra đời ngay từ khi xuất hiện chữ viết.VD như luật 12 bảng
của La Mã cổ đại, bột luật Hammurabi của Lưỡng Hà cổ đại....
c. Đặc điểm hình thành nhà nước ở phương Đôngở phương Đông, các nhà nước
thường được hình thành ở lưu vực những con sông lớn. Điều kiện tự nhiên đã chứa
đựng trong đó cả ưu đãi và thử thách. Bất cứ một cộng đồng nào ở đây cũng phải tiến
hành công cuộc trị thuỷ và thuỷ lợi. Mặc dù ở phương Đông chế độ tư hưu về ruộng
đất gần như không có, xã hội bị phân hoá chậm chạp đồng thời tính giai cấp rất hạn
chế và mâu thuẫn giữa các giai cấp đối kháng phát triển chưa tới mức độ gay gắt,
quyết liệt như ở phương Tây nhưng trong môi trường kinh tế xã hội mới như vậy nhà
nước đã phải ra đời. Chính công cuộc trị thuỷ, thuỷ lợi không chỉ là yếu tố duy trì chế
độ tư hữu về ruộng đất mà còn là yếu tố thúc đẩy nhà nước phải ra đời sớm. Trước đó
tổ chức của công xã thị tộc, với quy mô tổ chức và hiệu lực của nó, không còn đủ khả
năng tổ chức công cộng chống lũ và tưới tiêu. Đồng thời nhu cầu tự vệ cũng là một
yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình hình thành nhà nước. Nhà nước ra đời sớm, cả về
thời gian và không gian, do điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội đặc biệt của phương Đông.
Trong tất cả phạm vi các cộng đồng, tầng lớp quý tộc lúc ban đầu vốn thực hiện “chức năng
xã hội” đảm bảo lợi ích chung của cả cộng đồng, rồi chuyển sang “địa vị độc lập đối với
xã hội” và cuối cùng “vươn lên thành sự thống trị đối với xã hội”.
B. Nhà nước ở một số quốc gia tiêu biểu
1.1. Phương Đông cổ đại 1.1.1. Ai Cập:
1.1.1.1. Quá trình ra đời của nhà nước Ai Cập cổ đại
Qua những tài liệu và tư liệu khảo cổ học cũng như theo sự ghi chép của các sử gia Hy lạp
Herodotes, Diodore, Strabon và nhất là Manetho với tài liệu “Lịch sử Ai Cập” cho chúng lOMoAR cPSD| 45943468
ta thấy Ai Cập là một trong những trung tâm văn minh lớn của nhân loại. Văn minh Ai Cập
phát triển ở vùng Đông Bắc châu Phi, trải qua 4 giai đoạn là Tảo vương quốc (3200 – 3000
TCN), Cổ vương quốc (3000 – 2200 TCN), Trung vương quốc (2200 – 1570 TCN) và Tân
vương quốc (1570 – 1100 TCN). Xã hội có giai cấp và Nhà nước xuất hiện vào thời kỳ đầu của Cổ vương quốc.
Trước khi Nhà nước hình thành, đất nước Ai Cập tồn tại các thiết chế chính trị đầu tiên gọi
là các châu (Nome), được hình thành do sự tan rã của các công xã thị tộc. Đứng đầu mỗi
châu là thủ lĩnh (nomarque), ông ta có quyền tổ chức chính quyền, quân đội, tụ hội nhân
dân và xây dựng các công trình thủy lợi để tưới tiêu, phục vụ sản xuất nông nghiệp. Năm
3200 TCN, bằng các cuộc chiến tranh chính phục và thôn tính, vua Thượng Ai Cập là
Menes đã đánh chiếm Hạ Ai Cập và sát nhập hai vùng này thành một nhà nước thống nhất
và đến thời Cổ vương quốc, chế độ chiếm hữu nô lệ hình thành. Bước sang thời Trung –
Tân vương quốc, nhà nước Ai Cập đã đạt đến sự phồn thịnh và trở thành một đế quốc rộng
lớn có lãnh thổ trải dài từ Bắc Phi sang tận Trung Đông, Nam Á. Thiết chế chính trị - xã
hội được hình thành với đầy đủ những đặc tính cơ bản của nó.
1.1.1.2. Tổ chức bộ máy nhà nước, quân đội (TW – địa phương)
Đứng đầu bộ máy nhà nước là Pharaoh. Ông có quyền lực rất lớn: bổ nhiệm hoặc bãi miễn
chức vụ của quan lại, quyết định các công việc quan trọng của quốc giaa. Pharaoh là người
sở hữu tối cao về ruộng đất, có quyền phân phát ruộng đất và của cải theo ý mình. Quyền
lực tối thượng của ông ta được tín ngưỡng hóa làm cho nó trở thành thứ siêu nhiên, huyền bí.
Thứ hai sau Pharaoh là Tể tướng (Vizier) và tăng lữ cấp cao (high priest). Tể tướng là là
vị quan có quyền thứ hai sau Pharaoh, thay mặt vua quản lý đất nước, chịu trách nhiệm về
tổ chức hệ thống các quan lại trong triều đình, các hoạt động về nông nghiệp. Tăng lữ cấp
cao nắm giữ nhiều tài sản lớn như nhà thờ, ruộng đất và đồ tế tự và là lực lượng quan trọng
của hoàng gia Ai Cập cổ. Thứ ba là quý tộc (royal overseers). Họ là lực lượng chủ yếu của
hoàng gia, có sức mạnh kinh tế và chính trị lớn và là trụ cột của triều đình Ai Cập cổ đại.
Cuộc đấu tranh giành giật quyền lợi về chính trị - kinh tế giữa hai giai cấp quý tộc – tăng
lữ chi phối sự thăng trầm của lịch sử Ai Cập. lOMoAR cPSD| 45943468
Thứ tư là các tỉnh trưởng quản lý các tỉnh (district governors - thường là các quốc gia bị
Pharaoh chinh phục và biến thành tỉnh). Thứ năm là thư lại (Scibes). Họ là những người
có học thức, biết chữ. Họ chuyên ghi chép tài liệu, bảo quản sổ sách, tài liệu của hoàng gia,
thường được tuyển chọn trong các kỳ thi chọn quan lại. Thứ sáu là những nghệ nhân
(artisans) chuyên về xây dựng đền đài, chạm khắc các hoa văn tinh xảo. Cuối cùng là nông
dân công xã (Farmers) và nô lệ (labourer). Nông dân công xã trong xã hội Ai Cập chiếm
90% dân số và là lực lượng sản xuất chính nuôi sống xã hội. Họ sống trong những công xã
thị tộc mà ở đó, các hộ nông dân được phân chia ruộng đất (hằng năm, 3 năm/lần) để cày
cấy và họ phải nộp một phần sản phẩm cho lãnh đạo công xã. Trong công xã, quyền quản
lý thuộc về Hội đồng trưởng lão và các công xã thị tộc tồn tại dai dẳng cho đến khi xã hội
có giai cấp xuất hiện. Đến thời Tân vương quốc, Pharaoh Ahmose I và những người kế vị
đã thành lập một chính quyền mạnh, gia tăng sự can thiệp của Nhà nước vào các công xã
nói chung và các thành viên công xã nói riêng. Nhà nước một mặt kiểm soát chặt chẽ thi
hoạch mùa màng của nông dân, mặc khác lại cung cấp giống và gia súc cho các thành viên
công xã theo định mức nhất định. Nô lệ là lực lượng khá đông đảo trong xã hội, họ bị coi
như tài sản và có quyền mua bán, chuyển nhượng. Số lượng nô lệ ngày càng tăng chủ yếu
là các thành viên công xã bị phá sản hay bị bần cùng hóa.
Bộ máy nhà nước tuy tương đối cồng kềnh, nhưng hoạt động một cách hiệu quả và chặt
chẽ. Ngoài những quy định trong tuyển chọn quan lại theo thứ bậc, nhà nước ban hành
nhiều quy định về hoạt động, thẩm quyền của các bộ phận từ trung ương đến địa phương,
ban bố những sắc lệnh quy định về sự trừng phạt.
1.1.1.3. Luật pháp (Ma’at), ý nghĩa
Người đứng đầu hệ thống pháp luật là Pharaoh, người chịu trách nhiệm thi hành pháp luật,
thực thi công lý, duy trì pháp luật và trật tự, một khái niệm được người Ai Cập cổ đại gọi
là Ma'at [1] . Mặc dù không có bộ luật nào từ thời Ai Cập cổ đại còn tồn tại, thư liệu của
tòa án cho thấy luật pháp Ai Cập được dựa trên một cái nhìn chung về ý thức đúng và sai
mà nhấn mạnh tới việc đạt được thỏa thuận và giải quyết xung đột thay vì tôn trọng đúng
một tập hợp quy chế phức tạp. Thời Cổ - Trung vương quốc, quyền xét xử tối cao thuộc về
Pharaoh. Dưới ông là một số bồi thẩm đoàn do các quan đại thần đứng đầu. Đến thời Tân
vương quốc quyền xét xử được phân thành tòa án cấp trung ương và tòa án cấp địa phương
(vùng và khu). Tòa án trung ương gồm 30 người. Tòa án địa phương (Kenbet) chịu trách lOMoAR cPSD| 45943468
nhiệm về phán quyết trong các phiên tòa liên quan đến các vụ kiện nhỏ và tranh chấp nhỏ.
Trường hợp nghiêm trọng hơn liên quan đến giết người, giao dịch đất lớn, và cướp mộ
được đưa đến Đại Kenbet, mà tể tướng hoặc pharaoh chủ trì. Nguyên đơn và bị đơn dự
kiến sẽ đại diện cho bản thân và phải thề một lời tuyên thệ rằng họ đã nói sự thật. Ngoài
tòa án Nhà nước, ở Ai Cập còn có cả tòa án Tôn giáo.
Bộ máy tư pháp hình thành khá sớm, đồ sộ nhưng thẩm quyền của nó chưa tách bạch với
hành pháp. Sự mờ nhạt về ranh giới giữa quản lý hành chính và quyền xét xử là đặc trưng
của chế độ chiếm hữu nô lệ chuyên chế. Quyền tư pháp chỉ là bộ phận đặc thù của quyền hành pháp. 1.1.2. Lưỡng Hà:
1.1.2.1. Quá trình ra đời của nhà nước Lưỡng Hà cổ đại
Người Sumer từ xa xưa đã định cư ở vùng Mesopotamie (Lưỡng Hà, nắm giữ hai sông
Tigris và Euphrates). Vào giữ thiên niên kỷ IV TCN, người Sumer chuyển dần từ công xã
nguyên thủy sang xã hội có nhà nước. Nhiều quốc gia đầu đã ra đời ở Lưỡng Hà dưới dạng
thành bang như Ur, Lagash, Kish, Nippur…, tồn tại độc lập với nhau. Đứng đầu các thành
bang này là Pateshi và sau ông là cả bộ máy nhà nước tương đối hoàn chỉnh. Về sau, do
tranh giành quyền lực liên miên giữ các thành bang nên người Sumer không giữ nổi quyền
cai trị ở vùng đất này và phải nhường lại cho người Akkad, một tộc người thuộc tộc Semites
rất mạnh ở phía Bắc Lưỡng Hà. Vào thế kỷ XXIV TCN, người Akkad đánh bại các thành
bang Sumer và thống trị Lưỡng Hà. Thời kỳ Akkad (2369 – 2253 TCN) là thời kỳ thịnh trị
của người Semites. Tuy nhiên, do các nguyên nhân chính trị kinh tế, đặc biệt là chiến tranh
liên miên giữa Akkad với các dân khác làm Đế quốc Akkad suy yếu và sụp đổ. Vương triều
III của Ur cũng có thống nhất Lưỡng Hà, nhưng nó không bền vững và chẳng bao lâu sau thì sụp đổ.
Lợi dụng sự suy yếu của Lưỡng Hà, người Elam và Amorites bằng nỗ lực của mình đã tạo
ra những quốc gia rất hùng mạnh như Larsa, Isin, Assyria, Babylon…, trong đó vương
quốc Baby lon xuất hiện vào năm 1895 TCN là quốc gia hùng mạnh nhất. Thời
Hammurabi (1792 – 1750 TCN), vương quốc này đã đánh bại các vương quốc khác của
người Elam, đạt được nhiều thành tựu về kinh tế - chính trị - quân sự. Khi đế quốc này suy lOMoAR cPSD| 45943468
yếu, nó bị người Kassites, Assyria đánh chiếm, rồi được người Chaldea phục hồi một thời
gian (vương quốc Tân Babylon, 626 – 538 TCN) để rồi cuối cùng bị ngoại bang tiêu diệt.
1.1.2.2. Tổ chức bộ máy nhà nước, quân đội (TW – địa phương)
Vào thiên niên kỷ IV TCN, khi người Sumer thành lập các quốc gia (hoặc thành bang), họ
đã tổ chức một bộ máy nhà nước tương đối chặt chẽ. Đứng đầu các quốc gia này là Pateshi.
Ông là người có quyền tối cao (nắm vương quyền – thần quyền), nắm giữ ruộng đất và tư
liệu sản xuất, được truyền giữ thế tập. Ngoài Pateshi ra còn có Hội đồng trưởng lão, Hội
nghị nhân dân và các quan chức bộ máy chính quyền, quyết định các vấn đề quan trọng
của quốc gia. Về cấu trúc xã hội, người Sumer (và các tộc người kế tiếp) chia xã hội thành
các tầng lớp như quý tộc, tăng lữ, quan lại, quan binh chuyên nghiệp, nông dân công xã
(hay dân tự do), thợ thủ công và nô lệ. Đến thời Babylon, bộ máy nhà nước được củng cố
từ trung ương đến địa phương. Vua là hiện thân của thần linh, đứng đầu vương quyền –
thần quyền và có quyền lực vô hạn. Sau vua có cả một bộ máy quan lại cồng kềnh. Ở địa
phương thì vua chia thành các tỉnh và cử Thống đốc đến cai trị. Vua nắm quyền hành pháp,
lập pháp và tư pháp và là quan tòa tối cao ở Babylon; dưới Vua là bồi thẩm được bầu từ
những người già cả và có danh tiếng; tăng lữ chỉ tham gia các phiên tòa khi họ làm lễ tuyên thệ cho các nhân chứng.
Về xã hội, vua giữ nguyên cấu trúc như thế, chỉ thay đổi bằng cách chia dân tự do thành
hai loại: Avilum và Mushkenu. Tầng lớp Avilum được coi là người có quyền lợi chính trị -
pháp luật, nhất là quyền sở hữu tài sản, thừa kế. Còn dân Mushkenu có địa vị thấp hèn hơn
và bị phân biệt đối xử với người Avilum. Chẳng hạn, khi hai loại người này bị phạm tội thì
người Mushkenu bị phạt nặng hơn; nếu cả hai bị ai đó gây hại thì người Avilum được bồi
hoàn nhiều hơn. Về địa vị xã hội, người Mushkenu chịu thiệt thòi hơn. Luật Hammurabi
quy định, nếu người Mushkenu tát một người Avilum có địa vị cao hơn minh thì anh ta bị
đánh trước sự có mặt của dân chúng, còn đánh người ngang địa vị mình thì chỉ nộp phạt.
Về nô lệ, luật Hammurabi bảo vệ quyền sở hữu nô lệ một cách tuyệt đối. Nếu kẻ nào làm
mất dấu cho nô lệ thì bị chặt tay, kẻ nào giúp đỡ hay chứa chấp nô lê thì bị tử hình. Về địa
vị nô lệ, luật cho phép người Mushkenu và nô lệ cung đình được lập gia đình, có nhà cửa
và tài sản. Nếu con nợ thiếu nợ mà không có khả năng chi trả thì bị phạt làm công cho chủ nợ 3 năm. 1.1.2.3. Luật pháp lOMoAR cPSD| 45943468
a. Luật thành Ur (luật của vua Urnammu)
Luật thành Ur được xem là bộ luật sớm nhất của Lưỡng Hà cổ đại. Nó ra đời vào thế kỷ
XXI TCN dưới thời vua Urnammu, có 40 điều khoản (hiện dịch được 32 điều). Bộ luât là
sự tổng hợp thành tựu luật học của các thời kỳ trước, phân chia rõ 4 lĩnh vực là hình sự,
dân sự, hôn nhân gia đình và tố tụng hình sự.
+ Về hình sự, luật quy định: các hành vị phạm tội như giết người, cướp, đưa ra bằng chứng
giả mạo, ngoại tình… đều bị tử hình. Ngoài ra, luật quy định các hình phạt khác như tù
giam (điều 3) và phạt tiền (điều 8, 9, 10). Các trường hợp gây thương tích người khác (làm
mù mắt, gẫy chân, tàn phế…) sẽ bị phạt tiền: làm mù mắt người khác bị phạt 30 schekel
(điều 18); làm gẫy chân bị phạt 10 schekel (điều 19); trong lúc ẩu đả, nếu làm người kia
tàn phế và không lao động được thì bị phạt 60 schekel (điều 20).
+ Về dân sự, luật đã đặt ra vấn đề bồi thường tài sản (điều 31, điều 32); quyền sở hữu tài
sản (điều 30) và hợp đồng thuê mướn (điều 32). Điều 30 Bộ luật Urnammu qui định:
“Người lén lút trồng cây trên thửa đất của người khác thì hoa lợi trên đất đó sẽ không
thuộc về anh ta.” hay Điều 31 qui định: “Người làm ngập úng đồng lúa mạch của người
khác, người đó sẽ bị phạt phải bồi thường.”; Điều 32: “Nếu một người đã thuê người khác
cày cấy, nhưng người này đã không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết mà bỏ hoang cánh
đồng ấy, anh ta sẽ bị coi là vi phạm hợp đồng và bị phạt”.
+ Về hôn nhân – gia đình, luật Urnammu bảo về quyền lợi của người đàn ông (cụ thể là
người chồng). Điều 11 qui định: “Nếu một người đàn ông mà ngủ với một người phụ nữ
góa bụa, anh ta sẽ không bị nộp phạt.”, ngược lại “nếu một người phụ nữ đã kết hôn mà
ngoại tình đi theo một người đàn ông khác thì người phụ nữ đó sẽ bị giết và người đàn ông
được trả tự do” (Điều 7). Ngoài ra, bộ luật cũng bảo vệ quyền lợi của phụ nữ. Luật quy
định người chồng được quyền ly hôn, nhưng người chồng đó phải nộp cho người vợ một
khoản tiền rất lớn. Điều 9 qui định: “Nếu một người đàn ông mà muốn ly dị người vợ đầu
tiên của mình, anh ta phải trả cho người vợ đó 60 schekel” hay Điều 10 qui định: “Nếu một
người đàn ông mà muốn cưới lại người vợ mà mình đã ly dị, anh ta sẽ phải trả người phụ
nữ đó 30 schekel.”.
+ Về xét xử - tố tụng, luật có nhiều quy định (nhưng mang tính tôn giáo nhiều hơn). Về tố
tụng thì dùng hình thức thử tội (ordeal). Điều 13 qui định: “Nếu một người bị cáo buộc là
dùng tà đạo ma thuật, anh ta phải chịu thử tội bằng hình thức ném xuống sông. Nếu anh lOMoAR cPSD| 45943468
ta vô tội (không bị chết), anh ta sẽ được tha.” Điều 14 qui định: “Nếu một người đàn ông
bị cáo buộc là đã thông dâm với vợ của người đàn ông khác, anh ta sẽ phải chịu thử tội
bằng hình thức ném xuống sông. Nếu qua thử tội cho thấy anh này vô tội thì người đã cáo
buộc anh ta thông dâm phải trả anh ta 20 schekel”. Về xét xử thì những vị tăng lữ chính
là thẩm phán xét xử. Họ xét xử công khai ở cổng ra vào của các thành thị để người dân ý
thức pháp luật và coi trọng công lý. Về nô lệ, luật quy định nô lệ là người tự do, họ có tài
sản riêng, được giao kết hợp đồng (Điều 32), được quyền kết hôn, thậm chí được quyền
kết hôn với người tự do (Điều 5).
b. Luật Eshnunna (hay luật Bilalama)
Nó là bộ luật thứ hai của Lưỡng Hà sau luật Urnammu. Bộ luật được các nhà khảo cổ học
tìm thấy vào năm 1982 ở Iraq. Luật có 60 điều khoản, quy định cụ thể các vấn đề trong đất
nước Eshnunna. Bộ luật bảo vệ quyền lợi giai cấp thống trị, quy định hình phạt với dân
thường: Avilum và Mushkenu, nếu phạm tội thì bị trừng phạt. Về hình sự, luật quy định có
5 loại hành vi vi phạm pháp luật: trộm cắp, tịch biên giả mạo, tội phạm tình dục, tội cố ý
gây thương tích; bị thương do bò, chó cắn. Phần lớn các loại tội phạm phải chịu hình phạt
bằng tiền (một lượng bạc nhất định), nhưng một số tội phạm nguy hiểm như trộm đêm, giết
người, một số tội phạm tình dục bị xử tử hình.
Ở bộ luật này, nó phân chia xã hội thành nhiều giai cấp khác nhau: awilum – những người
đàn ông và đàn bà tự do; muškenum; nô lệ (nam và nữ), các giai cấp khác như: ubarum,
apþarum, mudum (không được xác lập chắc chắn là gì). c. Luật Hammurabi
Luật Hammurabi là bộ luật tiêu biểu nhất của Lưỡng Hà cổ đại. Bộ luật được các nhà khảo
cổ Pháp phát hiện ở Susa (Đông Babylon) vào năm 1901. Luật Hammurabi gồm 282 điều,
được khắc trên cột đá bazan cao 2,25 m, đường kính đáy 2 m. Bộ luật được các nhà soạn
luật soạn vào thế kỷ XVIII TCN, tuy nhiên chưa phân định rõ ràng giới giữa hình luật, dân
luật, luật tố tụng hay hôn nhân gia đình.
Về nguồn gốc, bộ luật là sự kết tinh các quy định do vua Hammurabi và Tòa án cấp cao để
lại. Đồng thời, luật có sự kế thừa các bộ luật của người Sumer; luật Lipitistar của Nippur
và luật Eshnunna (thế kỷ XX TCN). Bộ luật thể hiệ tư tưởng chính trị của Vua muốn thông
qua luật pháp để hạn chế, xoa dịu mâu thuẫn xã hội ở Babylon, củng cố và phát triển kinh lOMoAR cPSD| 45943468
tế - xã hội thông qua mua bán nhà cửa, ruộng vườn, gia súc, vay mượn… phát triển đa dạng
+ Chế định hợp đồng, vay mượn: luật quy định muốn thực hiện hợp đồng phải có 3 điều
kiện: (1) tài sản chưa lưu thông; (2) người bán là chủ sở hữu; (3) việc ký kết hợp đồng có
sự làm chứng của một số người. Về hợp đồng mua bán, luật quy định: người bán nếu bị
người làm chứng tổ cáo là mình bán đồ của người khác sẽ bị tử hình; chủ đồ vật không
chứng minh cho người làm chứng biết đồ bị mất là của mình cũng bị tử hình (tội vu khống, điều 9; 11)
+ Chế độ lĩnh canh ruộng đất. Luật quy định mức tô thường là 1/3 đến ½ sản phẩm; mức
tô vườn cây ăn quả chiếm 2/3 sản phẩm (điều 41). Có thiên tai xảy ra, người lĩnh canh chịu
thiệt hại nhiều nhất: trả trước không vì thế được bồi hoàn (điều 45; 46); không trả đúng
hạn thì phải trả lại cả nợ lẫn lãi suất (điều 48). Mức lãi suất khá cao: 20% nếu là vay tiền,
33,3% nếu là vay lương thực. Luật cho phép chủ nợ bảo lãnh bằng bất động sản của con nợ và gia đình con nợ.
+ Hôn nhân – gia đình. Luật quy định người chồng là chủ trong gia đình, có toàn quyền
kinh tế - xã hội, bán vợ đợ con cho người khác dưới hình thức con nuôi (điều 185; 188).
Vợ vô sinh thì chồng được ly hôn, vợ có thể lấy lẽ và ở lại nhà chồng. Quyền ly hôn của
phụ nữ bị hạn chế. Phụ nữ được ly hôn nếu chồng ngoại tình, bỏ nhà ra đi, vu cáo vợ ngoại tình.
+ Thừa kế tài sản. Luật quy định 2 hình thức thừa kế: theo luật và di chúc. Khi người quá
cố để lại tài sản mà không di chúc thì tài sản thuộc về người thừa kế. Thừa kế theo di chúc
có xuất hiện nhưng rất hạn chế. Luật quy định thêm nếu con trai không mắc tội nặng thì
cha được thừa kế tài sản của con. Con trai – con gái thừa kế ngang nhau, con nô tì cũng
được thừa kế nếu người cha nhận làm con mình.
+ Hình luật trong luật Hammurabi khắc nghiệt. Hầu hết các quy định về hình sự đều cho
phép áp dụng hình thức “báo thù”, “trả nợ máu”, mức hình phạt luôn tương xứng với mức
tội ác: giết người thì xử tội chết, làm chết con người khác thì con của phạm nhân cũng phải
chết, nếu bị vu cáo giết người thì phải tự tử…. Khi xã hội phân giai cấp thì hình luật thay
đổi. Người Mushkenu tát một người Mushkenu khác bị phạt 84 g bạc. Luật cũng quy định
phạt vạ: cả công xã phải trả phạt cho người bị cướp tài sản nếu không tìm ra thủ phạm, lOMoAR cPSD| 45943468
người bị hại chết thì công xã nộp phạt thêm. Những loại tội phạm đặt biệt nghiêm trọng
như giết người, cướp của (30 loại theo luật Hammurabi) sẽ bị xử tử. Hình thức xử tử khắc
nghiệt: đốt trên giàn lửa, đóng cọc, dìm xuống nước…
+ Phân biệt đẳng cấp. Luật quy định, kẻ nào giúp đỡ nô lệ chạy trốn hay xâm phạm tài sản
riêng bị phạt. Kẻ nào ăn cắp gia súc hay thuyền bè bị phạt nặng từ 10 – 30 lần so với giá
trị tài sản đó, nếu kẻ đó không thể bồi hoàn thì bị giết. Quản lý làm thất thoát tài sản của
gia chủ thì bị phanh thây bằng bò kéo.
+ Luật tố tụng thời Hammrabi chưa có hình thức cụ thể. Việc xét xử được thực hiện công
khai lúc bị hại khởi tố. Các chứng cứ, bằng chứng là điều kiện xác nhận kẻ đúng và người
sai. Đối với các vụ việc nghiêm trọng thì các bên buộc phải tuyên thệ trước thần linh. Các
quan tòa không được thay đổi án quyết, nếu thay đổi sẽ bị cách chức. Luật này kế thừa luật
thành Ur về hình thức thử tội. Điều 2 Bộ luật Hammurabi qui định: “Nếu một người kiện
một người khác, bị đơn sẽ phải đi đến một dòng sông và nhảy xuống, nếu anh ta chìm, bị
dòng nước cuốn đi, nguyên đơn sẽ được sở hữu nhà của bị đơn. Nhưng ngược lại, nếu anh
ta không bị chết chìm, tức là anh ta còn sống sót, thì anh ta được coi là vô tội, nguyên đơn
sẽ bị giết chết, và bị đơn sẽ sở hữu nhà của nguyên đơn”. 1.1.3. Ấn Độ:
1.1.3.1. Quá trình ra đời của nhà nước Ấn Độ cổ đại
Về lịch sử hình thành nhà nước, nhà nước Ấn Độ xuất hiện từ lâu đời. Vào thiên niên kỷ
III TCN, do sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân hóa giai cấp, nhà nước đã ra đời
ở Ấn Độ. Đến thiên niên kỷ II TCN, người Arya xâm nhập vào càng thúc đẩy nhanh quá
trình thành lập nhà nước. Họ phá hủy văn hóa sông Ấn – Hằng, đồng hóa cư dân Dravida
bản địa. Khi nền kinh tế phát triển, mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt dẫn tới sự ra đời
chế độ đẳng cấp Varna (thiên niên kỷ II – I TCN) gồm 4 đẳng cấp: Brahman (Tăng lữ);
Kshatriya (quý tộc); Vaisya (thương nhân) và Shudra (người cùng khổ). Đẳng cấp Brahman
đứng đầu hệ thống đẳng cấp, có nhiều quyền lợi. Họ đặt ra các quy tắc quản lý xã hội, dùng
tôn giáo để ràng buộc người dân phải cam chịu, nhẫn nhục và phục tùng giai cấp thống trị Arya. lOMoAR cPSD| 45943468
Từ thiên niên kỷ II đến thế kỷ IV TCN, ở Ấn Độ cổ đại đã thành lập các tiểu quốc, do các
tiểu vương (raja) đứng đầu. Ở trung ương, dưới Raja là Hội đồng bộ lạc gồm Sabha (hội
đồng các chức sắc của bộ lạc) và Samiti (hội đồng toàn thể dân tự do trong bộ lạc), những
hội đồng này có ảnh hưởng rất lớn đến các quyết định của Raja. Giúp việc cho Raja là các
quan cận thần (Sabhasad), Tể tướng (Purohita), chỉ huy quân sự (Senani) và các thượng
thư phụ trách một số ngành thông qua các sở địa phương.
Đất nước được chia thành các đơn vị hành chính gọi là làng (gramma), do trưởng làng lãnh
đạo. Các làng được phân chia nhiều bậc khác nhau: cấp trên trực tiếp là mười làng, rồi 20
làng, 100 làng và cuối cùng là 1.000 làng… và các làng như thế do các quý tộc lãnh đạo.
Quan đứng đầu 1.000 làng trực thuộc nhà Vua. Để kiểm soát quan lại, vua lập ra cơ quan
mật vụ có nhiệm vụ dò la, kiểm soát hoạt động của quan lại, quần chúng. Quan lại thời kỳ
này có lương bổng. Tùy theo chức vụ và phẩm tước thì quan lại bậc trung được cấp lương
gấp 3 lần quan lại bậc thấp, quan đại thần được cấp gấp 6 lần quan lại bậc trung.
Thời Morya (321 – 187 TCN), đất nước Ấn Độ rất rộng lớn. Để quản lý đất nước, vua chia
đất nước thành các châu và cử thủ hiến (người thuộc hoàng tộc) đến cai trị, thủ hiến chỉ có
việc theo dõi và giám sát, còn trực tiếp cai trị các châu là các quý tộc cũ. Ở đia phương vẫn
chia như cũ (làng là đơn vị cơ sở chính). Ngoài xây dựng bộ máy nhà nước, các vua Morya
xây dựng lực lượng quân đội mạnh, gồm quân của nhà vua, quân của vương hầu và quân
của các bộ lạc phụ thuộc. Lục quân (tượng binh, kỵ binh, chiến xa…) và hải quân là hai
lực lượng chính. Lúc chiến tranh, nhà nước huy đọng đến 60 vạn bộ binh, 3 vạn kỵ binh.
Để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, nhà nước Ấn Độ ban hành luật pháp. Do trong
xã hội cổ đại, các giáo lý tôn giáo và tập tục địa phương (truyền thống, đẳng cấp) đan xen
vào nhau nên làm quần chúng bị ràng buộc rất nhiều thứ luật lệ. Hình phạt phổ biến là nhục
hình; làm tổn thương tới phạm nhân nếu họ phạm tội (nhất là trộm cắp). Việc xét xửu do
các quan chức đứng đầu địa phương và trung ương xét xử. Vua chỉ xét xử những vụ quan
trọng nhất. Thời kỳ này quan chức hành chính kiêm luôn tư pháp, xét xử, tư pháp chưa tách khỏi hành pháp. 1.1.3.2. Luật pháp + Luật Manu: lOMoAR cPSD| 45943468
Về nội dung và lịch sử, luật này không thua kém luật Hammurabi. Đây là một tập hợp
các luật tục dựa trên quan niệm của đạo Balamon soạn ra vào thế kỷ III – II TCN. Luật
Manu có 2.685 điều chia thành 12 chương, trình bày dưới dạng câu song vần. Nội dung
của luật tập trung các vấn đề sau đây:
+ Quyền sở hữu: luật này áp dụng cho các công xã Ấn Độ. Luật quy định kinh tế, đất đai
công xã là của chung và không ai được chiếm đoạt (điều 264, chương 7). Người nào tự tiện
thay đổi địa giới đất đai đều bị trừng phạt, nếu không giải quyết nổi thì “nhờ” Vua giải
quyết (điều 265, chương 8). Việc mua bán đất đai được nhà nước công nhận, nhà nước
giám sát hoạt động buôn bán (bất động sản) nhất là với thương gia. Điều 9 quy định, nếu
người nào bán giá bất động sản cao hơn giá quy định thì nhà nước thu hồi mức tiền chênh
lệnh; tranh chấp đất đai mà đưa ra chứng cứ giả cũng bị thu hồi. Trong quyền sở hữu của
nhà nước còn gồm đất hoang, rừng núi và lợi tức thu được từ ruộng đất.
Để khẳng định quyền sở hữu tài sản, luật Manu bắt các chủ sở hữu tài sản phải chứng minh
nguồn gốc của tài sản ở đâu: mua bán, chuyển nhượng, thừa kế… Sự chiếm hữu dài hạn
chưa đầy đủ là căn cứ phát sinh quyền sở hữu. Nếu chủ sở hữu cho người khác sử dụng tài
sản suốt 10 năm thì không được đòi lại (điều 147, chương 8). Như vậy, thời hạn chiếm hữu
xuất hiện đầu tiên trong luật này.
+ Hợp đồng: Luật Manu có nhắc tới tính hiệu lực của hợp đồng dân sự. Hợp đồng sẽ không
có hiệu lực khi hợp đồng đó được ký với người bị tâm thần, người nát rượu hay người chưa
vị thành niên; không thừa nhận các hợp đồng được ký kết do cưỡng bức hay lừa đảo, bí
mật (điều 163, 165; chương 8). Hợp đồng được ký kết công khai. Nếu hàng hóa bán ra có
hư hỏng thì người mua có thể hủy hợp đồng (thời hạn hủy là 1,5 năm nếu hàng hóa là gia
súc, một năm nếu hàng hóa là nô lệ) (điều 15, chương 4). Luật có đế cập đến hoạt động
cho vay – mượn, quy định mức lãi suất khác nhau theo đẳng cấp (tính theo năm): Balamon
2%; Kshatriya 3%; Vaisya 4% và Shudra 5%. Nếu người vay nợ chết thì họ hàng người đó
phải trả nợ thay; nếu không trả được nợ thì bị biến thành nô lệ (hoặc gia đình con nợ thành
nô lệ), con nợ dây dưa không chịu trả nợ thì sẽ bị chủ nợ lôi ra đánh đập cho đến khi con
nợ trả được nợ mới thôi (điều 49, 50)
+ Hôn nhân – gia đình: trong gia đình, người chồng có quyền lực lớn. Ông ta có quyền
cưới vợ, sở hữu vợ theo kiểu “bảo hộ” làm cho phụ nữ “không thể độc lập được” (điều
147, 148; chương 5). Phụ nữ không được ly hôn với chồng (điều 46; chương 9). Luật cũng lOMoAR cPSD| 45943468
cho phép người chồng được phép bỏ vợ nếu bị vợ ghét bỏ (điều 47; chương 9), bỏ vợ (năm
thứ 8) nếu vợ vô sinh, bỏ vợ (năm thứ 10) nếu vợ sinh con bị chết, bỏ vợ (năm thứ 11) nếu
vơ sinh con gái, bỏ vợ ngay nếu vợ bị điên (điều 81; chương 9).
+ Thừa kế, các con trai được thừa kế như nhau. Những người thừa kế có thể dùng chung
tài sản thừa kế do anh cả quản lý (điều 105; chương 9), một phần tài sản được chia cho con
gái dưới dạng của hồi môn (diều 118; chương 9), con gái không lấy chồng được chia tài
sản ngang mức con trai và tài sản riêng không chung tài sản với mẹ đẻ (điều 192; chương 9).
+ Hình luật, luật Manu thể hiện tính đẳng cấp khắc nghiệt được thể hiện qua nhiều quy
định. Với đẳng cấp dưới như Vaisya và Shudra không có khoan dung, mọi vị phạm của họ
đều bị trừng phạt nặng nề như bị cắt lưỡi, đổ dầu đun sôi vào miệng… (điều 270, 272;
chương 8). Còn Balamon và Kshatriya nếu vi phạm thì bị phạt tiền. Đối với tội trộm cắp,
luật Manu phạt rất nặng: kẻ trộm đêm thì bị đóng cọc, trong các trường hợp khác thì bị
đánh đập, tái phạm đến lần 3 thì bị xử tử (điều 277; chương 9). Ăn cắp tài sản của nhà Vua
và nhà chùa thì bị tử hình ngay lập tức (điều 280; chương 9), tội công khai ăn cướp tài sản
của nhân dân, dùng vũ lực với bị hại thì kẻ cắp bị xử tử cùng gia đình, họ hàng của hắn
(điều 269; chương 9). Tội mua bán hàng giả, lừa gạt.. bị trừng phạt; tội phản quốc thì bị
trừng phạt bằng cách “thiêu bàn tay”, cắt lưỡi, chặt tay, móc mắt, xẻo mũi, cắt bỏ bộ phận
sinh dục…(điều 125; chương 8). Kẻ nào nấu rượu nếu bị bắt thì bị khắc chữ vào trán, kẻ
ăn trộm bị khắc hình chân chó vào trán…. 1.1.4. Trung Quốc:
1.1.4.1. Quá trình ra đời của nhà nước Trung quốc cổ đại a. Quá trình hình thành:
Trung Quốc là một trong những nền văn minh lớn của phương Đông cổ đại, cũng như Ai
Cạp, Lưỡng Hà, ấn Độ, ở đây cũng có hai con sông lớn chảy qua đó là sông Hoàng Hà ở
phía Bắc và sông Trường Giang ở phía Nam. Lịch sử của Trung Quốc cổ đại kéo dài gần
2000 năm. từ khoảng TK 21 TCN đến năm 221 TCN. Trong thời gian đó, lãnh thổ của
Trung Quốc từ lưu vực sông Hoàng Hà không ngừng được mở rộng nhưng nhìn chung,
nếu so với ngày nay thì còn rất hạn chế. lOMoAR cPSD| 45943468
Vào khoảng TK 3 TCN, cư dân lưu vực sông Hoàng mới chuyển sang chế độ công xã thị
tộc phụ hệ. Theo truyền thuyết, ở đây có nhiều bộ lạc nổi tiếng như Hoàng Đế, Đường
Nghiêu, Ngu Thuấn, Hạ Vũ...Qua quá trình đấu tranh và liên hiệp giữa các bộ lạc, cuối
cùng hình thành một liên minh bộ lạc lớn mạnh do Đường Ngiêu, Ngu Thuấn, Hạ Vũ lần
lượt được bầu làm thủ lĩnh.
Trong thời kỳ này, kinh tế phát triển rõ rệt, nghề nông đã phát triển hơn trước nhiều do các
công trình thuỷ lợi được xây dựng lại thêm đất đai màu mỡ. Do vậy, trong xã hội đã xuất
hiện sự phân hoá tài sản và sự phân hoá xã hội diễn ra mạnh hơn. Tầng lớp quý tộc thị tộc
ngày càng chiếm nhiều ruộng đất của công xã.Dần dần tầng lớp quý tộc thị tộc hình thành
một giai cấp-quý tộc chủ nô. Đến thời Hạ, số lượng nô lệ ngày càng nhiều lên với nguồn
chính là tù binh chiến tranh. Nông dân công xã vẫn là lực lượng xã hội đông đảo thời bấy giờ.
Khi Hạ Vũ chết, các quý tộc thân cận nhà Hạ trong liên minh bộ lạc đã ủng hộ con của Vũ
là Khải lên thay. Việc bầu thủ lĩnh đến đây là chấm dứt, việc cha truyền con nối được coi
là đương nhiên. Khi trở thành vua, Khải trở thành ông vua có quyền hành rất lớn. Sự kiện
này đánh dấu sự hình thành nhà nước ở Trung Quốc.
b. Sơ lược lịch sử Trung Quốc cổ đại
Nhà nước đầu tiên trong lịch sử Trung quốc là nhà Hạ, do Vũ sáng lập vào khoảng năm
2005 TCN. Sau khi Vũ chết thì con ông là Khải lên nắm quyền, ông này trở thành vua đầu
tiên của Trung Quốc cổ đại. Trải qua mấy thế kỷ, Kiệt nổi lên là một bạo chúa, áp bức bóc
lột dân chúng thậm tệ, mâu thuẫn xã hội đã tới mức gay gắt. Nhân đó, nhà Thương được
thành lập, tấn công nhà Hạ, nhà Hạ diệt vong.
Năm 1711 TCN, nhà Thương thay thế nhà Hạ. Nhà Thương còn được gọi là nhà Ân, vì nhà
Thương dời đô về đất Ân Khư. Vua cuối cùng cùa Nhà Thương là Trụ Vương say mê sắc
đẹp của Đắc Kỷ hoang dâm, tàn bạo làm cho vương triều suy yếu. Nhà Chu lợi dụng tình
hình này tiến quân tiêu diệt nhà Thương, thành lập nhà Chu. Vua Chu thực hiện chính sách
phân phong đất đai cho con cháu mình làm chư hầu. Nhà Chu có 2 thời kỳ: Xuân Thu và Chiến Quốc. lOMoAR cPSD| 45943468
+ Thời Xuân Thu (771 – 475 TCN), chính quyền nhà Chu suy yếu, gần 100 nước chư hầu
gây chiến tranh thôn tính lẫn nhau, xưng bá để khống chế nhà chu và các nước khác. Đây
là thời kỳ suy sụp những giá trị đạo đức, xã hội rối ren, loạn lạc… do đó, xuất hiện nhiều
tư tưởng, học thuyết chính trị nhằm ổn định xã hội (thời kỳ bách gia chư tử).
+ Thời Chiến Quốc (403 – 221 TCN), đây là thời kỳ các nước gây chiến lẫn nhau giành
quyền thống trị cả Trung Quốc. Cuối thời kỳ này nổi lên 7 nước lớn Tề, Yên, Hàn, Sơ,
Triệu, Nguỵ, Tần và một số nước nhỏ. Năm 256, Đông Chu bị nhà Tần tiêu diệt. Sau đó,
nhà Tần lại lần lượt thôn tính các quốc gia còn lại, thống nhất Trung Quốc và cũng từ đó,
Trung Quốc bước sang giai đoạn lịch sử mới – giai đoạn phong kiến.
Về xã hội: Trung Quốc có 2 tầng lớp chính là địa chủ, nông dân công xã. Ở Trung Quốc,
quý tộc (còn gọi là địa chủ)có 3 loại là quý tộc thị tộc (vua – quan), quý tộc tăng lữ và các
quý tộc khác. Họ là giai cấp thống trị, nắm nhiều ruộng đất, của cải và nhiều quyền lợi về
chính trị. Kế tiếp là nông dân công xã (có 2 loại là nông dân tự canh và tá điền). Họ là lực
lượng chính trong xã hội, có ruộng đất, gia đình và tài sản, nhưng bị địa chủ bóc lột thậm
tệ. Giai cấp nô lệ cũng xuất hiện thời kỳ này nhưng chưa có vai trò quan trọng trong xã
hội. Chế độ nô lệ mang tính gia trưởng (nô lệ được coi là con người, có tài sản, ruộng đất
và được địa chủ coi như người thân trong nhà).
1.1.4.2. Tổ chức bộ máy nhà nước, quân đội (TW – địa phương)
Vào thời cổ đại, bộ mày nhà nước Trung Quốc còn đơn giản. Thời kỳ dân chủ quân sự,
đứng đầu là Thủ lĩnh bộ lạc; dưới ông là Hội đồng các bô lão có nhiệm vụ bầu cử thủ lĩnh,
quyết định các vấn đề về chiến tranh, trị thủy. Khi nhà Hạ thành lập, Vua Hạ thiết lập còn
khá đơn giản. Dưới Vua chỉ mới có một số quan lại giữ một số chức vụ quản lý các ngành
kinh tế như: Mục chính (quản lý việc chăn nuôi); Xa chính (quản lý xe); Bào chính (quản
lý việc dâng thức ăn cho Vua)… những chức quan này do quý tộc thị tộc đảm nhiệm.
Vào thời Thương đứng đầu bộ máy nhà nước là Vua (quý tộc lớn nhất, người đứng đầu
dòng họ). Vua có quyền hành lớn về kinh tế, chính trị, sở hữu tối cao về ruộng đất. Vua
toàn quyền quyết định mọi việc “Lễ Nhạc, chinh phạt đều từ Thiên tử mà ra” (Luận ngữ
chương Quý thị). Nhà Vua thần thánh hóa uy quyền và mượn “uy quyền” thần linh bắt
nhân dân thần phục. Dưới vua là Vu xử, vị quan có quyền lớn nhất. Ông này làm nhiều
công việc như làm lịch, coi việc ghi chép số sách, quản lý hồ sơ, coi việc giáo dục, dạy dỗ lOMoAR cPSD| 45943468
Vua và bảo hộ Ấu vương… Sau đó là cả một tập đoàn quý tộc, quan lại giúp Vua cai quản
các việc hành chính, hình pháp, quân đội, tế tự, ruộng đất, thủ công nghiệp… Những quan
lại này là người của hoàng tộc và được thế tập.
Vào thời Tây Chu (1066 – 771 TCN), người thống trị cao nhất gọi là Thiên tử. Vua thiết
lập “Tam công”[2] và “Lục Khanh”[3] để giúp việc cho mình. Để thiết lập quyền cai trị ở
Trung Quốc, Vua Tây Chu chia đất nước thành 6 vùng gọi là “Lục toại”, cử “toại sự” sang
cai trị các vùng này (cai quản đất đai, nhân dân). Trong quan hệ đối ngoại, nhà Tây Chu
thành lập chế độ Tông pháp. Theo chế độ này thì vua Chu là Tông chủ, các nước thần phục
nhà Chu gọi là chư hầu và triều cống Thiên tử đều đặn. Lúc đó ở Trung Quốc có 71 nước
chư hâu thần phục Tây Chu và ở các nước chư hầu, bộ máy nhà nước tổ chức theo hình
thức quân chủ quý tộc.
Thời Đông Chu (771 – 256 TCN) với hai giai đoạn lớn là Xuân Thu – Chiến Quốc, bộ máy
nhà nước ngày càng đông đảo, tăng cường sự chuyên chính của giai cấp thống trị đối với nhân dân lao động. 1.1.4.3. Luật pháp
1.1.4.3.1. Bối cảnh ra đời, nội dung các bộ luật tiêu biểu
Từ thời Hạ, nhà nước đã chú ý đến hình pháp. Thời Thương đã xây dựng các nhà tù, sử
dung nhiều hình phạt như đóng dấu nung đỏ, cắt mũi, gông cùm, đi đày; nếu phạt tội nặng
bị xử tử bằng cách chôn sống, mổ bụng, xẻo từng mảnh, bỏ vào cối giã. Hiện tượng một
người phạm tội cả nhà bị giết xuất hiện từ thời Thương. Sang thời Chu, hình phạt có 5 loại
là Ngũ hình: thích mực vào trán, chặt chân, cắt mũi, thiến và chém đầu. Luật pháp thời Chu
có 3.000 điều luật quy định cụ thể về Ngũ hình: tội thích chữ 1.000 điều, tội chặt chân 500
điều, tội thiến 300 điều, tội cắt mũi 1.000 điều, tội chém đầu 200 điều.
Về sau do sự phát triển của quốc gia mà hệ thống pháp luật được thay đổi. Quý tộc cho
rằng, nếu như cứ cai trị bằng bạo lực thì dân sẽ không nghe theo, có khi còn phản lại chính
quyền; cho nên họ thay đổi tư tưởng: giáo hóa nhân dân bằng chữ “đức”, để dân không
khinh nhờn và nghe theo mình. Ngoài “đức”, quý tộc còn giáo dục bằng chữ “lễ”. Họ cho
rằng “lễ” chính là quy định về thứ bậc, nghi thức ăn ở, hội họp; là quy tắc ứng xử đề con
người nghe theo. Hai chữ “đức” và “lễ” là công cụ thống trị nhân dân về mặc tinh thần của lOMoAR cPSD| 45943468
nhà Chu nhằm xóa nhòa và làm dịu mâu thuẫn giai cấp trong xã hội. Sang thời Xuân Thu,
với sự ra đời của Nho giáo thì hệ thống tư tưởng được nâng cao một bước.
Ông chủ trương con người phải có đủ 4 đức tính là: nhân, nghĩa, lễ, trí; đề cao chữ “nhân”
và “lễ”. Nhân là phạm trù đạo đức (có 5 phạm trù chính[4]) của con người. Để thực hiện
Nhân, ông đưa ra chữ Luân để chỉ trật tự trong quan hệ xã hội: luân lý, loạn luân; không
có Luân thì xã hội sẽ rối loạn. Mọi người phải lo tu dưỡng đạo đức, rèn luyện để có lòng
nhân từ. Những người làm vua, làm quan mà biết làm điều nhân nghĩa thì sẽ thu phục lòng
người và dân trông vào để học theo[5]. Ngoài ra, ông cũng đề cao “lễ”. “Lễ” là lễ nghi, lễ
phép, tập tục gia đình liên quan đến hành vi ứng xử của con người, thiết chế và hoạt động
tâm linh. Nhân là nội dung, Lễ là hình thức trong ứng xử của con người. Cần vứt bỏ mọi
thèm muốn riêng tư để thực hiện “lễ”, cụ thể là không nhìn, không nghe, không nói, không
làm điều gì trái “lễ”, có thế thì xã hội mới được ổn định. Đối với người lãnh đạo, ông cho
rằng muốn cho dân giàu, nước mạnh thì phải phấn đấu theo lý tưởng: tu thân (tu dưỡng
bản thân); tề gia (điều khiển gia đình); trị quốc (cai trị quốc gia); bình thiên hạ (thôn tính,
thống trị thiên hạ). Học thuyết của Khổng Tử giúp củng cố trật tự xã hội, chuyên chính
quốc gia và dung hòa mâu thuẫn xã hội.
Cũng trong thời kỳ này, ở một số nước chư hầu ngoài nước Chu đã ban hành một số bộ luật
như Hình thư của nước Trịnh, Hình Phù của nước Hàn, Hiến lệnh của nước Sở, Quốc luật
của nước Việt… Về sau nước Hàn tổng hợp kinh nghiệm lập pháp của các nước và bộ luật
cũ (Hình Phù) ban hành bộ luật mới là Pháp kinh. Bộ luật này tuy thất truyền nhưng theo
sử sách thì đây là bộ luật hoàn chỉnh nhất Trung Quốc cổ đại. Nó có 6 chương là: Đạ pháp:
quy định về tội cướp; Tặc pháp: quy định về tội giả mạo; Tư pháp; quy định vvề tố tụng,
xét xử; Bộ pháp: quy định về bắt giam; Tạp pháp: tạp luật; Bối pháp: quy định những
nguyên tắc chung. Đồng thời trong thời kỳ này đã xuất hiện nhiều nhà tư tưởng chủ trương
dùng pháp luật để cai trị như Quản Trọng, Thương Ưởng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Hàn
Phi; đại diện tiêu biểu là Hàn Phi (280 – 233 TCN). Theo Hàn Phi, để cai trị đất nước trong
thời đại loạn lạc như thế thì không thể nào dùng nhân đức để ổn định xã hội, mà phải dùng
pháp luật. Về nội dung, nó gồm 3 yếu tố: pháp, thế, thuật.
- Pháp: pháp luật và mệnh lệnh của vua phải rõ ràng, mạch lạc. Việc chấp pháp phảinghiêm minh.
- Thế: uy quyền của nhà vua. lOMoAR cPSD| 45943468
- Thuật: phương pháp điều hành, quản lý cn người: bổ nhiệm (căn cứ và tài năng để
bổnhiệm, không kể đến dòng dõi), khả hạch (căn cứ và trách nhiệm để kiểm tra hiệu quả
công viêc) và thưởng phạt (căn cứ và kết quả khả hạch, thưởng nhiều, phạt nặng)
Theo Pháp gia, với 3 yếu tố pháp, thế, thuật vua có thể trở thành một vị vua tốt mà không
cần nhân nghĩa, không cần trí tuệ,…
Nhận định chung về nhà nước phương Đông cổ đại (mô hình nhà nước, các tổ chức
- Các nhà nước ở phương đông cổ đại xuất hiện “sớm” do tác động vấn đề thủy lợi, trịthủy,
sự tan rã của công xã thị tộc, chiến tranh diễn ra liên miên giữa các vùng với nhau.
- Các nhà nước cổ đại phương Đông luôn là hình thức quân chuyên chế trung ương – tậpquyền.
- Bộ máy nhà nước là bộ máy bạo lực lớn, được thần thánh hóa nhằm bảo vệ giai cấpthống
trị một cách đắc lực nhất. Điều này làm cho bản chất giai cấp của các nhà nước này nổi
trội hơn bản chất xã hội của nó.
- Sự tồn tại lâu dài của các công xã nông thôn ảnh hưởng đến tổ chức chức bộ máy nhànước.
Nhà nước quản lý địa phương thông qua công xã nông thôn.
- Tuy nhiên, trong quá trình phục vụ cho giai cấp của mình, nhà nước chiếm hữu nô
lệphương đông đã làm nồng cốt cho nhân dân sáng tạo, xây dựng và phát triển văn hóa.
Do đó, các quốc gia phương đông cổ đại đã đạt nhiều thành tựu huy hoàng về văn hoá trở
thành một trong những trung tâm của văn minh thế giới cổ đại. + Pháp luật:
- Công khai thừa nhận sự bất bình đẳng trng quan hệ giai cấp, đẳng cấp bả vệ quyền lợivà
địa vị của giai cấp chủ nô và những người thuộc đẳng cấp trên trng xã hội nhằm củng cố
sự thống trị tuyệt đối của giai cấp chủ nô.
- Trong quan hệ gia đình, thừa nhận sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa các con
vớinhau, dưới ảnh hưởng của chế độ thống trị gia trưởng.
- Trọng hình, khinh dân, ranh giới giữa hình sự và dân sự rất mờ nhạt.
- Mang tính chất đồng thái phục thù
- Có dấu hiệu của sự phân biệt lỗi cố ý và vô ý lOMoAR cPSD| 45943468
- Bị ảnh hưởng bởi tôn giá, lễ và các hệ tư tưởng chính trị.
- Về hình thức, không có tính hệ thống, từ ngữ sử dụng rất cụ thể, không mang tính kháiquát.
1.2. Phương Tây cổ đại 1.2.1. Hy Lạp:
a. Vị trí địa lý, quá trình ra đời của nhà nước Hy Lạp cổ đại, kết cấu xã hội.
Về vị trí địa lý, Hy Lạp cổ đại có 3 phần: Hy lạp lục địa, các thành bang Hy Lạp và Đại Hy
Lạp. Hy Lạp lục địa có 3 vùng rõ rệt: miền bắc là đồng bằng Beoxi, miền trung là đồng
bằng Attic và miền nam là đồng bằng Laconi, ngoài ra có nhiều núi bao bọc xung quanh.
Hy Lạp sông ngắn, đồi núi nhiều và ít đồng bằng nên không thuận lợi cho sản xuất nông
nghiệp, chỉ thuận lợi cho sản xuất công thương nghiệp (làm rượu vang, rép dầu). Mặc khác
do địa hình bị chia cắt bới nhiều núi, đồi nên Hy Lạp khó hình thành nhà nước thống nhất
ma chi có thể hình thành các quốc gia nhỏ (thành bang).
Xã hội Hy Lạp hình thành từ khi thành lập các thành bang. Có 3 giai cấp là chủ nô, nông dân – thị dân, nô lệ
Lịch sử Hy lạp hình thành bắt đầu từ việc ra đời nền văn minh đầu tiên của phương Tây –
văn minh Cret – Mycenne. Nền văn minh này tồn tại suốt 18 thế kỷ (thế kỷ XX – XII TCN)
và chủ nhân của nó chính là người Achéen; thời kỳ này cũng đã thành lập khá nhiều nhà
nước chiếm hữu sơ khai của Hy Lạp như Crete, Mycenne, Tyre, Pilot… Vào thế kỷ XII
TCN, sau khi khi văn minh Cret – Mycenne bị người Dorien từ phía bắc xuống tiêu diệt,
Hy lạp bước vào thời kỳ tiếp theo là thời kỳ Homer (thế kỷ XI – IX TCN) – thời kỳ của
giai đoạn dân chủ quân sự, một hình thức quá độ từ sự tan rã của công xã nguyên thủy sang
xã hội có giai cấp. Kết thúc thời Homer, Hy Lạp bước vào thời kỳ thành bang (thế kỷ VIII
– IV TCN). Ở thời kỳ này, nhiều nhà nước ra đời lấy một thành phố làm trung tâm nên gọi
là Thị quốc (hay quốc gia thành thị) và tồn tại độc lập; ruộng đất thuộc quyền sở hữu chung
và tất cả công dân đều có quyền sở hữu số ruộng đất đó. Nô lệ thuộc quyền sở hữu của chủ
nô. Đến thế kỷ IV – I TCN, các thành bang mất dần độc lập và rơi vào ách thống trị của
Macedonia, La Mã. Với sự kiện La Mã đánh chiếm Ai Cập năm 31 TCN thì toàn bộ Hy
Lạp rơi vào ách thống trị của La Mã.