Nhìn sự khác biệt qua lăng kính tương đối văn hóa | Đại học Sư Phạm Hà Nội

Nhìn sự khác biệt qua lăng kính tương đối văn hóa | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống

NHÌN KHÁC BIỆT QUA LĂNG KÍNH TƯƠNG ĐỐI VĂN HÓA
- Cầm Phương -
Ai cũng biết rằng trên thế giới này có bao nhiêu đất nước, bao nhiêu dân tộc là bấy
nhiêu sự khác biệt về văn hóa. Sự khác biệt văn hóa tồn tại ngay trong mỗi quốc gia,
mỗi vùng miền, ngay cả trong mỗi con người. Tuy nhiên, từ chỗ nhận thức về s
khác biệt đến chỗ thừa nhận sự khác biệt cả một khoảng cách, đòi hỏi một cách tiếp
cận ‘mở’, vượt ra ngoài cái bóng trung tâm của chính mình.
Thuyết tương đối văn hóa (cultural relativism) một cách tiếp cận trong ngành
Nhân học văn hóa. Xuất phát từ lập luận cho rằng các thực hành văn hoá và đặc điểm xã
hội kết quả của hoàn cảnh lịch sử môi trường cụ thể nên việc đánh giá các giá trị
của các thực hành văn hoá (niềm tin, quan điểm, phong tục, vv) o đó phải được đặt
trong bối cảnh của chính nền văn hoá đó. Văn hoá, theo quan điểm tương đối văn hoá, vì
vậy, không 'đúng' hay 'sai', 'cao' hay 'thấp', nguyên thuỷ hay văn minh, sự khác
biệt đa dạng. Các nền văn hoá đều giá trị như nhau do mỗi nền văn hoá đều được
sáng tạo phát triển để thích ứng với mỗi môi trường tự nhiên xã hội chúng tồn
tại.
Cách tiếp cận tương đối văn hóa được bắt nguồn từ chủ nghĩa đặc thù lịch sử Mỹ
với Franz Boas (1858-1942). Về mặt phương pháp luận, Boas và các học trò trong trường
phái lịch scụ thể chủ trương phát triển các tiếp cận mang tính thực nghiệm, trong đó
nhấn mạnh tới việc sưu tầm thận trọng liệu điền bác bỏ phương pháp so sánh
mang tính chung chung, phổ quát. Đồng thời cách tiếp cận này nhấn mạnh đến nguyên
tắc phân tích tổng thể trong việc tìm hiểu các thực hành văn hoá. Để giải thích một hay
các phong tục văn hoá, theo các tác giả, cần phải phân tích chúng trong ba khía cạnh
bản , , liên quan, trong đó yếu tố lịch sửđiều kiện môi trường yếu tố tâm lịch sử
đóng vai trò quan trọng nhất.
Yếu tố văn hoá của một xã hội là kết quả của sự phát triển mang tính lịch sửsự
tương tác giữa con người môi trường của hội đó. Do đó, chỉ thể hiểu được một
cách đầy đủ đúng về bất cứ một thực hành văn hoá nào khi đặt trong bối cảnh của
những sự tương tác này. Chính vì vậy, bất cứ sự so sánh của nền văn hoá này với một nền
văn hoá khác là khiên cưỡng và sai về mặt phương pháp luận.
Chẳng hạn, đã thời, nhiều người coi canh tác nương rẫy của người miền núi
'lạc hậu', 'phá hoại môi trường' 'không kinh tế' trong so sánh với thực hành canh tác
1
ruộng nước của các dân dưới đồng bằng. Tuy nhiên, đây so sánh khập khiễng
trong bối cảnh tự nhiên miền núi, nương rẫy loại hình nông nghiệp giúp con người
thích ứng nhất. Xét khía cạnh kinh tế, canh tác nương rẫy thậm chí còn hiệu quả hơn
canh tác ruộng nước kỹ thuật đa canh- trồng lúa nhiều loại củ quả, vv trên một
mảnh nương-thể đem lại cho người dân nhiều loại sản phẩm, đảm bảo cho cuộc sống
tự cấp, tự túc của người dân trong khi sản phẩm đầu ra của ruộng nước chỉ là lúa. Phương
thức hưu canh luân khoảnh theo chu kỳ khép kín, thêm vào đó, không để lại nhiều tác
động tiêu cực cho môi trường sinh thái tự nhiên. Như một quy trình bắt buộc, người
dân chỉ canh tác trên một mảnh nương trong khoảng thời gian từ 5 đến 10 năm, sau khi
đất bạc màu thì chuyển sang canh tác các khu vực khác. Các mảnh nương cũ, sau thời
kỳ bỏ hoá để rừng tái sinh và đất màu mỡ trở lại, sẽ được đưa vào canh tác nhằm thay thế
cho các mảnh nương khác đã bạc màu. Hưu canh, thêm vào đó, tạo điều kiện cho người
dân có thể định một địa điểm lâu dài, 'không nay đây mai đó', như nhiều người vẫn
thường nghĩ.
Vào những năm đầu thế kỷ 20, cùng với sự hình thành phát triển của trường
phái đặc thù lịch sử ở Mỹ, với sự nhấn mạnh vào việc cần thiết của việc thu thập đầy đủ
liệu thực địa tránh sự đánh giá về sự khác biệt văn hoá mang tính tiến hoá, sự
hình thành của khuynh hướng Anh. Chức năng luận cũng bác bỏchức năng luận
thuyết tiến hoá luận về scao thấp của văn hoá giả định về sự phát tán của các thành
tố văn hoá từ một trung tâm ra toàn thế giới của trường phái khuếch tán văn hoá. Thay
vào đó, các học giả của trường phái chức năng luận cho rằng, tất cả các thực hành và thể
chế văn hoá đều một chức năng nào đó trong tổng thể của nền văn hoá được
sinh ra và tồn tại. Chính vì vậy, giống như lập luận của các học giả thuộc trường phái đặc
thù lịch sử, việc so sánh về giá trị chức năng của các thực hành văn hoá của các nền
văn hoá khác nhau, theo quan điểm của các nhà chức năng luận, là hoàn toàn bất hợp lý.
dụ, người Lự Nậm Tăm (tỉnh Lai Châu), sau đám cưới, dâu phải ra suối
gánh nước về cho một số họ hàng gần bên nhà chồng. Đây là một phong tục đãtừ lâu
đời và hiện nay vẫn đang được thực hành khá phổ biến trong vùng. Nếu chỉ nhìn riêng
vào việc gánh nước, thực hành văn hoá này thể được coi phong tục tạo ra sự bất
bình đẳng, là gánh nặng đối với người phụ nữ. Tuy nhiên, xét ở nhiều khía cạnh, tục gánh
nước sau khi cưới của các dâu đem lại nhiều lợi ích cho người phụ nữ hơn một tạo
ra gánh nặng đối với họ.
2
Luật tục truyền thống của người Lự quy định, khi gánh nước đến cho một người
họ hàng nào đó, đổi lại, dâu sẽ được gia chủ tặng một món đồ, phổ biến nhất một
con gà. Từ góc độ kinh tế, các món quà cô gái nhận được sau khi gánh nước nấu cơm cho
các gia đình họ hàng bên nhà chồng nguồn lực vật chất, góp phần giúp cho vợ chồng
trẻ tạo dựng một cuộc sống mới trên s chia sẻ giúp đỡ của họ tộc. Quan trọng
hơn, việc gánh nước đến từng thành viên trong gia đình nhà chồng, xét khía cạnh
hội, một hình thức 'làm quen', sự tham gia chính thức của người phụ nữ vào trong
mạng lưới hội của gia đình nhà chồng, giúp dâu tạo dựng mở rộng mạng hội
của mình. Mạng lưới hội mới này sẽ vốn hội quan trọng, giúp cho gia đình
dâu có được những sự đảm bảo cho đời sống kinh tế và xã hội của họ sau này.
Một nền văn hóa không phải tổng của các thành tố, tất cả các thành tố văn
hóa của một nền văn hóa đều snối kết chặt chẽ mang tính hữu với nhau mỗi
thành tố đều giá trị, chức năng nào đó trong tổng thể nền văn hoá chúng tồn tại. Nói
một cách ẩn dụ, nếu coi một nền văn hoá giống như một cơ thể của con người thì mỗi
thành tố văn hóa sẽ đóng vai trò như một bộ phận trong thể đó. Các thành tố của một
nền văn hoá sự nối kết mang tính cộng sinh với nhau, cùng nhau đóng góp cho sự tồn
tại một cách đầy đủ và bền vững giống như các bộ phận trong một cơ thể con người cùng
nhau giúp cho cơ thể tồn tại và phát triển một cách khoẻ mạnh. Chính vì các thành tố của
một nền văn hoá các mối tương liên với nhau như vậy, nên chúng ta chỉ thể hiểu
chức năng giá trị của chúng một cách đầy đủ khi chúng ta đặt các thành tố đó vào
trong tổng thể văn hoá mà nó sinh ra và tồn tại.
Một dụ tập quán 'mua đắt bán rẻ' người Raglai, Bác Ái, Ninh Thuận hiện
nay. Khi một lượng nông sản hay một sản vật nào đó, người dân ít khi bán cho người
lạ hay các chợ trung tâm, thường dành đem về bán cho một chủ quán quen biết
đầu làng hay những người mua bán hàng lưu động, cho dù giá bán ở đây có thể thấp hơn.
Người dân cũng thể sẵn sàng mua hàng từ một quán quen nào đó với giá đắt hơn các
cửa hàng "lạ" khác. Nếu tính toán theo lô gic kinh tế thông thường và chỉ tách riêng hình
thức trao đổi buôn bán này ra để đánh giá thì đây hình thức buôn bán, trao đổi vẻ
'không duy lý'. Tuy nhiên, nếu đặt hình thức trao đổi, buôn bán này trong bối cảnh kinh tế
xã hội hiện nay của người Raglai, nơi người dân không có nguồn tiền mặt ổn định và điều
kiện sản xuất chưa số lượng thừa lớn để trao đổi thường xuyên, thì hình thức trao
đổi buôn bán ‘nặng về tình cảm’ này cho phép người dân đảm bảo được đời sống kinh tế
bền vững của gia đình. Bằng các mối quan hệ thân thiết với các ‘bạn hàng’ lâu năm ở đầu
làng hay những người buôn bán lưu động, người dân vẫn thể được các nhu yếu
3
phẩm phục vụ cho đời sống hàng ngày của họ cho dù không tiền mặt trong tay. Hình thức
‘trao đổi’ này khó có thể hoặc không thể diễn ra ở các khu chợ trung tâm, nơi người mua
người bán đều những người không quen biết. Người ta cũng thể vay mượn các
‘bạn hàng’, thể các chủ quán ngay đầu làng hay những ngườin rong, một số
lượng tiền lớn khi gia đình việc cần, chẳng hạn như ốm đau hay gia đình nghi lễ
quan trọng. Đổi lại, khi một lượng nông sản hay một sản vật nào đó cần bán, người
dân sẽ đem đến cho các bạn hàng quen biết với giá cả thấp hơn so với giá bán chợ để
củng cố thêm các mối quan hệ mang tính cộng sinh của mình. Câu chuyện về thực nh
buôn bán của người Raglai cho thấy, để có được một sự nhìn nhận và đánh giá đầy đủ về
giá trị và ý nghĩa của thực hành hành văn hoá - xã hội nào đó, cần thiết phải đặt các thực
hành này trong tổng thể điều kiện kinh tế- văn hóa và hội cụ thể của chúng. Hình thức
trao đổi 'mua đắt, bán rẻ' người Raglai đang thực hành hiện nay có thể là những hoạt
động 'không duy lý' đối với những người khá giả,nguồn thu nhập ổn định, song trong
điều kiện kinh tế khó khăn của Raglai hiện nay, hình thức trao đổi buôn bán y lựa
chọn hợp lý.
Có thể nói, trong bối cảnh đa dạng tộc người Việt Nam, cách tiếp cận tương đối
văn hóa tỏ ra thích hợp để nhìn nhận trân trọng sự đa dạng của những nền văn hóa
khác nhau. Trong mỗi nền văn hóa đó, tộc người chủ thể thực hành những phương thức
sinh kế khác nhau, thể hiện trụ quan nhân sinh quan đặc thù của họ qua các hình
thức biểu cảm trong tôn giáo, trong các mối quan hệ của cuộc sống hàng ngày giữa
nhân với nhau với cộng đồng. Những thực hành văn hóa ấy nảy sinh từ trong chính
điều kiện lịch sử môi trường của cộng đồng, luôn những logic hợp đối với
người trong cuộc. Bởi vậy những khái niệm mang tính phê phán nhưlạc hậu” hay “mê
tín” đối với một nền văn hóa hay một thực hành văn hóa luôn cần được nghi vấn, bởi lẽ
đang được so sánh với một nền văn hóa khác, hay được nhìn nhận từ một hệ giá trị
khác một cách khiên cưỡng.
Đã một số người phản bác thuyết tương đối văn hóa cho rằng thể dẫn
đến một thứ chủ nghĩa “Mình-thì-khác” – tự đặt mình ra ngoài những giá trị phổ quát của
nhân loại, hay lo ngại rằng thể trở thành sự bào chữa tính luận cho những
hành vi phản nhân văn dưới chắn “phong tục địa phương” (như tục chôn trẻ sinh
theo mẹ, hay chôn sống người vợ nếu chồng chết). Tất nhiên, thuyết tương đối văn hóa
chỉ một nỗ lực tìm hiểu nền văn hóa khác bằng chính nó, cách tiếp cận nhấn mạnh
đến giá trị và tính hợp lý của mỗi nền văn hóa, nhưng điều đó không có nghĩa là nó có thể
bị lợi dụng để đi ngược lại những giá trị nhân văn của nhân loại. Bởi vậy, nhạy cảm văn
4
hóa ( ) là một hướng tiếp cận hỗ trợ cho tương đối văn hóa, được các tổcultural sensitivity
chức Liên Hợp Quốc chú ý gần đây bởi nhạy cảm văn hóa thừa nhận mỗi n hóa
những giá trị chuẩn mực khác nhau cần được tôn trọng; nhưng đồng thời cũng cần
nhìn nhận rằng còn những tập quánn hóa vi phạm quyền con người cản trở sự
phát triển của cộng đồng. Khi những “thực hành văn hóa” đi ngược lại những giá trị nhân
văn, cần trở thành nguyên tắc thượng tôn. thể nói “tương đối vănquyền con người
hóa” và “nhạy cảm văn hóa” giúp chúng ta tiếp cận sự khác biệt một cách nhân văn trong
làn sóng phát triển hiện nay.
Nguồn: dienngon.vn
5
| 1/5

Preview text:

NHÌN KHÁC BIỆT QUA LĂNG KÍNH TƯƠNG ĐỐI VĂN HÓA - Cầm Phương -
Ai cũng biết rằng trên thế giới này có bao nhiêu đất nước, bao nhiêu dân tộc là bấy
nhiêu sự khác biệt về văn hóa. Sự khác biệt văn hóa tồn tại ở ngay trong mỗi quốc gia,
mỗi vùng miền, và ở ngay cả trong mỗi con người. Tuy nhiên, từ chỗ nhận thức về sự
khác biệt đến chỗ thừa nhận sự khác biệt là cả một khoảng cách, đòi hỏi một cách tiếp
cận ‘mở’, vượt ra ngoài cái bóng trung tâm của chính mình.
Thuyết tương đối văn hóa (cultural relativism) là một cách tiếp cận trong ngành
Nhân học văn hóa. Xuất phát từ lập luận cho rằng các thực hành văn hoá và đặc điểm xã
hội là kết quả của hoàn cảnh lịch sử và môi trường cụ thể nên việc đánh giá các giá trị
của các thực hành văn hoá (niềm tin, quan điểm, phong tục, vv) nào đó phải được đặt
trong bối cảnh của chính nền văn hoá đó. Văn hoá, theo quan điểm tương đối văn hoá, vì
vậy, không có 'đúng' hay 'sai', 'cao' hay 'thấp', nguyên thuỷ hay văn minh, mà là sự khác
biệt và đa dạng. Các nền văn hoá đều có giá trị như nhau do mỗi nền văn hoá đều được
sáng tạo và phát triển để thích ứng với mỗi môi trường tự nhiên và xã hội mà chúng tồn tại.
Cách tiếp cận tương đối văn hóa được bắt nguồn từ chủ nghĩa đặc thù lịch sử Mỹ
với Franz Boas (1858-1942). Về mặt phương pháp luận, Boas và các học trò trong trường
phái lịch sử cụ thể chủ trương phát triển các tiếp cận mang tính thực nghiệm, trong đó
nhấn mạnh tới việc sưu tầm thận trọng tư liệu điền dã và bác bỏ phương pháp so sánh
mang tính chung chung, phổ quát. Đồng thời cách tiếp cận này nhấn mạnh đến nguyên
tắc phân tích tổng thể trong việc tìm hiểu các thực hành văn hoá. Để giải thích một hay
các phong tục văn hoá, theo các tác giả, cần phải phân tích chúng trong ba khía cạnh cơ
bản là điều kiện môi trường, yếu tố tâm lý, và lịch sử liên quan, trong đó yếu tố lịch sử
đóng vai trò quan trọng nhất.
Yếu tố văn hoá của một xã hội là kết quả của sự phát triển mang tính lịch sử và sự
tương tác giữa con người và môi trường của xã hội đó. Do đó, chỉ có thể hiểu được một
cách đầy đủ và đúng về bất cứ một thực hành văn hoá nào khi đặt trong bối cảnh của
những sự tương tác này. Chính vì vậy, bất cứ sự so sánh của nền văn hoá này với một nền
văn hoá khác là khiên cưỡng và sai về mặt phương pháp luận.
Chẳng hạn, đã có thời, nhiều người coi canh tác nương rẫy của người miền núi là
'lạc hậu', 'phá hoại môi trường' và 'không kinh tế' trong so sánh với thực hành canh tác 1
ruộng nước của các cư dân dưới đồng bằng. Tuy nhiên, đây là so sánh khập khiễng vì
trong bối cảnh tự nhiên miền núi, nương rẫy là loại hình nông nghiệp giúp con người
thích ứng nhất. Xét ở khía cạnh kinh tế, canh tác nương rẫy thậm chí còn hiệu quả hơn
canh tác ruộng nước vì kỹ thuật đa canh- trồng lúa và nhiều loại củ quả, vv trên một
mảnh nương- có thể đem lại cho người dân nhiều loại sản phẩm, đảm bảo cho cuộc sống
tự cấp, tự túc của người dân trong khi sản phẩm đầu ra của ruộng nước chỉ là lúa. Phương
thức hưu canh luân khoảnh theo chu kỳ khép kín, thêm vào đó, không để lại nhiều tác
động tiêu cực cho môi trường sinh thái tự nhiên. Như là một quy trình bắt buộc, người
dân chỉ canh tác trên một mảnh nương trong khoảng thời gian từ 5 đến 10 năm, sau khi
đất bạc màu thì chuyển sang canh tác ở các khu vực khác. Các mảnh nương cũ, sau thời
kỳ bỏ hoá để rừng tái sinh và đất màu mỡ trở lại, sẽ được đưa vào canh tác nhằm thay thế
cho các mảnh nương khác đã bạc màu. Hưu canh, thêm vào đó, tạo điều kiện cho người
dân có thể định cư ở một địa điểm lâu dài, 'không nay đây mai đó', như nhiều người vẫn thường nghĩ.
Vào những năm đầu thế kỷ 20, cùng với sự hình thành và phát triển của trường
phái đặc thù lịch sử ở Mỹ, với sự nhấn mạnh vào việc cần thiết của việc thu thập đầy đủ
tư liệu thực địa và tránh sự đánh giá về sự khác biệt văn hoá mang tính tiến hoá, là sự
hình thành của khuynh hướng chức năng luận ở Anh. Chức năng luận cũng bác bỏ
thuyết tiến hoá luận về sự cao thấp của văn hoá và giả định về sự phát tán của các thành
tố văn hoá từ một trung tâm ra toàn thế giới của trường phái khuếch tán văn hoá. Thay
vào đó, các học giả của trường phái chức năng luận cho rằng, tất cả các thực hành và thể
chế văn hoá đều có một chức năng nào đó trong tổng thể của nền văn hoá mà nó được
sinh ra và tồn tại. Chính vì vậy, giống như lập luận của các học giả thuộc trường phái đặc
thù lịch sử, việc so sánh về giá trị và chức năng của các thực hành văn hoá của các nền
văn hoá khác nhau, theo quan điểm của các nhà chức năng luận, là hoàn toàn bất hợp lý.
Ví dụ, ở người Lự Nậm Tăm (tỉnh Lai Châu), sau đám cưới, cô dâu phải ra suối
gánh nước về cho một số họ hàng gần bên nhà chồng. Đây là một phong tục đã có từ lâu
đời và hiện nay vẫn đang được thực hành khá phổ biến ở trong vùng. Nếu chỉ nhìn riêng
vào việc gánh nước, thực hành văn hoá này có thể được coi là phong tục tạo ra sự bất
bình đẳng, là gánh nặng đối với người phụ nữ. Tuy nhiên, xét ở nhiều khía cạnh, tục gánh
nước sau khi cưới của các cô dâu đem lại nhiều lợi ích cho người phụ nữ hơn là một tạo
ra gánh nặng đối với họ. 2
Luật tục truyền thống của người Lự quy định, khi gánh nước đến cho một người
họ hàng nào đó, đổi lại, cô dâu sẽ được gia chủ tặng một món đồ, phổ biến nhất là một
con gà. Từ góc độ kinh tế, các món quà cô gái nhận được sau khi gánh nước nấu cơm cho
các gia đình họ hàng bên nhà chồng là nguồn lực vật chất, góp phần giúp cho vợ chồng
trẻ tạo dựng một cuộc sống mới trên cơ sở chia sẻ và giúp đỡ của họ tộc. Quan trọng
hơn, việc gánh nước đến từng thành viên trong gia đình nhà chồng, xét ở khía cạnh xã
hội, là một hình thức 'làm quen', là sự tham gia chính thức của người phụ nữ vào trong
mạng lưới xã hội của gia đình nhà chồng, giúp cô dâu tạo dựng và mở rộng mạng xã hội
của mình. Mạng lưới xã hội mới này sẽ là vốn xã hội quan trọng, giúp cho gia đình cô
dâu có được những sự đảm bảo cho đời sống kinh tế và xã hội của họ sau này.
Một nền văn hóa không phải là tổng của các thành tố, mà tất cả các thành tố văn
hóa của một nền văn hóa đều có sự nối kết chặt chẽ mang tính hữu cơ với nhau và mỗi
thành tố đều có giá trị, chức năng nào đó trong tổng thể nền văn hoá chúng tồn tại. Nói
một cách ẩn dụ, nếu coi một nền văn hoá giống như một cơ thể của con người thì mỗi
thành tố văn hóa sẽ đóng vai trò như một bộ phận trong cơ thể đó. Các thành tố của một
nền văn hoá có sự nối kết mang tính cộng sinh với nhau, cùng nhau đóng góp cho sự tồn
tại một cách đầy đủ và bền vững giống như các bộ phận trong một cơ thể con người cùng
nhau giúp cho cơ thể tồn tại và phát triển một cách khoẻ mạnh. Chính vì các thành tố của
một nền văn hoá có các mối tương liên với nhau như vậy, nên chúng ta chỉ có thể hiểu
chức năng và giá trị của chúng một cách đầy đủ khi chúng ta đặt các thành tố đó vào
trong tổng thể văn hoá mà nó sinh ra và tồn tại.
Một ví dụ là tập quán 'mua đắt bán rẻ' ở người Raglai, Bác Ái, Ninh Thuận hiện
nay. Khi có một lượng nông sản hay một sản vật nào đó, người dân ít khi bán cho người
lạ hay ở các chợ trung tâm, mà thường dành đem về bán cho một chủ quán quen biết ở
đầu làng hay những người mua bán hàng lưu động, cho dù giá bán ở đây có thể thấp hơn.
Người dân cũng có thể sẵn sàng mua hàng từ một quán quen nào đó với giá đắt hơn các
cửa hàng "lạ" khác. Nếu tính toán theo lô gic kinh tế thông thường và chỉ tách riêng hình
thức trao đổi buôn bán này ra để đánh giá thì đây là hình thức buôn bán, trao đổi có vẻ
'không duy lý'. Tuy nhiên, nếu đặt hình thức trao đổi, buôn bán này trong bối cảnh kinh tế
xã hội hiện nay của người Raglai, nơi người dân không có nguồn tiền mặt ổn định và điều
kiện sản xuất chưa có số lượng dư thừa lớn để trao đổi thường xuyên, thì hình thức trao
đổi buôn bán ‘nặng về tình cảm’ này cho phép người dân đảm bảo được đời sống kinh tế
bền vững của gia đình. Bằng các mối quan hệ thân thiết với các ‘bạn hàng’ lâu năm ở đầu
làng hay những người buôn bán lưu động, người dân vẫn có thể có được các nhu yếu 3
phẩm phục vụ cho đời sống hàng ngày của họ cho dù không tiền mặt trong tay. Hình thức
‘trao đổi’ này khó có thể hoặc không thể diễn ra ở các khu chợ trung tâm, nơi người mua
và người bán đều là những người không quen biết. Người ta cũng có thể vay mượn các
‘bạn hàng’, có thể là các chủ quán ở ngay đầu làng hay những người bán rong, một số
lượng tiền lớn khi gia đình có việc cần, chẳng hạn như ốm đau hay gia đình có nghi lễ
quan trọng. Đổi lại, khi có một lượng nông sản hay một sản vật nào đó cần bán, người
dân sẽ đem đến cho các bạn hàng quen biết với giá cả thấp hơn so với giá bán ở chợ để
củng cố thêm các mối quan hệ mang tính cộng sinh của mình. Câu chuyện về thực hành
buôn bán của người Raglai cho thấy, để có được một sự nhìn nhận và đánh giá đầy đủ về
giá trị và ý nghĩa của thực hành hành văn hoá - xã hội nào đó, cần thiết phải đặt các thực
hành này trong tổng thể điều kiện kinh tế- văn hóa và xã hội cụ thể của chúng. Hình thức
trao đổi 'mua đắt, bán rẻ' mà người Raglai đang thực hành hiện nay có thể là những hoạt
động 'không duy lý' đối với những người khá giả, có nguồn thu nhập ổn định, song trong
điều kiện kinh tế khó khăn của Raglai hiện nay, hình thức trao đổi buôn bán này là lựa chọn hợp lý.
Có thể nói, trong bối cảnh đa dạng tộc người ở Việt Nam, cách tiếp cận tương đối
văn hóa tỏ ra thích hợp để nhìn nhận và trân trọng sự đa dạng của những nền văn hóa
khác nhau. Trong mỗi nền văn hóa đó, tộc người chủ thể thực hành những phương thức
sinh kế khác nhau, thể hiện vũ trụ quan và nhân sinh quan đặc thù của họ qua các hình
thức biểu cảm trong tôn giáo, trong các mối quan hệ của cuộc sống hàng ngày giữa cá
nhân với nhau và với cộng đồng. Những thực hành văn hóa ấy nảy sinh từ trong chính
điều kiện lịch sử và môi trường của cộng đồng, và luôn có những logic hợp lý đối với
người trong cuộc. Bởi vậy những khái niệm mang tính phê phán như “lạc hậu” hay “mê
tín” đối với một nền văn hóa hay một thực hành văn hóa luôn cần được nghi vấn, bởi lẽ
nó đang được so sánh với một nền văn hóa khác, hay được nhìn nhận từ một hệ giá trị
khác một cách khiên cưỡng.
Đã có một số người phản bác thuyết tương đối văn hóa vì cho rằng nó có thể dẫn
đến một thứ chủ nghĩa “Mình-thì-khác” – tự đặt mình ra ngoài những giá trị phổ quát của
nhân loại, hay lo ngại rằng nó có thể trở thành sự bào chữa có tính lý luận cho những
hành vi phản nhân văn dưới lá chắn “phong tục địa phương” (như tục chôn trẻ sơ sinh
theo mẹ, hay chôn sống người vợ nếu chồng chết). Tất nhiên, thuyết tương đối văn hóa
chỉ là một nỗ lực tìm hiểu nền văn hóa khác bằng chính nó, là cách tiếp cận nhấn mạnh
đến giá trị và tính hợp lý của mỗi nền văn hóa, nhưng điều đó không có nghĩa là nó có thể
bị lợi dụng để đi ngược lại những giá trị nhân văn của nhân loại. Bởi vậy, nhạy cảm văn 4
hóa (cultural sensitivity) là một hướng tiếp cận hỗ trợ cho tương đối văn hóa, được các tổ
chức Liên Hợp Quốc chú ý gần đây bởi nhạy cảm văn hóa thừa nhận mỗi văn hóa có
những giá trị và chuẩn mực khác nhau và cần được tôn trọng; nhưng đồng thời cũng cần
nhìn nhận rằng còn có những tập quán văn hóa vi phạm quyền con người và cản trở sự
phát triển của cộng đồng. Khi những “thực hành văn hóa” đi ngược lại những giá trị nhân
văn, quyền con người cần trở thành nguyên tắc thượng tôn. Có thể nói “tương đối văn
hóa” và “nhạy cảm văn hóa” giúp chúng ta tiếp cận sự khác biệt một cách nhân văn trong
làn sóng phát triển hiện nay. Nguồn: dienngon.vn 5