



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 60860503
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA QUẢN LÝ VĂN HÓA VÀ NGHỆ THUẬT BÁO CÁO MÔN HỌC
Môn Phương pháp nghiên cứu khoa học
Đề tài: NHU CẦU GIÁO DỤC GIỚI TÍNH CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Trần Phương Thảo
Nhóm sinh viên thực hiện: NHÓM 2 – CT6011 (N08)
1. Nguyễn Thị Xuân Mai – 64DQL24097
2. Nguyễn Minh Tâm – 64DQL24127
3. Vương Thanh Thảo – 64DQL24141
4. Nguyễn Mai Nhật Linh – 64DQL24087
5. Trương Ngọc Linh – 64DQL24090
6. Phạm Thu Trang – 64DQL24155 Hà Nội, tháng 01 năm 2025 lOMoAR cPSD| 60860503 BẢNG PHÂN CÔNG
Nội dung công việc Người thực hiện
Điểm đánh giá của giảng viên Nguyễn Thị Xuân Mai Xây dựng đề cương khái quát
Xây dựng đề cương Nguyễn Thị Xuân Mai chi tiết Nguyễn Minh Tâm Vương Thanh Thảo Nguyễn Mai Nhật Linh Trương Ngọc Linh Phạm Thu Trang
Xây dựng bảng hỏi Nguyễn Mai Nhật Linh Trương Ngọc Linh
Viết phần mở đầu Nguyễn Thị Xuân Mai Vương Thanh Thảo
Viết phần kết luận, tài liệu tham khảo Viết Nguyễn Thị Xuân Mai Mục chương 1 1.1 Mục Nguyễn Minh Tâm 1.2 Mục Vương Thanh Thảo 1.3 lOMoAR cPSD| 60860503 Viết chương 2 Nguyễn Mai Nhật Linh Trương Ngọc Linh Viết chương 3 Phạm Thu Trang Nguyễn Thị Xuân Mai Chỉnh sửa hình thức nội dung văn Vương Thanh Thảo bản Thuyết trình Nguyễn Thị Xuân Mai Phạm Thu Trang Làm Powerpoint Nguyễn Minh Tâm
In ấn, đóng quyển Nguyễn Thị Xuân Mai lOMoAR cPSD| 60860503 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................................5 1.
Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................5 2.
Tình hình nghiên cứu ...........................................................................6 3.
Mục đích nghiên cứu ..........................................................................10 4.
Đối tượng và khách thể nghiên cứu ....................................................10 5.
Phạm vi nghiên cứu ...........................................................................10 6.
Phương pháp nghiên cứu ....................................................................11 7.
Bố cục đề tài .......................................................................................11
NỘI DUNG ............................................................................................................12
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHU CẦU GIÁO DỤC
GIỚI TÍNH CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
1.1. Một số khái niệm cơ bản.........................................................................12
1.1.1. Nhu cầu................................................................................................12
1.1.2. Giới tính ..............................................................................................17
1.1.3. Giáo dục giới tính ...............................................................................22
1.2. Nội dung giáo dục giới tính ...................................................................25
1.3. Đặc điểm sinh lý và tâm lý của thanh niên, sinh viên ............................31
1.3.1. Đặc điểm sinh lý của thanh niên, sinh viên ........................................32
1.3.2. Đặc điểm tâm lý của thanh niên, sinh viên ........................................34
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................................38
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ NHU CẦU GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
2.1. Thực trạng nhận thức về nội dung giáo dục giới tính............................39
2.1.1. Mức độ nhận biết các nội dung giáo dục giới tính.............................39 lOMoAR cPSD| 60860503
2.1.2. Mức độ hiểu biết các nội dung giáo dục giới tính ..............................40
2.1.3. Mức độ nhận thức về tầm quan trọng của giáo dục giới tính ............42
2.2. Thực trạng nhu cầu về nội dung giáo dục giới tính ..............................42
2.2.1. Về vấn đề quan hệ khác giới, tình bạn, tình yêu .................................43
2.2.2. Về vấn đề bình đẳng giới.....................................................................44
2.2.3. Về vấn đề các bệnh lây truyền qua đường tình dục ...........................45
2.2.4. Về các biện pháp tránh thai ...............................................................46
2.2.5.Về vấn đề hôn nhân - gia đình ............................................................46
2.2.6. Về vấn đề sinh sản và sức khỏe sinh sản ...........................................47
2.3. Thực trạng nhu cầu về hình thức giáo dục giới tính .............................48
2.3.1. Về quy mô triển khai ..........................................................................48
2.3.2. Về phương pháp tổ chức ....................................................................52
2.3.3. Về đối tượng trao đổi, tư vấn
............................................................54
2.4. Thực trạng một số yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu giáo dục giới tính của
sinh viên trường Đại học Văn hóa Hà Nội ..................................................57
2.4.1 Các yếu tố khách quan .......................................................................57
2.4.2 Các yếu tố chủ quan ..........................................................................59
2.5. Đánh giá thực trạng nhu cầu giáo dục giới tính của sinh viên trường Đại
học Văn hóa Hà Nội ...................................................................................63
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2............................................................................65
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NHẬN THỨC VỀ GIÁO DỤC
GIỚI TÍNH CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
3.1 Tăng cường giáo dục giới tính trong chương trình học .........................67
3.2 Tích hợp giáo dục giới tính vào hoạt động ngoại khóa và hợp tác với các lOMoAR cPSD| 60860503
tổ chức xã hội ................................................................................................67
3.3 Đẩy mạnh truyền thông nội bộ về giáo dục giới tính ..............................68
3.4 Thiết lập đội ngũ tư vấn tâm lý và giáo dục giới tính tại trường ............69
3.5 Tạo môi trường gia đình cởi mở và thân thiện
........................................69
3.6 Khuyến khích sinh viên tự học hỏi và tìm hiểu kiến thức chính thống ..70
3.7 Sinh viên chủ động tham gia các hoạt động giáo dục giới tính tại trường
và cộng đồng.................................................................................................71
3.8. Lan tỏa thông điệp tích cực về giáo dục giới tính trong cộng đồng sinh
viên ...............................................................................................................71
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 .............................................................................71
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................73
PHỤ LỤC .....................................................................................................77 lOMoAR cPSD| 60860503 MỞ ĐẦU 1.
Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, giáo dục giới tính đang trở thành một vấn đề cấp bách tại Việt Nam,
đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập toàn cầu và sự phát triển của các phương tiện
truyền thông hiện đại. Đối với sinh viên đại học, nhóm thanh niên chiếm tỷ lệ lớn
trong dân số Việt Nam, giáo dục giới tính càng trở nên cấp bách. Theo báo cáo của
Tổng cục Thống kê Việt Nam phối hợp với Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA,
2022), hơn 40% dân số Việt Nam nằm trong độ tuổi 10-29 [35;4], với những thay đổi
lớn về mặt sinh lý, tâm lý và xã hội. Tuy nhiên, các thống kê cũng chỉ ra rằng, Việt
Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ phá thai ở tuổi vị thành niên và thanh niên
cao nhất khu vực Đông Nam Á, chiếm khoảng 5% tổng số ca phá thai hàng năm.
Trong đó, tỷ lệ nữ giới từ 15–24 tuổi mang thai ngoài ý muốn chiếm khoảng 10%
[41;16]. Điều này không chỉ gây ra hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe và tâm lý cho
cá nhân, mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng nguồn nhân lực tương lai.
Đồng thời, theo Báo cáo Điều tra Quốc gia về Thanh niên Việt Nam (GSO và
UNFPA, 2021), 41% thanh thiếu niên không có đủ kiến thức đúng về các biện pháp
tránh thai hiện đại [36;24]. Nhiều sinh viên chỉ hiểu biết sơ lược về các biện pháp
tránh thai hoặc thậm chí sử dụng sai mục đích các loại thuốc này. Việc sinh viên hiểu
sai hoặc sử dụng không đúng các biện pháp tránh thai và sức khỏe sinh sản, dẫn đến
các hậu quả nghiêm trọng như nạo phá thai, lạm dụng thuốc. Điều này phản ánh rõ
ràng một khoảng trống lớn trong việc cung cấp kiến thức và kỹ năng cần thiết về sức
khỏe sinh sản và tình dục an toàn cho giới trẻ. Đặc biệt, sinh viên nhóm đối tượng có
sự tự do trong cuộc sống và tiếp cận rộng rãi với thông tin từ nhiều nguồn khác nhau
- lại thường xuyên đối mặt với nguy cơ tiếp nhận các thông tin sai lệch, thiếu sự định
hướng và hỗ trợ từ nhà trường và xã hội.
Mặc dù GIÁO DỤC GIỚI TÍNH đã được tích hợp vào chương trình giáo dục
phổ thông tại Việt Nam từ năm 2018, nhưng theo nghiên cứu của Bộ Giáo dục và
Đào tạo (Bộ GD-ĐT) năm 2020, chỉ 30% trường đại học tại Việt Nam có triển khai
các chương trình GIÁO DỤC GIỚI TÍNH dưới dạng hội thảo hoặc chuyên đề.
Nghiên cứu cũng cho thấy, các chương trình GIÁO DỤC GIỚI TÍNH chủ yếu mang
tính lý thuyết, chưa chú trọng đến việc trang bị kỹ năng thực hành, dẫn đến sự thụ lOMoAR cPSD| 60860503
động trong tiếp cận thông tin; nội dung, hình thức giảng dạy cũng bị đánh giá là khô
khan và mức độ tiếp cận vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế học sinh, sinh viên
[4]. Đây là một khoảng trống lớn cần được nghiên cứu để xây dựng các giải pháp
phù hợp, hướng tới việc nâng cao nhận thức và hành động đúng đắn trong giới trẻ.
Với đặc thù môi trường đại học - nơi sinh viên không chỉ học tập mà còn hình
thành tư duy, nhận thức về cuộc sống và các mối quan hệ, việc nghiên cứu nhu cầu
GIÁO DỤC GIỚI TÍNH có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng các chương trình
giáo dục phù hợp. Đặc biệt, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội - với vai trò là nơi đào
tạo các cán bộ văn hóa tương lai - cần tiên phong trong việc nhận diện và đáp ứng
nhu cầu này. Việc khảo sát nhu cầu GIÁO DỤC GIỚI TÍNH của sinh viên Trường
Đại học Văn hóa Hà Nội không chỉ giúp nâng cao nhận thức và kỹ năng thực tế cho
sinh viên, định hình các chương trình giáo dục phù hợp, góp phần tạo dựng một thế
hệ trẻ có trách nhiệm với bản thân và xã hội mà còn mang lại cơ sở khoa học cho
việc xây dựng các chính sách và mô hình giáo dục hiện đại, phù hợp với thực tiễn xã
hội và đặc điểm văn hóa.
Từ những lý do trên, nhóm quyết định nghiên cứu đề tài “Nhu cầu giáo dục
giới tính của sinh viên trường Đại học Văn hóa Hà Nội”.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về giáo dục giới tính trên thế giới
Giáo dục giới tính là một lĩnh vực đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu trên toàn
cầu, bắt đầu từ những phân tích cổ điển trong các tác phẩm kinh điển như Kamasutra
của Ấn Độ hay Nghệ thuật yêu của Ovidius ở La Mã cổ đại.Tuy nhiên, nghiên cứu
khoa học hiện đại về giới tính chỉ thực sự khởi sắc từ thế kỷ XIX và XX với những
đóng góp của các nhà khoa học tiên phong như Richard von KrafftEbing (Rối loạn
tình dục, 1886 và Sigmund Freud (Ba luận văn về lý thuyết tình dục, 1905. Những
công trình này đặt nền móng lý thuyết về các khía cạnh sinh học và tâm lý của tình dục.
Trong thế kỷ XX, Alfred Kinsey đã tạo dấu ấn lớn với nghiên cứu “Ứng xử
tình dục của đàn ông” (1948) và “Ứng xử tình dục của phụ nữ” (1953), phá vỡ các
định kiến xã hội về tình dục, đồng thời chỉ ra nhu cầu giáo dục giới tính toàn diện lOMoAR cPSD| 60860503
nhằm trang bị kiến thức đúng đắn cho các cá nhân.Tiếp đó, công trình của William
Masters và Virginia Johnson (Phản ứng tình dục ở con người, 1954) đã cung cấp dữ
liệu khoa học chi tiết về phản ứng cơ thể và hành vi tình dục, góp phần định hình các
chương trình giáo dục giới tính dựa trên thực tiễn.
Tại châu Âu, giáo dục giới tính được triển khai từ rất sớm trong hệ thống giáo
dục chính quy. Các hội nghị quốc tế như hội nghị ở Geneva (1974) hay Thụy Điển
(1983) đã xác định vai trò cốt yếu của giáo dục giới tính trong trường học.Một nghiên
cứu quan trọng của Johnson và Miller (Giáo dục giới tính toàn diện tại châu Âu,
2019) tại châu Âu chỉ ra rằng các chương trình giáo dục giới tính hiệu quả là những
chương trình toàn diện, có sự kết hợp giữa giáo dục về sức khỏe sinh sản, kỹ năng
sống và sự tham gia của cộng đồng.
Tuy nhiên, giáo dục giới tính không đồng nhất giữa các quốc gia. Nghiên cứu
của Tôn Vân Hiểu và Trương Dẫn Mặc (Nghiên cứu về giáo dục giới tính tại Trung
Quốc, 2002-2003) tại Trung Quốc cho thấy học sinh có nhu cầu cao về thông tin giới
tính nhưng lại không hài lòng với nội dung và phương pháp tiếp cận hiện tại. Các rào
cản văn hóa và xã hội là những yếu tố chính ảnh hưởng đến hiệu quả của giáo dục giới tính.
Những thành công từ các nghiên cứu quốc tế đã chứng minh rằng giáo dục giới
tính không chỉ là một nhu cầu cơ bản mà còn là công cụ quan trọng trong việc xây
dựng các hành vi tình dục lành mạnh, giảm thiểu các vấn đề xã hội như mang thai
ngoài ý muốn hay các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Tuy nhiên, nhiều nghiên
cứu vẫn chưa tập trung đầy đủ vào các yếu tố văn hóa đặc thù của từng quốc gia hay
chưa đánh giá được tác động lâu dài của giáo dục giới tính đối với hành vi và nhận thức của người học.
Nghiên cứu về giáo dục giới tính tại Việt Nam
Tại Việt Nam, giáo dục giới tính bắt đầu được chú trọng từ những năm 1980,
khi Chỉ thị số 176A của Hội đồng Bộ trưởng ra đời. Chỉ thị này yêu cầu các trường
học phối hợp tổ chức các khóa bồi dưỡng về khoa học giới tính, tập trung vào các
vấn đề như sức khỏe sinh sản, hôn nhân gia đình, và nuôi dạy con cái.Đây được xem
là bước khởi đầu quan trọng trong việc nâng cao nhận thức của xã hội về giáo dục lOMoAR cPSD| 60860503
giới tính trong bối cảnh còn chịu ảnh hưởng nặng nề từ tư tưởng phong kiến và các
chuẩn mực văn hóa truyền thống.
Trong những năm tiếp theo, một số nghiên cứu nền tảng đã được thực hiện,
đặt cơ sở lý luận và thực tiễn cho giáo dục giới tính tại Việt Nam. Các nghiên cứu
của Trần Trọng Thủy và Đặng Xuân Hoài vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên
1990 đã đánh giá thực trạng nhận thức và thái độ của học sinh phổ thông và giáo viên
đối với giáo dục giới tính.Đặc biệt, đề án nghiên cứu VIE/80/P09 (1988) được triển
khai với sự tài trợ của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) và Tổ chức Giáo dục,
Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO). Đề án này đã thực hiện khảo sát
trên diện rộng, tập trung vào các vấn đề như tình bạn, tình yêu, nhận thức về giới tính
và hôn nhân trong các trường học. Kết quả đề án chỉ ra rằng học sinh có nhu cầu học
hỏi về các vấn đề liên quan đến giới tính nhưng còn nhiều rào cản từ giáo dục gia đình và xã hội.
Bước sang thế kỷ XXI, giáo dục giới tính tại Việt Nam tiếp tục được nghiên
cứu sâu hơn, đặc biệt trong môi trường đại học. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Lan
Anh (2020) cho thấy sinh viên Việt Nam có nhu cầu cao về các thông tin liên quan
đến sức khỏe sinh sản, tình dục an toàn, và phòng ngừa các bệnh lây qua đường tình
dục. Tuy nhiên, các chương trình giáo dục giới tính chính thức tại các trường đại học
vẫn chưa đáp ứng được kỳ vọng. Một trong những lý do chính là thiếu sự đồng bộ
trong việc xây dựng nội dung giảng dạy, cũng như sự hạn chế về tài liệu và chuyên gia đào tạo.
Trần Văn Bình (2019) đã phân tích sâu về thái độ của sinh viên đối với giáo
dục giới tính, cho thấy rằng các yếu tố văn hóa-xã hội như sự kỳ thị và e ngại khi
thảo luận về vấn đề tình dục là rào cản lớn nhất. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, dù
nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của giáo dục giới tính ngày càng cao,
nhưng các khuôn mẫu văn hóa vẫn khiến họ khó tiếp cận thông tin một cách cởi mở và hiệu quả.
Phạm Thị Bích Ngọc (2021) tiến hành khảo sát tại các trường đại học ở Hà
Nội và phát hiện rằng, mặc dù sinh viên rất mong muốn tham gia các chương trình
giáo dục giới tính, nhưng họ gặp phải nhiều rào cản, bao gồm sự thiếu hụt thông tin
phù hợp, các chương trình giáo dục không chính thức hoặc không toàn diện, và sự e lOMoAR cPSD| 60860503
dè của cả sinh viên lẫn nhà giáo dục khi tiếp cận chủ đề này.Những yếu tố này phản
ánh thực trạng rằng, dù nhu cầu giáo dục giới tính là rất lớn, nhưng việc triển khai
vẫn gặp nhiều khó khăn do sự thiếu hụt các mô hình giáo dục phù hợp với đặc thù
văn hóa và xã hội Việt Nam.
Mặc dù các nghiên cứu về giáo dục giới tính trong môi trường đại học đã có
những đóng góp quan trọng, nhưng vẫn còn một số hạn chế đáng chú ý. Trước hết,
nhiều nghiên cứu chỉ tập trung vào việc khảo sát nhu cầu giáo dục giới tính mà chưa
đưa ra các mô hình giáo dục cụ thể và phù hợp với đặc thù của từng quốc gia hoặc
từng trường đại học. Các chương trình giáo dục giới tính được khảo sát trong nhiều
nghiên cứu thường chưa có sự đồng nhất về nội dung, phương pháp giảng dạy và
hình thức triển khai, khiến cho việc áp dụng vào thực tế gặp nhiều khó khăn.
Thứ hai, các nghiên cứu hiện tại còn thiếu sự đánh giá tác động lâu dài của
giáo dục giới tính đối với hành vi của sinh viên. Một số nghiên cứu mới chỉ dừng lại
ở việc khảo sát mức độ hiểu biết của sinh viên về các vấn đề giới tính mà chưa đưa
ra kết luận về tác động thực tế của việc học hỏi những kiến thức này trong đời sống
cá nhân và các mối quan hệ xã hội của sinh viên.
Cuối cùng, một yếu tố quan trọng chưa được khai thác đầy đủ là ảnh hưởng
của các yếu tố văn hóa-xã hội, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam, nơi các vấn đề
về giới tính và tình dục thường xuyên bị né tránh hoặc chỉ được tiếp cận một cách
gián tiếp. Đây là một yếu tố quan trọng có thể ảnh hưởng đến nhu cầu và cách thức
tiếp cận giáo dục giới tính của sinh viên.
Từ những hạn chế trên, đề tài nghiên cứu "Nhu cầu giáo dục giới tính của sinh
viên trường Đại học Văn hóa Hà Nội" sẽ đóng góp vào việc làm rõ hơn những yếu
tố ảnh hưởng đến nhu cầu giáo dục giới tính của sinh viên trong bối cảnh văn hóa và
xã hội Việt Nam. Nghiên cứu của tôi không chỉ khảo sát mức độ nhận thức và nhu
cầu của sinh viên, mà còn đi sâu vào việc phân tích các yếu tố văn hóa, xã hội và tâm
lý ảnh hưởng đến thái độ của sinh viên đối với giáo dục giới tính. Điều này sẽ giúp
tạo ra những đề xuất thực tế và phù hợp cho việc xây dựng các chương trình giáo dục
giới tính tại trường Đại học Văn hóa Hà Nội, cũng như tại các trường đại học khác trong cả nước. lOMoAR cPSD| 60860503
Ngoài ra, nghiên cứu này sẽ cung cấp các đề xuất về mô hình giáo dục giới
tính hiệu quả, phù hợp với đặc thù của sinh viên Việt Nam, từ đó góp phần vào việc
xây dựng một môi trường học tập lành mạnh, giúp sinh viên có đầy đủ kiến thức và
kỹ năng trong các vấn đề giới tính. Từ đó, đề tài nghiên cứu sẽ góp phần làm sáng tỏ
những vấn đề còn thiếu sót trong các nghiên cứu hiện tại và đưa ra những hướng
nghiên cứu mới có giá trị trong lĩnh vực giáo dục giới tính. 3.
Mục đích nghiên cứu
Xác định mức độ nhận thức, nhu cầu và thái độ của sinh viên trường Đại học
Văn hóa Hà Nội đối với giáo dục giới tính, đồng thời phân tích các yếu tố văn hóa,
xã hội và tâm lý ảnh hưởng đến nhu cầu này. Trên cơ sở đó, đề xuất các mô hình giáo
dục giới tính hiệu quả, phù hợp với đặc thù sinh viên trường Đại học Văn hóa Hà
Nội, góp phần xây dựng môi trường học tập lành mạnh, nâng cao kiến thức và kỹ
năng giới tính, từ đó hỗ trợ sinh viên phát triển toàn diện trong đời sống cá nhân và xã hội. 4.
Đối tượng và khách thể nghiên cứu -
Đối tượng nghiên cứu: Nhu cầu giáo dục giới tính. -
Khách thể nghiên cứu: Sinh viên trường Đại học Văn hóa Hà Nội. 5.
Phạm vi nghiên cứu
Trong đề tài này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu 150 sinh viên đang theo
học tại trường Đại học Văn hóa Hà Nội. 6.
Phương pháp nghiên cứu -
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: thu thập các tài liệu liên quan đến
đề tài nghiên cứu như: sách, báo, các tài liệu, các công trình nghiên cứu khoa học. -
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: sử dụng bảng hỏi đối với 150
sinh viên đã theo học tại trường Đại học Văn hóa Hà Nội để tìm hiểu về thực trạng
và nhu cầu của sinh viên về giáo dục giới tính.
7. Bố cục đề tài lOMoAR cPSD| 60860503
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục thì nội dung đề
tài của chúng tôi bao gồm:
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHU CẦU GIÁO DỤC
GIỚI TÍNH CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
THỰC TRẠNG VỀ NHU CẦU GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI CHƯƠNG 2:
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỂU BIẾT CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI VỀ TẦM QUAN
TRỌNG CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH lOMoAR cPSD| 60860503
NỘI DUNG CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHU CẦU GIÁO DỤC GIỚI
TÍNH CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1. Nhu cầu
Mỗi hoạt động mà con người thực hiện đều nhằm mục đích thỏa mãn một
nhu cầu nào đó. Nhu cầu là yếu tố nền tảng trong mọi hành động của con người, và
là chủ đề nghiên cứu của rất nhiều ngành khoa học, đặc biệt là trong lĩnh vực tâm lý
học. Các nhà tâm lý học đã dành nhiều thời gian để tìm hiểu bản chất và tác động
của nhu cầu đối với hành vi con người, vì nó không chỉ là động lực thúc đẩy hành
vi mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tâm lý nói chung. Nhu cầu, mặc dù chỉ
là một thành phần trong xu hướng hành động của con người, lại có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến cách con người tương tác với thế giới xung quanh và các quyết định
của họ. Để duy trì sự tồn tại và phát triển bền vững, con người phải không ngừng
đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của mình, từ các nhu cầu cơ bản như ăn, mặc, ở
cho đến các nhu cầu cao hơn như học hỏi, vui chơi và tự hoàn thiện bản thân.
Những nhu cầu này không chỉ là những yêu cầu vật chất mà còn bao gồm cả các
nhu cầu tinh thần và xã hội.
Từ điển Tâm lý học (do Vũ Dũng chủ biên) định nghĩa: Nhu cầu là trạng thái
cá nhân, xuất phát từ chỗ nhận thấy cần những đối tượng cần thiết cho sự tồn tại và
phát triển của mình; và đó là nguồn gốc tính tích cực của cá nhân.
Ngoài ra, A.G. Kovaliop đã đưa ra một góc nhìn sâu sắc về nhu cầu: nhu cầu
là sự đòi hỏi của các cá nhân và nhóm xã hội khác nhau, muốn có những điều kiện
để sống và tồn tại. Như vậy, theo ông nhu cầu không chỉ là đòi hỏi của một cá nhân
đơn lẻ, mà còn là sự đòi hỏi của các nhóm xã hội, là yêu cầu của cộng đồng về các
điều kiện cần thiết để sống sót và tồn tại. Những nhu cầu này, dù mang tính cá nhân
hay xã hội, đều phản ánh sự kết nối tích cực của con người với môi trường và hoàn
cảnh sống của họ. Vì vậy, nhu cầu có thể được xem như một phần của mối quan hệ
tương tác giữa con người và xã hội, giữa cá nhân và cộng đồng. lOMoAR cPSD| 60860503
Một cách khái quát, nhu cầu chính là nguyên nhân khởi đầu cho tất cả các
hành động của con người. Nhu cầu tạo ra động lực ban đầu cho mọi hành vi, đồng
thời cũng là nguồn gốc của sự tích cực trong hoạt động của cá nhân. Mỗi khi một
nhu cầu xuất hiện, nó kích thích cá nhân tìm kiếm các phương thức và điều kiện để
thỏa mãn nó. Chính sự tìm kiếm này dẫn đến sự xuất hiện của hành vi, và hành vi
đó chính là phương thức để đáp ứng nhu cầu. Do đó, hành động của con người
trong xã hội chủ yếu được chi phối bởi nhu cầu. Khi nhu cầu được thỏa mãn, cá
nhân sẽ cảm thấy hài lòng, và sự hài lòng đó sẽ thúc đẩy họ tiếp tục hành động,
cũng như khuyến khích họ tìm kiếm và đạt được các mục tiêu mới. Mục đích cuối
cùng của con người là thỏa mãn tối đa các nhu cầu của mình, và khi nhu cầu được
đáp ứng, cá nhân sẽ cảm thấy thỏa mãn và hạnh phúc hơn. Như vậy, nhu cầu chính
là động lực quan trọng, và nếu có thể tác động vào nhu cầu của một cá nhân, chúng
ta có thể thay đổi hành vi của người đó.
Ngay cả trong triết học, các nhà tư tưởng cũng đã khẳng định tầm quan trọng
của nhu cầu trong việc thúc đẩy các hoạt động của con người. F. Ăng-ghen, trong
tác phẩm của mình, đã chỉ ra rằng: “Người ta quy cho trí óc, cho sự mở mang và
hoạt động của bộ óc tất cả công lao làm cho xã hội phát triển được nhanh chóng và
đáng lẽ người ta phải giải thích rằng hoạt động của mình là do nhu cầu của mình
quyết định (mà những nhu cầu đó quả thật đã phản ánh vào đầu óc con người, làm
cho họ có ý thức đối với những nhu cầu đó) thì người ta lại quen giải thích rằng
hoạt động của mình là do tư duy quyết định”. Điều này khẳng định rằng, nhu cầu là
động lực thực sự thúc đẩy mọi hành động và phát triển của xã hội.
Trên cơ sở những lý thuyết và phân tích của các nhà nghiên cứu, chúng tôi
thống nhất với quan điểm rằng nhu cầu là những yêu cầu thiết yếu mà con người
phải thỏa mãn thông qua các phương thức khác nhau để có thể tồn tại và phát triển.
Nhu cầu không chỉ là một trạng thái tâm lý mà còn là biểu hiện của tính tích cực
trong hoạt động của con người. Mỗi nhu cầu phát sinh đều phản ánh một sự thay
đổi trong trạng thái của cá nhân và xã hội, và khi những nhu cầu này được thỏa
mãn, chúng sẽ thúc đẩy con người tiếp tục phát triển và hoàn thiện hơn nữa. Chính
vì vậy, nhu cầu có thể xem là yếu tố quyết định trong việc thúc đẩy sự tiến bộ cá nhân và xã hội. lOMoAR cPSD| 60860503
Bằng việc nhận thức sâu sắc về các nhu cầu, con người có thể định hướng
hành vi và hoạt động của mình sao cho phù hợp với các đòi hỏi thực tế, cũng như
phát triển các phương thức thỏa mãn nhu cầu một cách hiệu quả. Khi nhu cầu được
đáp ứng, không chỉ có sự thỏa mãn tức thời mà còn tạo ra sự ổn định và phát triển
lâu dài trong cuộc sống của con người. Vì vậy, nhu cầu chính là yếu tố then chốt
trong việc thúc đẩy mọi hoạt động của con người và là cơ sở để xây dựng một xã
hội phát triển bền vững.
Sự đòi hỏi là một đặc tính tâm lý không thể thiếu trong bản chất của con
người. Nó phản ánh mối quan hệ mật thiết giữa con người với thế giới xung quanh,
đồng thời là yếu tố tác động mạnh mẽ đến các hành vi và quyết định trong cuộc
sống hàng ngày. Chính vì vậy, nhu cầu đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy
tính tích cực của con người, tạo ra động lực để mỗi cá nhân không ngừng vươn lên,
tìm kiếm và đạt được những mục tiêu nhằm thỏa mãn những đòi hỏi thiết yếu cho
sự tồn tại và phát triển của mình. Qua đó, nhu cầu cũng là yếu tố phản ánh bản chất
xã hội của con người, vì nó không chỉ liên quan đến cá nhân mà còn gắn liền với
các yếu tố bên ngoài như môi trường xã hội, văn hóa, và điều kiện sống chung.
Khi chúng ta nhắc đến giới hạn của nhu cầu, lý thuyết về “Tháp nhu cầu” của
Abraham Maslow có nhấn mạnh một trong những đặc điểm quan trọng của nó là sự
vô hạn. Nhu cầu của con người là vô cùng đa dạng và không có điểm dừng, vì con
người luôn phát triển và các nhu cầu mới sẽ xuất hiện khi các nhu cầu cũ đã được
thỏa mãn. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là con người luôn luôn phải đáp ứng
tất cả nhu cầu của mình cùng một lúc. Một thực tế là, nhu cầu luôn có sự phân cấp
và phân bổ ưu tiên khác nhau. Mỗi nhu cầu có thể được đáp ứng vào những thời
điểm khác nhau, tùy thuộc vào mức độ cấp bách và hoàn cảnh sống của cá nhân.
Những nhu cầu này không tắt hẳn, mà thay vào đó, chúng sẽ có sự thay đổi về mức
độ quan trọng và cấp bách tùy theo bối cảnh sống và môi trường xung quanh. Đôi
khi, nhu cầu này có thể tạm thời lắng xuống để nhường chỗ cho nhu cầu khác có
tính cấp thiết hơn. Do đó, nhu cầu con người không tồn tại một cách cố định mà
luôn thay đổi, phản ánh sự thích nghi của cá nhân với hoàn cảnh sống và điều kiện xã hội.
Bên cạnh đó, theo các lý thuyết tâm lý học động lực như "Thuyết hai nhân tố
của Frederick Herz” (Herzberg's Two-Factor Theory) về động lực và sự hài lòng lOMoAR cPSD| 60860503
trong công việc, và lý thuyết của Clayton Alderfer về "ERG" (Existence,
Relatedness, Growth), bản thân nhu cầu cũng thay đổi theo yêu cầu của xã hội và
sự phát triển của các hoạt động cá nhân. Điều này thể hiện rõ qua sự thay đổi trong
các quan niệm xã hội về các vấn đề liên quan đến giới tính, tình dục và các giá trị
văn hóa.Trước đây, trong xã hội có những quan niệm khắt khe về các vấn đề này,
chúng thường bị coi là "xấu xa" hay "cấm kỵ" và rất ít khi được đề cập công khai.
Tuy nhiên, với sự tiến bộ của xã hội, những giá trị và quan niệm cũ đã dần thay đổi,
tạo ra một bối cảnh cởi mở hơn trong việc hiểu và học hỏi về giới tính. Ngày nay,
việc tìm hiểu các tri thức về giới tính không chỉ là một nhu cầu cá nhân mà còn trở
thành một yêu cầu xã hội thiết yếu, góp phần vào sự phát triển toàn diện của mỗi cá
nhân và cả cộng đồng.
Cũng theo các lý thuyết tâm lý học động lực, nhu cầu có tính chu kỳ. Điều
này có nghĩa là khi một nhu cầu nào đó được thỏa mãn, nó không chấm dứt ngay
lập tức mà có thể tiếp tục tái diễn. Khi con người tiếp tục sống trong những điều
kiện và phương thức sinh hoạt cũ, các nhu cầu đó sẽ quay lại và được tái khởi động.
Sự tái diễn này diễn ra một cách lặp đi lặp lại và có tính chu kỳ. Tính chu kỳ này
xuất phát từ sự thay đổi liên tục của cơ thể, tâm lý và môi trường sống xung quanh.
Ví dụ, nhu cầu ăn uống, ngủ nghỉ hay nhu cầu giao tiếp xã hội luôn có chu kỳ nhất
định, tái diễn theo từng giai đoạn trong ngày hoặc theo chu kỳ sống của con người.
Điều này cho thấy rằng nhu cầu không phải là yếu tố cố định mà là một quá trình
liên tục, gắn liền với sự thay đổi của điều kiện sống và sự phát triển của cơ thể.
Một điểm cần lưu ý là nhu cầu của con người luôn mang tính đối tượng. Nói
cách khác, nhu cầu của con người được hình thành và phát triển xung quanh những
đối tượng có khả năng đáp ứng nhu cầu đó. Chúng ta có thể phân biệt rõ các loại
nhu cầu tùy thuộc vào đối tượng mà chúng hướng đến. Theo Bandura, hành vi con
người được thúc đẩy bởi động lực và nhu cầu hướng tới những đối tượng có thể đáp
ứng được nhu cầu đó. Khi con người gặp được đối tượng có khả năng thỏa mãn nhu
cầu của mình, nhu cầu đó sẽ biến thành động lực thúc đẩy các hành động, giúp con
người tìm cách chiếm lĩnh và sở hữu đối tượng đó. Đối tượng của nhu cầu càng
được xác định rõ ràng, ý nghĩa và giá trị của nhu cầu đối với cuộc sống cá nhân
cũng như xã hội càng trở nên sâu sắc. Do đó, khi nhu cầu được nhận thức rõ ràng
và có đối tượng cụ thể, nó sẽ trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy hành động của lOMoAR cPSD| 60860503
con người, làm cho nhu cầu đó nhanh chóng xuất hiện, củng cố và phát triển trong tâm trí của cá nhân.
Mỗi nhu cầu đều có một nội dung rất cụ thể và đa dạng. Nội dung của nhu
cầu không chỉ phụ thuộc vào đối tượng mà nó muốn chiếm lĩnh, mà còn tùy thuộc
vào điều kiện và phương thức thỏa mãn nhu cầu đó. Điều này có nghĩa là các nhu
cầu có thể được thỏa mãn bằng nhiều cách thức khác nhau và trong các hoàn cảnh
khác nhau. Nội dung của nhu cầu có thể là một vật thể mà con người cần có để thỏa
mãn, hoặc là một hành động, một quá trình hoạt động nào đó mà khi thực hiện sẽ
giúp cá nhân đạt được sự hài lòng và thỏa mãn. Điều này cũng cho thấy sự đa dạng
và linh hoạt trong các cách thức đáp ứng nhu cầu của con người, từ việc sở hữu một
vật chất đến việc thực hiện một hành động tinh thần hay cảm xúc.
Nhu cầu của con người luôn mang tính xã hội sâu sắc. Chính trong quá trình
lao động và sáng tạo, con người đã tự tạo ra những đối tượng có thể thỏa mãn nhu
cầu của mình. Sự hình thành và phát triển nhu cầu của con người không thể tách rời
sự phát triển của xã hội. Trong lý thuyết về mối quan hệ giữa nhu cầu của con
người và cấu trúc xã hội, Karl Marx cho rằng sự thay đổi trong kinh tế xã hội, sự
tiến bộ trong các công nghệ và điều kiện sống sẽ tác động trực tiếp đến sự phong
phú hoặc nghèo nàn của các nhu cầu. Một xã hội càng phát triển thì các nhu cầu của
con người càng đa dạng và phong phú. Ngược lại, trong những điều kiện xã hội
nghèo nàn và hạn chế, các nhu cầu của con người cũng bị giới hạn và đơn giản
hơn.Chính vì vậy, nhu cầu không chỉ là một hiện tượng cá nhân mà còn là sản phẩm
của sự phát triển của toàn xã hội, phản ánh tình trạng và đặc điểm của môi trường mà con người sống.
Cuối cùng, nhu cầu luôn gắn liền với cảm xúc của con người. Theo Lý thuyết
về cảm xúc và sự thích nghi của Richard Lazarus, những trạng thái cảm xúc như sự
hứng thú, hài lòng hay thất vọng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc con người tìm
kiếm cách thức thỏa mãn nhu cầu. Khi con người cảm thấy thỏa mãn với đối tượng
mà mình đạt được, cảm giác vui mừng và hài lòng sẽ thúc đẩy họ tiếp tục theo đuổi
những nhu cầu khác. Ngược lại, khi không thể thỏa mãn nhu cầu, con người có thể
trải qua những cảm xúc tiêu cực như sự thất vọng, lo lắng hoặc căng thẳng, điều
này có thể cản trở họ trong việc tiếp tục hành động hoặc tìm kiếm cách thức đáp ứng nhu cầu. lOMoAR cPSD| 60860503
Tóm lại, nhu cầu là yếu tố cơ bản quyết định hành vi của con người, là động
lực mạnh mẽ thúc đẩy mọi hành động, quyết định và phát triển của cá nhân. Nó
luôn thay đổi, linh hoạt và gắn liền với cảm xúc và xã hội, phản ánh không chỉ sự
cần thiết để tồn tại mà còn là sự phát triển không ngừng của con người trong mối
quan hệ với môi trường xung quanh. 1.1.2. Giới tính
Khái niệm "giới tính" hiện nay thường xuyên được sử dụng trong nhiều
nghiên cứu và thảo luận, song ít ai nhận ra rằng thuật ngữ này lại có những lớp
nghĩa khác nhau và không phải lúc nào cũng mang cùng một nội dung. Để hiểu rõ
hơn, chúng ta cần phân biệt hai yếu tố quan trọng cấu thành khái niệm này: “sex”
(sinh học) và “gender” (xã hội). Đây là hai khái niệm có sự liên quan chặt chẽ,
nhưng cũng có sự khác biệt rõ rệt, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về vai trò của cả yếu
tố sinh học và xã hội trong việc hình thành bản sắc giới.
Theo định nghĩa trong tiếng Anh, từ "sex" được dùng để chỉ những đặc điểm
sinh học bẩm sinh của con người, ví dụ như cấu trúc nhiễm sắc thể, cơ quan sinh
dục, và hormone, những yếu tố này không thay đổi qua thời gian và chịu sự chi
phối của yếu tố tự nhiên. Ngược lại, "gender" mang ý nghĩa rộng hơn, liên quan
đến những vai trò, hành vi và kỳ vọng xã hội mà mỗi nền văn hóa gán cho các
nhóm giới. Cụ thể, "gender" có thể thay đổi và linh hoạt theo thời gian, không gian
và các giá trị văn hóa cụ thể.
Theo nghiên cứu của Oakley trong cuốn Sex, Gender, and Society, bà cho
rằng "gender" là một sản phẩm xã hội được tạo dựng qua các mối quan hệ và tương
tác xã hội, không phải là yếu tố bẩm sinh. Đây là một quan điểm quan trọng làm rõ
sự phân biệt giữa “sex” và “gender” trong việc xác định bản sắc giới. Nếu như
"sex" phản ánh những đặc điểm sinh học cố định và không thay đổi, thì "gender" lại
là một khái niệm có tính linh hoạt, chịu sự ảnh hưởng và hình thành từ những cấu
trúc xã hội, văn hóa trong mỗi thời đại và cộng đồng cụ thể. Oakley khẳng định
rằng giới tính xã hội không phải là điều tự nhiên, mà là một sản phẩm của xã hội,
được xây dựng thông qua các mối quan hệ xã hội và văn hóa [27]. lOMoAR cPSD| 60860503
Trong tiếng Việt, thuật ngữ "giới tính" thường được hiểu tương đương với từ
"sex" trong tiếng Anh, có nguồn gốc từ tiếng Latin sexus, nghĩa là "phân biệt giữa
nam và nữ." Về bản chất, "sex" được dùng để chỉ các đặc điểm sinh học và giải
phẫu cơ thể tạo nên sự khác biệt giữa nam và nữ, bao gồm cơ quan sinh dục, nhiễm sắc thể, và hormon.
Chúng tôi đồng ý với cách hiểu “Giới tính là sự khác biệt giữa nam và nữ về
phương diện sinh học, bao gồm sự khác nhau về giải phẫu (kích thước, hình dạng
cơ thể...), đặc điểm sinh lý (hoạt động hoóc mon, chức năng của các bộ phận...).
Trong các nghiên cứu ban đầu, "giới tính" được coi là một yếu tố bẩm sinh,
không thay đổi theo thời gian. Theo các nghiên cứu của Lippa trong Gender,
Nature, and Nurture, ông nhấn mạnh rằng giới tính sinh học là yếu tố được xác định
bởi các đặc điểm di truyền, ví dụ như nhiễm sắc thể XX ở nữ và XY ở nam, và
những đặc điểm này có ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể và khả năng sinh sản của
con người. Các đặc điểm sinh lý này, bao gồm cơ quan sinh dục và sự phát triển cơ
thể, được xác định ngay từ khi sinh ra và không có sự thay đổi theo thời gian, ít
nhất là về mặt tự nhiên. Lippa cho rằng giới tính là một yếu tố tự nhiên, không chịu
sự tác động của các yếu tố xã hội hay văn hóa [21].
Trong các nghiên cứu sinh học, giới tính (sex) được xác định qua ba yếu tố
cơ bản: nhiễm sắc thể, hormon, và cơ quan sinh dục. Mỗi yếu tố này không chỉ
đóng vai trò trong việc phân biệt nam và nữ, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự
phát triển cơ thể, chức năng sinh lý và khả năng sinh sản của mỗi giới.
Moir & Jessel (1991) trong “Brain Sex: The Real Difference Between Men
and Women” giải thích rằng sự khác biệt trong nhiễm sắc thể là yếu tố quan trọng
trong sự phân biệt giới tính nam và nữ. Mỗi người có 46 nhiễm sắc thể, trong đó có
một cặp nhiễm sắc thể giới tính. Phụ nữ có cặp nhiễm sắc thể XX, trong khi nam
giới có cặp nhiễm sắc thể XY. Sự khác biệt này là căn bản trong việc hình thành các
đặc điểm sinh lý của nam và nữ. Nhiễm sắc thể Y trong cơ thể nam giới kích thích
sản sinh testosterone, trong khi sự thiếu hụt nhiễm sắc thể Y ở nữ giới dẫn đến sự
phát triển các đặc điểm nữ tính [24].
Theo Lippa (2005) trong “Gender, Nature, and Nurture”, hormon giới tính,
đặc biệt là testosterone và estrogen, có ảnh hưởng quan trọng đến các đặc điểm sinh
lý của nam và nữ, từ phát triển cơ thể đến khả năng sinh sản. Testosterone, hormon