Những biểu hiện vi phạm khi sử dụng công nghệ kỹ thuật số là gì?

Trong thời đại hiện nay, việc sử dụng mạng Internet và các nền tảng mạng xã hội như Facebook, Instagram, Zalo... đã trở nên phổ biến đối với mọi người, và hầu như ai cũng có ít nhất một tài khoản trên một số nền tảng này. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Môn:

Tài liệu Tổng hợp 1.1 K tài liệu

Trường:

Tài liệu khác 1.2 K tài liệu

Thông tin:
5 trang 6 ngày trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Những biểu hiện vi phạm khi sử dụng công nghệ kỹ thuật số là gì?

Trong thời đại hiện nay, việc sử dụng mạng Internet và các nền tảng mạng xã hội như Facebook, Instagram, Zalo... đã trở nên phổ biến đối với mọi người, và hầu như ai cũng có ít nhất một tài khoản trên một số nền tảng này. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

27 14 lượt tải Tải xuống
Những biểu hiện vi phạm khi sử dụng công nghệ kỹ thuật số là
gì?
1. Những biểu hiện vi phạm khi sử dụng công nghệ kỹ thuật số là
gì?
Trong thời đại hiện nay, việc sử dụng mạng Internet và các nền tảng mạng xã hội như Facebook, Instagram,
Zalo... đã trở nên phổ biến đối với mọi người, và hầu như ai cũng có ít nhất một tài khoản trên một số nền
tảng này. Môi trường giao tiếp trên Internet và các mạng xã hội được xem là rộng lớn và tự do, tuy nhiên,
việc sử dụng mạng vẫn phải tuân theo các quy định pháp luật được quy định trong Luật An ninh mạng, Luật
An toàn thông tin và Bộ Luật Dân sự. Tuy nhiên, do tính chất rộng lớn và mở cửa của Internet, không phải
lúc nào người dùng cũng nhận biết được những hành vi vi phạm, vì có nhiều hành động "mơ hồ" khiến cho
người dùng không dễ nhận ra hậu quả vi phạm.
Trong thực tế của việc sử dụng công nghệ kỹ thuật số, chúng ta thường không nhận biết hoặc cố ý vi phạm
các chuẩn mực đạo đức, văn hóa và pháp luật. Có nhiều hành vi cụ thể như sau:
- Lạm dụng thông tin cá nhân của người khác: Việc thu thập, đăng tải và chia sẻ thông tin cá nhân của
người khác mà không có sự đồng ý của họ là vi phạm quyền riêng tư và có thể gây hậu quả không lường
trước. Đây không chỉ là thiếu văn hóa mà còn là hành vi vi phạm pháp luật.
Ví dụ:
+ Phụ huynh thường đăng tải hình ảnh và thông tin cá nhân của con trẻ trên mạng xã hội mà không nhận
ra nguy cơ tiềm ẩn. Thông tin này có thể bị lạm dụng bởi những người có ý đồ xấu, gây nguy hiểm cho con
trẻ.
+ Một số người, trong cuộc tranh luận trực tuyến, có thể điều tra và đăng thông tin cá nhân của đối thủ lên
các diễn đàn hoặc trang web xấu với mục đích phỉ báng và tổn thương danh dự của họ. Đây là hành vi
không chỉ vi phạm pháp luật mà còn là thiếu văn hóa và đáng lên án.
- Phát tán thông tin giả mạo và sai lệch: Một số người sử dụng công nghệ để lan truyền thông tin giả mạo
hoặc sai lệch, gây ra hoang mang trong dư luận hoặc gây hậu quả nghiêm trọng. Hành vi này không chỉ là vi
phạm đạo đức và văn hóa mà còn là vi phạm pháp luật, thể hiện sự thiếu trách nhiệm.
Ví dụ:
+ Trong thời gian giãn cách xã hội do dịch Covid-19, một số người đã lan truyền thông tin giả mạo về tình
hình dịch bệnh với mục đích thu hút sự chú ý và tăng lượt xem, làm gia tăng lo lắng và hoang mang trong
cộng đồng.
+ Có những tổ chức hoặc cá nhân có ý đồ xấu đã phát tán thông tin sai lệch về lịch sử, với mục đích biến
tấu sự thật và tác động tiêu cực đến ý thức cộng đồng, hoặc để phủ nhận những sự kiện lịch sử quan trọng
của đất nước.
- Lan truyền nội dung không đúng chuẩn mực: Một số cá nhân xấu xa tận dụng công nghệ số để phổ
biến nội dung không tôn trọng, thậm chí là phản đạo đức, như hình ảnh, video, bài viết, lời nói... trên các
nền tảng mạng xã hội. Hành động này không chỉ vi phạm pháp luật nghiêm trọng mà còn phá hủy những giá
trị đạo đức, văn hóa truyền thống của dân tộc.
Ví dụ:
+ Một số cá nhân với mục đích xấu ác sử dụng công nghệ deepfake để tạo ra những video độc hại, với
việc lồng ghép mặt của người khác vào nội dung nhạy cảm, gây ra sự hoang mang trong cộng đồng.
+ Để tăng sự chú ý, nhiều người đăng tải những video và bài viết gây sốc, có thể không có sự kiểm chứng
đúng đắn, mà không cân nhắc về hậu quả của thông tin mình chia sẻ.
+ Có những nhóm được thành lập để chia sẻ thông tin không đúng chuẩn mực và nhạy cảm trên các nền
tảng mạng xã hội.
- Sử dụng công nghệ kỹ thuật số để thực hiện các hành vi vi phạm: Một số hành vi như nghe, ghi âm
trái phép các cuộc trò chuyện, xâm phạm vào bí mật nhà nước, công việc, kinh doanh, cá nhân, gia đình và
cuộc sống riêng tư...
Ví dụ:
+ Một doanh nghiệp, với mục đích lợi ích cá nhân, cài người vào đối thủ cạnh tranh để ghi âm và lén lấy
thông tin khách hàng, làm tổn hại đến quyền lợi hợp pháp của đối thủ.
+ Có những cán bộ hoặc đảng viên sử dụng vị trí và quyền lực của mình để xâm phạm vào bí mật nhà
nước, làm tổn hại đến lợi ích của quốc gia.
- Hướng dẫn người khác thực hiện hành vi vi phạm pháp luật: Một số hành vi như tạo ra các nhóm
hoặc hướng dẫn nhóm trên mạng xã hội để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, như trốn nợ tín dụng
hoặc lừa đảo...
Ví dụ:
+ Thành lập các nhóm trên mạng xã hội với mục đích hướng dẫn nhau về các biện pháp trốn tránh trách
nhiệm tài chính, trốn nợ hoặc lừa đảo các tổ chức tín dụng.
2. Những hành vi bị nghiêm cấm thực hiện trên không gian mạng
Luật An ninh mạng 2018 được áp dụng từ ngày 01/01/2019 và bao gồm 7 chương, 43 điều quy định về việc
bảo vệ an ninh quốc gia và đảm bảo trật tự, an toàn xã hội trên không gian mạng, cũng như trách nhiệm của
các tổ chức, cá nhân liên quan. Luật này đề cập rõ các hành vi bị nghiêm cấm khi thực hiện trên không gian
mạng. Cụ thể:
- Sử dụng không gian mạng, thiết bị công nghệ thông tin, và phương tiện điện tử để lan truyền thông tin
xuyên tạc, phỉ báng chính quyền, gây chia rẽ và thù hận giữa các nhóm dân tộc, tôn giáo, hoặc xâm phạm
danh dự của các nhân vật quốc gia.
- Đăng tải thông tin kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh, hoặc gây rối trật tự công cộng, bao gồm kêu gọi
sử dụng bạo lực để chống đối chính quyền hoặc cản trở các hoạt động của cơ quan nhà nước.
- Đăng tải thông tin xâm phạm danh dự, uy tín, và nhân phẩm của người khác, hoặc lan truyền thông tin sai
lệch gây thiệt hại cho cá nhân hoặc tổ chức khác.
- Đăng tải thông tin sai lệch về kinh tế - xã hội gây hoang mang trong cộng đồng và gây khó khăn cho hoạt
động của cơ quan nhà nước hoặc cá nhân khác.
- Chiếm đoạt thông tin bí mật nhà nước hoặc thông tin cá nhân trên không gian mạng, cũng như thực hiện
hành vi nghe, ghi âm trái phép cuộc trò chuyện.
- Các hành vi vi phạm về sở hữu trí tuệ và bản quyền trên không gian mạng, cũng như vi phạm quy định về
mại dâm và tệ nạn xã hội.
- Hành vi hướng dẫn người khác thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật hoặc sử dụng không gian mạng
để vi phạm pháp luật liên quan đến an ninh quốc gia, trật tự, và an toàn xã hội.
Luật An ninh mạng 2018 là một bộ luật quan trọng để đảm bảo trật tự và an toàn trên không gian mạng, bảo
vệ quyền lợi và lợi ích của cộng đồng mạng và toàn xã hội.
3. Xử lý đối với hành vi vi phạm sử dụng công nghệ kỹ thuật số
Phụ thuộc vào mức độ và tính chất của vi phạm, những người thực hiện hành vi vi phạm khi sử dụng công
nghệ kỹ thuật số có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu hành vi của họ gây
ra thiệt hại, họ sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật.
3.1. Xử phạt hành chính
Dựa trên Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ngày 03/02/2020 của Chính phủ về việc xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử, quy
định như sau:
- Xử phạt mức tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng cho các hành vi sau:
+ Thu thập thông tin cá nhân mà không có sự đồng ý của chủ thể thông tin cá nhân về phạm vi và mục đích
của việc thu thập và sử dụng thông tin đó;
+ Cung cấp thông tin cá nhân cho bên thứ ba khi chủ thể thông tin cá nhân đã yêu cầu ngừng cung cấp.
- Xử phạt mức tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng cho các hành vi sau:
+ Sử dụng thông tin cá nhân không đúng mục đích đã được thỏa thuận khi thu thập hoặc khi không có sự
đồng ý của chủ thể thông tin cá nhân;
+ Cung cấp, chia sẻ hoặc phát tán thông tin cá nhân đã thu thập, tiếp cận hoặc kiểm soát cho bên thứ ba
mà không có sự đồng ý của chủ thông tin cá nhân;
+ Thu thập, sử dụng, phát tán hoặc kinh doanh thông tin cá nhân của người khác một cách trái pháp luật.
- Biện pháp khắc phục hậu quả:
Yêu cầu hủy bỏ thông tin cá nhân đã thực hiện các hành vi vi phạm như quy định tại điểm b khoản 1 và
các điểm b và c khoản 2 của Nghị định này.
Trong trường hợp vi phạm quy định về sử dụng mạng và công nghệ kỹ thuật số để chiếm đoạt tài sản, xử
phạt được quy định như sau:
- Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng các phương tiện truyền thông
trực tuyến trên mạng Internet, mạng viễn thông để chiếm đoạt tài sản của tổ chức hoặc cá nhân có giá trị
dưới 2.000.000 đồng.
- Phạt tiền từ 70.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
+ Truy cập trái phép vào tài khoản của tổ chức hoặc cá nhân để chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới 2.000.000
đồng;
+ Thiết lập hệ thống, cung cấp dịch vụ chuyển cuộc gọi quốc tế thành cuộc gọi trong nước nhằm mục đích
lừa đảo, chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới 2.000.000 đồng;
+ Trộm cắp hoặc sử dụng trái phép thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của tổ chức hoặc cá nhân để
chiếm đoạt hoặc gây thiệt hại tài sản hoặc để thanh toán hàng hóa, dịch vụ có giá trị dưới 2.000.000 đồng.
- Hình thức xử phạt bổ sung:
Tịch thu tài sản, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định tại khoản 2 của điều
này.
- Biện pháp khắc phục hậu quả:
Yêu cầu trả lại số tiền lợi bất hợp pháp thu được do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1 và
2 của điều này.
Xử phạt hành chính đối với hành vi thông tin sai sự thật trên không gian mạng theo Nghị định số
15/2020/NĐ-CP được quy định như sau:
- Trang tin điện tử đăng thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức hoặc danh
dự và nhân phẩm của cá nhân sẽ bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng. Đồng thời, sẽ áp
dụng biện pháp khắc phục hậu quả bằng việc buộc gỡ bỏ đường dẫn đến thông tin sai sự thật hoặc gây
nhầm lẫn.
- Cá nhân sử dụng dịch vụ mạng xã hội và thực hiện hành vi cung cấp hoặc chia sẻ thông tin giả mạo, thông
tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức hoặc danh dự và nhân phẩm của
cá nhân, hoặc cung cấp, chia sẻ thông tin bịa đặt gây hoang mang trong cộng đồng sẽ bị phạt tiền từ
10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Đồng thời, sẽ áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả bằng việc
buộc gỡ bỏ thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn, hoặc thông tin vi phạm pháp luật do thực hiện hành vi
vi phạm.
3.2. Xử lý hình sự
Dựa trên Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung vào năm 2017), những hành vi sau có thể bị xử
lý theo trách nhiệm hình sự:
- Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để bịa đặt hoặc phổ biến thông tin
biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi
ích hợp pháp của người khác có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "tội vu khống." Hành vi này có thể bị
phạt tù từ 01 năm đến 03 năm và có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
50.000.000 đồng. Ngoài ra, có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ
01 năm đến 05 năm.
- Đưa lên mạng máy tính hoặc mạng viễn thông thông tin trái với quy định của pháp luật để thu lợi bất chính
hoặc gây thiệt hại tài chính hoặc gây dư luận xấu có thể bị xử lý về "tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin
mạng máy tính, mạng viễn thông." Người vi phạm có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 200.000.000
đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Có thể áp dụng
hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng và cấm đảm nhiệm chức vụ, hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
- Hành vi làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung bịa đặt, gây
hoang mang trong cộng đồng nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị xử lý về
tội "Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam." Người phạm tội có thể bị xử phạt tù từ 05 đến 12 năm.
| 1/5

Preview text:

Những biểu hiện vi phạm khi sử dụng công nghệ kỹ thuật số là gì?
1. Những biểu hiện vi phạm khi sử dụng công nghệ kỹ thuật số là gì?
Trong thời đại hiện nay, việc sử dụng mạng Internet và các nền tảng mạng xã hội như Facebook, Instagram,
Zalo... đã trở nên phổ biến đối với mọi người, và hầu như ai cũng có ít nhất một tài khoản trên một số nền
tảng này. Môi trường giao tiếp trên Internet và các mạng xã hội được xem là rộng lớn và tự do, tuy nhiên,
việc sử dụng mạng vẫn phải tuân theo các quy định pháp luật được quy định trong Luật An ninh mạng, Luật
An toàn thông tin và Bộ Luật Dân sự. Tuy nhiên, do tính chất rộng lớn và mở cửa của Internet, không phải
lúc nào người dùng cũng nhận biết được những hành vi vi phạm, vì có nhiều hành động "mơ hồ" khiến cho
người dùng không dễ nhận ra hậu quả vi phạm.
Trong thực tế của việc sử dụng công nghệ kỹ thuật số, chúng ta thường không nhận biết hoặc cố ý vi phạm
các chuẩn mực đạo đức, văn hóa và pháp luật. Có nhiều hành vi cụ thể như sau:
- Lạm dụng thông tin cá nhân của người khác: Việc thu thập, đăng tải và chia sẻ thông tin cá nhân của
người khác mà không có sự đồng ý của họ là vi phạm quyền riêng tư và có thể gây hậu quả không lường
trước. Đây không chỉ là thiếu văn hóa mà còn là hành vi vi phạm pháp luật. Ví dụ:
+ Phụ huynh thường đăng tải hình ảnh và thông tin cá nhân của con trẻ trên mạng xã hội mà không nhận
ra nguy cơ tiềm ẩn. Thông tin này có thể bị lạm dụng bởi những người có ý đồ xấu, gây nguy hiểm cho con trẻ.
+ Một số người, trong cuộc tranh luận trực tuyến, có thể điều tra và đăng thông tin cá nhân của đối thủ lên
các diễn đàn hoặc trang web xấu với mục đích phỉ báng và tổn thương danh dự của họ. Đây là hành vi
không chỉ vi phạm pháp luật mà còn là thiếu văn hóa và đáng lên án.
- Phát tán thông tin giả mạo và sai lệch: Một số người sử dụng công nghệ để lan truyền thông tin giả mạo
hoặc sai lệch, gây ra hoang mang trong dư luận hoặc gây hậu quả nghiêm trọng. Hành vi này không chỉ là vi
phạm đạo đức và văn hóa mà còn là vi phạm pháp luật, thể hiện sự thiếu trách nhiệm. Ví dụ:
+ Trong thời gian giãn cách xã hội do dịch Covid-19, một số người đã lan truyền thông tin giả mạo về tình
hình dịch bệnh với mục đích thu hút sự chú ý và tăng lượt xem, làm gia tăng lo lắng và hoang mang trong cộng đồng.
+ Có những tổ chức hoặc cá nhân có ý đồ xấu đã phát tán thông tin sai lệch về lịch sử, với mục đích biến
tấu sự thật và tác động tiêu cực đến ý thức cộng đồng, hoặc để phủ nhận những sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước.
- Lan truyền nội dung không đúng chuẩn mực: Một số cá nhân xấu xa tận dụng công nghệ số để phổ
biến nội dung không tôn trọng, thậm chí là phản đạo đức, như hình ảnh, video, bài viết, lời nói... trên các
nền tảng mạng xã hội. Hành động này không chỉ vi phạm pháp luật nghiêm trọng mà còn phá hủy những giá
trị đạo đức, văn hóa truyền thống của dân tộc. Ví dụ:
+ Một số cá nhân với mục đích xấu ác sử dụng công nghệ deepfake để tạo ra những video độc hại, với
việc lồng ghép mặt của người khác vào nội dung nhạy cảm, gây ra sự hoang mang trong cộng đồng.
+ Để tăng sự chú ý, nhiều người đăng tải những video và bài viết gây sốc, có thể không có sự kiểm chứng
đúng đắn, mà không cân nhắc về hậu quả của thông tin mình chia sẻ.
+ Có những nhóm được thành lập để chia sẻ thông tin không đúng chuẩn mực và nhạy cảm trên các nền tảng mạng xã hội.
- Sử dụng công nghệ kỹ thuật số để thực hiện các hành vi vi phạm: Một số hành vi như nghe, ghi âm
trái phép các cuộc trò chuyện, xâm phạm vào bí mật nhà nước, công việc, kinh doanh, cá nhân, gia đình và cuộc sống riêng tư... Ví dụ:
+ Một doanh nghiệp, với mục đích lợi ích cá nhân, cài người vào đối thủ cạnh tranh để ghi âm và lén lấy
thông tin khách hàng, làm tổn hại đến quyền lợi hợp pháp của đối thủ.
+ Có những cán bộ hoặc đảng viên sử dụng vị trí và quyền lực của mình để xâm phạm vào bí mật nhà
nước, làm tổn hại đến lợi ích của quốc gia.
- Hướng dẫn người khác thực hiện hành vi vi phạm pháp luật: Một số hành vi như tạo ra các nhóm
hoặc hướng dẫn nhóm trên mạng xã hội để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, như trốn nợ tín dụng hoặc lừa đảo... Ví dụ:
+ Thành lập các nhóm trên mạng xã hội với mục đích hướng dẫn nhau về các biện pháp trốn tránh trách
nhiệm tài chính, trốn nợ hoặc lừa đảo các tổ chức tín dụng.
2. Những hành vi bị nghiêm cấm thực hiện trên không gian mạng
Luật An ninh mạng 2018 được áp dụng từ ngày 01/01/2019 và bao gồm 7 chương, 43 điều quy định về việc
bảo vệ an ninh quốc gia và đảm bảo trật tự, an toàn xã hội trên không gian mạng, cũng như trách nhiệm của
các tổ chức, cá nhân liên quan. Luật này đề cập rõ các hành vi bị nghiêm cấm khi thực hiện trên không gian mạng. Cụ thể:
- Sử dụng không gian mạng, thiết bị công nghệ thông tin, và phương tiện điện tử để lan truyền thông tin
xuyên tạc, phỉ báng chính quyền, gây chia rẽ và thù hận giữa các nhóm dân tộc, tôn giáo, hoặc xâm phạm
danh dự của các nhân vật quốc gia.
- Đăng tải thông tin kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh, hoặc gây rối trật tự công cộng, bao gồm kêu gọi
sử dụng bạo lực để chống đối chính quyền hoặc cản trở các hoạt động của cơ quan nhà nước.
- Đăng tải thông tin xâm phạm danh dự, uy tín, và nhân phẩm của người khác, hoặc lan truyền thông tin sai
lệch gây thiệt hại cho cá nhân hoặc tổ chức khác.
- Đăng tải thông tin sai lệch về kinh tế - xã hội gây hoang mang trong cộng đồng và gây khó khăn cho hoạt
động của cơ quan nhà nước hoặc cá nhân khác.
- Chiếm đoạt thông tin bí mật nhà nước hoặc thông tin cá nhân trên không gian mạng, cũng như thực hiện
hành vi nghe, ghi âm trái phép cuộc trò chuyện.
- Các hành vi vi phạm về sở hữu trí tuệ và bản quyền trên không gian mạng, cũng như vi phạm quy định về
mại dâm và tệ nạn xã hội.
- Hành vi hướng dẫn người khác thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật hoặc sử dụng không gian mạng
để vi phạm pháp luật liên quan đến an ninh quốc gia, trật tự, và an toàn xã hội.
Luật An ninh mạng 2018 là một bộ luật quan trọng để đảm bảo trật tự và an toàn trên không gian mạng, bảo
vệ quyền lợi và lợi ích của cộng đồng mạng và toàn xã hội.
3. Xử lý đối với hành vi vi phạm sử dụng công nghệ kỹ thuật số
Phụ thuộc vào mức độ và tính chất của vi phạm, những người thực hiện hành vi vi phạm khi sử dụng công
nghệ kỹ thuật số có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu hành vi của họ gây
ra thiệt hại, họ sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật.
3.1. Xử phạt hành chính
Dựa trên Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ngày 03/02/2020 của Chính phủ về việc xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử, quy định như sau:
- Xử phạt mức tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng cho các hành vi sau:
+ Thu thập thông tin cá nhân mà không có sự đồng ý của chủ thể thông tin cá nhân về phạm vi và mục đích
của việc thu thập và sử dụng thông tin đó;
+ Cung cấp thông tin cá nhân cho bên thứ ba khi chủ thể thông tin cá nhân đã yêu cầu ngừng cung cấp.
- Xử phạt mức tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng cho các hành vi sau:
+ Sử dụng thông tin cá nhân không đúng mục đích đã được thỏa thuận khi thu thập hoặc khi không có sự
đồng ý của chủ thể thông tin cá nhân;
+ Cung cấp, chia sẻ hoặc phát tán thông tin cá nhân đã thu thập, tiếp cận hoặc kiểm soát cho bên thứ ba
mà không có sự đồng ý của chủ thông tin cá nhân;
+ Thu thập, sử dụng, phát tán hoặc kinh doanh thông tin cá nhân của người khác một cách trái pháp luật.
- Biện pháp khắc phục hậu quả:
Yêu cầu hủy bỏ thông tin cá nhân đã thực hiện các hành vi vi phạm như quy định tại điểm b khoản 1 và
các điểm b và c khoản 2 của Nghị định này.
Trong trường hợp vi phạm quy định về sử dụng mạng và công nghệ kỹ thuật số để chiếm đoạt tài sản, xử
phạt được quy định như sau:
- Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng các phương tiện truyền thông
trực tuyến trên mạng Internet, mạng viễn thông để chiếm đoạt tài sản của tổ chức hoặc cá nhân có giá trị dưới 2.000.000 đồng.
- Phạt tiền từ 70.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
+ Truy cập trái phép vào tài khoản của tổ chức hoặc cá nhân để chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới 2.000.000 đồng;
+ Thiết lập hệ thống, cung cấp dịch vụ chuyển cuộc gọi quốc tế thành cuộc gọi trong nước nhằm mục đích
lừa đảo, chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới 2.000.000 đồng;
+ Trộm cắp hoặc sử dụng trái phép thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của tổ chức hoặc cá nhân để
chiếm đoạt hoặc gây thiệt hại tài sản hoặc để thanh toán hàng hóa, dịch vụ có giá trị dưới 2.000.000 đồng.
- Hình thức xử phạt bổ sung:
Tịch thu tài sản, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định tại khoản 2 của điều này.
- Biện pháp khắc phục hậu quả:
Yêu cầu trả lại số tiền lợi bất hợp pháp thu được do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1 và 2 của điều này.
Xử phạt hành chính đối với hành vi thông tin sai sự thật trên không gian mạng theo Nghị định số
15/2020/NĐ-CP được quy định như sau:
- Trang tin điện tử đăng thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức hoặc danh
dự và nhân phẩm của cá nhân sẽ bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng. Đồng thời, sẽ áp
dụng biện pháp khắc phục hậu quả bằng việc buộc gỡ bỏ đường dẫn đến thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn.
- Cá nhân sử dụng dịch vụ mạng xã hội và thực hiện hành vi cung cấp hoặc chia sẻ thông tin giả mạo, thông
tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức hoặc danh dự và nhân phẩm của
cá nhân, hoặc cung cấp, chia sẻ thông tin bịa đặt gây hoang mang trong cộng đồng sẽ bị phạt tiền từ
10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Đồng thời, sẽ áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả bằng việc
buộc gỡ bỏ thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn, hoặc thông tin vi phạm pháp luật do thực hiện hành vi vi phạm.
3.2. Xử lý hình sự
Dựa trên Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung vào năm 2017), những hành vi sau có thể bị xử
lý theo trách nhiệm hình sự:
- Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để bịa đặt hoặc phổ biến thông tin
biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi
ích hợp pháp của người khác có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "tội vu khống." Hành vi này có thể bị
phạt tù từ 01 năm đến 03 năm và có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
50.000.000 đồng. Ngoài ra, có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
- Đưa lên mạng máy tính hoặc mạng viễn thông thông tin trái với quy định của pháp luật để thu lợi bất chính
hoặc gây thiệt hại tài chính hoặc gây dư luận xấu có thể bị xử lý về "tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin
mạng máy tính, mạng viễn thông." Người vi phạm có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 200.000.000
đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Có thể áp dụng
hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng và cấm đảm nhiệm chức vụ, hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
- Hành vi làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung bịa đặt, gây
hoang mang trong cộng đồng nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị xử lý về
tội "Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam." Người phạm tội có thể bị xử phạt tù từ 05 đến 12 năm.