Những đổi mới trong cách tiếp cận đề tài chiến tranh của tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh | Tiểu luận Văn học Việt Nam
Nỗi buồn chiến tranh - Cơ sở văn hóa Việt Nam | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống
Môn: Cơ sở văn hóa Việt Nam (PHIL177)
Trường: Đại học Sư Phạm Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
HỌC PHẦN: VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ SAU
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945.
Đề bài: Nhận xét về những đổi mới trong cách tiếp cận đề tài
chiến tranh và đổi mới trong nghệ thuật tiểu thuyết của
tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh) Nhóm: 06
Thành viên thực hiện: Đỗ Công Việt - 705601455
Ngô Thị Thu Uyên - 705601443
Nguyễn Thị Tú Uyên - 705601444
Đỗ Hải Uyên - 705601441
Trần Thu Trang – 705601427
Phạm Thúy Hằng - 705601394 HÀ NỘI – 2023 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
NỘI DUNG ........................................................................................................... 2
Chương 1: Vài nét tiêu biểu về Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh .................... 2
1.1. Tác giả ..................................................................................................... 2
1.1.1. Cuộc đời và sự nghiệp ..................................................................... 2
1.1.2. Quan điểm sáng tác ......................................................................... 3
1.2. Tác phẩm .................................................................................................. 3
1.2.1. Hoàn cảnh sáng tác .......................................................................... 3
1.2.2. Tóm tắt tác phẩm ............................................................................. 4
1.3. Giới thuyết thể loại .................................................................................. 5
1.3.1. Tiểu thuyết ...................................................................................... 5
1.3.2. Đề tài chiến tranh ............................................................................ 6
Chương 2: Những đổi mới trong cách tiếp cận đề tài chiến tranh qua Nỗi buồn
chiến tranh – Bảo Ninh ...................................................................................... 9
2.1. Tình hình tiếp nhận .................................................................................. 9
2.2. Chiến tranh – viết về chiến tranh như một sự tri ân .............................. 12
2.3. Chiến tranh – một hiện thực đa chiều cần nhận thức lại ....................... 14
2.4. Chiến tranh – số phận con người và vấn đề nhân tính ........................... 17
* Tiểu kết ...................................................................................................... 19
Chương 3: Những đổi mới trong nghệ thuật qua tiểu thuyết - Nỗi buồn chiến
tranh – Bảo Ninh .............................................................................................. 20
3.1. Nhan đề - góc nhìn mới về chiến tranh .................................................. 20
3.2. Những kiểu nhân vật mới....................................................................... 21
3.2.1. Kiểu nhân vật dòng ý thức ............................................................... 21
3.2.2. Kiểu nhân vật chấn thương .............................................................. 22
3.2.3. Kiểu nhân vật lạc thời ...................................................................... 25
3.3. Đổi mới về kết cấu tiểu thuyết ............................................................... 29
3.3.1. Khái niệm kết cấu ............................................................................ 29
3.3.2. Kết cấu truyện lồng truyện .............................................................. 29
3.3.2. Kết cấu theo dòng ý thức ................................................................. 31
3.4. Gia tăng yếu tố huyền thoại ................................................................... 35
3.4.1. Giới thuyết về huyền thoại .............................................................. 35
3.4.2. Huyền thoại hóa trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh ................ 36
3.5. Đổi mới về phương thức trần thuật ........................................................ 40
3.5.1. Đa dạng hóa điểm nhìn trần thuật .................................................... 40
3.5.2. Ngôn ngữ trần thuật ......................................................................... 43
3.5.3. Giọng điệu....................................................................................... 47
* Tiểu kết ...................................................................................................... 48
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 50
* Bảng phân công nhiệm vụ Họ và tên Mã sinh viên
Phân công nhiệm vụ Đỗ Công Việt (NT) 705601455 Lên khung dàn bài. Thuyết trình.
Tổng kết và chỉnh sửa. Mục:
- 3.4. Gia tăng yếu tố huyền thoại
- 3.5. Đổi mới về phương thức trần thuật Nguyễn Thị Tú Uyên 705601444 Thuyết trình Mục:
- 3.3. Đổi mới về kết cấu tiểu thuyết - Kết luận Trần Thu Trang 705601427 Mục:
- 3.2. Những kiểu nhân vật mới - Tiểu kết chương 3 Ngô Thị Thu Uyên 705601443 Mục: - Mở đầu
- 2.1. Tình hình tiếp nhận
- 2.2. Chiến tranh - viết về chiến tranh như một sự tri ân - Tiểu kết chương 2
- Mục 3.1. Nhan đề - góc nhìn mới về chiến tranh Đỗ Hải Uyên 705601441 Toàn bộ chương I Phạm Thị Hằng Thủy 705601394 Mục:
- 2.2. Chiến tranh – một hiện thực
đa chiều cần nhận thức lại
- 2.3. Chiến tranh – số phận con
người và vấn đề nhân tính MỞ ĐẦU
Văn học bắt nguồn từ đời sống, là tấm gương phản ánh cuộc sống qua mọi
thời đại. Tác phẩm văn học là đứa con tinh thần của nhà văn. Một tác phẩm nghệ
thuật đích thực mang trong mình giá trị nhân bản sâu sắc và hơi thở cuộc sống.
Nắm bắt được nhu cầu ngày càng cao của độc giả mà những năm gần đây tiểu
thuyết Việt Nam có những bước chuyển mình đáng ghi nhận. Các tác giả khéo léo
vận dụng những quan điểm trong sáng tác nghệ thuật thổi vào nền văn học Việt
Nam một diện mạo mới, phong phú, đa dạng hơn.
Trong văn học nhân loại, chiến tranh là một đề tài lớn, đây như một tất yếu khi
phản ánh một cách chân thực đầy sinh động nhất hiện thực cuộc sống, cuộc đấu
tranh sinh tồn đầy cam go khốc liệt đặc biệt quan trọng của mỗi quốc gia dân tộc.
Khi nhìn vào lịch sử văn học cả phương Đông và phương Tây ta bắt gặp hàng loạt
các tác phẩm có giá trị viết về chiến tranh thậm chí là những kiệt tác có thể coi là
đạt đến đỉnh cao ví như Chiến tranh và hòa bình của Lep Tonxtoi, Sông Đông êm
đềm của Solokhop, Mặt trận phía Tây vẫn yên tĩnh, Một thời để yêu, Một thời để
chết, Đêm Lisbon, Ba người bạn, Khải hoàn môn,...văn học phương đông cũng
không kém cạnh là bao với những bộ tiểu thuyết chương hồi nổi tiếng đồ sộ như
Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Thủy Hử của Thi Nại Am,...
Văn học Việt Nam không nằm ngoài quỹ đạo của văn học nhân loại mang trong
mình sứ mệnh cao cả luôn luôn song hành với lịch sử dân tộc, vận mệnh đất nước
gắn liền với những cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Tuy nhiên ở mỗi giai đoạn.
chặng đường thì đề tài chiến tranh lại được khai thác, tiếp cận cũng như phản ánh
ở nhiều góc độ theo những cảm hứng khác nhau.
Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo ninh là một tác phẩm xuất sắc, tiêu biểu
đánh dấu móc quan trọng trong quá trình vận động của tiểu thuyết viết về đề tài
chiến tranh trong văn học Việt Nam sau 1945. Tiểu thuyết được đánh giá là một
tác phẩm đặc sắc với nhiều ý tưởng cách tân, đổi mới tiêu biểu cho tiểu thuyết
Việt Nam đổi mới ( 1986), từng được Hội Nhà văn Việt Nam trao tặng giải Nhất
về tiểu thuyết năm 1991. Tác phẩm đưa bạn đọc đến với chiến tranh với cái nhìn
mới ở chất liệu mà còn ở phương pháp tiếp cận. Chính vì vậy chúng tôi chọn đề
tài “ Đổi mới trong cách tiếp cận đề tài chiến tranh và đổi mới trong nghệ thuật
tiểu thuyết của tiểu thuyết nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh)”. 1 NỘI DUNG
Chương 1: Vài nét tiêu biểu về Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh 1.1. Tác giả
1.1.1. Cuộc đời và sự nghiệp
Nhà văn Bảo Ninh, tên thật là Hoàng Ấu Phương, sinh năm 1952 tại huyện
Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Quê của ông ở xã Bảo Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh
Quảng Bình. Gia đình của ông thuộc dòng dõi thư hương (dòng dõi nho học), cụ
và ông nội đều là nho sĩ triều Nguyễn. Cha của ông, Giáo sư Hoàng Tuệ (1922 –
1999) từng làm giáo sư thỉnh giảng Việt ngữ tại Đại học Bắc Kinh, ông còn là
nguyên Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học, Tổng biên tập tạp chí Ngôn ngữ. Mùa
hè năm 1959, Bảo Ninh lần đầu xuất ngoại, đến thăm bố đang dạy học ở Bắc Kinh.
Trái với ước mơ, ông đã không có điều kiện học Trung Văn để nối tiếp truyền thống gia đình.
Bảo Ninh thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ
1975. Ông vào bộ đội năm 1969, khi ấy mới 17 tuổi. Thời chiến tranh chống Mỹ
cứu nước, Bảo Ninh chiến đấu ở mặt trận B3 Tây Nguyên, tại tiểu đoàn 5, trung
đoàn 24, sư đoàn 10. Năm 1975, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ thành công cũng
là lúc ông giải ngũ. Bảo Ninh trở về trường đại học với chuyên ngành sinh vật
nhưng ông lại không theo nghề mà bỏ ngang sau đó nhập học trường Viết văn
Nguyễn Du để đi theo văn nghiệp. Từ năm 1976 đến năm 1981, Bảo Ninh học đại
học ở Hà Nội, sau đó ông làm việc ở Viện Khoa học Việt Nam. Ông làm việc tại
báo Văn nghệ Trẻ, là hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam kể từ năm 1997.
Ông bắt đầu con đường sáng tác của mình ở tuổi 32. Văn phong của Bảo
Ninh được thừa hưởng từ nền tảng ngôn ngữ của người cha. Ngoài hai tác phẩm
chính: Trại bảy chú lùn (1987), Thân phận tình yêu (Nỗi buồn chiến tranh, 1987),
người đọc còn biết đến ông qua các tác phẩm: Bí ẩn của làn nước, Bội phản, Cái
búng, Giang, Hà Nội lúc 0 giờ, Khắc dấu mạn thuyền, Mắc cạn, Mây trắng còn
bay, Rửa tay gác kiếm, Thách đấu, Thời của xe máy, Tiếng vĩ cầm của quân xâm
lăng, Vô cùng xưa cũ,… Đây đều là những tác phẩm rất ấn tượng của Bảo Ninh,
bên cạnh tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh. 2
1.1.2. Quan điểm sáng tác
“Chiến tranh và văn chương song hành. Từ xưa đến nay, trong khói lửa
chiến tranh luôn sản sinh những tác phẩm văn học. Cuộc chiến chống Mỹ của
Việt Nam cũng vậy. Cũng như các bạn hữu cùng thời, đa số nhà văn, nhà thơ thế
hệ chúng tôi, đều đã kinh qua chiến trận. Bản thân nếu như không trực tiếp lăn
lộn trên các chiến trường, tôi đã không thể là nhà văn mà có lẽ đã làm một nghề
khác”. Có lẽ hơn bảy năm gắn bó với chiến trường bom lửa ác liệt đã thôi thúc
Bảo Ninh sáng tác những câu chuyện xoay quanh đề tài chiến tranh, đó dường
như cũng là nguồn cảm hứng bất tận của nhiều nhà văn nhà thơ khác. Cũng chính
bảy năm xông pha kháng chiến đó đã khiến Bảo Ninh có những am hiểu chi tiết
và sâu sắc về chiến trường, về mặt trận, về người chiến sĩ… Bảo Ninh đã chọn đề
tài bộ đội làm kim chỉ nam cho các sáng tác của mình, đó là thế mạnh, cũng là
những gì ông yêu thích. Ông muốn “văn của mình phải mang vẻ đẹp quân đội”.
Ông cũng từng thừa nhận bản thân mình viết ít mà cũng chỉ xoay quanh đề tài bộ đội.
Bảo Ninh luôn đề cao cá tính sáng tạo của nhà văn, ông tin rằng mỗi cây
viết cần phải tìm cho mình một cái gì đó phải mới và riêng để không bị lẫn với
người khác. Chính tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh đã chứng minh điều ấy. Vẫn
là đề tài bộ đội quen thuộc, nhưng đi ngược lại với những nhà văn đương thời,
Bảo Ninh chọn cho mình một góc nhìn khác về cuộc chiến chống Mĩ cứu nước và
viết nên tuyệt phẩm của mình. Chiến tranh vốn là một đề tài quen thuộc với mảng
văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt là giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975. Sự
đột phá của Bảo Ninh khi viết Nỗi buồn chiến tranh là việc ông đã tiếp cận hiện
thực về cuộc chiến vĩ đại của dân tộc thông qua dòng kí ức của nhân vật Kiên.
Lịch sử dân tộc đã được nhìn nhận qua lăng kính của một người đã từng trực tiếp
tham gia vào chiến tranh và phải chịu những “chấn thương tâm lí” giày vò suốt
quãng đời còn lại. Chính yếu tố này đã khiến danh tiếng của Nỗi buồn chiến tranh
vang xa ra ngoài lãnh thổ quốc gia.
1.2. Tác phẩm
1.2.1. Hoàn cảnh sáng tác 3
Năm 1975, chiến tranh kết thúc, Bảo Ninh xuất ngũ. Nhưng sự tàn khốc và
cảnh bi thảm của chiến tranh đã bám dai dẳng trong giấc mơ triền miên, thúc giục ông sáng tác.
Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh được Bảo Ninh xuất bản năm 1987, là
luận văn tốt nghiệp của ông tại trường Viết văn Nguyễn Du năm 1986, in lần đầu
tiên với tên là Thân phận tình yêu. Tác phẩm được trao tặng giải thưởng của Hội nhà văn năm 1991.
Năm 1993, bản tiếng Anh được xuất bản và từ đó tác phẩm vang tiếng trên
văn đàn quốc tế. Tính đến năm 2019, tiểu thuyết đã được dịch sang nhiều thứ tiếng
và giới thiệu ở gần hai mươi quốc gia trên thế giới, đạt được bảy giải thưởng và
đề cử ở sáu quốc gia. Riêng tại Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc mỗi nơi đều
có hai phiên bản dịch. Sức ảnh hưởng quốc tế của Nỗi buồn chiến tranh không
chỉ ở văn học mà còn ở cả nhiều lĩnh vực khác như lịch sử, nhân học, văn hoá...
1.2.2. Tóm tắt tác phẩm
Nỗi buồn chiến tranh về cơ bản được chia làm bảy phần và một phần vĩ
thanh dựa trên cách chia trang thống nhất trong cả bốn bản in (bản in năm 1990,
năm 1991 và hai bản in năm 2003). Tiểu thuyết này không có cốt truyện, tình tiết
rành mạch mà chỉ là những hồi ức của nhân vật Kiên, người lính của tiểu đoàn 27
bước ra từ cuộc kháng chiến chống Mỹ ác liệt.
Đây là câu chuyện viết về cuộc đời và tình yêu trong và sau cuộc kháng
chiến chống Mỹ của Kiên và Phương. Kiên, chàng học sinh trường Bưởi ở Hà
Nội, mang trong mình tình yêu đẹp đẽ, trong sáng của tuổi 17 với Phương, cô bạn
học từ niên thiếu của anh. Kiên xuất thân từ một gia đình trí thức tiểu tư sản miền
Bắc, cha anh là một họa sĩ những tranh của ông lại bị người đời phê phán là thể
hiện những chân dung ma quỷ; mẹ anh cho rằng chồng mình là một kẻ lập dị, đã
bỏ hai cha con khi anh còn nhỏ và lấy chồng mới là một nhà thơ đã về hưu. Rời
khỏi mái trường, Kiên tình nguyện gia nhập quân ngũ theo tiếng gọi thiêng liêng
của Tổ quốc. Anh là sự kết hợp hoàn hảo giữa cả bố và mẹ: xung phong đi bộ đội
ở tuổi mười bảy, khăng khăng chiến đấu, bỏ lại người yêu, cứng rắn và can đảm.
Ngày lên đường, Phương đã đưa tiễn Kiên một chặng đường dài. Trên chuyến tàu
hàng ra tiền tuyến, Phương bị cưỡng bức. Cảm thấy ở Phương “thái độ điềm nhiên
khinh nhờn và thờ ơ lãnh đạm” sau biến cố ấy, Kiên đã bỏ rơi Phương và đi vào 4
cuộc chiến. Trải qua mười năm khốc liệt, cuối cùng Kiên “may mắn” sống sót trở
về với cuộc sống hòa bình. Tuy nhiên, những vết thương trên thân thể và trong
tâm hồn của anh không thể nào hàn gắn được. Anh không thể hòa nhập được với
dòng chảy của cuộc sống, trở thành “nhà văn cấp phường” kỳ quặc, khó hiểu. Anh
bắt tay vào viết tiểu thuyết, viết về chính cuộc chiến bản thân đã từng tham gia,
với những đồng đội, những vui buồn, khốc liệt, với mối tiền day dứt với Phương,
và cả những sự thật ghê gớm đã ám ảnh suốt quãng đời còn lại của anh.
Trong hành trình tâm tưởng của Kiên, ký ức về những người đồng đội luôn
gắn liền với cái chết. Họ bị giết ngay trước mặt anh như người tiểu đoàn trưởng
của tiểu đoàn 27, cô Hòa giao liên,… Có cả những người đã chết trong vòng tay
anh như Quảng, Thịnh “con”… những người đã “gỡ” cho tính mạng của Kiên.
Rồi cũng có nhiều người phải hy sinh vì lỗi lầm của anh như Oanh. Tất cả những
sự kiện đó đã được anh Kiên đưa vào tiểu thuyết của mình trong hình hài hỗn độn.
Người duy nhất có mối quan tâm về cuốn tiểu thuyết ấy chính là người đàn bà
câm sống trên tầng gác áp mái.
Cùng với những trăn trở về quá khứ, “mảnh đời còn lại sau mười năm bị
lửa đạn của chiến tranh vằm xé lại bị móng vuốt của tình yêu xé nát”. Ngày trở
về, Kiên gặp Phương, muốn cùng Phương quay lại thời yêu nhau “bất chấp tất cả,
bất chấp sự khác nhau quá lớn giữa hai đứa” nhưng lúc này đây Phương đã chìm
đắm trong trụy lạc, cô đi theo một người lính “đã định với nàng một lễ cưới”.
Chán chường với mọi thứ diễn ra xung quanh mình, Kiên quyết định đem đốt
cuốn tiểu thuyết kia và ra đi. Mớ bản thảo như một cuộc sống hỗn loạn với cảm
hứng chủ đạo là sự rối bời anh để lại đã được người đàn bà câm gom lại và cất giữ.
1.3. Giới thuyết thể loại
1.3.1. Tiểu thuyết
GS. TS. Phương Lựu nhận định: “Tiểu thuyết là hình thức tự sự cỡ lớn đặc
biệt phổ biến trong thời cận đại và hiện đại. Với những giới hạn rộng rãi trong
hình thức trần thuật, tiểu thuyết có thể chứa đựng lịch sử của nhiều cuộc đời,
những bức tranh phong tục của xã hội miêu tả cụ thể các điều kiện sinh hoạt giai
cấp tái hiện lại nhiều tính cách đa dạng”. 5
Tiểu thuyết là thể loại lớn nhất trong loại tác phẩm tự sự, đặc biệt phát triển
mạnh mẽ trong thời kỳ cận và hiện đại. Thể loại này không bị giới hạn về dung
lượng phản ánh hiện thực, cả về không gian cũng như thời gian. Qua tiểu thuyết,
người đọc có thể hiểu được một giai đoạn lịch sử với nhiều sự kiện, nhiều cảnh
ngộ, địa điểm, tình huống...mà khó có thể loại nào có thể đạt được. Các yếu tố
khác của tác phẩm văn học, từ đề tài, chủ đề, nhân vật, kết cấu...cũng chịu sự chi
phối của đặc điểm này. Tiểu thuyết miêu tả cuộc sống trong tính chất văn xuôi.
Nó thể hiện cuộc sống như một thực tại cùng thời và hấp thu vào bản thân mọi
yếu tố ngổn ngang, bề bộn của cuộc đời… bao gồm những bi - hài; cao cả - thấp
hèn; vĩ đại - tầm thường, lớn - nhỏ. Chính dung lượng phản ánh hiện thực rộng
lớn giúp nhà văn miêu tả nhân vật và hoàn cảnh một cách đầy đủ, toàn diện, tỉ mỉ
từ những trạng thái tâm hồn cũng như những mối quan hệ đa dạng, phức tạp khác.
Tiểu thuyết là thể loại đa dạng về mặt thẩm mỹ, có khả năng tổng hợp và thu hút
vào bản thân nó những đặc trưng và sắc thái thẩm mĩ của nhiều loại hình nghệ
thuật khác "Ðức tính căn bản của tiểu thuyết là ăn được mọi thứ, nó đồng hóa mọi
loại tác phẩm khác vào mình" (Ph. Mác xô- Nhà nghiên cứu tiểu thuyết Pháp)
1.3.2. Đề tài chiến tranh
a. Vị trí đề tài chiến tranh trong văn xuôi trước năm 1975
Đề tài chiến tranh trong văn học Việt Nam là nguồn chủ lực, là nguồn mạch
phong phú và không bao giờ vơi cạn của văn học Việt Nam từ khi hình thành cho
đến nay. Đất nước ta trưởng thành và phát triển nhờ các cuộc chiến chống lại các
thế lực thù địch, và dấu ấn của chiến tranh in hằn đậm nét trên các tác phẩm văn
học là lẽ đương nhiên.
Đầu thế kỉ XX, thời kì 1930 – 1935, văn xuôi có đề tài chiến tranh vẫn còn
nhạt nhòa, chưa có dấu ấn mạnh mẽ. Đến thời kì 1936 – 1939, phong trào cách
mạng có nhiều thuận lợi, dòng văn học cách mạng những năm này đã xuất hiện
thể loại phóng sự (Ngục Kon Tum – Lê Văn Hiến, Đời tù tội – Chí Thành) , truyện
ngắn, truyện vừa, truyện dài: Vượt ngục (Cựu Kim Sơn), Không tên không tuổi
(Phong Ba), Ba năm ở Nga Xô viết (Trần Đình Long),… Sự phát triển của bộ phận
văn học này đã khiến sức mạnh tố cáo hiện thực, cổ vũ đấu tranh của văn học cách
mạng trở nên rộng lớn hơn. Hình tượng người chiến sĩ cách mạng được xuất hiện
thêm qua một hình thức mới, có tác dụng nêu gương rõ rệt. Trong không khí mặt 6
trận Dân chủ, văn học cách mạng thời kì 1936 – 1939 phát triển với khí thế mới,
quy mô mới, ảnh hưởng sâu rộng tới đời sống xã hội.
Các nhà văn đã miêu tả chiến tranh với thái độ trân trọng và lòng tự hào về
mỗi chiến công trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ cứu nước. Văn học
thời kì này ghi lại chi tiết những hình ảnh về một thời kỳ lịch sử đầy máu, mồ hôi
và nước mắt của đồng bào, nhân dân; văn xuôi đã có sự biến động, đổi mới về cả
nội dung cho đến hình thức theo định hướng của một nền văn học kháng chiến.
Những tác phẩm được ra mắt ngay từ những ngày đầu Cách mạng như Ở
chiến khu của Nguyễn Huy Tưởng, Rãnh cày nổi dậy của Mạnh Phú Tư, Dân khí
miền Trung của Hoài Thanh… đã mang trong mình tiếng nói của dân tộc, thể hiện
chủ nghĩa yêu nước, khát vọng được tự do, độc lập, tinh thần cộng đồng và chủ
nghĩa anh hùng. Văn xuôi thời kì kháng chiến chống Pháp đã bám sát các diễn
biến và sự kiện của cuộc chiến, dựng lại những bức tranh toàn cảnh về cuộc kháng
chiến toàn quân toàn dân ở mọi miền Tổ quốc.
Kháng chiến chống thực dân Pháp thành công, tuy nhiên đề tài chiến tranh
vẫn đang là mảnh đất màu mỡ để các cây viết thỏa sức sáng tạo. Điển hình trong
giai đoạn này có Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc), Một chuyện chép ở bệnh
viện (Bùi Đức Ái), Sống mãi với Thủ đô (Nguyễn Huy Tưởng)…
Bước sang giai đoạn toàn quốc kháng chiến chống lại đế quốc Mĩ xâm lược,
sức nóng của đề tài chiến tranh vẫn không thuyên giảm. Đội ngũ với nhiều cây
viết sắc sảo đã tập trung phản ánh kịp thời khí thế và những chiến công, những
tấm gương anh hùng tiêu biểu trong cuộc chiến. Các tác phẩm thời kì này vừa
phản ánh hiện thực chiến tranh, vừa đáp ứng kịp thời yêu cầu cổ vũ cuộc chiến
đấu. Chính tinh thần ca ngợi cách mạng đã tạo nên khuynh hướng sử thi, bao trùm
thời kì văn học chống Mĩ cứu nước.
Có thể thấy đề tài chiến tranh trước năm 1975 có những đóng góp vô cùng
tích cực cho công cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc, thể hiện ở chỗ đã
lên án hiện thực ác liệt, tố cáo chiêu trò của kẻ thù, đồng thời khích lệ tinh thần
kháng chiến cứu quốc của đồng bào, nhân dân, binh lính cả nước. Đề tài chiến
tranh giữ vị trí quan trọng trong những năm 1930 đến năm 1975, là đại diện cho
cả một thời kì văn học phát triển rực rỡ và mạnh mẽ. 7
b. Vị trí đề tài chiến tranh trong văn xuôi sau năm 1975
Những năm đầu sau khi quân và dân ta giành độc lập, dư âm của cuộc kháng
chiến vẫn còn đó, đề tài chiến tranh vẫn là mối quan tâm của văn học và các cây
viết vẫn giữ nguyên cách khai thác đề tài giống với các giai đoạn trước. Dẫu vậy,
cũng đã có một vài tác phẩm táo bạo hơn khi chọn những thời điểm căng thẳng
nhất nhất của chiến tranh để khám phá tâm lí và tính cách nhân vật như: Miền
cháy (Nguyễn Minh Châu), Miền đất lửa (Nguyễn Sinh, Vũ Kỳ Lân), Đất trắng
(Tập 1, Vũ Trọng Oánh)…
Đến nửa đầu thập kỉ 80, nhu cầu đổi mới rõ dần. Có thể nói, những tiêu chí
đổi mới văn học ít nhiều có liên quan đến văn học đề tài chiến tranh, truyện ngắn
Bức tranh ra mắt năm 1982 của Nguyễn Minh Châu đã đánh dấu bước ngoặt của
văn học Việt Nam. Còn tiểu thuyết đã góp phần không nhỏ vào việc thay đổi diện
mạo văn học Việt Nam hiện đại. Nó vừa chứa đựng sự đổi mới quan niệm về hiện
thực, con người, lại vừa là nơi thử thách bản lĩnh của người nghệ sĩ.
Đội ngũ những cây viết viết về đề tài chiến tranh sau năm 1975 không chỉ
có những gương mặt quen thuộc mà còn hội tụ những cây viết mới mà trong chiến
tranh họ ở vị trí một người lính hoặc gần gũi với công việc của người lính. Họ
đem những trải nghiệm của mình từ chiến hào vào những trang văn, quan niệm
của họ về chiến tranh có nhiều điểm khác biệt so với quan niệm trước đó. Nhiều
cây bút coi việc viết về chiến tranh là một sự tri ân, do đó, tác phẩm của họ sẽ tập
trung khắc họa, ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất: lòng dũng cảm, đức hi sinh, lối sống
vị tha, tình nghĩa… Dù vẫn coi trọng mục đích phản ánh cuộc kháng chiến vĩ đại
của dân tộc nhưng những nhà văn dường như chú tâm đến tính chân thực của tác
phẩm nhiều hơn. Vậy nên, những tác phẩm trong giai đoạn này không chỉ nhắc
đến những thắng lợi vẻ vang mà còn chạm đến những góc khuất của chiến tranh
như những chấn thương tâm lý, những mất mát, hi sinh…
Chiến tranh, dù đã lùi xa cuộc sống của chúng ta rất nhiều năm rồi nhưng
chưa bao giờ nó thôi hấp dẫn những cây viết. Đề tài chiến tranh sau năm 1975
không chỉ tiếp nối những truyền thống sẵn có mà còn đổi mới để phù hợp với xu
thế của thời đại và làm thỏa mãn người viết. 8
Chương 2: Những đổi mới trong cách tiếp cận đề tài chiến tranh
qua Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh
2.1. Tình hình tiếp nhận
Nỗi buồn chiến tranh được người đọc tiếp nhận như thế nào? Họ phản ứng
ra sao? Họ nghiên cứu như thế nào?
Tình hình tiếp nhận có nhiều vấn đề, dư luận phản bác, phức tạp, không đồng tình
và đưa ra nhiều ý kiến trái chiều về tác phẩm,gây nhiều tranh luận...Nhìn chung
lại người đọc “điên loạn, rối bời, bôi nhọ quan điểm,..”
Ở trong nước: Nhà văn Nguyên Ngọc – người lãnh đạo đạo hội nhà văn hồi đó đã
từng đánh giá cao thành quả sáng tạo của Bảo Ninh trong “Nỗi buồn chiến
tranh”:“ Đây là cuốn tiểu thuyết về một cuộc chiến đấu của một con người tìm lẽ
sống hôm nay. Bằng cách chiến đấu lại cuộc chiến đấu của đời mình. Cuốn sách
này không mô tả chiến tranh. Nó “mô tả” một cuộc kiếm tìm nặng nhọc chính
hôm nay. Hiện thực ở đây là hiện thực bên trong của một tâm hồn quằn quại và
đầy trách nhiệm, quằn quại vì đầy trách nhiệm. Trách nhiệm lương tâm. Cuốn
sách nặng nề này không bi quan. Vẫn thấm sâu ở đâu đó trong từng kẻ chữ của
một âm hưởng hy vọng tiềm tàng, chính là vì thế. Anh đi tìm, nghĩa là anh còn hy
vọng”. Vậy mà sau này chính nhà văn lại là người đưa yêu cầu mạnh mẽ thu hồi
cuốn tiểu thuyết nhất. Nguyễn Gia Thiều nói rằng: “Nỗi buồn chiến tranh” đã
chạm vào mẫu số chung của nhân loại - đó là câu chuyện của thân phận của mất
mát của tình yêu và chiến tranh”. Hay trong bài viết “Thân phận tình yêu của
Bảo Ninh”, Đỗ Đức Hiểu đánh giá cao cuốn tiểu thuyết này. Người viết đã dùng
các phạm trù của thi pháp học hiện đại biểu dương cách tân tiểu thuyết của nhà
văn, coi tác phẩm là “một điểm nhìn mới về chiến tranh”, “là giấc mơ dài, một
huyền thoại của thời đại”: ““Nỗi buồn chiến tranh” và nỗi buồn tình yêu thấm
vào nhau, hòa lẫn nhau, da diết, xót xa, hủy diệt đó là hai nhịp đập mạnh của
quyển tiểu thuyết”. Nguyễn Đăng Điệp có bài viết “Kĩ thuật dòng ý thức qua “Nỗi
buồn chiến tranh” của Bảo Ninh “đã đi sâu phân tích kĩ thuật dòng ý thức trong
tác phẩm”. Vấn đề thân phận cũng được người viết đề cập: “Đây không đơn giản
là tâm lí hoài nghi các giá trị cao đẹp người ta thường nói về chiến tranh, mà sâu
hơn, là những suy tư về thân phận, một vấn đề triết học lớn được đặt ra cấp thiết
trong thời hiện tại. Sự hiện hữu của con người trong thế giới này có nghĩa lí gì? 9
Nó sẽ ra sao trong loạn lạc, khổ đau? Nhưng Bảo Ninh không nhìn thế giới như
các nhà hiện sinh đã nhìn. Từ tiếng thở dài về thân phận con người trong li loạn,
Bảo Ninh vẫn tin về sức sống của cái đẹp cho dù đó là cái đẹp đã từng bị vùi
dập”. Tuy nhiên “Nỗi buồn chiến tranh” sau khi đạt giải Hội nhà văn năm 1991
đã bị cấm xuất bản một cách không chính thức tại Việt Nam trong một thời gian
dài thậm chí ngay trong năm tác phẩm đoạt giải chính vì thế cho đến những năm
gần đây người ta vẫn chưa đưa ra được kết luận cuối cùng. Hoàng Ngọc Phiến đã
viết: “Cách tiếp cận đề tài của Bảo Ninh giống như một sự liều lĩnh. Có thể tác
giả sẽ bị trả giá trong khi không ít người còn viết thiên về cách nghĩ bằng những
“thuận lí”, “một nghĩa”, “bảo đảm an toàn”, thì cuốn tiểu thuyết khác thường
của Bảo Ninh là “cái được” của văn chương”. Nỗi buồn chiến tranh của Bảo
Ninh vẫn còn nhiều vấn đề tranh cãi, gây xôn xao dư luận. Có nhiều lời ca ngợi
dành cho tác phẩm nhưng cũng không ít bạn đọc công kích, phản đối nội dung
của câu chuyện. Tiểu thuyết đầu tay của Bảo Ninh bị coi là tiêu cực, thể hiện cái
nhìn sai lệch về cuộc kháng chiến chính nghĩa của dân tộc. Tiến sĩ Mỹ học và Phó
tiến sĩ Ngữ văn Đỗ Văn Khang đã phẫn nộ “vì Bảo Ninh đã gọi cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước là “cuộc chiến tranh Việt – Mỹ”, đã thể hiện người lính quân
đội nhân dân như một lũ thất trận chứ không phải những người mang tinh thần
“xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Tiến sĩ Phạm Thị Xuân Châu (Trong bài viết
“Chiến tranh và chủ nghĩa nhân văn trong văn chương hiện nay”) lên án gay gắt
tác phẩm “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh “Hình ảnh người lính chống Mỹ
hiện lên trong tác phẩm của Bảo Ninh là những con bệnh về tinh thần, không lý
trí, không niềm tin, không sức sống (…) Qua cái nhìn của Bảo Ninh, cuộc chiến
tranh chống Mỹ đơn thuần là cuộc chiến phi nhân tính mà hai bên khạc đạn vào
nhau, bắn giết lẫn nhau, tàn sát lẫn nhau trong thân phận khốn cùng của người
lính trận. Nguyên nhân sâu xa, theo tôi, chính là do lập trường chính trị sai lầm
và quan niệm chủ nghĩa nhân đạo một chiều, chủ nghĩa nhân văn phiến diện, siêu
thực của người cầm bút, không phân biệt được chiến tranh chính nghĩa và chiến
tranh phi nghĩa, xóa nhòa ranh giới phải –trái, đúng – sai, thiện – ác, đánh đồng
hành động chính nghĩa – phi nghĩa, đồng nhất cái ác, cái phi nhân với đấu tranh
chính nghĩa để hủy diệt tàn bạo; phủ nhận ý nghĩa cao đẹp của cuộc chiến tranh
chống chủ nghĩa thực dân mới, đánh đuổi kẻ thù của dân tộc giành sự toàn vẹn,
thống nhất non sông để đoàn tụ mọi gia đình bị chia cắt”. 10
Thậm chí có một số nhà văn trong ban giám khảo của Hội nhà văn đã lên
tiếng phủ nhận giải thưởng cũng như những phát ngôn của mình trước đó. Nhà
nghiên cứu Vương Trí Nhàn cho rằng: “Nếu thời trước thì cứ thế cuốn sách sẽ
chìm dần trong bóng tối và chỉ cần bị ném ra khỏi các thư viện nữa thôi là có thể
coi như bị xóa sổ hoàn toàn, nhưng may mắn, nó được ra vào đúng thời kì Đổi
mới. Đỗ Minh Tuấn trong bài “Văn học cần bảo hiểm cho sự thật lịch sử” cho
rằng: “Trong một số tác phẩm viết về chiến tranh chống Mỹ, tiêu biểu là “Nỗi
buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, đã xuất hiện sự thay máu anh hùng, tước đi
những khát vọng cao cả, những cảm quan anh hùng có thực trong đời sống chiến
sĩ của chúng ta trong chiến tranh và đó là sự đánh tráo linh hồn nhân danh một
tòa án tối cao của chủ nghĩa nhân văn để ép cung và xáo trộn hiện trường lịch
sử, sử dụng nhân chứng giả thay cho các nhân chứng thật đã xuất hiện trong các
tác phẩm theo thủ pháp nghệ thuật quen thuộc”. Đỗ Minh Tuấn cho rằng: “không
thể giản lược chiến tranh thành một hành trình đơn điệu từ cái nhão nhoét của
bùn và máu tới cái nhão nhoét của con bệnh tâm thần và cuối cùng trở thành cái
nhão nhoét của văn chương cải lương, mùi mẫn, một chiều…”
Ở nước ngoài: “Nỗi buồn chiến tranh” đã vượt ra khỏi biên giới. Là một
trong những cuốn sách được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Cuốn tiểu thuyết
viết về đề tài chiến tranh thế kỷ XX đáng đọc nhất. “Nỗi buồn chiến tranh”cũng
được xem là tiểu thuyết hay nhất của văn học Việt Nam thời kì hậu chiến, được
Phan Thanh Hảo và Frank Palmos dịch sang tiếng Anh xuất bản năm 1994 với
nhan đề “The Sorrow of War” được đánh giá cao và các nhà phê bình đánh giá
đây là một trong những tiểu thuyết cảm động nhất viết về chiến tranh. Tháng
5/2011 tác phẩm được giải thưởng châu Á. Tháng 9/2011, “Nỗi buồn chiến
tranh”được giải thưởng sách hay, nhiều nhà làm phim nước ngoài cũng có ý định
dựng thành phim từ cuốn tiểu thuyết này. Tờ báo Anh The Guardian đã viết: “Một
cuốn tiểu thuyết không thể đặt xuống. Bất kì nhà chính trị hoặc nhà hoạch định
chính sách nào của Mỹ cũng cần nên đọc cuốn sách này. Nó lẽ ra phải được giải
Pulitzer, nhưng không được. Nó quá hấp dẫn để xứng được thế”. Tờ Independent,
một trong những nhật báo của nước Anh đã nhận xét: Vượt ra ngoài sức tưởng
tượng của người Mỹ, “Nỗi buồn chiến tranh” đi ra từ chiến tranh Việt Nam đã
đứng ngang hàng với cuốn tiểu thuyết chiến tranh vĩ đại của thế kỉ, “Mặt trận
phía Tây vẫn yên tĩnh” của Erich Maria Remarque (…). Một cuốn sách viết về sự 11
mất mát của tuổi trẻ, cái đẹp, một câu chuyện tình đau đớn… một thành quả lao
động tuyệt đẹp”. Tháng 10/2008, Dennis Mauster, thành viên của hội cựu binh vì
hòa bình và hội cựu binh Việt Nam chống chiến tranh, tác giả sách A Bad Attiade:
A Novel from the Viet Nam war đã viết: “Đây là một bức tranh trung thực và tàn
nhẫn đến kinh ngạc. Đã đến lúc thế giới phải thức tỉnh trước nỗi đau mang tính
phổ quát của người lính ở mọi bên xung dột, và cuốn sách này là nên đọc đối với
những ai chọn nghề “binh nghiệp”. Tôi đặc biệt giới thiệu nó cho các bạn bè cựu
binh của mình; Bảo Ninh thực sự là “bạn chiến đấu” của của chúng tôi, bất kể
việc anh ta đứng ở phía bên kia. Hết sức giới thiệu”. Trong bài báo điện tử
Vietnamnet do Thiên Thai dịch với tiêu đề “Người Trung Quốc nghĩ gì về “Nỗi
buồn chiến tranh””, cũng có đưa ra nhận định tốt về cuốn tiểu thuyết “Nỗi buồn
chiến tranh” “Tôi với tư cách là một tiểu thuyết gia đã có đến 26 năm trong quân
đội, đọc xong tiểu thuyết này, cảm giác mãnh liệt nhất, đó chính là giả sử ngay từ
cuối những năm 80 hoặc muộn hơn một chút vào đầu những năm 90, chúng ta có
thể dịch “Nỗi buồn chiến tranh” sang tiếng Trung (…), thì nhận thức của chúng
ta đối với văn học Việt Nam sẽ không đến nỗi phong bế và hạn hẹp như hôm nay;
văn học quân đội Trung Quốc cự kì cũ kĩ và trì tuệ hôm nay cũng nhất định sẽ
không bảo thủ, bó chân và tụt hậu như vậy. Thậm chí có thể nói, nếu như có thể
nói, nếu chưa có thể kịp thời dịch và giới thiệu “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo
Ninh, văn học quân đội Trung Quốc ngày ấy và bây giờ đều rất có thể đã mang
một cảnh sắc và sinh khí khác”.
2.2. Chiến tranh – viết về chiến tranh như một sự tri ân
Những tác phẩm văn học về chiến tranh của các nhà văn – chiến sĩ là một
bộ phận quan trọng trong văn học Việt Nam, đóng góp vào việc tôn vinh và giữ
gìn ký ức về một thời máu lửa của dân tộc. Đó không chỉ là những tác phẩm nghệ
thuật, mà còn là một cách để ghi nhận lịch sử và tôn vinh những người đã đóng
góp cho đất nước, đưa cho thế hệ trẻ những bài học về tình yêu và sự hi sinh về một cái thời mà:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?” 12
Các tác phẩm của nhà văn – chiến sĩ như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư,
Đỗ Quang Tuấn, Lê Minh Khuê, Nguyễn Văn Thiệu, và nhiều tác giả khác đã tạo
ra những ấn tượng sâu sắc về cuộc đời, tình yêu, và sự hi sinh của người lính và
dân quân. Các tác phẩm này không chỉ được đọc và yêu thích trong nước mà còn
được đón nhận rộng rãi ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tác phẩm của các nhà văn
– chiến sĩ đã góp phần tạo nên một phần lịch sử văn học của dân tộc, và truyền lại
những giá trị về tình yêu, nhân văn, và tinh thần đồng đội cho thế hệ mai sau.
Nguyễn Minh Châu thấy rằng: “Viết về hai cuộc kháng chiến, viết về chiến
tranh, nhiều đồng chí cầm bút viết văn trong quân đội đã đứng tuổi nhiều lần nói
tới công việc đó như một trách nhiệm, một món nợ chưa trả được. Một món nợ
chưa trả và không thể nào quên”, “Người viết phải đáp ứng cho được, thỏa mãn
cho được mỹ cảm nghệ thuật, bao hàm nhận thức cái đẹp từ trong phẩm chất, đức
hi sinh và tâm hồn nhân văn của con người hôm qua”. Sự gặp gỡ giao thoa giữa
độc giả và tác giả phải chăng cũng là sự tri ân về quá khứ, tri ân về lớp thế hệ
dùng máu thịt của mình bồi đắp nên hình hài đất nước, những người nảy mực vẽ
lên biên giới tổ quốc. Quan niệm ấy được nhiều người đồng tình, nó vừa được
phát biểu trực tiếp vừa được hiện thực hóa bằng thực tiễn sáng tác.
Chính thức nêu vấn đề tri ân quá khứ là hướng đi được nhiều người ủng hộ.
Với quan niệm ấy, nhà văn sẽ chú trọng khắc họa vẻ đẹp của lòng dũng cảm, đức
hy sinh, lối sống vị tha, tình nghĩa…
Tuy nhiên với một nhà văn ông lại tri ân quá khứ không phải xây dựng lên
hình tượng anh hùng ca, một tượng đài đồ sợ to lớn mà ông lại tri ân gợi nhớ về
quá khứ mang đến cho người đọc những cảm thức mới mẻ về chiến tranh. Chiến
tranh nhìn từ sự tri ân không phải là bi tráng, hào hùng, hi sinh ra làm sao mà nó
lại là “ bọc ni lông gói hài cốt tử sĩ xếp lát trên sàn xe”, “ tiểu đoàn 27 độc lập,
cái tiểu đoàn bất hạnh mà anh là một trong mười người may mắn còn được sống
đã bị bao vây rồi bị tiêu diệt mất hoàn toàn phiên hiệu. Một trận đánh ghê rợn,
độc ác bạo tàn…”, “ đội đã tan tác đang cố co cụm, lại bị đánh tan tác”, “chết
dúi ngã dụi vào biển lửa”, “Máu tung xối, chảy tóe, ồng ộc, nhoe nhoét,..” đó là
chiến tranh cho người đọc cho thế sau nhìn thấy rằng những người chiến sĩ ấy họ
cũng là người thường, họ cũng thua, họ cũng bất lực, tuyệt vọng. Điều mà không
một nhà văn nào viết như một điều cấm kỵ trong văn học. Nhưng Bảo Ninh đã
phơi bày cho công chúng nhìn nhận chiến tranh ngẫm về quá khứ một khía cạnh 13
mới. Đúng là chúng ta thắng đó nhưng trước giờ chúng ta chỉ nhìn chiến tranh
nghĩ về, tri ân liệt sỹ những trận đánh nhìn vào bề mặt nổi của một người chiến sĩ
cầm súng ra trận nhưng trước khi hy sinh tạo nên trang sử biên niên vàng cho đất
nước họ cũng chịu đau đớn xác thịt điều đó chúng ta lại ít viết đến “vết thương
không ngừng nhỏ máu, thứ máu của xác chết, lạnh và nhớt. Rắn rết bò qua người
anh. Thần chết sờ soạng”, “ Vân chết cháy cùng với chiếc T54 đầu đàn. Thân xác
ra tro nên chẳng cần huyệt mộ. Còn Thanh thì chết ở Cầu Bông, và cũng bị thiêu
trong quan tài thép cùng với tổ lái. Chỉ có Từ là đã cùng Kiên đánh đến cửa số 5
sân bay Tân Sơn Nhất rồi mới hy sinh. Đêm 29 rạng ngày 30, khi hai thằng gặp
nhau lần chót trên nóc nhà phở Tàu bay, Từ móc cỗ bài dưới đáy bồng ra trao cho Kiên.”.
Sĩ sự tri ân đến từ người sau với người trước, người sống với người chết
không có đồng đội không có tôi ngày hôm nay, hay những người lính muốn xóa
đi đoạn ký ức hồi chiến đó nhưng xóa làm sao được “bao thành viên bị quên lãng
của đại gia đình những người tử trận. Dưới lòng sâu đất ấm của đại ngàn họ
chung nhau một số phận. Không có người vinh kẻ nhục không người hùng kẻ nhát,
không có người đáng sống và kẻ đáng chết. Chỉ người tên tuổi còn đó, người thì
thời gian đã xóa mất rồi, và người thì còn chút xương, người chỉ đọng chút bùn
lỏng. Sau những nhát xẻng, đáy huyệt tối tăm lộ ra và lan hơi thở cuối cùng của
người đã khuất phủ lên”, “Dưới âm ty người ta chẳng nhớ chiến tranh là cái trò
gì nữa đâu. Chém giết là sự nghiệp của những thằng đang sống”. Đôi khi sự tri
ân cũng thật tàn nhẫn đầy ám ảnh.
Hòa bình trong tâm thức của người sống sót qua những cuộc chiến “kiếp,
hòa bình chẳng qua là thứ cây mọc lên từ máu thịt bao anh em mình, để chừa lại
chút xương. Mà những người được phân công nằm lại gác rừng le là những người
đáng sống nhất.”
2.3. Chiến tranh – một hiện thực đa chiều cần nhận thức lại
Khi nhắc lại chiến tranh, lịch sử luôn ưu ái mà nhắc lại những chiến công
anh dũng, đáng trân trọng, tự hào của những nhà kiệt xuất có đóng góp quan trọng
trong công cuộc xây dựng hòa bình. Nhưng chiến tranh không phải là điều đáng
ngưỡng mộ. Bao nhiêu đau thương, bao nhiêu tang tóc của những người vợ mất
chồng, con mất cha,… Tất cả những nỗi mất mát, đau thương ấy đều đến từ chiến 14
tranh? Máu và nước mắt mà chiến tranh mang lại là sự thật mà các thế hệ mai sau cần biết.
Dưới góc nhìn của một người vừa bước ra từ cuộc chiến, Bảo Ninh đã trực
tiếp cảm nhận được những mất mát, đau thương mà bom đạn mang lại cho đất
nước mình, đồng thời lột tả một cách trần trụi sự thật của cuộc chiến. Đầy ám ảnh và bi kịch.
Khác với tiểu thuyết lịch sử luôn miêu tả chiến tranh bằng những hình tượng
hào hùng, “Nỗi buồn chiến tranh” chủ yếu đi sâu vào đời sống nội tâm của con
người thời chiến - cái nhìn về thân phận người lính. Những người lính sau khi
cầm súng chiến đấu cũng là những con người bình thường, tuổi trẻ họ vẫn có
những hoài bão và tình yêu nhưng vì hoàn cảnh buộc phải ném bom dưới mưa.
Người lính trong vòng xoáy của chiến tranh đạn pháo, trong sự đối mặt với hiện
thực tàn khốc của chiến tranh. Đó là người lính không có hào khí trận mạc hay
dáng dấp lý tưởng cũng chẳng có chiến công vẻ vang, oai hùng trên trận địa như
tác phẩm “ Dấu chân người lính” của Nguyễn Minh Châu. Mà người lính của
Bảo Ninh là không gian ma mị bị hoàn cảnh rùng rợn với những cơn mưa “nặng
nề xối dội” nhấn chìm trong “ướt át lầy lội khốn khổ”, “chẳng còn ai trông ra
hồn” nữa “khổ sở vì đói, vì sốt rét triền miên, thối hết cả máu, vì áo quần bục nát
tả tơi và vì những lở loét cùng người như phong hủi”. Nhân vật Kiên mang trong
mình lý tưởng của tuổi 17 bẻ gãy sừng trâu ấy vậy mà giờ đây anh chỉ còn vẻ
“lãnh đạm và ơ hờ”, “anh như đang âm thầm vĩnh biệt chính mình. Anh đón đợi
cái chết, nhưng ngay cả nó, cái chết cũng tầm thường và vô vị, Kiên thản nhiên
nhìn nhận nó với đôi chút ưu sầu, và đôi khi với cả niềm mỉa mai”. Chiến tranh
khốc liệt với máu và bom đạn huỷ diệt đã vây kín khắp nơi, làm ngạt thở những tâm hồn lính chiến.
Cái chết của người lính trong tác phẩm cũng khác nó không giống cái chết
với các giai đoạn trước: những cái chết đi vào huyền thoại, cái chết có giá trị ngợi
ca, khích lệ,...nhưng cái chết của Bảo Ninh là những cái chết chưa sẵn sàng đón
nhận. Cái chết đến bên người lính như sự bất ngờ “Tạo thì lại từ từ gập người
xuống, hai bàn tay ôm ngực như muốn đỡ lấy quả tim, mắt dại đi như tràn đầy
ngạc nhiên, ở nửa lưng bên trái nở bùng rất nhanh một bông hoa máu.”. Cái chết
của Thịnh “nhớn” trong cuộc tấn công trên đồi Phượng Hoàng gợi âm hưởng bi
thương và đau đớn hơn là hào hùng: “Đạn cày bên trái, bên phải, bấm sát gót, 15
lia rát ràn rát mang tai, đỉnh đầu. Ối – Thịnh hộc một tiếng, nhảy dựng lên húc
đầu vào không khí, vật sấp”.
Đó còn là nỗi ám ảnh về những cái chết: Thịnh “con”, Quảng, Can (người
đồng đội bỏ trốn đáng thương của anh),..; cái chết của những thằng lính Mỹ, có
lần anh vì muốn cứu một lính Mỹ mà bỏ chạy đi tìm dụng cụ cứu thương, đến khi
đến nơi, người lính kia đã bị nước mưa nhấn chìm dưới hố sâu. Rồi lần lượt lần
lượt cái chết của những người xung quanh Kiên kéo đến, bám riết trong tâm trí
của anh. Có cả những tiếng cười thảm thiết, man rợ của những người đồng đội
hóa điên của mình… Những giấc mơ của anh gắn liền với cái chết, có người hy
sinh vì anh, cũng có người đã chết vì những lỗi lầm của anh. Tất cả sống lại trong
cuốn tiểu thuyết của Kiên dưới những hình hài hỗn độn. Chẳng ai có thể hiểu được
chúng, trừ một người đàn bà câm sống trên gác áp mái tòa nhà.
Với Kiên, anh phải đối mặt với sự cô đơn vô bờ bến. Trở về ngôi nhà xưa
với một nỗi cô đơn khủng khiếp: cha đã mất, mẹ không còn! Nơi bấu víu tinh thần
duy nhất của anh là Phương - cô người yêu hồi học sinh, cũng bỏ anh mà đi.
“Nhưng chỉ sợ chúng mình sẽ không kịp sống và yêu”, “có ai chết đâu,
nhưng tình yêu đó, tình yêu giữa Phương và Kiên chỉ mãi mãi nằm trong ký ức để
họ nhớ về nhau.Tình yêu đau đớn nhất có lẽ là yêu mà không đến được với nhau.
Nhưng một khi đến được với nhau rồi liệu tình yêu có còn đẹp nữa hay không?”
“… Hai đứa mình, Kiên ơi… Có thể đến khi chết đi vẫn còn trong trắng…
Vậy mà chúng mình yêu nhau biết là ngần nào…”
“Nỗi buồn chiến tranh” còn khắc họa cảnh sống và sinh hoạt của những
chàng trai mười chín đôi mươi chờ giờ ra trận, cờ bạc, ma túy cho quên tháng
ngày. Ma túy chẳng gì khác hơn là sợi hồng ma cho quên đi cái chết cận kề. Đó
là những chàng thanh niên mới lớn, chưa một lần biết đến mùi yêu, hàng đêm lần
lượt kéo nhau xuống “khu trang trại gia tăng của huyện đội 67” với mỗi ba cô gái
đang sống và chờ đợi từng đêm, chờ đợi bước chân người lai vãng.
“Nỗi buồn chiến tranh” miêu tả chân thực cuộc sống bị “sốc” của những
con người từ chiến trường trở về cuộc sống đời thường. Họ, những chàng lính anh
dũng trên chiến trận, còn lại gì khi đất nước đã hòa bình? Phải chăng, họ còn lại
là nỗi buồn, mất mát, ám ảnh và đang loay hoay trong cái gọi là hòa nhập, là sống 16
lại với hòa bình? Kiên sau khi trở về Hà Nội, anh đã viết, viết để kể, được hồi ức,
để tránh những nỗi ám ảnh, nỗi cô độc, nỗi buồn trong chính con người mình về
tình yêu, về chiến tranh. Có ai đó đã nói “Cách tốt nhất để né tránh nỗi đau là đối
diện trực tiếp với nó”. Phương đã rời xa anh, còn lại một mình anh chỉ biết viết mà thôi.
2.4. Chiến tranh – số phận con người và vấn đề nhân tính
Dấu ấn của cuộc chiến năm xưa vẫn còn nặng trĩu, ám ảnh trái tim Kiên từ
lúc nào không hay. Độc giả sẽ không bao giờ quên những thước phim tái hiện
cảnh chiến trường ngày xưa: “Trên đầu trực thăng rà rạp các ngọn cây và gần
như thúc họng đại liên vào gáy từng người một mà bắn. Máu tung xối,chảy toé,
ồng ộc, nhoe nhoét… la liệt xác người bị pháo bầy đốn hạ, thân thể dập vỡ, tanh
bành; phùn phụt phì hơi nóng”. Các hồi ức nối tiếp nhau hiển hiện “dằng dặc trôi
qua trong hồi ức của Kiên…cả một đạo quân mà anh từng gặp trong chiến trận
đã trở về với anh qua những cách cửa vòm mờ tối của những giấc mơ dài không
dứt… làm tâm hồn anh từng lúc một hoặc sôi sục, hoặc nhói đau, hoặc ngưng lặng đi”
Hay như người đội trưởng tên Quảng cầu xin Kiên hãy kết liễu đời anh vì
anh đau đớn quá. Bụng rách trào ruột, xương xẩu dường như gãy hết, tay lủng
liểng. Và cả những người lính dù trang phục vằn vện nằm phơi nắng trong các
lùm bụi lúp xúp ven rừng Ko Leng, thản nhiên trương phình lên, thản nhiên chịu
đựng lũ ruồi, bầy dòi và mùi da thịt khắm lặm của mình. Rồi hình dung về những
trận mưa cẳng chân, bàn tay rơi lịch bịch lẹt bẹt xuống đồng cỏ voi bên bờ sông
Sa Thầy. Những người lính bị ám ảnh bởi những cái xác mà xe tăng mình đã
nghiến qua, bởi mùi thịt hôi thối khong sao gột rửa được.
Những bóng ma quá khứ liệu có buông tha người lính để họ trở về và bước
tiếp cuộc sống bình thường? Với Kiên thì không, anh dường như phát điên, phải
mượn rượu để sống bởi không thể tự thoát ra khỏi những chấn thương tâm lý mà
chiến tranh gây ra. Rồi những đồng đội khác đều mang thương tật, mặc cảm với
hòa bình... Không phải không có lý khi nhiều người cho rằng Bảo Ninh bi quan,
bế tắc, khi tác giả đã để cho nhân vật của mình phát ngôn như sau: - “Hừ, hòa
bình, mẹ kiếp, hòa bình chẳng qua là một thứ cây mọc lên từ máu thịt bao nhiêu 17
anh em mình, để chừa lại chút xương... nền hòa bình này, tôi thấy hình như các
mặt nạ người ta đeo trong những năm trước rơi hết... Mặt thật bày ra gớm chết”.
Những trận chiến khốc liệt xuất hiện bất cứ lúc nào, làm nhói lòng người
lính. Những gương mặt bạn bè theo chiến tranh mà mà biến mất. Số phận của
những người lính trong chiến tranh hệt như những tia nắng xế chiều - mỏng
manh và nhanh tắt. Ký ức về những trận đánh, những hy sinh thầm lặng, ước
mơ hòa bình, những gì chiến tranh buộc con người phải làm, luôn hiện lên trong
tâm trí những người trở về.
Bên cạnh số phận người lính, hình ảnh Phương - người yêu trinh trắng, đắm
say, đẹp như một bài thơ giờ trở thành tan nát - đau như một vết thương lòng.
Phương trở thành một gái điếm, một ca kỹ. Rồi em gái của một đồng đội đã hy
sinh cũng trở thành một gái điếm, đói rách khốn khổ, bị ruồng rẫy... Nỗi đau tinh
thần của người dân trong chiến tranh có thể là vết thương không thể chữa lành
theo thời gian. Nó cũng làm cho trái tim của những người đang sống thổn thức
và nhức nhối không ngừng.
Chiến tranh đồng nghĩa với chết chóc, mất mát, đau thương và nó cướp đi
của con người tất cả những gì quý giá nhất: gia đình, tuổi trẻ, những người thân
yêu, tình yêu… thậm chí cả tình người. Khi trực diện đối mặt với cái chết, con
người mới lộ rõ bản chất, từ sợ hãi, đau đớn đến hẹp hòi, ích kỷ. Qua kinh nghiệm
mười năm tàn sát, con người học được những gì về lòng nhân ái? Về tình người?
Về nhân tính? Những “xa xỉ phẩm" ấy hầu như đều vắng mặt trên thị trường xương
máu “Miễn là không ngỏm trong mùa khô."
Trong Nỗi buồn chiến tranh không có cái đúng, cũng không tồn tại cái sai.
Suy cho cùng, nếu đã cầm súng giết nhau thì đều là “thiếu nhân tính”, cái chết
cho dù là phe ta hay địch thì đều là nỗi buồn của mỗi một phía. Ở đây không nói
dựa trên lập trường của một người làm chính trị, không dựa trên lý thuyết của
cuộc chiến tranh chính nghĩa hay phi nghĩa. Chống lại cái gì và bảo vệ cái gì? Văn
học cho dù đổi mới hay chưa đổi mới thì nó chỉ đúng nghĩa là văn học khi nó nói
và tái hiện cái nó thấy, không dựa trên sự áp đặt của một luồng tư tưởng, hay một
thiết chế chính trị hay một quy chuẩn đạo đức nào. Tất nhiên, những gì văn học
tái diễn phải chắc chắn là sự thật. 18 * Tiểu kết
Với tư cách một người lính, Bảo Ninh thể hiện những trải nghiệm chiến
tranh; với tư cách nhà nghệ sĩ, Bảo Ninh muốn trình bày những chiêm nghiệm,
những suy tư, triết lý về cuộc sống. Những triết lí ấy mang tính đối thoại, cho thấy
một hiện thực đa chiều, đa nghiệm, không khép kín. “Nỗi buồn chiến tranh” là
một tiểu thuyết hướng nội và chủ quan hoá triệt để. Những xung đột và những vận
động cơ bản của tiểu thuyết đều diễn ra trong thế giới nội tâm của nhân vật. Bảo
Ninh đã sử dụng ngôn từ tinh tế và lời văn uyển chuyển, để tái hiện và truyền tải
cảm xúc sâu sắc, đặc biệt là những khía cạnh tâm lý và tình cảm để tạo nên một
thế giới sống động, đầy cảm xúc và đặc biệt là sâu sắc. Ông sử dụng kỹ thuật nhân
vật kể chuyện trực tiếp, điều này cho phép độc giả cảm nhận được cảm xúc tận
cùng của nhân vật, từ sự sợ hãi, tuyệt vọng cho đến hy vọng. Sự chân thành đến
từ trái tim của Bảo Ninh được phản ánh qua cách ông miêu tả về chiến tranh, nơi
mà sự đau khổ và tuyệt vọng thường xuyên xuất hiện và sức mạnh của tình yêu
và lòng trắc ẩn. Qua đó độc giả được nhìn nhận lại chiến tranh trên những khía
cạnh đầy mới lạ, độc đáo. Nhưng chiến tranh của Bảo Ninh cũng làm cho người
đọc đau khổ, bứt dứt, u buồn. Một cuốn tiểu thuyết đên viết về chiến tranh. Đề
cập bản chất hai mặt của chiến tranh:giữa vinh quang với đau thương mất mát,
tổn thất không gì đong đếm được. Vươn tầm nhân loại vì không miêu tả diễn trình
trận chiến cụ thể nào mà viết về chiến tranh từ góc nhìn nhân bản – chiến tranh
như một hiểm họa, nỗi buồn truyền kiếp. 19
Chương 3: Những đổi mới trong nghệ thuật qua tiểu thuyết
Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh
3.1. Nhan đề - góc nhìn mới về chiến tranh
Nhan đề là chìa khóa đưa người đọc đến tiến trình giải mã tác phẩm văn
chương. Nó truyền tải những tư tưởng, tình cảm của người viết. Mới đầu có tên
“Thân phận tình yêu” sau đổi thành “Nỗi buồn chiến tranh” đã thiện được tư
tưởng chủ đề, ý tưởng mà Bảo Ninh muốn nói. Qua nhan đề truyện ta thấy được
nỗi buồn dai dẳng khủng khiếp của loài người. Trong cả cuốn tiểu thuyết những
dòng hồi ức gợi lại về chiến tranh ta chỉ thấy là giết người, tiêu diệt và việc giết
người thành cơm bữa, nó như một chuyện hết sức bình thường, nhân tính đã xói
mòn không thể quay lại được: “Không chút nương tay, thằng khốn nọ lôi xác cô
gái xuống bậc tam cấp. Tóc tai xõa tung, gáy và sọ xác chết nảy bình bịch như
trái banh” sự xuống cấp nhân tính không phân biệt ta hay địch, chiến tranh là bi kịch truyền kiếp.
Nhan đề “Nỗi buồn chiến tranh” Bảo Ninh truyền tải những cái nhìn mới về chiến
tranh. Nhan đề phản ánh tính chất hai mặt của cuộc chiến tranh, được nhìn ở góc
độ mà từ trước đến nay các nhà văn đều né tránh cho nó là cấm kị. Chiến tranh
không chỉ là một cuộc tranh đấu mà nó còn phá hủy những giá trị tốt đẹp nhất của
cuộc sống. Tình yêu thương, sự chung thủy, mà còn là một cuộc chiến đấu giữa
con người và con người, con người và sự tàn ác. Nó ẩn chứa trong nó sự tàn nhẫn,
sự đau khổ và những nỗi thống khổ của con người. Và đặc biệt thân phận người
lính, những người đang chiến đấu trong cuộc chiến, trở nên bị ám ảnh bởi những
ký ức khủng khiếp và sự cô đơn. Chiến tranh là một món nợ kinh hoàng của nhân
loại. Chiến tranh mang theo “một nỗi buồn mênh mang, nỗi buồn cao cả, cao hơn
hạnh phúc và vượt trên đau khổ” . Qua nhan đề người đọc cũng nhận thấy quan
điểm sáng tác của tác giả trong việc lựa chọn góc nhìn (u buồn và đầy ám ảnh)
khi viết về cuộc chiến vệ quốc. Nỗi buồn chiến tranh đã bao trùm lên thân phận
con người, thân phận tình yêu bằng màu sắc tăm tối ảm đạm.
Nhan đề gửi một thông điệp về cái nhìn mới về chiến tranh so với các tác
phẩm trước đó. Đồng thời cũng đặt ra vấn đề thách thức cho việc tiếp nhận tác
phẩm để từ đó có cái nhìn đa chiều kích về chiến tranh. 20
3.2. Những kiểu nhân vật mới
“Nỗi buồn chiến tranh” dù viết về một đề tài không mới – đề tài chiến tranh,
nhưng cách nhìn nhận, tiếp cận chiến tranh của tác giả lại vô cùng mới mẻ và đậm
chất hiện thực. Tiểu thuyết của Bảo Ninh cũng viết về những con người chiến
tranh, người lính, đàn ông, đàn bà… nhưng những con người ấy có tư tưởng, suy
nghĩ, thân phận… rất khác biệt so với những tác phẩm đi trước. Việc đưa những
con người ấy vào văn học đã góp phần tạo ra những kiểu nhân vật mới, tạo ra
nhiều điểm nhìn mới về chiến tranh, tạo nhiều khoảng trống cho độc giả. Một số
kiểu nhân vật mới được phát hiện trong quá trình nghiên cứu “Nỗi buồn chiến
tranh” phải kể đến: kiểu nhân vật dòng ý thức, kiểu nhân vật lạc thời và kiểu nhân vật chấn thương.
3.2.1. Kiểu nhân vật dòng ý thức
Khái niệm “dòng ý thức” được nêu ra bởi William James – một nhà triết
học theo chủ nghĩa thực dụng đồng thời là nhà tâm lí học người Mỹ. Ông cho
rằng, hoạt động ý thức của con người không phải rời rạc mà có liên quan với nhau,
dựa theo phương thức dòng tư duy, dòng ý thức hoặc dòng sinh hoạt chủ quan.
Dòng ý thức chấp nhận những yếu tố không nằm trong mạch logic trực tiếp của
tác phẩm cho nên ta thường bắt gặp những yếu tố rời rạc, riêng lẻ, những yếu tố
thuộc về tiềm thức của nhân vật: nỗi ám ảnh, nỗi sợ hãi vô thức,… Nguyễn Bích
Thu đã nói: “giấc mơ và hồi ức là đặc điểm của nhân vật dòng ý thức”, tức là trong
vô thức, khi con người không nhận thức được thực tại, mọi hình ảnh, ý tưởng, kí
ức hướng đến tâm lí nhân vật xuất hiện một cách tự do, đột ngột, không kiểm soát
được. Trong bài viết này, người viết sẽ tập trung làm nổi bật Kiên – một nhân vật
được xây dựng theo “dòng ý thức”, một người lính trở về với những vết thương
lở loét, những vết tích chiến tranh in hằn trên xác thịt và dày vò, ám ảnh trong tâm lí.
Chảy tràn trên trang giấy của “Nỗi buồn chiến tranh” là nội tâm rối bời, là
những mảnh đứt gãy trong kí ức, những gương mặt đồng đội, người yêu, người
thân vụt qua, nhưng không biến mất mà cứ trở đi trở lại trong lòng Kiên. Ở đây,
Bảo Ninh đã vận dụng hình thức đồng hiện, những tư tưởng tình cảm, những câu
chuyện được kể trong tác phẩm được triển khai bởi Kiên, nhưng là Kiên ở hiện
tại nhìn về bản thân trong quá khứ. Việc sử dụng hình thức ấy đã tạo ra một vòng 21
tròn đồng tâm, mà trọng tâm là suy nghĩ của nhân vật và suy nghĩ của tác giả xếp
chồng lên nhau. Ban đầu, Kiên đã lên bố cục, ý tưởng cho câu chuyện của mình
vô cùng trôi chảy nhưng đến khi bắt tay đặt bút viết, đà viết đã xô đẩy, làm ngổn
ngang tất cả những ý định ban đầu của anh “Ngay từ chương đầu tiên, cuốn tiểu
thuyết của anh đã buông lơi cốt truyện truyền thống, không gian và thời gian tự ý
khuấy đảo không kể gì đến tính hợp lý, bố cục bấn loạn, dòng đời các nhân vật bị
phó mặc cho ngẫu hứng”. Cốt truyện vì vậy mà bị chi phối bởi dòng tâm trạng
của nhân vật, bao gồm cả ý thức và vô thức. “Thay vì triển khai tự sự bám vào
"cuộc phiêu lưu của nhân vật" nhà văn lại biến tự sự trở thành một "cuộc phiêu
lưu của cái viết", nghĩa là sự chắp ghép ngẫu nhiên những mảnh vỡ, những sự
kiện phân tán và rời rạc”.
Kiên ý thức được sứ mệnh của bản thân, anh phải viết, viết về cuộc chiến
của những người trong cuộc để an ủi những đồng đội xấu số và để người đời hiểu
được hòa bình đáng giá bao nhiêu. Đó là lí do kéo ngược anh về quá khứ, khiến
anh phải sống cùng lúc trong cả hai thì quá khứ và hiện tại. Bởi sự nhớ lại luân
phiên, liên tục đã khiến Kiên không thể phân biệt được thực tại và quá khứ, điều
đó thể hiện rõ qua những từ dẫn như "hàng bao nhiêu lần", "hồi ấy", "Kiên nhớ
lại", "hồi xưa", "người ta kể rằng", "cách đây không lâu"…Bối cảnh, địa điểm,
không gian, con người... trong quá khứ vì thế mà cứ hiện về, sống cùng tác giả.
Truông Gọi Hồn, tiểu đoàn 27, những cảnh chết chóc, tiếng cười ma quái, nụ cười
của những người đồng đội... Qua những giấc mơ, Kiên được sống là chính mình,
bởi “mơ bao giờ cũng thực hơn bởi nó là phần sâu nhất của ngã”, nên dù phải chịu
nỗi đau tinh thần tái lại nhiều lần nhưng những hồi ức ấy vẫn là liều thuốc an thần
giúp Kiên kéo dài sự sống, kéo dài nghiệp viết giữa thời bình đầy xa cách và lạc
lõng. Có thể thấy, ẩn dưới những giấc mơ, những dòng hồi ức là hành trình đi tìm
bản ngã của nhà văn Kiên.
3.2.2. Kiểu nhân vật chấn thương
“Chao ôi! Chiến tranh là cõi không nhà, không cửa, lang thang khốn khổ
và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà, là thế giới bạt sầu vô
cảm và tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống con người!”. Chiến tranh, bom
đạn chẳng chừa một ai, bất kể già, trẻ, gái, trai, ngay phút trước còn cùng nhau
nói cười, phút sau đã hóa thành tro bụi. “Nỗi buồn chiến tranh”, ngay từ cái tên 22
đề đã gợi lên nhiều đau đớn, mất mát. Ngoài ra, tác phẩm còn được viết dưới vị
trí của người trong cuộc, một người sống sót trở về từ cõi chết, một con người bị
chấn thương, do đó sự hủy diệt của chiến tranh cũng vì vậy mà càng thêm thảm khốc và trần trụi
Nhân vật chấn thương có nhiều kiểu, trước hết là những người trực tiếp
tham chiến, những con người mang chấn thương về thể xác, méo mó về tinh thần,
nhân tính. Họ là những người lính, lên đường ra trận theo lời mời gọi của tổ quốc,
là những người đồng chí đồng đội cùng chung chiến hào chiến lũy của Kiên. Biết
bao cái tên như Can, Thịnh “con”, Tạc “voi”, Oanh, Cừ… lúc đi còn phơi phới
tuổi xuân, một lòng hoài bão, nhưng ngày hòa bình lập lại, họ chẳng thể trở về
được nữa mà nằm mãi nơi rừng thiêng nước độc.
Bảo Ninh khắc họa rất chân thực những chấn thương mà người lính trải
qua, trong đó ấn tượng nhất phải kể đến cơn đau quằn quại, biến dạng, ghê rợn
của Quảng – tiểu đội trưởng đầu tiên của Kiên. Anh là một người con làng chài
quê Móng Cái, cao to, tốt bụng và có phần liều lĩnh nhưng bị đốn ngã trên đường
vận động chiến. “Một trái cối 106 nổ tung gần như dưới chân, nhấc Quảng lên,
quăng bổng theo đường vòng cung rồi giáng quật xuống”, “Bụng rách trào ruột.
Nhưng điều đáng sợ là xương xẩu dường như gãy hết, mạng sườn lõm vào, tay
lủng liểng, và hai đùi tím ngắt”. Chiến tranh chơi đùa tính mạng con người, thân
xác nát bươm, thành một cỗ bầy nhầy, một đống thịt không hơn không kém. Nỗi
đau bom đạn, nỗi đau chết chóc ấy vậy mà chẳng để Quảng nhắm mắt yên nghỉ,
nó giày vò anh, biến anh từ một con người trầm lặng tốt bụng thành một kẻ chỉ
biết la hét và rống lên từng hồi đau đớn “Đừng chạm vào tao . . . đừng băng nữa
. . . Oâ ô. . . đừng. . . a..”, “Kiên... Kiên... -Kiên? Bắn anh đi em...”, “Quảng khóc
khe khẽ và gầm lên hung tợn: Bắn? - Kiên, tao hạ lệnh cho mày giết tao mau! Trời
ơi? Trời ơi bắn đi mà em, bắn? bắn! Mẹ mày chứ, bắn đi, giời?!”. Dù có cơ hội
sống sót, song nỗi đau xác thịt mà chiến tranh để lại đã giết chết hy vọng sống của
người chiến sĩ, giết chết những ước mơ hoài bão, lí tưởng chiến đấu. Chiến tranh
thôi thúc con người ta tự tìm đến cái chết để giải thoát. Những tiếng rống, hét, cầu
xin van lạy được chết của Quảng cùng với tiếng cười cuồng loạn, nức nở, hoan
hỉ, đắc thắng khi được chết của anh không chỉ khiến phơi bày trước mắt người
đọc nỗi đau kinh hoàng người lính phải gánh chịu, mà còn gợi ra những tội ác dã
man, quyết tâm tuyệt diệt giống nòi ta của bọn xâm lược. 23
Nếu tiểu đội trưởng Quảng hiện lên ám ảnh với chấn thương xác thịt do đạn
bom gây ra thì Kiên, một người may mắn trở về với hòa bình lại mang cả những
chấn thương tâm lí. Kiên sống trong mơ trong mộng còn nhiều hơn cả thực tại,
anh bị cô lập, bị đẩy ra lề cuộc sống. Anh đã mất dần khả năng nhận thức thực tại,
cảm thấy ở đâu cũng là quá khứ, hiện thực chiến trường năm xưa cứ hiện ra trước
mắt chân thật biết bao. “Mùi hôi hám pha tạp của đường phố bị cảm giác nồng
lên thành mùi thối rữa. Tôi tưởng mình đang đi qua đồi "Xáo Thịt" la liệt người
chết sau trận xáp lá cà tắm máu cuối tháng Chạp 72. Tử khí xộc lên từ vỉa hè
nồng nặc đến nỗi tôi phải vội đưa tay lên bịt mũi như kẻ hóa rồ trước mắt người
qua đường”, “nghe tiếng quạt trần hóa thành tiếng rú rít rợn gáy của trực thăng
vũ trang”, “không thể nào bình tâm nổi trước cảnh bọn lính Mỹ mặc áo giáp đang
gào lên xung trận trên màn ảnh truyền hình… sẵn sàng nhập thân trở lại với cảnh
lửa, cảnh máu, những cảnh chém giết cuồng dại, méo xệch tâm hồn và nhân
dạng”. Kiên không những bị ám ảnh bởi cảnh chết chóc trong quá khứ, mà bản
thân anh, trớ trêu thay, đã quen thói sát phạt, giết người: “Thói hiếu sát. Máu hung
tàn. Tâm lý thú rừng. Ý chí tối tăm và lòng dạ gỗ đá. Tôi chóng mặt choáng hồn
đi vì niềm hưng phấn man rợ khi bật sống dậy trước mắt một trận cận chiến bằng
báng súng và lưỡi lê”. Niềm hưng phấn vì được nã đạn vào những tấm bia người
ấm nóng của nhân vật là khía cạnh mới mẻ vô cùng mà chưa nhà văn nhà thơ nào
cùng thời chạm đến. Cái thói quen man rợ do chiến trường tôi rèn nên khiến những
người lính như Kiên không ngừng tự vấn lương tri, luôn dằn vặt, bứt rứt, bức bối,
ngột ngạt khi trở về với cộng đồng.
Chiến trường của “Nỗi buồn chiến tranh” còn xuất hiện gương mặt của
những người đàn bà. Không kém gì đấng đàn ông, họ cũng xông pha, cống hiến
sức lực cho tổ quốc. Trong giấc mơ của Kiên, có hình ảnh Hòa, “cô giao liên xinh
tươi, người Hải Hậu đã hy sinh vào thuở tối tăm mù mịt năm 68” vì đánh lạc
hướng địch, cứu đồng đội. “Hòa gục ngã giữa tráng cỏ và đằng sau bọn Mỹ xô
tới, vây xúm lại, trần trùng trục, lông lá một bầy như những con đười ươi, phì phò
thở, giành giật, nặng nề hộc rống lên…”. Rồi Hiền, “chiến sĩ của mặt trận khu 9
đi B từ năm 66, quê Nam Định, gái chợ Rồng nhưng giọng nói đã ăn đậm chất Hà
Tiên”, đã bị chiến tranh cướp đi đôi chân lành lặn.
Một kiểu nhân vật chấn thương nữa được nhắc đến là những người đứng
ngoài cuộc chiến, song dư chấn của chiến tranh cũng chẳng buông tha mà đeo 24
đẳng mãi họ đến cuối đời. Đó là Lan, con gái bà Lành, mẹ nuôi Kiên, mới ngày
nào còn là cô bé mười ba nhút nhát mà giờ đây đã trưởng thành, là mẹ là vợ người
khác. Thế nhưng thời cuộc loạn lạc đã giết chết người chồng sắp cưới của chị,
khiến đứa con mới ra đời khỏe mạnh đã vội bỏ đi vì biết tin mồ côi bố. Hai anh
trai cũng lần lượt nằm lại đâu đó trên mảnh đất quê hương, khiến người mẹ già
vốn đã héo mòn nay cũng “bị xô ngã”. Chiến tranh là như vậy. Nó phá tan những
ngôi nhà, mái ấm, biến con người thành những kẻ côi cút và đáng thương.
Đó còn là Phương, cô gái Hà thành xinh đẹp, trẻ trung bị tổn thương, bị
cướp đi sự trong trắng ngay những giờ khắc khởi đầu của cuộc chiến. “Phương
đã bị thương từ bao giờ. Ở ống quần lụa bên phải bị rách toang lộ hết đùi, những
vết máu loang dòng chảy xuống đầu gối. Phương khép vội hai chân lại và nhìn
xuống. Hóa ra máu chảy rất nhiều, ướt nhèm, tràn đỏ xuống lấp loáng trên bắp
chân và xuống cả gót”, “Mặt sạm khói, môi sưng, cặp mắt dài dại. Và một bên
chân máu vẫn chảy, không nhiều như lúc ở trên toa, nhưng vẫn chảy. Khi Phương
đổi tư thế ngồi, duỗi chân ra trên mặt cỏ hơi dốc xuôi xuống thì từ đùi non một
vệt máu nhỏ đỏ lòm liền trườn dọc qua đầu gối. Kiên lại giật mình rồi lại phải
chợt nhớt không phải Phương bị thương. Và trí nhớ ùa tới rối bời...”. Vết thương
do cuộc chiến để lại khiến Phương càng thêm thấu tỏ bộ mặt chiến tranh, khắc sâu
thêm sự chán ghét với loạn lạc và cũng là thứ ngăn cách, chia cắt tình yêu với
Kiên. “Định bảo Phương lau vết máu đi bởi để thế nom sợ quá nhưng Kiên nén
lại. Một cái gì đã mất đi, một cái gì đã thay đổi giữa hai đứa, rõ ràng và trầm
trọng mà không thể nói thành lời. Và ngay cả những gì còn lại của tình thương
yêu chan chứa bao năm qua cũng chỉ còn một cách bộc lộ bằng sự im lặng, bằng
việc để cho nhau được yên”
Rõ ràng, nơi nào có chiến tranh, nơi đó có đau khổ và bất hạnh. Bất kể là người
tham chiến hay người nằm ngoài cuộc chiến đều mang những nỗi đau và vết thương
không thể hàn gắn được
3.2.3. Kiểu nhân vật lạc thời
Đặc điểm chung của kiểu nhân vật lạc loài là cô đơn, lạc lõng giữa cộng
đồng và thời đại nhân vật đó đang sống. Sự cô đơn được thể hiện ở sự kiếm tìm
đồng cảm bất thành, từ đó chỉ còn lại nỗi buồn, sự xa lánh, muốn trốn tránh thực
tại. Kiểu nhân vật này đã xuất hiện trong lòng văn học phương Tây từ sớm, ở 25
phương Đông, một số quốc gia lớn như Nhật Bản hay Trung Quốc cũng đã chạm
đến nhưng văn học Việt Nam mới ghi nhận kiểu nhân vật này từ khi đất nước
bước vào thời kì đổi mới. Có thể nói, “Nỗi buồn chiến tranh” là một trong những
tác phẩm đầu tiên xây dựng kiểu nhân vật cô đơn, lạc lõng giữa đời này.
“Nỗi buồn chiến tranh” cũng như bao tác phẩm văn học đương đại khác,
đều phản ánh nỗi cô đơn của con người trong bối cảnh xã hội, ngay giữa quê
hương xứ sở, trong lòng làng xóm, gia đình và những người thân yêu. Khi tình
trạng mất kết nối, mất sự cảm thông, thấu hiểu với cộng đồng kéo dài đến một
ngưỡng nhất định, ta sẽ bắt gặp ở những nhân vật này thái độ trốn chạy thực tại,
chối bỏ, khước từ xã hội. Nhìn từ góc độ này, có thể dễ dàng nhận ra cả bố và
dượng của Kiên đều là những nhân vật lạc thời. Họ sinh ra cùng thời, là những
nhân chứng sống của một thế hệ đã qua, một chứng tích của thời thuộc địa, “một
nhà thơ tiền chiến đã ẩn danh” (dượng Kiên) và một họa sĩ mỹ thuật Đông Dương
(cha Kiên). Họ như những thân cây già cỗi cứ mãi cắm rễ ở quá khứ, mãi mãi
luyến tiếc, ngưỡng vọng về một thời đại không thể trở lại. Những con người đã
bước qua hai thời đại, sự hiện diện của họ có ý nghĩa như sự đối chiếu quá khứ
với thực tại, vừa nổi bật ở khả năng tiên cảm về thời đại đang tới. Khả năng tiên
cảm ấy được thể hiện ở lời dặn dò, tiễn biệt và cũng là lời trăn trối cuối đời của
dượng với Kiên trước ngày anh ra trận: “Nghĩa vụ của một con người trước Trời
Đất là sống chứ không phải là hy sinh nó, là nếm trải sự đời một cách đủ ngành
ngọn chứ không phải là chối bỏ... Không phải là ta khuyên con trọng mạng sống
hơn cả nhưng mong con hãy cảnh giác với tất cả những sự thúc giục con người
lấy cái chết để chứng tỏ một cái gì đấy”. Từ cái nhìn của một người đã trải hết
một đời, dượng khuyên Kiên hãy sống vì bản thân, vì lí tưởng của bản thân, hãy
sáng suốt trước những lựa chọn, đừng vì những lời mời gọi “đường ra trận mùa
này đẹp lắm”, đừng vì chứng minh chết trên chiến trường là vinh quang mà bỏ
mạng uổng phí. Ông như muốn lột bỏ lớp ca từ sáo rỗng, đẹp đẽ mê hoặc con
người vào cái chết của thứ văn chương thời chiến, để Kiên – đứa con thân yêu
chẳng chung huyết thống, có thể nhìn thấu hiện thực và sống không hối tiếc.
Khả năng tiên tri còn được thể hiện qua nghi thức tế thần “ma quái, dập
dờn”, “đích thực là một ác mộng” của cha Kiên. Cha của Kiên là một họa sĩ mỹ
thuật Đông Dương, một tài năng thời đại nhưng bị hủy diệt do định kiến giai cấp,
ý thức hệ ấu trĩ một thời về văn nghệ. Người ta “phê phán, đánh đổ” cha Kiên, gọi 26
ông là một tay “khuynh hữu”, “lẩm cẩm và kỳ quặc”. Dưới con mắt của quần
chúng nhân dân lao động, tác phẩm của ông chẳng những không có giá trị mà
được hình dung thành “những chân dung ma quỷ”. “Phải xác định thành phần giai
cấp cho sông núi? Họ dạy thế, vậy bảo phải làm sao bây giờ, hả?” – đây là lời mà
cha Kiên quát vào những bức tranh dang dở trên giá, tựa như tiếng rên quằn quại
trong nỗi đau, trong nỗi cô đơn của chính, lại cũng như lời oán trách xã hội, cười
khinh sự vô lí của một thời đại. Hành động đốt tranh, đốt đi lẽ sống của cuộc đời
là dấu chấm hết cho cuộc đời cô đơn, lạc lõng, không tìm được kết nối với bên
ngoài của cha Kiên. Phương ví đó như một lễ tế đầy ma quái, “ác mộng”, nhưng
theo tôi, đó là một nghi lễ thiêng liêng vô cùng. Cha Kiên đã tự giải phóng mình
khỏi cơn ác mộng thực sự, muốn vĩnh viễn lưu giữ nghệ thuật cho riêng mình,
“trong ánh lửa là sắc diện của con người tử vì đạo: đau đớn, say cuồng, tột cùng
hạnh phúc. Một thứ hạnh phúc lộn ngược”.
Từ hành động đốt tranh của cha Kiên, ta nhận thức được mối liên quan,
tương đồng với hành động thủ tiêu bản thảo của Kiên sau này. “Tro than từ lò
sưởi tỏa phù ra, và giấy má từ mặt bàn, giá sách, từ đống bản thảo chất trong góc
tung xỏa, vương khắp trên sàn… Tất cả giấy tờ tan tác chị nhặt hết lại, dồn vào
với chồng bản thảo, thành cả một tòa núi non”. Kiên là một người lính sống sót
sau chiến tranh, hành trang anh mang về là những kỉ niệm. Viết truyện, ghi lại
những câu chuyện trong quá khứ là cách anh duy trì cuộc sống thời hậu chiến, tuy
nhiên điều đó lại kìm kẹp, giam hãm anh, khiến anh luôn đau đớn trong cuộc sống
hiện tại. Giống như cha mình, cuối cùng, cuộc đời người nghệ sĩ của anh cũng kết
thúc bằng một nghi lễ. Vị thế dị thường, cô độc khiến cho kiểu nhân vật này nhận
ra những góc khuất của lịch sử. Cái nhìn của họ là sự phản chiếu về lịch sử, nhưng
không phải cái nhìn của cộng đồng mà là của chính những suy nghiệm của cá
nhân. Có điều, nếu như cha Kiên lựa chọn tuẫn táng cùng với nghệ thuật của ông,
với lí tưởng nghệ thuật của chính ông sau khi thấu thị những đay nghiến, chỉ trích
của thời đại mới thì Kiên lại đi theo một hành trình khác: lâm vào chiến trường,
trải nghiệm những kinh hoàng của cuộc chiến, ra khỏi cuộc chiến với chằng chịt
những vết thương và kỉ niệm. Điều đáng nói ở đây là Kiên thức nhận được bản
chất của chiến tranh “Những ngày đau thương nhưng vinh quang. Những ngày bất
hạnh nhưng tràn ngập tình người”. Như vậy, cuộc trở về của Kiên không chỉ gắn 27
với những ám ảnh kinh hoàng mà đó còn là cuộc trở về với tình yêu, bạn bè, đồng
chí… những tình cảm giúp anh vượt qua chiến tranh.
Bên cạnh những nhân vật nam đã nói đến, còn một nhân vật nữ được Bảo
Ninh dày công xây dựng, một cá tính hoàn toàn mới, đó là Phương. Cô cũng là
một con người lạc thời, “Bất kỳ phẩm chất gì cũng đạt tới mức hoàn hảo trọn vẹn,
đến nỗi bác phải tin con gái bác là một dạng thánh nhân, một tiên nữ” là lời mẹ
Phương nhận xét về cô con gái bé bỏng. Một con người hoàn mĩ như vậy phải
chơi thứ nghệ thuật trang trọng, cao quý như dương cầm mới xứng với tài năng
thiên bẩm, còn dấn thân vào ghi ta, múa hát sẽ trở thành tai hại. Nhưng trong thời
thế loạn lạc như này, “phải gọn nhẹ, sắc bén thì mới nhập cuộc được”. Vậy thì,
Phương vì chiến tranh mà lỡ dở một đời tài hoa của nghệ sĩ dương cầm cổ điển
ư? Có lẽ đó chưa phải là lí giải thuyết phục nhất cho sự lạc loài của Phương. Mà,
cái cách Phương thích ứng với cuộc sống để được sống mới là thứ khiến cô trở
nên khác biệt. Ở nhà ga Thanh Hóa, Phương và Kiên trải qua một hành trình kinh
khủng, cuộc ném bom bất ngờ khiến cả hai bị chia cắt. Trong lúc lạc Kiên, Phương
đã rơi vào tay một tên đàn ông khốn nạn, bị cướp đi đời con gái trong trắng trinh
nguyên. Tuy nhiên, trái với những quan tâm, dằn vặt của Kiên, sau cơn lê lết đau
đớn ê chề, Phương nhanh chóng hồi phục, ăn uống ngon lành và thả mình dưới
sông tắm rửa. Cô coi tai họa như một điều tất yếu trong cuộc sống, đặc biệt trong
chiến tranh điều đó lại càng bình thường. Vì thế, thời khắc đó, chung thủy hay
phản bội chẳng có ý nghĩa gì, sống sót mới là quan trọng. Phương đã dẹp khỏi đầu
những ý nghĩ, quan niệm lạc hậu, cổ lỗ của con người đương thời để vươn lên trở
thành hình tượng nữ đẹp nhất trong văn học Việt Nam hiện đại, một vẻ đẹp mang
tính phóng khoáng và tự do.
Như vậy, “Nỗi buồn chiến tranh” tuy xuất hiện nhiều kiểu nhân vật mới
nhưng so với các kiểu nhân vật quen thuộc trước đó vẫn mang điểm chung. Là
kiểu nhân vật được sinh ra trong tiểu thuyết chiến tranh, các kiểu nhân vật này
đều có số phận, cuộc đời, thân phận… gắn liền với chiến tranh. Và một nhân vật
sẽ mang đặc điểm của nhiều kiểu nhân vật, như Kiên vừa là kiểu nhân vật dòng ý
thức, vừa là kiểu nhân vật lạc thời, cũng là kiểu nhân vật chấn thương. Càng nhiều
kiểu nhân vật được sinh ra thì càng tô đậm những ảnh hưởng, dư chấn nặng nề của chiến tranh. 28
3.3. Đổi mới về kết cấu tiểu thuyết
3.3.1. Khái niệm kết cấu
Bất kể một tác phẩm văn học nào cũng là một chỉnh thể nghệ thuật hoàn
chỉnh được tạo nên từ nhiều bộ phận, yếu tố. Các bộ phận, yếu tố này được tác
giả lựa chọn, sắp xếp, tổ chức theo một trật tự nhất định nhằm thể hiện một nội
dung nghệ thuật nhất định gọi là kết cấu. Có thể nói, kết cấu là toàn bộ cách tổ
chức nghệ thuật của tác phẩm. Như Lê Lưu Oanh đã từng quan niệm: “Kết cấu là
sự tổ chức, sắp xếp các yếu tố trong tác phẩm để tạo dựng được thế giới hình
tượng giàu ý nghĩa thẩm mĩ, có khả năng khái quát đời sống, thể hiện tư tưởng
của nhà văn”.
Trong mối quan hệ giữa hình thức và nội dung của một tác phẩm văn học,
kết cấu được xem là mối liên hệ cơ bản và thiết yếu nhất. Nhờ kết cấu, các tác
phẩm nâng cao hơn sức mạnh nghệ thuật của nó và tăng cường sức hấp dẫn đối
với các độc giả. Một vài kết cấu quen thuộc và nổi bật có thể liệt kê trong văn học
như: Kết cấu theo trình tự thời gian, kết cấu tâm lí, kết cấu truyện lồng truyện, kết
cấu đa tuyến, kết cấu dòng ý thức…
Tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh thể hiện hai kiểu kết cấu
xuyên suốt và nổi bật trong toàn bộ tác phẩm là kết cấu theo dòng ý thức và kết
cấu truyện lồng truyện. Đây là hai kiểu kết cấu được xem là mới lạ đối với thành
công nghệ thuật của tác phẩm nói riêng và tiểu thuyết giai đoạn 1975-2000 nói chung.
3.3.2. Kết cấu truyện lồng truyện
Ở giai đoạn từ năm 1975 trở đi, ở văn học Việt Nam, kiểu kết cấu “truyện
lồng truyện” này xuất hiện chưa thực phổ biến. Kết cấu này chỉ là một hướng thử
nghiệm của những nhà văn có khuynh hướng tìm tòi, đổi mới thể loại tiểu thuyết…
Có thể nói, “Nỗi buồn chiến tranh” là một trong những tác phẩm đầu tiên được
xây dựng theo kiểu kết cấu này.
Trước tiên, tác phẩm được kết cấu trên cơ sở lồng vào trong nó là cuốn tiểu
thuyết đầu tay và cũng là duy nhất của “nhà văn phường” – cựu chiến binh Kiên. 29
Một đề tài chính, xuyên suốt toàn bộ tác phẩm là đề tài chiến tranh, được viết từ
hai quyển tiểu thuyết trong một tác phẩm “Nỗi buồn chiến tranh”. Thứ
nhất là cuốn tiểu thuyết của nhà văn Kiên kể về thời thơ ấu, tuổi trẻ, tình yêu,
những năm tháng gắn liền với chiến trận, cuộc sống hậu chiến đã trải qua và quá
trình viết tiểu thuyết của anh. Thứ hai là cuốn tiểu thuyết của tác giả Bảo Ninh mà
Kiên là nhân vật chính trong đó.
Tiếp theo, cuốn tiểu thuyết còn có sự xuất hiện của người trần thuật xưng
“tôi” ở chương cuối cùng của tác phẩm. Với những hé lộ ít ỏi, người đọc vẫn có
thể biết rằng người này cũng là một nhà văn – cựu chiến binh. Nhân vật xưng
“tôi” này là người tiếp nhận lại “bản thảo trữ trên tầng áp mái trong phòng người
đàn bà bị câm”, sắp xếp, hoàn chỉnh lại tất cả với cam kết “Không hề có một chữ
nào là của tôi trong bản thảo mới, tôi chỉ xoay xoay vặn vặn như một người chơi
Rubic vậy thôi.” Tình huống này đã khiến cho tác phẩm trở nên phức tạp hơn rất nhiều.
Trong tiểu thuyết, người đọc có thể nhận thấy có ba tuyến truyện chính:
Nỗi buồn chiến tranh, nỗi buồn tình yêu, nỗi buồn sáng tạo. Xuyên suốt tác phẩm,
các tuyến truyện này không đối lập, mâu thuẫn mà xuất hiện đan xen, giao hòa và
bổ sung cho nhau. Nhân vật Kiên xưng “tôi” trong bản thảo cũng chính là người
cầm bút ghi lại những kí ức, những cảnh tượng của quá khứ sống dậy trong tâm
hồn anh ở ngay thời điểm hiện tại. “Nỗi buồn chiến tranh” – nỗi buồn gắn với
những hồi tưởng, ám ảnh của Kiên về sự tàn khốc của chiến tranh gây ra: “Chao
ôi! Chiến tranh là cõi không nhà, không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ
đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà, thế giới bạt sầu vô cảm và tuyệt tự khủng
khiếp nhất của dòng giống con người”; “Chiến tranh thì nó có chừa bất kì một
cái gì mà nó không ngấu nghiến và không chà đạp”. Đó còn là sự ám ảnh về cái
chết đầy bi thương của những người đồng đội cùng chiến đấu: “Họ bị cái chết
rình rập, săn đuổi, xô đồn vào thế mất còn chỉ trong nháy mắt và trong tấc gang.
Họ bị giết từng người một hoặc là hàng loạt, bị bắn gục tại chỗ hay bị thương
mất máu chết dần…” hay không thể nào quên đi sự hi sinh của Hòa, cô giao liên
quê ở Hải Hậu, cùng “biết bao đồng đội thân yêu ruột thịt, vô số và vô danh,
những người lính thường…” mà nếu không nhờ có họ thì Kiên “ắt rằng đã chết
từ lâu”. Tiếp theo là “nỗi buồn tình yêu” của hai nhân vật Phương và Kiên. Ở quá 30
khứ, họ đã từng có một chuyện tình thật đẹp. Họ yêu nhau, quấn nhau như hình
với bóng, “như thể ở cạnh nhau bao nhiêu cũng chẳng đã” vậy mà rồi họ cũng
chẳng thể ở bên nhau. Kiên muốn cùng Phương có thể quay về thời yêu nhau nồng
cháy, nhưng hai người của hiện tại đã khác xa quá khứ. Chiến tranh và những biến
cố đã thay đổi câu chuyện tình ấy. Chúng mang đến không ít bi kịch cho hai nhân
vật. Chiến tranh đã cướp mất của Phương tất cả: niềm tin, tình yêu, hạnh phúc…
để rồi cô phải lựa chọn từ bỏ Kiên – tình yêu lớn nhất của đời mình trong sự thất
vọng, tủi nhục. Còn đối với Kiên, chiến tranh dường như là “nguyên nhân của
mọi khúc đoạn và nông nổi của đời anh, kể cả hạnh phúc, kể cả đau khổ, niềm vui
và nỗi buồn, tình yêu và oán hờn”. Cuối cùng, nỗi buồn chiến tranh còn là “nỗi
buồn sáng tạo”. Kiên biết anh phải viết vì những người đồng đội đã ngã xuống, vì
lương tâm, vì những trải nghiệm thực của cá nhân. Kiên không viết về chiến tranh
bằng cách ca ngợi những người anh hùng hay hát vang khúc hoan ca của người
chiến thắng mà anh viết trong nỗi buồn đau triền miên bởi sự ám ảnh nặng nề của
những kí ức khốc liệt vọng về từ quá khứ. Những kỉ niệm, kí ức ấy dù đã xa nhưng
với Kiên thì nó chỉ vừa mới kết thúc ngày hôm qua, dù rất nhức buốt nhưng không
thể lãng quên được. Kiên “Viết để quên đi, viết để nhớ lại. Viết để có một cứu
cánh, một niềm tin cứu rỗi, để mà chịu đựng, để giữ lòng tin, để mà còn muốn
sống”. Anh viết về “một cuộc chiến tranh chưa từng được biết tới, như thể đó là
cuộc chiến của riêng anh”. Kiên tự “lộn trái mình”, sống lại quá khứ để hiểu quá
khứ: “Anh sẽ tồn tại đến trót đời với thiên chức là một cây bút của những người
đã hi sinh, là nhà tiên tri của những năm tháng đã qua đi, người báo trước thời
quá khứ”. Do vậy, Kiên luôn sống trong tâm trạng “rối bời”, “bấn loạn” như “mấp
mé bờ vực” và công việc viết tiểu thuyết đã vắt kiệt con người anh đến mức “tóc
dài ra, râu dài ra, rộc rạc, già đi từng giờ trong đêm”.
3.3.2. Kết cấu theo dòng ý thức
Tiểu thuyết về chiến tranh giai đoạn 1945-1975, con người đoàn thể, con
người cộng đồng sống chủ yếu với hiện tại và tâm trí luôn hướng đến tương lai
nên thời gian nghệ thuật thiên về thời gian lịch sử và ít bị xáo trộn. Kết cấu các
tác phẩm giai đoạn này thường gần với kết cấu tiểu thuyết truyền thống, được tổ
chức chặt chẽ theo tuyến sự kiện, tuyến nhân vật và theo trình tự thời gian. Tuy
nhiên, trong nhiều tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975, con người cá nhân riêng
tư thường sống bằng những hồi ức và chiêm nghiệm. Vì vậy, kết cấu theo kiểu 31
truyền thống không còn phù hợp cho tác giả sử dụng để xử lý mối quan hệ giữa
tuyến sự kiện và tuyến nhân vật, tổ chức các yếu tố tự sự xen lẫn miêu tả, với
những đối thoại, độc thoại nội tâm. Nó đòi hỏi các nhà văn phải không ngừng
sáng tạo trong việc xây dựng kiểu kết cấu mới để đảm bảo tính thống nhất và toàn
vẹn cho tác phẩm của mình. Vì vậy, lối kết cấu theo dòng ý thức của nhân vật là
một trong những kiểu kết cấu hiệu quả để sử dụng trong các tiểu thuyết chiến tranh giai đoạn sau 1975.
“Nỗi buồn chiến tranh” phá vỡ kết cấu trần thuật theo thời gian, không gian
tự nhiên, tạo nên kết cấu trần thuật theo thời gian, không gian tâm lý. Mặc dù
được được xây dựng dựa trên kết cấu “truyện lồng truyện” nhưng thực chất tác
phẩm thể hiện rất rõ nét biểu hiện của kết cấu theo dòng ý thức. Ở đó, thời gian
không theo trật tự tuyến tính mà liên tục bị đảo lộn giữa quá khứ và hiện tại, giữa
chiến tranh và hòa bình theo dòng vận động kí ức của nhân vật Kiên.
Tuy Bảo Ninh không chia tiểu thuyết thành các chương mục cụ thể nhưng
cũng có thể coi tác phẩm này gồm có bảy phần và một phần vĩ thanh. Trật tự thời
gian của các phần không theo thứ tự, không liên kết chặt chẽ mà chúng tồn tại như
các mảnh vỡ bị đảo lộn, lật nhào khỏi vị trí ban đầu của chúng để lắp ghép thành
một bức tranh hoàn thiện. Chính nhân vật Kiên cũng đã bộc bạch: “Ngay từ
chương đầu tiên cuốn tiểu thuyết của anh đã buông lơi cốt truyện truyền thống,
không gian và thời gian tự ý khuấy đảo không kể gì đến tính hợp lý, bố cục bấn
loạn, dòng đời các nhân vật bị phó mặc cho ngẫu hứng…”. Từng mảnh đời nhân
vật bị chia cắt, phân tán vào kí ức lộn xộn, chắp nối và rời rạc của nhân vật chính.
Sự đồng hiện thời gian được thể hiện rất rõ trong “Nỗi buồn chiến tranh”.
Phá vỡ trật tự thời gian tuyến tính, kết cấu dòng ý thức trong tác phẩm là hệ quả
của việc tạo ra thời gian trần thuật dựa theo tâm trạng, dòng suy tư của nhân vật
Kiên. Trong đó có sự đan xen giữa thời gian trần thuật và thời gian câu chuyện
xoay quanh những kỉ niệm, giấc mơ và hồi ức của nhân vật chính. Thời gian quá
khứ đồng hiện với thời gian hiện tại nhưng thời gian ở quá khứ có phần chiếm ưu
thế hơn. Các phần đều mở đầu bằng thời gian ở hiện tại nhưng ngay sau đó, người
đọc lại ngược về quá khứ qua dòng hồi ức của Kiên. Hiện tại dường như hóa thành
quá khứ và ngược lại, quá khứ như đang sống lại tất cả những gì đã diễn ra. Có
thể khảo sát trình tự sự kiện được trần thuật ở phần mở đầu để thấy rõ điều đó: 32
Bắt đầu từ mùa khô đầu tiên sau chiến tranh (Năm 1975), Kiên tham gia đội thu
nhặt hài cốt tử sĩ từ bờ sông Pôcô đến truông Gọi Hồn – Hồi ức về sự xóa sổ của
tiểu đoàn 27 cuối mùa khô năm 1969 – Hồi ức về những ngày cuối tháng 4/1975
và trận “bài bạc” của mấy người trong tiểu đội trinh sát – Hồi ức về mùa mưa
1974, bệnh nghiện hồng ma, Can đào ngũ, chuyện tình của đám trinh sát với ba
cô gái bị bỏ quên giữa rừng và việc Kiên xử mấy tên thám báo.
Chính vì dựa trên dòng hồi ức và những giấc mơ của một kẻ bị “bấn
loạn” tinh thần nên mạch truyện có nhiều chỗ bị đứt gãy. Một vài sự kiện không
được trần thuật liền mạch mà bị tách ra trong các đoạn khác nhau của tác phẩm.
Các sự kiện tiêu biểu có thể liệt kê: Việc Kiên xử mấy tên thám báo đã giết hại ba
cô gái, hồi ức về đoàn tàu chiến tranh và biến cố xảy ra ở nhà ga Thanh Hóa…
Hiện thực bị phá vỡ thành nhiều mảnh phần nào thể hiện được sự ngổn ngang,
xáo trộn và rối bời trong tâm hồn của Kiên. Việc các mảnh kí ức liên tục lặp đi
lặp lại trong tâm trí nhấn mạnh thêm nỗi đau của Kiên khi anh “không tài nào
nhấc chân ra khỏi miệng hố của chiến tranh, loại người bị ký ức quá kinh khủng
đè bẹp và làm cho suy đốn”.
Mặc dù tác phẩm xoay quanh hàng loạt những kí ức, giấc mơ đứt nối, hỗn
loạn nhưng lại thống nhất trong một dòng chảy: Dòng ý thức của nhân vật Kiên.
Hiện thực chiến tranh hiện lên qua dòng ý thức của nhân vật là một không gian
đầy vẻ tử khí, với những gam màu chói, gắt của máu, lửa, tiếng máy bay gầm rú,
tiếng bom đạn nổ: “Nhiều hôm không đâu giữa phố xá đông người tôi đi lạc vào
một giấc mơ khi tỉnh. Mùi hôi hám pha tạp của đường phố bị cảm giác nồng lên
thành mùi thối rữa. Tôi tưởng mình đang đi qua đồi Xáo Thịt la liệt người chết
sau trận xáp lá cà tắm máu cuối tháng Chạp 72. Tử khí xộc lên từ vỉa hè nồng nặc
đến nỗi tôi phải vội đưa tay lên bịt mũi như kẻ hóa rồ trước mắt người qua đường.
Có đêm tôi giật mình thức dậy nghe tiếng quạt trần hóa thành tiếng rú rít rợn gáy
cửa trực thăng vũ trang. Thót người lại trên giường tôi nín thở đợi một trái hỏa
tiễn từ tàu rà phụt xuống”. Tương ứng với những kí ức, giấc mơ ấy là ảnh tượng
mờ nhòe hư ảo, bóng đêm, những tiếng gọi hồn. Có hai tiếng gọi lặp đi lặp lại
trong hồi ức của Kiên: tiếng gọi của những âm hồn, của cái chết, của lửa đạn chiến
tranh và tiếng gọi tha thiết của tình yêu. Những giấc mơ và hai tiếng gọi ấy luôn
âm ỉ, vang vọng, kéo Kiên về quá khứ khiến anh khó hòa nhập với đời sống hậu
chiến: “Nhưng mà tâm hồn tôi thì đã ngưng bước lại ở những ngày tháng ấy chứ 33
không tài nào mà đổi đời nổi như là bản thân đời sống của tôi. Một cách trực giác
tôi luôn nhận thấy quanh tôi quá khứ vẫn đang lẩn khuất”.
Đi liền với đồng hiện thời gian là sự đồng hiện của không gian nghệ
thuật. Bảo Ninh đã bộc lộ khả năng phối cảnh hết sức tài tình khi đồng hiện các
không gian phố phường – chiến trường – căn nhà ở cạnh nhau: “Nhiều hôm không
đâu giữa phố xá đông người tôi đi lạc vào một giấc mơ khi tỉnh. Mùi hôi hám
pha tạp của đường phố bị cảm giác nồng lên thành mùi thối rữa. Tôi tưởng mình
đang đi qua đồi Xáo Thịt la liệt người chết sau trận xáp lá cà tắm máu cuối tháng
Chạp 72. Tử khí xộc lên từ vỉa hè nồng nặc đến nỗi tôi phải vội đưa tay lên bịt
mũi như kẻ hóa rồ trước mắt người qua đường. Có đêm tôi giật mình thức dậy
nghe tiếng quạt trần hóa thành tiếng rú rít rợn gáy cửa trực thăng vũ trang. Thót
người lại trên giường tôi nín thở đợi một trái hỏa tiễn từ tàu rà phụt xuống.
“Chéo-éo-éo… Đoành””. Bốn khoảng không gian và thời gian tuy xa cách nhau
(phố xá ở hiện tại – đồi Xáo Thịt năm 1972 – căn phòng hiện tại – trận chiến quá
khứ) nhưng lại được kéo gần lại, đồng hiện trong một đoạn văn ngắn. Thủ pháp
này vừa giúp tái hiện một cách chân thực, sinh động cảnh tượng kinh hoàng của
chiến tranh vừa diễn tả được hội chứng chiến tranh khủng khiếp luôn ám ảnh trong
tâm hồn của nhân vật Kiên.
Trong “Nỗi buồn chiến tranh”, các sự kiện lịch sử không còn đóng vai
trò thiết yếu. Tác phẩm không tập trung vào việc dùng con người, sự kiện để biểu
đạt lịch sử mà dùng lịch sử để khắc họa số phận con người trong chiến tranh.
Thông qua mạch “lịch sử tâm hồn con người”, sự kiện đánh thức những cảm nhận,
suy tư, trải nghiệm của nhân vật. Từ góc độ này, gương mặt chiến tranh sẽ mang
đậm dấu ấn chủ quan, cá nhân. Đồng thời khi kết hợp với đồng hiện thời gian càng
nhấn mạnh thêm tính chất khốc liệt của chiến tranh và bi kịch chấn thương tinh
thần nặng nề của người lính khi không thể rũ bỏ được những ám ảnh quá khứ chiến tranh mang lại.
Tóm lại, trong “Nỗi buồn chiến tranh”, tác giả Bảo Ninh đã vận dụng
nhuần nhuyễn, linh hoạt, sáng tạo hai kết cấu “truyện lồng truyện” và kết cấu dòng
ý thức. Nhờ vậy, dù tiểu thuyết có cốt truyện không rõ rệt nhưng vẫn trở nên thú
vị và hấp dẫn với người đọc. Đồng thời, hai kiểu kết cấu này cũng cho phép mở 34
rộng phạm vi phản ánh hiện thực cho tiểu thuyết không chỉ ở sự kiện mà còn khám
phá hiện thực của tâm hồn con người, của chiều sâu tâm linh và vô thức.
3.4. Gia tăng yếu tố huyền thoại
3.4.1. Giới thuyết về huyền thoại
Có nhiều cách hiểu về huyền thoại, nhưng trong bài luận văn này, tôi lấy
định nghĩa của huyền thoại trong Từ điển Tiếng Việt: “Huyền thoại là câu chuyện
huyền hoặc, kỳ lạ, hoàn toàn do tưởng tượng”.
Huyền thoại hóa đã xuất hiện từ xa xưa trong các sáng tác văn chương. Qua
các thời kỳ phát triển, nó được nhìn nhận chủ yếu dưới hai góc độ: thứ nhất là một
kiểu tư duy, thứ hai thì coi đó là một thủ pháp nghệ thuật. Chẳng hạn, ở thần thoại,
yếu tố huyền thoại gắn với tư duy cổ sơ, thể hiện khát vọng nhận thức thế giới của
người xưa. Tới văn học viết trung đại, yếu tố huyền thoại được sử dụng đậm đặc
nhất trong truyện truyền kì và huyền thoại hóa đã trở thành một phương thức nghệ
thuật. Phương thức huyền thoại hóa cũng được sử dụng khá thành công trong
nhiều tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại từ đầu thế kỉ XX đến 1945 (tập Trại
Bồ Tùng Linh của Thế Lữ, Tiếng gọi của rừng thẳm, Suối đàn của Lan Khai,
Trăng ma lầu Việt của Quách Tấn, Bóng người trong sương mù của Nhất Linh,
Ngậm ngải tìm trầm của Thanh Tịnh, Chiều sương của Bùi Hiển,…)
Trong phong trào Thơ Mới, yếu tố huyền thoại cũng được các thi sĩ hưởng ứng
và sử dụng đầy hiệu quả (Thế Lữ, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử). Nhưng do chặng
từ 1945 đến 1975 yêu cầu phải phản ánh chân thực và hùng hồn cuộc chiến đấu
và xây dựng đất nước nên yêu tố huyền thoại bị tạm quên, ít nhà văn Việt Nam sử dụng.
Từ năm 1975 đến hiện nay, đặc biệt sau thời kỳ đổi mới, yếu tố huyền thoại đã
đóng góp quan trọng trong việc tạo ra giá trị cho nhiều tác phẩm và mở ra khả
năng khám phá những hiện thực đa chiều. Nhờ vào huyền thoại, thực tại có thể
chuyển hóa thành một cõi mơ mộng và cuộc sống trở nên phong phú, đa mặt và
có nhiều ý nghĩa hơn. Nhờ yếu tố huyền thoại, người đọc có thể hoàn toàn lạc vào
những vùng đất tưởng tượng phi thường mà tác giả tạo ra, trải nghiệm những cảm xúc mới mẻ. 35
3.4.2. Huyền thoại hóa trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh
Theo quan điểm truyền thống, chiến tranh như là một đề tài lịch sử, các chất
liệu dùng để xây dựng cũng phải là những chất liệu xác thực. Quan trọng hơn cả,
các tác phẩm thường phân biệt chính nghĩa – phi nghĩa bằng cách tạo tái tạo hiện
thực qua một tình huống lịch sử cụ thể nào đó. Vì lẽ đó nên người ta khó chấp
nhận yếu tố huyền thoại.
Sau năm 1975, tuy yếu tố huyền thoại không còn được sử dụng phổ biến ở các đề
tài khác nhưng lại gia tăng yếu tố huyền thoại với đề tài chiến tranh. Điều đó cho
thấy cách ứng xử, thái độ của nhà văn với hiện thực và tính chất năng động, đùa
giỡn với chỉnh thể của thể loại. Đồng thời, cũng đánh dấu cho sự đổi mới tư duy
nghệ thuật của nhà văn Việt Nam khi nói về một đề tài quen thuộc. Chúng ta có
thể thấy điều đó khi tìm yếu tố huyền thoại trong các tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng
(Chu Lai), Bến đò xưa lặng lẽ (Xuân Đức), Những bức tường lửa (Khuất Quang
Thụy), Mùa hè giá buốt (Văn Lê),… nhưng theo chúng tôi, nổi bật và ấn tượng
hơn cả là tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Qua khảo sát tiểu thuyết
Nỗi buồn chiến tranh, yếu tố huyền thoại hóa chủ yếu được xét ở dưới hai phương diện sau:
a. Một thế giới bị ám ảnh bởi hồn ma chết trận
Hồn ma là một yếu tố quen thuộc trong văn học dân gian và văn học trung đại.
Và cũng có những kiểu hồn ma khác nhau: Oan hồn, ma quấy nhiễu cuộc sống
trần thế, ma lấy người… Trong tín ngưỡng dân gian và trong văn học, ma quỷ là
một thế giới đầy bí ẩn, luôn tồn tại một khả năng là đe dọa đời sống bình yên của
con người. Giai đoạn 1945 – 1975, kiểu nhân vật hồn ma ít xuất hiện trong văn
học Cách mạng. Song, từ thời kỳ đổi mới, kiểu nhân vật này đã trở lại như một
phương thức nghệ thuật, thể hiện sự tìm tòi và cách tân của một số nhà văn, trong đó có Bảo Ninh.
Đọc Nỗi buồn chiến tranh, cảm giác đầu tiên của chúng ta là rùng rợn, hãi
sợ, đau xót và đôi lúc như nghẹt thở. Quả thật, cảm giác ấy xuất hiện trong người
đọc ngay từ những trang đầu tiên của tác phẩm. Trước hết, cảm giác ấy bắt đầu từ
những giấc mơ khủng khiếp chứa đựng những cái không bình thường. Cùng với
những giấc mơ ấy là những đêm tối âm u, tù mù, hư ảo; những trận mưa xối xả
trong đêm, những tiếng hú ghê rợn từ cõi âm vọng về… 36
Nhân vật hồn ma xuất hiện khá nhiều trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh. Đó
phần nhiều là những anh bộ đội đã hy sinh vì Tổ quốc, là những người lính chết
trận… Thế giới hồn ma qua cách miêu tả của Bảo Ninh đã làm cho tiểu thuyết của
mình thêm các yếu tố huyền ảo, hơi ghê rợn nhưng vô cùng lôi cuốn, hấp dẫn người đọc.
Trong Nỗi buồn chiến tranh, hồn ma thường hay xuất hiện ở nghĩa trang
hoặc các khu rừng đã từng diễn ra những trận đánh ác liệt và nảy lửa, những trận
đánh được miêu tả là long trời lở đất. Những người lính chết không toàn thây,
những cánh tay và chân đứt rời trải dài trên mặt đất. Chủ thể của những cuộc gặp
gỡ ấy là những con người đang bị chấn thương về tinh thần như Kiên, đồng đội
và cả người lái xe. Trong những ngày ở rừng “nhiều người đã chính mắt nom thấy
những toán lính da đen không đầu chơi trò rước đèn ở ven rừng. Song đặc biệt
rùng rợn là những tiếng rú man dại thường cất lên vào những buổi tinh mơ mờ
mịt mưa giăng làm tái sạm mặt mày những ai chẳng may mà nghe phải. Người ta
ngờ rằng ấy là tiếng hú gọi đàn của bầy vượn người thái cổ cuối cùng trên hành
tinh”. Trong cuộc chiến tranh hơn mười năm ròng rã ấy, đó không phải là lần đầu
tiên chính Kiên hay những người đồng đội của mình nhìn thấy những hồn ma mà
còn rất nhiều các tình cảnh khác, và có lẽ đặc biệt nhất là cả Kiên và đồng đội đều
được chứng kiến tận mắt một hiện tượng hết sức khó giải thích. Câu chuyện diễn
ra khi tổ của Kiên đào chúng một ngôi mộ kết. Và cũng chẳng hiểu bằng cách
nào, không trong quan ngoài quách, không thuộc tẩm dầu mà cơ thể người chết
nom trông đang còn thở, mắt nhắm lại ngủ say, khuôn mặt được miêu tả là trẻ
trung, nghiêm trang trầm mặc, tất cả như đang còn sống. Nhưng, điều lạ kỳ đến
ngay sau đó “Nhưng chỉ phút chốc cái túi đã đục trắng, mù mịt như dây khói, rồi
sau đó như chói lên một đạo hào quang và một cái gì đấy vô hình đã siêu thoát.
Màu trắng đục tan nhanh, cái túi xẹp xuống và trong đó bày ra trọn vẹn một bộ
hài cốt màu vàng sạm. Kiên và mọi người sững lặng, xúc động đến bàng hoàng.
Không ai bảo ai tất cả đều quì xuống, đưa cao tay lên với theo bóng hồn thiêng
liêng người đồng đội đã về thần. Đúng lúc bấy giờ trên vòm trời bao la, cuồn
cuộn gió mây miền cánh Bắc, một đàn thiên đường cánh đen vừa từ hướng biển
lên, đội hình chữ V đều tăm tắp, nhịp nhàng vỗ cánh, thong thả và trang trọng
bay vượt qua miền núi non trùng điệp”. 37
Có lúc hồn ma chỉ là những ám ảnh bên ngoài, có lúc hồn ma ấy được con người
đối thoại, trò chuyện như đồng đội, đồng chí của mình: “Anh là ai? Hãy ra với
chúng tôi. Chúng tôi là bạn. Chúng tôi tìm anh, chúng tôi đã tìm anh bấy lâu nay,
khắp nơi”. Hồn ma vốn vô cảm, vô hồn nhưng với người lính lại thân thiết biết
bao nhiêu. Bởi chúng cũng từng là những con người biết cầm súng, biết yêu thương.
Khi hòa bình trở lại, lính lái xe chở hài cốt liệt sĩ còn kể rằng: “Mà nói
chung ở cả cái B3 này đâu chả nhiều ma quỷ. Tôi lái cho đoàn gom xương nhặt
cốt này từ hồi 73 tới giờ mà đã quen nổi với đám hành khách từ trong mồ hiện ra
kia đâu. Chẳng đêm nào mà họ không lay mình dậy để chuyện gẫu. Phát khiếp
lên được. Đủ loại. Lính cũ. Lính mới. Linh sư 10, sư 2, quân tỉnh đội, quân cơ
động 320, đoàn 559. Thỉnh thoảng có các “mộng” tóc dài... Đôi khi chen vào vài anh ngụy”.
Và trong tất cả, có lẽ Kiên là người bị chấn thương nặng nề nhất từ chiến
tranh nên hồi ức của anh không có gì ngoài những ấn tượng khủng khiếp về chiến
trận tàn khốc với những hình ảnh “mưa cẳng chân, cẳng tay”, những cảnh “máu
tới bụng chân, lội lõm bõm”, những con đom đóm to kinh dị, tiếng chim khóc
than như tiếng người, măng mọc lên có màu đỏ như những tảng thịt ròng ròng
máu, những âm thanh gào rú, ca hát trong các hang động tối om... Cũng vì vậy
mà anh thường gặp phải các hồn ma trong những cơn mơ hãi hùng: “Và trống
ngực nện thùm thùm, tôi nhìn chằm chằm vào các góc tối cầu thang nơi các hồn
ma rách nát thường vẫn hiện hình, ôm theo những vết thương đỏ lòm, toác hoác”.
Còn gì đau hơn những sinh lực trẻ trung mà trở thành những hồn ma “rách nát”,
vất vưởng ôm nỗi nhớ tiếc cõi trần!
Nhân vật hồn ma chẳng những thể hiện được sự khốc liệt của cuộc chiến đã qua
mà còn làm cho cõi thực trở nên huyền bí linh thiêng: “Khi bóng tối vùi kín rừng
cây trong hẻm núi thì từ đáy rừng phủ lá mục tiếng hát thì thào dâng lên, có cả
tiếng đàn ghi ta hòa theo nữa hoàn toàn hư, hoàn toàn thực ... Năm tháng vinh
quang khổ đau bất tận...”, lời và giai điệu bài ca vô danh ấy giản dị và huyền bí
nên mỗi người nghe ra mỗi khác, song không ai là không nghe thấy. Cuối cùng,
sau mấy đêm lắng nghe người ta đã định vị được chỗ đất có hồn người. Trong
tấm tăng bó xác xương cốt đã hóa mùn cả, riêng cây đàn ghi ta tự tạo của người
chết thì còn nguyên vẹn. Chẳng biết có phải là do hư cấu thêm không mà người 38
ta kể rằng khi vốc xương mủn và cây đàn được đưa lên từ đáy huyệt thì tất cả
những ai có mặt đều nghe thấy vang lên trong lòng rừng những âm điệu bi tráng
của bài ca ấy. Sau đó vĩnh viễn tắt bặt. Bài ca chắc là đã mãi mãi lìa bỏ khu rừng.
Những huyền thoại ấy được tác giả sáng tác từ một tâm hồn hỗn loạn, từ những
bóng đêm âm u của tiềm thức, từ những cảm giác của con người bị ám ảnh bởi
chiến tranh. Những huyền thoại ấy vừa gợi nhớ lại một thế giới huyền bí xa xưa,
vừa gắn chặt với những kỷ niệm đau thương của chiến tranh nền càng gây thêm
cảm giác hãi sợ, kinh hoàng. Bầu không khí linh thiêng, yếu tố hư thực được xen
lẫn, hài hòa ấy đã làm tăng sức hấp dẫn của bản chất hiện thực, một hiện thực
được tác giả hư cấu bằng trí tưởng tượng độc đáo.
Tính phóng đại, khoa trương đã được Bảo Ninh sử dụng hết sức hiệu quả
khi gây dựng các chi tiết hoang đường. Mang đến thế giới của hồn ma ẩn hiện.
Không những vậy, những cái chết ghê rợn và kì lạ cũng được miêu tả rất chi tiết,
người lính phải chứng kiến nhiều nhất không ai khác ngoài Kiên. Đó là những cái
chết đau đớn và thảm thương, một tư thế chết chẳng thể hình dung nổi, có những
người chết mà không còn được một nấm mồ, chết mà không được toàn vẹn thân
xác để hồn mãi lang thang: “hồn bơi ra khỏi xác biến thành con ma cà rồng đi
hút máu người”. Có những người chết trở thành “đống giẻ nát nhừ vắt mình trên
bờ công sự”. Bao nhiêu cái chết dồn dập về trong tâm trí anh. Trận Plây-Cần năm
1972 “thây người la liệt”, “máu tới bụng chân, lội lõm bõm”. Cứ thế, những cái
chết chồng chéo lên nhau hoảng loạn, kinh hoàng. Cho đến khi Kiên viết lại cuốn
tiểu thuyết chiến tranh của đời mình thì không khí của truyện là “bầu không khí
của những khu rừng tăm tối, ngùn ngụt tử khí và lam chướng, mờ mịt bóng yêu
tà. Những di vật và những bộ xương mũn nát được vớt lên từ đáy những rừng cây ấy”.
Các không gian huyền ảo được thể hiện là qua sự chuyển đổi linh hoạt giữa
quá khứ sang không gian của hiện tại, giữa không gian núi rừng sang không gian
thành thị… diễn ra liên tục. Lúc thì Kiên hồi ức về rừng rậm hoang vu, nơi mà có
những quá khứ không thể nào quên ở truông Gọi Hồn, hồ Cá Sấu, sông Sa Thầy,
đèo Thăng Thiên, “những địa danh tù mù như tên tuổi của sông núi cõi âm” như
chính tác giả đã thừa nhận. Khi thì lắng đọng trở về ở phi trường Tân Sân Nhất
vào ngày giải phóng, khi lại trở về với căn phòng chung cư, bề bộn sách vở, bản
thảo và leo lét ánh đèn. Và những không gian ấy dẫu gợi lên sự ác liệt, đau khổ, 39
kinh hoàng hay xót thương thì nó cũng gắn liền với những huyền thoại về người
lính, về cái chết, về những hồn ma, về bi kịch của kiếp người. Không gian ấy kết
nối người sống và người chết, âm và dương, thực và ảo, trở thành nỗi ám ảnh
không nguôi trong thế giới nội tâm của nhân vật: nỗi buồn chiến tranh.
b. Một thế giới bị ám ảnh bởi những điềm gở và giấc mơ hãi hùng
Trong Nỗi buồn chiến tranh, chi tiết nổi bật nhất đó chính là giấc mơ của nhân
vật Can. Can là một con người giống với Phương và khác với Kiên, thấy chiến
tranh chẳng có gì là lý tưởng, chẳng có gì là cao quý, là tốt đẹp, trái lại, con người
đã từng vào sinh ra tử ấy thèm khát được trở về, thèm khát được nhìn thấy nơi anh
ta sinh ra, về ngôi làng, về người mẹ của mình. Can đã quyết định trốn về để thực
hiện điều ước cuối cùng đó, nhưng không may, chỉ ít lâu sau người ta đã thấy Can
chết trong tư thế ngồi nhưng những đồng đội của anh cũng không tiếc thương mà
thậm chí chửi rủa anh và mặc định coi là một người đảo ngũ. Giấc mơ của Can
được lặp lại nhiều lần và báo ứng đúng về tương lai của anh “Dạo này, đêm nào
tôi cũng mộng thấy mình chết và tôi bơi ra khỏi xác biến thành con ma cà rồng đi hút máu người”.
3.5. Đổi mới về phương thức trần thuật
Điểm nhìn, ngôn ngữ và giọng điệu là một trong những yếu tố thể hiện sự
sáng tạo của nhà văn và là yếu tố bắt buộc khi tìm hiểu về các phương thức trần
thuật của tác phẩm tự sự. Trong phần này, chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu ba khía
cạnh điểm nhìn, ngôn ngữ và giọng điệu qua tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh.
3.5.1. Đa dạng hóa điểm nhìn trần thuật
Xuất phát từ tiêu chí ý thức thời đại, vào giai đoạn 1945 – 1975, tiểu thuyết
sử thi thường nhất quán với nhau về điểm nhìn; khi đó, vị trí của người trần thuật
thường thấp hơn các nhân vật chính, các tư tưởng, quan niệm, lối sống đều có sự
tương đồng giữa người trần thuật với nhân vật và người tiếp nhận. Đến sau năm
1975, quan niệm đó dần được thay đổi, tiểu thuyết lúc này không chỉ là kể chuyện
và tả cảnh thông thường mà còn suy tư về chiến tranh bằng kinh nghiệm và ý thức
cá nhân. Chính vì vậy mà hình thành nên những điểm nhìn nghệ thuật khác nhau
trong cùng một tác phẩm là một hệ quả tất yếu. Việc đa dạng hóa điểm nhìn trần 40
thuật ở các tiểu thuyết chiến tranh đã mang lại một “tinh thần dân chủ” và khách quan.
Trong tiểu thuyết về chiến tranh từ cuối những thập kỉ tám mươi, điểm nhìn trần
thuật ngày càng trở nên đa dạng. Chiến tranh có thể được biểu hiện qua cả điểm
nhìn của người trong cuộc và ngoài cuộc, của cả bên ta lẫn bên địch, thậm chí là
của cả những nhân vật siêu thực như hồn ma, thượng đế,… và thường mỗi loại
điểm nhìn đó lại cung cấp cho chúng ta một bộ mặt về chiến tranh.
Trong Nỗi buồn chiến tranh ta bắt gặp hai mạch kể: mạch kể người trần thuật
(xưng “tôi”) và mạch kể của nhân vật Kiên (cùng một số nhân vật khác được tái
hiện lại qua cái nhìn của Kiên). a. Điểm nhìn nhân vật
Văn học sau năm 1975, cái tôi được đề cao hơn rất nhiều, chính vì vậy
mà có nhiều các tác phẩm được khai thác từ góc độ cá nhân chứ không phải là
dưới cái nhìn tập thể. Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh đã nhìn lại quá khứ
mang đậm tính chất cá nhân. Cụ thể là qua cái nhìn của nhân vật Kiên trong tác phẩm.
Cuốn tiểu thuyết có dáng dấp tự truyện, nhân vật chính là Kiên, là người lính
sống sót duy nhất của một trung đội trinh sát sau mười năm chiến trận, hết chiến
tranh ở đội thu gom hài cốt đồng đội, rồi trở lại nhà sống cuộc sống hậu chiến
bất ổn bất an, khi tất cả đã đổ vỡ. Toàn bộ cuộc đời anh đã bị dìm trong chiến
tranh: “Theo dần năm tháng những luồng sinh khí chết ấy đã đậm lại trong lòng
anh, hòa vào tiềm thức, trở thành bóng tối của tâm hồn anh. Dằng dặc trôi qua
trong hồi ức của Kiên vô vàn những hồn ma thân thiết, lẳng lặng âm thầm kéo
lê mãi trong đời anh nỗi đau buồn chiến tranh”. Và Kiên viết văn trong những
cơn dằn vặt hồi ức từ quá khứ đến hiện tại. Chiến tranh là chủ đề bao trùm cuốn
tiểu thuyết, nhưng song hành cùng nó còn có chủ đề tình yêu và nghệ thuật.
Bước ra từ chiến tranh, Kiên không thể hòa nhập được với cuộc sống ở
thời hiện tại. Chỉ có quá khứ mới thật sự ý nghĩa. Mở đầu tác phẩm là một cái
nhìn toàn cảnh về cuộc chiến vô cùng khốc liệt và bi thảm ở khu vực mà Kiên
cùng đồng đội gọi đó là Truông Gọi Hồn (nơi những sườn dốc của dãy Trường
Sơn). Đó là nơi mà Kiên và những người đồng đội từng chiến đấu, có những 41
người trở về và có người phải mãi mãi nằm lại. Với cái nhìn toàn cảnh, nhân
vật đã tái hiện một cách chân thực và sống động những trận càn quét dã man
của kẻ thù “một trận đánh thật ghê rợn, độc ác, tàn bạo… mùa khô ấy, nắng
to gió lớn, rừng bị ướt đẫm xăng đặc, cuồn cuộn lửa luyện ngục. Các đại đội
đã tan tác, đang cố co cụm, lại bị đánh tan tác. Tất cả bị napan tróc khỏi công
sự hóa cuồng, không lính, không quan gì nữa rùng rùng lao chạy trong lượt
đạn dày đặc, chết dúi, ngã dụi trên biển lửa. Trên đầu trực thăng rà rạp các
ngọn cây và gần như thúc họng đại liên vào gáy từng người một mà bắn. Máu
xối xả, tung tóe ồng ộc, nhoen nhét, trên cái trảng cỏ hình thoi ở giữa truông,
cái trảng mà nghe nói đến ngày nay vẫn chưa lại hồn để mộc lên nổi, thân thể
dập vỡ, tanh banh, phùn phụt bì hơi nóng”. Tất cả đều được tái hiện qua hồi
ức của một người đã từng đi qua chiến tranh, đã từng chứng kiến biết bao cái
chết. Có thể thời gian sẽ dần xóa mờ đi những vết tích trong hiện thực nhưng
có lẽ nỗi đau trong tâm hồn thì mãi mãi hằn sâu.
Tuy nhiên, không chỉ duy nhất dưới điểm nhìn của Kiên, hàng loạt các điểm
nhìn của các nhân vật khác như Can, Phán, cha Kiên… và đang chú ý hơn cả là
cái nhìn của Phương. Mặc dù yêu Kiên thắm thiết nhưng giữa Kiên và Phương
vẫn có những điểm chênh khác biệt về quan điểm riêng. Ngay từ khi sắp ra trận,
Phương đã có cách hình dung về chiến tranh khác với Kiên. Kiên thấy cần tham
gia cuộc chiến (về điều này Kiên gần với mẹ), còn Phương nhìn thấy trước sự bi
thảm của chiến tranh (về điều này Phương gần gũi với cha Kiên).
b. Điểm nhìn của người kể chuyện
Điểm nhìn của người kể chuyện xuất hiện khá muộn, phải gần tới cuối tác
phẩm thì lúc này ngôi kể xưng tôi mới được biểu hiện: “Tôi” tình cờ có được đám
bản thảo lộn xộn mà người con gái câm chưa kịp đốt, kể lại việc sắp xếp của mình.
Người kể chuyện trần tình: “Không hề có một chữ nào là của tôi trong bản thảo
mới, tôi chỉ xoay xoay vặn vặn như một người chơi Rubíc vậy thôi. Nhưng sau khi
chép xong, đọc lại, tôi ngỡ ngàng nhận thấy những ý tưởng của mình, những cảm
giác của mình, thậm chí cả những cảnh ngộ của mình nữa. Dường như do sự tình
cờ của câu chữ và của bố cục, tôi và tác giả đã ngẫu nhiên trở nên hoà đồng tư
tưởng, trở nên rất gần nhau. Thậm chí tôi ngờ rằng có quen anh trong chiến tranh”. 42
Việc trần thuật từ nhiều điểm nhìn của các nhân vật đã tạo ra nhiều các khía
cạnh khác nhau, làm cho đối tượng nhắc tới được miêu tả đa chiều. Và cứ có bao
nhiêu người được Kiên nhớ tới thì đều tương ứng với một cuộc chiến tranh hiện
ra trong nỗi nhớ và cảm nhận riêng của họ. Điều này cũng thể hiện một lối tư duy
mới mẻ của Bảo Ninh, nó từ chối cách nhìn một phía, khi đó, chiến tranh chỉ có
một khuôn mặt duy nhất mà thôi.
Việc đa dạng hóa điểm nhìn cũng góp phần tạo nên các khía cạnh khác nhau
về hiện thực chiến tranh và những con người trong và sau cuộc chiến ấy. Điều này
khác với cái nhìn truyền thống của một giai đoạn văn học vốn nặng mang tính
minh họa, những nhân vật trong đó là những con người chính trị, đậm chất lí tưởng
mà cũng đồng thời, chiến tranh là nơi lý tưởng để thể hiện cái phẩm chất của nhân
vật. Khi đến với Bảo Ninh, một tác giả với tư cách là “một nghệ sỹ có bản lĩnh trí
thức” đã trực tiếp đối diện với thực tại của chiến tranh để phản ánh trực tiếp những
mất mát thực sự đối với một dân tộc: sự tổn thương nhân tính và tình người.
3.5.2. Ngôn ngữ trần thuật
Ngôn ngữ trần thuật được sử dụng trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh
là vô cùng linh hoạt với đủ các “dạng” khác nhau như tự sự, miêu tả, cảm nhận,
bày tỏ quan niệm… nó được thể hiện bằng hệ thống các danh từ, động từ, tính từ
cực tả trạng thái cảm xúc của các sự vật, hiện tượng, qua đó diễn tả được hiện
thực chiến tranh khốc liệt, tâm trạng cô đơn và những sự phi lý của cuộc đời. a. Ngôn ngữ tự sự
Ngôn ngữ tự sự trong tiểu thuyết được tập trung chủ yếu dưới dạng ngôn
ngữ độc thoại và ngôn ngữ đối thoại. Do Nỗi buồn chiến tranh được cấu kết chủ
yếu bằng những ký ức được tái hiện qua dòng hồi tưởng của nhân vật. Chính vì
vậy mà yếu tố độc thoại chiếm phần nhiều hơn so với đối thoại. Nhưng ngay cả
trong chính ngôn ngữ độc thoại cũng mang tính đối thoại. Ngôn ngữ đối thoại
trong tác phẩm không dùng để trao đổi thông tin mà chủ yếu là dựa vào đó để khát
quát lên bối bảnh, tư tưởng, tâm trạng. Yếu tố đối thoại trong tiểu thuyết phần lớn
đều có hình thức rời rạc, buồn tẻ, chất chứa nhiều tâm trạng, Có thể lấy tiêu biểu
như đoạn đối thoại của Kiên và Phương trong đêm bên Hồ Tây, sau ngày cha Kiên biến mất: 43 -
“Từ ngày cha anh mất đi, em mới thực sự yêu anh và mới hiểu vì sao yêu
anh thế (...) em là đứa con gái lạc thời và lạc loài... Anh lại là người con trai
đúng thời... Vậy mà tại sao chúng mình yêu nhau, yêu bất chấp tất cả, bất chấp
cả sự khác nhau quá lớn giữa hai đứa? Anh có biết không? -
Thôi chúng mình về đi. Chúng mình... - Kiên sợ - Chúng mình nói những
chuyện gì ấy. Sao lại lạc thời? Sao lại khác nhau? -
Bây giờ thì em hiểu rằng (...) Nếu cha anh là người cùng thời, là anh thì
em sẽ yêu cha anh chứ không phải là yêu anh”.
Cuộc đối thoại giữa hai người yêu nhau nhưng những lời thoại vô cùng rời
rạc. Lời của Phương thì miên man, cô nói nhưng không phải muốn trả lời Kiên
mà là đang giãi bày tâm sự. Do sự khác nhau về hai kiểu con người là “lạc thời”
(Phương) và “cùng thời” (Kiên) nên những lời Phương nói Kiên gần như không
hiểu. Đó cũng thể hiện được sự xung đột gay gắt giữa hai tâm hồn, hai dòng ý thức.
Quan niệm về chiến tranh của các nhân vật trong Nỗi buồn chiến tranh cũng
được bày tỏ rõ ràng qua tinh thần đối thoại: Thời học sinh, Kiên cho rằng: “Chiến
tranh: Từ nay mới thật là sống”. Thầy hiệu trưởng và những chàng học sinh
trường Bưởi thuở ấy đều cùng quan niệm với Kiên. Phương lại lo âu: “Em nhìn
thấy tương lai... Đấy là sự đổ nát”. Dượng Kiên, Can... là những người có cùng
cảm nhận như Phương. Qua mười năm tham chiến, Kiên hiểu rằng Phương có lí.
Anh đã nhìn lại niềm hăm hở mê say của mình: “Đã đành là đánh nhau thì phải
đánh nhau thôi một khi không còn cách nào khác, nhưng dù sao thì... Trai đất Việt
thực ra không ham chiến trận lắm đâu như người ta hay đồn”.
Với kiểu ngôn ngữ độc thoại, có lẽ không còn gì rõ hơn là được thể hiện
qua những dòng suy nghĩ của nhân vật Kiên, khi thì nghĩ về Phương khi thì nghĩ
về chiến tranh: “Ôi, cái ngày tháng tư nóng hổi, nồng nàn. Những lần ôm xiết
ngắn ngủi chuyếnh choáng trong làn nước màu lục nhạt, những sợi trong lập lờ.
Tiếng cá quẫy đuôi. Và khuôn mặt trắng mịn của Phương hòa trong nước, những
chùm bong bóng thở, mái tóc ướt nặng, bờ vai, đôi chân dài, thân thiết tuyệt mĩ
đến đau nhói trong lòng… tiếng đồng ca từ sân trường vang lên…”. Đôi lúc,
quãng trống trong suy nghĩ vừa mở ra thì tâm trạng của người lính lại ập tới: “Nỗi
buồn chiến tranh trong lòng người lính có cái gì tựa như nỗi buồn của tình yêu, 44
như nỗi nhớ nhung quê nhà, như biển sầu lúc chiều buông trên bến sông bát ngát.
Nghĩa là buồn, là nhớ, là niềm đau êm dịu, có thể làm cho con người ta bay bổng
trong thời gian quá khứ, tuy nhiên với điều kiện không được dùng nỗi buồn chiến
trận ở cụ thể một điểm nào, một sự việc nào, bởi vì khi dừng lại thì không còn là
nỗi buồn nữa mà là sự đau xé lòng”
Nhưng cũng có lúc nhân vật Kiên nghĩ về thời đại của mình: “Đêm đêm giữa
chừng giấc ngủ tôi nghe thấy tiếng chân tôi từ những thuở nào đó rất xa xôi rồi
vang trên hè phố lát đá… Ôi năm tháng của tôi, thời đại của tôi, thế hệ của tôi!
Suốt đêm nước mắt tôi ướt đầm gối bởi nhớ nhung, bởi tiếc thương, cay đắng ngậm ngùi”.
Kiên miên man qua những dòng độc thoại nội tâm suốt từ đầu đến cuối tác
phẩm. Tuy nhiên, lời độc thoại của Kiên lại cho thấy anh không phải đang kể lại
cuộc đời của mình mà đang sống lại những ngày tháng đã qua, vì thế nhiều lời
độc thoại của Kiên như đang đối thoại với chính mình, với độc giả. Chẳng hạn
như cuộc độc thoại của Kiên về lẽ sống chết, về cuộc chiến thắng và về nền hòa
bình nghe như những dằn vặt, xót xa, lại nghe như đang tự vấn, như đang đối thoại
với người đọc và cần sự đối thoại trở lại.
“Bây giờ thì đã qua cả rồi. Tiếng ồn ào của những cuộc xung sát đã im bặt. Gió
lặng cây dừng. Và vì chúng ta đã chiến thắng nên đương nhiên có nghĩa là chính
nghĩa đã thắng, điều này có một ý nghĩa an ủi lớn lao, thật thế. Tuy nhiên, cứ nghĩ
mà xem, cứ nhìn vào sự sống sót của bản thân mình; cứ nhìn kỹ vào nền hòa bình
thản nhiên kia và nhìn cái đất nước đã chiến thắng này mà xem: đau xót, chua
chát và nhất là buồn xiết bao.
Một người ngã xuống để những người khác sống, điều đó chẳng có gì mới, thật
thế. Nhưng khi anh và tôi thì sống còn những người ưu tú nhất, tất đẹp nhất,
những người xứng đáng hơn ai hết quyền sống trên cõi dương này đều gục ngã,
bị nghiền nát, bị cỗ máy đẫm máu của chiến trận chà đạp, đày đọa, bị bạo lực
tăm tối hành hạ, làm nhục rồi giết chết, bị chôn vùi, bị quét sạch, bị tuyệt diệt, thì
sự bình yên này, cuộc sống này cảnh trời êm biển lặng này là cả một nghịch lý quái gở” .
Chính những dòng độc thoại ấy đã mở toang cánh cửa giúp ta đi sâu hơn
vào thế giới nội tâm của Kiên, giúp người đọc hiểu hơn về con người thô ráp và 45
chai sạn ấy. Bảo Ninh đã sử dụng độc thoại nội tâm để nhân vật có thể tự nói lên
những dằn vặt ẩn sâu bên trong tâm hồn mình... Lời bộc bạch của Kiên là một độc
thoại dài, là một dòng tâm sự đau thương của chính nhân vật muốn chia sẻ với thế hệ hôm nay.
b. Ngôn ngữ giàu cảm xúc
Trong Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã sử dụng hệ thống ngôn từ với lời
kể thiên về miêu tả, đầy các từ láy, các từ đặc trưng để diễn tả tâm trạng, cảm giác,
cùng với đó là những cảm nhận, bình luận, đánh giá…
Nhiều các từ ngữ, hình ảnh rùng rợn dược Bảo Ninh xây dựng với số lượng
lớn: “`thở than buồn thảm của thế giới rừng sâu, vời vợi xa xôi và tuyệt mù hư ảo,
đám hành khách từ trong mộ hiện ra, ma cà rồng, ảo giác, kì quái, ma quái,
hoang đường…” Hơn thế, chỉ trong một trang sách mà xuất hiện hàng loạt các từ
tạo cảm giác gây ấn tượng mạnh: “thần chết sờ soạng”, “vô khối hồn ma quỷ lang
thang”, “mịt mù lam chướng”, “những kỳ lễ lạt của giới các âm hồn”, “cuộc
điểm danh của các toán quân đã chết”, “chim chóc khóc than như người”, “các
loại măng đỏ au như những tảng thịt ròng ròng máu”, “đom đóm to kinh dị lớn
tày cái mũ cối”, “cây cối hoà giọng với gió rên lên những bản nhạc ma”... Dạng
ngôn ngữ ấy được Bảo Ninh sử dụng hầu như xuyên suốt tác phẩm: “lềnh bềnh
xác người sấp ngửa”, “linh hồn lở loét”, “gờ núi lạnh lẽo”, “bóng đen trườn
khỏi võng”, “nấm mồ bộ đội mọc lên nhấp nhô tựa sóng cồn”… Qua hệ thống
ngôn ngữ, Bảo Ninh đã gợi ra những cảm giác đầu ám ảnh, đồng thời cũng khắc
họa chân thực hơn về hiện thực chiến tranh tàn khốc của dân tộc.
Bảo Ninh cũng sử dụng thống ngôn ngữ để miêu tả về những trận mưa kỳ
lạ nói tiếp nhau như đang xối thẳng vào tâm trạng con người: “Trong trời thì cứ
mưa, ngày này qua ngày khác. Cuộc chiến như bị vùi lấp trong biển mênh mông
mù mịt mùa mưa… Bốn bề mìn mịt chỉ một màu mưa trĩu lòng, một màu núi rừng
ảm đạm và đói khổ”, “Mưa rơi rào rào”, “Mưa lụt trời”, “Trời thì mưa kinh
khủng là mưa… Rừng tối đen lại rất mau”, “Mưa ngất trời”, “mưa dầm”, “mưa
xối xả”, mưa ngút trời”, “mưa ê ẩm”, “mưa lê thê”, “mưa to”, “khắp nơi lằng
nhằng sấm chớp”, “mưa nặng nề xối dội”, “mưa ngày”, “mưa đêm”, “mưa gian
truân”. Hay sử dụng những ngôn ngữ để tạc lên bóng đêm dày đặc, không có lối
thoát với đủ mọi sắc thái: “đêm tối nặng nề”, “đêm mưa, “đêm tàn”, “đêm tăm 46
tối”, “đêm tối như cái hố mêng mông đen ngòm”, “đêm tối như bưng”, “đêm dài
mộng du”, “bóng đêm lay động”, “đêm xuân giá rét”, “đêm lạnh giá”, “đêm
kinh khủng”, “đêm mùa xuân”, “đêm đồng nội”, “đêm đen của hồi tưởng”,
“bóng tối đêm mưa”, “đêm đen thành phố”, “bóng tối đẫm hơi mưa”, “đêm
hoang vu”, “đêm ác mộng”, “đêm của tâm hồn”, “đêm tối đen”, “đêm âm u”,
“đêm rét mướt”, “đêm thác loạn”, “đêm kỳ ảo”, “đêm trường”, “đêm thức
trắng”, “đêm hương hoa”…
Với hệ thống ngôn từ được xây dựng giàu cảm giác, giúp cho người đọc
cảm nhận được sâu sắc hơn về bóng tối và những cơn mưa kỳ lạ, về những điều
u tối, túng quẫn, mịt mờ của tương lai, phản ánh hiện thực cũng như những nỗi lo
âu và sợ hãi trong tâm hồn con người.
3.5.3. Giọng điệu
Trong dòng chảy văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975, do để phù hợp với
bối cảnh lịch sử đang diễn ra thì giọng khẳng định, ngợi ca là giọng chủ đạo của
các tiểu thuyết nói chung. Nhưng tới sau 1975, tiểu thuyết đề cập chủ yếu đến con
người đời tư, kinh nghiệm cá nhân, ý thức của con người được coi trọng “những
giọng điệu khác nhau biểu hiện những cách cảm, cách nhìn, cách đánh giá đời
sống khác nhau cũng được chấp nhận như một sự phong phú tất yếu và thú vị của
đời sống, của tự nhiên”. Cho tới thời điểm hiện tại, tiểu thuyết Việt Nam đã xuất
hiện các kiểu giọng điệu như: phân tích, lí giải; đối thoại, chất vấn, hoài nghi;
châm biếm, giễu nhại… (theo Mai Hải Oanh – Những cách tân nghệ thuật trong
tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1986 – 2006).
Do những quy chuẩn về đề tài, giọng điệu tiểu thuyết chiến tranh sau năm
1975 cũng ít có những bước ngoặt lớn so với các đề tài khác. Song, cùng với sự
đa dạng hóa trong điểm nhìn nghệ thuật, từ giọng hào hùng, trang trọng, thành
kính, giọng điệu tiểu thuyết về chiến tranh cũng dần hướng tới tính đa thanh và
đối thoại. Việc chuyển hóa và làm thay đổi giọng điệu với một đề tải gắn liền với
lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc là cũng không hề đơn giản. Nó đòi hỏi người
nghệ sĩ phải có bản lĩnh nghệ thuật, phải vượt ra khỏi các quy định tái hiện lịch
sử mà thay vào đó coi chiến tranh là phương tiện để khám phá chiều sâu tâm hồn
con người, và Bảo Ninh đã làm rất hiệu quả trong việc đa dạng các giọng điệu 47
trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh. Dưới đây là một số giọng điệu đa thanh
được thể hiện trong văn bản:
Giọng buồn thương ngậm ngùi: Tiểu thuyết nỗi buồn chiến tranh mang giọng
ngậm ngùi, buồn thương, đôi khi có cả mỉa mai chua xót. Bảo Ninh đã chú ý khắc
họa những tổn những tổn thương về mặt tinh thần con người. Sau ánh hào quang
của sự chiến thắng, Kiên đã nhận ra mình đã mất mát quá nhiều, người thân cũng
đều bỏ Kiên mà đi cả. Kiên cảm thấy mình lạc lõng và cô đơn, không thể hòa nhập
được với cuộc sống hậu chiến tranh. Và lạ thay là thứ cứu rỗi anh khỏi tâm trạng
đó lại chính là những ký ức đau thương của chiến tranh chứ không phải xã hội
thực tại: “sống ngược trở lại con đường của mối tình xưa, chiến đấu lại cuộc chiến
đấu” và “làm sống lại những linh hồn đã mai một, những tình yêu đã phai tàn,
bừng sáng lại những giấc mộng xưa” là lúc Kiên được sống lại với quãng đời đẹp đẽ nhất của mình.
Giọng đồng cảm: Giọng điệu này được biểu hiện qua dòng hồi ức, giấc mơ của
Kiên về những người phụ nữ. Nếu như chiến tranh đánh thức trong Kiên cái tính
tàn bạo, thô ráp thì những người đàn bà như Phương, Hiền, Liên, Hòa, Hạnh,
người đàn bà câm… lại mang lại cho anh những rung động về tình yêu, một thứ
tình yêu mà đến khi cuối đời cũng không trọn vẹn. Những người phụ nữ được
Kiên hồi ức ấy đều mang theo trong anh sự cảm thông, trân trọng và nuối tiếc, tuy
họ chị thoáng qua trong một hoàn ảnh nào nhất định nhưng cũng đã để lại cho
Kiên biết bao niềm thương nhớ.
Giọng điệu tranh biện, phân tích, lý giải: Giọng điệu này thường gắn liền với
những quan điểm riêng của nhân vật, và đó là những quan niệm về chiến tranh:
“Chiến tranh là cõi không nhà, không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ
đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà, là thế giới bạt sầu vô cảm và tuyệt tự
khủng khiếp nhất của dòng giống con người!” * Tiểu kết
“Nỗi buồn chiến tranh” là một tiểu thuyết vô cùng cảm động về đề tài chiến
tranh, một đề tài không còn mới mẻ. Tuy nhiên đây vẫn là một tác phẩm đáng
đọc, đáng suy ngẫm và đáng được bàn luận phổ biến bởi những cách tân, đổi mới
trong nghệ thuật viết truyện của tác giả. Thời điểm tác phẩm ra đời, Bảo Ninh
được công nhận là một trong những cây bút tiên phong trong phong trào cải cách 48
nghệ thuật tiểu thuyết ở Việt Nam. Không còn những nhân vật hành động, Bảo
Ninh đã dịch chuyển phạm vi tồn tại của nhân vật chính vào đời sống tâm lý, khai
thác những ẩn ức, dằn vặt diễn ra sâu trong tâm hồn nhân vật. Đặc biệt, ông còn
đưa vào tiểu thuyết của mình những ẩn ức tình dục, các khía cạnh cá nhân nhạy
cảm mà trước đây văn học tránh đề cập. “Nỗi buồn chiến tranh” thành công như
ngày hôm nay phần lớn là nhờ những trải nghiệm của tác giả sau khi bước ra khỏi
cuộc chiến. Ông đã góp phần góp phần bổ sung thêm về cách tìm tòi trong sáng
tạo nghệ thuật: viết về chiến tranh bằng những trải nghiệm của bản thân là người
trong cuộc, nhằm thẳng hiện thực mà viết, lên tiếng cảnh báo những hiểm họa mà
chiến tranh để lại đồng thời tái hiện chân dung những người anh hùng đã ngã
xuống vì độc lập hòa bình hôm nay. 49 KẾT LUẬN
Tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh từ khi ra đời đã ngay lập
tức trở thành một hiện tượng trên văn đàn đương đại Việt Nam, thu hút nhiều sự
quan tâm của đông đảo độc giả và các nhà nghiên cứu bởi những đổi mới về cả
cách tiếp cận nội dung và nghệ thuật. Qua đó, tác phẩm đem lại những cách nhìn
mới mẻ về chiến tranh, viết về một đề tài cũ nhưng lại tái hiện nó qua lăng kính
mới trong cảm nhận của riêng tác giả.
Với những trải nghiệm cá nhân, bằng cảm hứng nghệ thuật và góc độ tiếp
cận đề tài khác nhau, Bảo Ninh không chỉ phản ánh, tái tạo mà còn sáng tạo ra
hiện thực, đưa vào tiểu thuyết “cuộc chiến của riêng anh”. Ở “Nỗi buồn chiến
tranh”, tác giả không chỉ trực tiếp lột tả được một cách trần trụi sự thật của cuộc
chiến, tái hiện những mất mát, đau thương, sự tàn phá khốc liệt mà chiến tranh
gây ra cho đất nước mà ở đó, đời sống nội tâm của người lính và số phận cá nhân
của họ cũng là một khía cạnh mà tác giả quan tâm và tập trung phản ánh.
So với tiểu thuyết về chiến tranh trước 1975, “Nỗi buồn chiến tranh” cũng
thể hiện được những đổi mới nghệ thuật của tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975
ở các phương diện: xây dựng nhân vật, tổ chức kết cấu, sử dụng yếu tố huyền
thoại hóa và đa dạng hóa phương thức trần thuật. 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Duy Châu (1994), Từ đâu đến Nỗi buồn chiến tranh, Cộng Sản, (Số 10), tr.54-55.
2. Đinh Xuân Dũng (1995), Văn học Việt Nam về chiến tranh, hai giai
đoạn của sự phát triển, Văn nghệ Quân đội, (Số 7), tr.91-95.
3. Phan Cự Đệ (1984), Mấy vấn đề của tiểu thuyết viết về đề tài chiến
tranh cách mạng, Văn nghệ quân đội, (Số 9), tr.108-113. 4.
Phan Cự Đệ (2001), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục.
5. Phan Cự Đệ (1974), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Tập 1, Nxb Đại
học và Trung học chuyên nghiệp.
6. Đỗ Đức Hiểu (1999), Đổi mới phê bình văn học (Phê bình - Tiểu
luận), Nxb Khoa học Xã hội và Nxb Mũi Cà Mau Nxb, tr.282.
7. Bùi Thị Hợi (2011), Văn xuôi tự sự của Bảo Ninh trong bối cảnh văn
xuôi Việt Nam thời kì đổi mới, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn học
8. Phương Lựu (Chủ biên) (2004), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9. Bích Thu (2001), Tiểu thuyết Việt Nam trong quá trình hiện đại hóa
văn học nửa đầu thế kỉ, Nghiên cứu văn học, (Số 4), tr24-28.
10. Nguyễn Ngọc Thiện (1990), Tiểu thuyết hướng nội trong văn xuôi
Việt Nam hiện đại, Nghiên cứu văn học, (Số 6), tr.28-34.
11. Lê Ngọc Trà (2007), Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới,
Nghiên cứu văn học, (Số 1), tr.24-31.
12. Nguyễn Thị Thanh (2012), Tiểu thuyết về chiến tranh trong văn học
Việt Nam sau 1975 – Những khuynh hướng và sự đổi mới nghệ thuật.
Luận án tiến sĩ ngữ văn