Những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam | Tài liệu môn chủ nghĩa xã hội khoa học

Chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước tư bản đế quốc vừa tăng cường bóc lột nhân dân lao động trong nước vừa xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên cùng cực. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI NHƯ THẾ NÀO?
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930 là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô cùng
quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam.
Bối cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước tư bản đế quốc vừa
tăng cường bóc lột nhân dân lao động trong nước vừa xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự
thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa
các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra
mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa Mác - Lênin từ lý luận đã trở thành hiện
thực, mở ra một thời đại mới - thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc. Cách mạng
Tháng Mười Nga đã nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức.
Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) vào tháng 3/1919 đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bối cảnh trong nước
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược và từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam, biến
một quốc gia phong kiến thành thuộc địa nửa phong kiến.
Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính
quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ
một chế độ cai trị riêng. Thực dân Pháp câu kết với giai cấp địa chủ để bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối
với nhân dân Việt Nam.
Về kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài
nguyên; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác
thuộc địa.
Về văn hóa, thực dân Pháp thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự ti, khuyến khích các hoạt
động mê tín dị đoan. Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít
và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách ngu dân để
dễ bề cai trị.
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam đã diễn
ra quá trình phân hóa sâu sắc. Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông dân.
Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hóa. Một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, căm
ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.
Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột
nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn khổ của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc
và phong kiến tay sai, tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống
tự do.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, đa số xuất thân
từ giai cấp nông dân, có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc
lột. Giai cấp tư sản Việt Nam bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh chèn ép, do đó thế lực kinh tế và
địa vị chính trị nhỏ bé và yếu ớt, có tinh thần dân tộc và yêu nước ở mức độ nhất định. Tầng lớp tiểu tư sản Việt
Nam bao gồm học sinh, trí thức, những người làm nghề tự do… đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành
người vô sản, có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân, có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên
ngoài truyền vào.
Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở những mức
độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa
nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ
yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân
Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến đang đặt ra hai yêu cầu: Một
là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; Hai là, xóa bỏ chế
độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó, chống đế
quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
Trước những yêu cầu đó, các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi
nổi nhưng đều không mang lại kết quả. Phong trào Cần Vương - phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong
kiến, do giai cấp phong kiến lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng
(năm 1896). Sang đầu thế kỷ XX, khuynh hướng này không còn là khuynh hướng tiêu biểu nữa. Phong trào
nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào
năm 1913. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh
lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại.
Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất của
dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực
lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng
sâu sắc về đường lối cứu nước.
NAQ th-nh lâ 0p ĐCS VN
Từ năm 1921-1930, Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp, nghiên cứu bổ sung,
hoàn thiện tư tưởng cứu nước, vừa tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam. Người tập trung chuẩn bị về tổ chức và cán bộ, lập ra Hội Việt Nam cách mạng Thanh
niên (1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc), đồng thời gửi cán bộ đi học tại
Trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và Trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc). Nhờ hoạt động không
mệt mỏi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà đến cuối năm 1929, đầu năm
1930, những điều kiện cho sự ra đời của một Đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi.
Thế nên, từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam đã họp ở bán đảo Cửu Long, thuộc Hồng Kông (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái
Quốc thay mặt cho Quốc tế Cộng sản. Trong Hội nghị thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 5 điểm
lớn cần thảo luận và thống nhất, trước hết là tự phê bình và phê bình, "Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành
thật hợp tác để thống nhất các nhóm Cộng sản Đông Dương".Đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng,
ngày 17/6/1929, Kỳ Bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đã thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng
tại Hà Nội. Tháng 11/1929, các đồng chí Tổng bộ và Kỳ Bộ Nam Kỳ của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên
cũng quyết định thành lập An Nam Cộng sản Đảng. Ngày 1/1/1930, những đại biểu ưu tú của Tân Việt cách
mạng Đảng (một tổ chức tiền thân của Đảng) đã họp và thành lập Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn ở Trung
Kỳ. Tuy nhiên, ở một nước có tới ba tổ chức Cộng sản nên không tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ
chức, không thể thống nhất về tư tưởng và hành động. Trách nhiệm lịch sử là phải thành lập một Đảng Cộng sản
duy nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào Cộng sản ở Việt Nam.
Hội nghị đã nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ
vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản
Việt Nam gửi đến công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức, bóc lột
nhân dịp thành lập Đảng. Trong đó, Chánh cương vắn tắt của Đảng và sách lược vắn tắt của Đảng phản ánh nội
dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý
nghĩa như Đại hội thành lập Đảng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã quyết nghị
lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày Kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời kỳ mới cho cách mạng Việt
Nam - thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời,
đã xác định được những nội dung cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những nhu
cầu bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức Cộng sản, các lực lượng
cách mạng và toàn thể dân tộc.
90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đoàn kết một lòng giành được nhiều thắng lợi trong
công cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ quốc gia và phát triển
kinh tế -xã hội nước nhà (ảnh tranh cổ động)
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan trọng của lịch sử cách mạng Việt
Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của
phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong
trào cách mạng trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn kết
nhất trí của những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là
thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam;
chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào
cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì
hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới.
NHỮNG SÁNG TẠO CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM
Cách đây tròn 90 năm, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng dẫn
tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930). Từ đây, cách mạng Việt Nam có một đảng cách mạng
chân chính dẫn đường cho toàn dân đứng lên đánh đổ ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến đem lại độc
lập cho dân tộc, ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Đảng đã lãnh đạo nhân dân làm nên những chiến công
oanh liệt của thế kỷ XX.
Ngày nay, những thành tựu to lớn qua hơn 30 năm đổi mới đã làm cho thế và lực của nước ta được nâng cao
trên trường quốc tế, như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: Chưa bao giờ chúng ta
có được cơ đồ như ngày hôm nay. Kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 -
03/02/2020), chúng ta cùng nhìn lại những đóng góp, sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và từng bước biến nước ta trở thành thuộc địa của chúng. Trước
cảnh nước mất nhà ta, nhân dân lầm than, khổ cực, nhiều phong trào yêu nước đã nổ ra nhưng đều thất bại vì
chưa có đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn. Ngày 05/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành đã quyết chí ra nước ngoài để tìm đường cứu nước. Trải qua hành trình khắp năm châu, bốn biển, năm
1917, Người trở lại Paris và tích cực hoạt động trong Đảng xã hội Pháp. Tháng 7/1920, Người đã bắt gặp “Sơ
thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I.Lênin và tìm ra con đường cứu
nước cho dân tộc Việt Nam, Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản”[1].
Nguyễn Ái Quốc tích cực chuẩn bị mọi mặt cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là quá trình vận
dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn xã hội Việt Nam và Người cũng có
những sáng tạo độc đáo phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Một l-, Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quy luật ra đời Đảng cộng sản của chủ nghĩa Mác - Lênin và chỉ ra quy
luật ra đời đặc thù của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước cho dân tộc, Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt động nhằm truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị mọi mặt cho việc thành lập Đảng. Người tham gia sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp, hoạt động tích cực trong Hội liên hiệp thuộc địa, xuất bản báo “Người cùng khổ” để
tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào các nước thuộc địa. Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đi Liên Xô dự Đại hội
V của Quốc tế Cộng sản và có nhiều hoạt động tích cực tại Quốc tế Cộng sản như: tham dự Đại hội Quốc tế
Nông dân, Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Công hội đỏ,… Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng cho 75 đồng chí. Những bài giảng
của Người được tập hợp thành cuốn sách “Đường cách mệnh” xuất bản năm 1927. Trong tác phẩm Người nêu
rõ: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức
dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới
thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”[2].
Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân, được tổ chức và hoạt động theo
những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, đó là: nguyên tắc tập trung dân chủ,
phải đoàn kết thống nhất, lấy tự phê bình và phê bình làm quy luật phát triển và phải có kỷ luật nghiêm minh...
Người khẳng định vấn đề có ý nghĩa quyết định trong xây dựng Đảng là: “Đảng muốn vững thì phải có chủ
nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng
như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”[3].
Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa
Mác - Lênin với phong trào công nhân. Vận dụng sáng tạo quy luật này ở một nước thuộc địa nửa phong kiến,
kinh tế nghèo nàn lạc hậu như Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đây chính là sáng tạo nổi bật nhất của Hồ Chí Minh trong quá trình vận động thành lập Đảng. Người trung
thành với nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về quy luật ra đời của Đảng, đồng thời có bổ sung, sáng tạo vào
quy luật ấy với điều kiện cụ thể của Việt Nam, đó là phong trào yêu nước. Hồ Chí Minh đã phân tích rất kỹ tính
chất xã hội, cơ cấu giai cấp của xã hội Việt Nam để chỉ ra quy luật này.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, số lượng ít, chủ yếu là
công nhân khai thác mỏ, đồn điền mà chưa phải là công nhân đại công nghiệp như ở phương Tây. Tuy vậy, giai
cấp công nhân Việt Nam cũng là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, có tinh thần cách mạng
triệt để nhất, có mối liên hệ mật thiết với nông dân, là lực lượng lãnh đạo cách mạng. Phong trào công nhân
diễn ra nhưng quy mô còn nhỏ, tổ chức chưa chặt chẽ. Bên cạnh đó, phong trào yêu nước Việt Nam diễn ra sôi
nổi, rộng khắp, thu hút được đông đảo các giai cấp, tầng lớp tham gia. Vì vậy, phong trào công nhân và phong
trào yêu nước cần phải hỗ trợ nhau để thu hút lực lượng đông đảo trong xã hội, nhất là nông dân.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa “chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất”, cần phải được truyền
bá, thẩm thấu vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước để tạo nên sự chuyển biến về chất, trở thành
hành động cách mạng của dân tộc Việt Nam. Chính sáng tạo của Hồ Chí Minh về quy luật ra đời đặc thù của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập hợp được lực lượng đông đảo trong nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân mà đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam làm nên những thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt
Nam.
Bằng nhiều hình thức tuyên truyền, nhất là thông qua tổ chức và hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên, chủ nghĩa Mác - Lênin đã thẩm thấu vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Thời kỳ
1927 - 1929 là thời kỳ chuyển biến của cách mạng Việt Nam. Phong trào công nhân Việt Nam chuyển mạnh từ
tự phát đến tự giác, phong trào yêu nước phát triển với chất lượng mới. Qua đó, tạo nên làn sóng cách mạng dân
tộc, dân chủ mạnh mẽ, tạo điều kiện chín muồi cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với sự ra đời của
03 tổ chức cộng sản vào cuối năm 1929, đầu năm 1930 cho thấy việc thành lập Đảng đã được chuẩn bị chu đáo
về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Với nhãn quan chính trị nhạy bén, nhằm thống nhất thành một Đảng duy nhất
để lãnh đạo cách mạng, Nguyễn Ái Quốc với vai trò phái viên của Quốc tế cộng sản đã triệu tập Hội nghị hợp
nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930).
Hai l-, Hồ Chí Minh xác định: giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam.
Trong các văn kiện thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng (Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt) do Hồ Chí
Minh soạn thảo xác định: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”, “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc
lập”[4]. Đây là đường lối đúng đắn của cách mạng Việt Nam với hai giai đoạn: Giải phóng dân tộc đem lại độc
lập cho dân tộc được đặt lên hàng đầu, tiếp đó cách mạng phải tiến lên giai đoạn xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ
nghĩa để thực sự giải phóng giai cấp, giải phóng con người, đem lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, con
người được phát triển toàn diện. Đây là hai giai đoạn không có sự phân biệt về không gian và thời gian, nó gắn
liền với nhau, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, giải phóng dân tộc là tiền đề, là điều kiện để giải phóng giai
cấp, giải phóng con người và giải phóng giai cấp, giải phóng con người sẽ bảo đảm cho độc lập dân tộc được
vững chắc, “độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
Ba l-, sáng tạo của Hồ Chí Minh về việc xác định lực lượng tiến hành cách mạng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: Liên minh giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân là động lực của cách
mạng vô sản. Vận dụng sáng tạo quan điểm đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định:
Công nông là chủ cách mệnh, bên cạnh đó Người cũng chỉ ra: học trò, nhà buôn, điền chủ nhỏ là bầu bạn cách
mệnh của công nông. Trong “Sách lược vắn tắt”, Hồ Chí Minh xác định về từng lực lượng cách mạng: “Đảng là
đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp
mình lãnh đạo được dân chúng. Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân
cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến… Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu
tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú
nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm
cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ”[5].
Đây chính là chủ trương tập hợp tất cả các giai cấp, tầng lớp, lực lượng có tinh thần yêu nước, tinh thần cách
mạng đứng về phe công nông, tạo nên sức mạnh tổng hợp cho cách mạng, đồng thời phân hóa, cô lập kẻ thù, là
sáng tạo độc đáo của Hồ Chí Minh trong huy động sức mạnh toàn dân làm cách mạng.
Để thực hiện được việc tập hợp lực lượng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến tính tiên phong và vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tính tiên phong của Đảng, theo Người là thể hiện ở đường lối chính trị đúng đắn.
Người nêu rõ: “Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho
họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”[6]. Trong Lời kêu gọi nhân thành lập Đảng, Người cũng chỉ rõ: “Đảng
Cộng sản Việt Nam đã được thành lập. Đó là Đảng của giai cấp vô sản. Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo
cách mạng An Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột chúng ta”[7]. Các văn
kiện thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng, các bài viết cũng như thư gửi Trung ương Đảng và Quốc tế Cộng
sản trong những năm 30 thế kỷ XX, Hồ Chí Minh dùng rất nhiều từ như: “thu phục”, “lôi kéo”, “liên lạc”, “dìu
dắt”, v.v.. nhằm khẳng định tính tiên phong và vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc tổ chức, tập hợp, đoàn kết
dân tộc đấu tranh cho quyền lợi của dân tộc và của giai cấp.
Bốn l-, sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc đặt tên Đảng và chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn
khổ mỗi nước Đông Dương.
Trong khi Quốc tế Cộng sản có chỉ thị thành lập một Đảng Cộng sản chung cho ba dân tộc Đông Dương. Trong
thảo luận tại Hội nghị thành lập Đảng, Hồ Chí Minh giải thích: “Cái từ Đông Dương rất rộng và theo nguyên lý
của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề dân tộc là vấn đề rất nghiêm túc, người ta không thể bắt buộc các dân tộc
khác gia nhập Đảng, làm như thế là trái với nguyên lý của chủ nghĩa Lênin. Còn cái từ An Nam thì hẹp, mà
nước ta có ba miền: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ.
Do đó, từ Việt Nam hợp với cả ba miền và cũng không trái với nguyên lý của chủ nghĩa Lênin về vấn đề dân
tộc”, nên Hội nghị nhất trí với cách giải thích của Người và đặt tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ trương đó
của Người tuân thủ những nguyên lý xây dựng đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, có tính đến yếu tố
dân tộc, nhằm thức tỉnh ý thức dân tộc, khơi dậy sức mạnh của ba dân tộc Đông Dương, đồng thời tạo ra sự tin
cậy về chính trị để đoàn kết, giúp đỡ nhau một cách tự nguyện, bình đẳng và có hiệu quả.
Những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ở một nước thuộc địa đã được thực
tế cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới trong thế kỷ XX kiểm chứng là đúng đắn và khoa học. Đây là sự
cống hiến quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận Mác - Lênin. Trải qua gần 90 năm xây dựng, chiến
đấu và trưởng thành, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, với bản lĩnh của một đảng cách mạng chân chính,
luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam với sự sáng lập và rèn luyện của Hồ Chí Minh đã
lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành những thắng lợi vẻ vang, có ý nghĩa lịch sử to lớn. Ngày nay, những tư
tưởng của Người vẫn còn nguyên giá trị, soi sáng cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh./.
TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA SỰ RA ĐỜI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03/02/1930, là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô
cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển
của dân tộc ta. Đảng ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giải cấp, của
quá trình khảo nghiệm đường lối cứu nước đúng đắn, của sự kết hợp lý luận cách mạng khoa học với thực tiễn
phong trào cách mạng. Là kết quả của chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Việt Nam. Trải qua thực tiễn quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và luôn
đứng vững trên vũ đài chính trị, lãnh đạo toàn dân tộc Việt Nam đánh đổ hoàn toàn chế độ thực dân, phong kiến
và đế quốc, xây dựng một nước Việt Nam mới gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Vị thế, vai trò lãnh đạo
của Đảng ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế, được nhân dân suy tôn là đội tiên phong của giai cấp
công nhân, của nhân dân lao động và của toàn thể dân tộc Việt Nam
Bối cảnh sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam:
Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa. Đây là thời điểm nền kinh tế hàng hóa trong các nước tư bản phát triển mạnh mẽ, đặt ra yêu cầu bức thiết
về thị trường tiêu thụ hàng hóa và nguyên liệu để sản xuất. Đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn tới những cuộc
chiến tranh xâm lược các quốc gia phong kiến phương Đông, biến các quốc gia này thành thị trường tiêu thụ sản
phẩm hàng hóa, mua bán nguyên vật liệu, khai thác sức lao động và xuất khẩu tư bản của các nước đế quốc. Các
nước tư bản đế quốc vừa tăng cường bóc lột nhân dân lao động trong nước vừa xâm lược và áp bức nhân dân
các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên
cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Sự áp bức và thôn tính dân tộc của chủ nghĩa đế quốc càng tăng thì mâu thuẫn giữa dân tộc thuộc địa thực
dân càng gay gắt, sự phản ứng dân tộc của nhân dân các thuộc địa càng quyết liệt. Và chính bản thân chủ nghĩa
đế quốc xâm lược, thống trị các thuộc địa lại tạo cho các dân tộc bị chinh phục những phương tiện và phương
pháp để tự giải phóng. Sự thức tỉnh về ý thức dân tộc và phong trào đấu tranh dân tộc để tự giải phóng khỏi ách
thực dân, lập lại các quốc gia dân tộc độc lập trên thế giới chịu tác động sâu sắc của chính sách xâm lược, thống
trị của chủ nghĩa đế quốc thực dân.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã làm biến đổi sâu sắc tình hình thế giới. Cuộc
cách mạng đó đã chặt đứt khâu yếu nhất trong hệ thống đế quốc chủ nghĩa, mở ra thời đại mới trong lịch sử loài
người - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Giá trị của cuộc
cách mạng ấy đã lan toả và tác động một cách sâu sắc đến tiến trình lịch sử của nhân loại. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng Bôn sê vích Nga, đứng đầu là Lênin, cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ ảnh hưởng và tác động sâu
sắc đến cách mạng vô sản diễn ra ở các nước tư bản, mà còn lan toả sâu rộng đến các nước thuộc địa, cổ vũ
mạnh mẽ các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh tự giải phóng. Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước
châu Á đầu thế kỷ XX phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến phong trào yêu nước Việt Nam.
Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản vào tháng 3/1919 đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tình hình thế giới đầy biến động đó đã ảnh hưởng mạnh
mẽ đến Việt Nam
Tại Việt Nam, năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược và từng bước thiết lập bộ máy thống
trị ở Việt Nam, biến một quốc gia phong kiến thành thuộc địa nửa phong kiến.
Về chính trị, Sau khi đánh chiếm Việt Nam, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực dân và tiến hành
những cuộc khai thác thuộc địa Việt Nam nói riêng cũng như Đông Dương nói chung một cách có hệ thống và
trên quy mô lớn, nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa.
Thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền
phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một
chế độ cai trị riêng. Thực dân Pháp câu kết với giai cấp địa chủ để bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với
nhân dân Việt Nam.
Về kinh tế, Từ năm 1897, thực dân Pháp tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất và sau
Chiến tranh thế giới I (1914-1918), chúng tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông Dương
với số vốn đầu tư trên quy mô lớn, tốc độ nhanh. Thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột, cướp đoạt ruộng
đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao
thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.
Về văn hoá, Thực dân Pháp thực hiện chính sách “ngu dân” về mặt giáo dục, đầu độc về mặt văn hóa là
một trong những biện pháp cai trị của bộ máy thống trị thực dân. Thực dân Pháp hạn chế đến mức tối đa việc
phát triển giáo dục, kìm hãm nhân dân Việt Nam trong vòng ngu dốt thực dân Pháp thi hành triệt để chính sách
văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự ti, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan. Mọi hoạt động yêu nước của nhân
dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế
giới vào Việt Nam và thi hành chính sách ngu dân để dễ bề cai trị.
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hoá, giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam đã
diễn ra quá trình phân hoá sâu sắc. Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông
dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hoá. Một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước,
căm ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.
Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức,
bóc lột nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn khổ của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù
đế quốc và phong kiến tay sai, tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và
quyền sống tự do.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, đa số xuất
thân từ giai cấp nông dân, có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân, bị đế quốc, phong kiến áp bức
bóc lột.
Giai cấp tư sản Việt Nam bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh chèn ép, do đó thế lực kinh tế và
địa vị chính trị nhỏ bé và yếu ớt, có tinh thần dân tộc và yêu nước ở mức độ nhất định. Tầng lớp tiểu tư sản Việt
Nam bao gồm học sinh, trí thức, những người làm nghề tự do… đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành
người vô sản, có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân, có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên
ngoài truyền vào.
Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở những
mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa
nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ
yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân
Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến đang đặt ra hai yêu cầu: Một
là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; Hai là, xoá bỏ chế
độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó, chống đế
quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân Pháp diễn
ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết quả. Phong trào Cần Vương - phong trào yêu nước theo ý
thức hệ phong kiến, do giai cấp phong kiến lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của
Phan Đình Phùng (năm 1896). Sang đầu thế kỷ XX, khuynh hướng này không còn là khuynh hướng tiêu biểu
nữa. Phong trào nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài mấy chục năm
cũng thất bại vào năm 1913. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị
thất bại.
Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất
khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ
chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc
khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam:
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời
tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường
cứu nước theo phương hướng mới. Người đã đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã phát hiện
ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân
lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, Người trở lại nước Pháp, đến Paris và năm 1919 gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Tháng 6/1919,
thay mặt những người yêu nước Việt Nam, Người gửi bản yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Vécxây. Tháng 7/1920,
Nguyễn Ái Quốc được đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
V.I. Lênin. Những luận điểm cách mạng của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giải đáp những vấn đề cơ
bản và chỉ dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc mà sau gần mười năm tìm kiếm
(1911-1920) Nguyễn Ái Quốc mới bắt gặp. Người đến với chủ nghĩa Mác- Lênin ở phương diện rất thực tế rằng
chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới có thể chỉ ra cho Người và nhân dân Việt Nam cũng như nhân loại bị áp bức con
đường để giải phóng.
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham
gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Đó là một sự kiện lịch sử
trọng đại, không những Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước đến với lý luận cách mạng của thời đại là chủ
nghĩa Mác-Lênin, mà còn đánh dấu bước chuyển quan trọng của con đường giải phóng dân tộc Việt Nam: muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người
nhấn mạnh: cách mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo; Đảng phải có hệ tư
tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là hệ tư tưởng Mác-Lênin.
Người đã viết nhiều bài báo, tham gia nhiều tham luận tại các đại hội, hội nghị quốc tế, viết tác phẩm
“Bản án chế độ thực dân Pháp” và tổ chức ra các tờ báo Thanh niên, Công nông, Lính cách mệnh, Tiền phong,
nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam. Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc
bị áp bức xuất bản tác phẩm “Đường cách mệnh”. Đó là sự chuẩn bị về đường lối chính trị tiến tới thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam. Người khẳng định, muốn thắng lợi thì cách mạng phải có một đảng lãnh đạo, Đảng
có vững, cách mạng mới thành công cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy.
Trong thời gian này, Người cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán bộ. Người lập ra Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên (năm 1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc) và gửi
cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc) nhằm
đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
Nhờ hoạt động không mệt mỏi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà
những điều kiện thành lập Đảng ngày càng chín muồi.
Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản đã nhận thức được sự cần
thiết và cấp bách phải thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản
ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung
Quốc từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930.
Hội nghị đã quyết định hợp nhất các tổ chức Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thảo luận và
thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của
Đảng Cộng sản. Những văn kiện đó do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua là
sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Hội nghị thông qua
lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến đồng bào,
đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng
Ý nghĩa lịch sử của sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam:
Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập đã khẳng định dứt khoát nội dung, phương hướng phát triển của xã
hội Việt Nam là gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, chấm dứt sự khủng hoảng bế tắc về đường lối
cứu nước của dân tộc ta trong hơn 9 thập kỉ. Sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với nội dung
và xu thế cách mạng của thời đại mới được mở ra từ Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại: “Đối với nước ta,
không còn con đường nào khác để có độc lập dân tộc thật sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh
rằng đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng ta”[1].
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt quyết định trong sự phát triển của dân tộc ta, tạo
những tiền đề và nhân tố hàng đầu quyết định đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
“Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ
rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”[2]
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đó là sự phản ánh quy luật ra đời và cội
nguồn sức mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào
đặc điểm của dân tộc Việt Nam và là công lao to lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong công
cuộc vận động thành lập một chính đảng vô sản ở Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến./.
0
I DUNG VÀ F NGHGA CỦA CLCT ĐHU TIÊN CỦA ĐẢNG
1. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là gì?
Cương lĩnh chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam là văn bản trình bày tóm tắt mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ và
phương pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ chống giặc ngoại xâm.
Theo đó, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam được coi là văn bản có giá trị cao nhất
trong hệ thống các văn bản của Đảng Cộng sản Việt Nam, trên cả Điều lệ Đảng. Tính cho đến nay, Đảng Cộng
sản Việt Nam có tất cả 5 cương lĩnh.
2. Hoàn cảnh ra đời của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng được đề ra tại Hội nghị hợp nhất của tổ chức Cộng sản trong nước có ý
nghĩa như Đại hội để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đại biểu
Quốc tế Cộng sản triệu tập và chủ trì, cùng với sự tham dự chính thức của hai đại biểu Đông Dương Cộng sản
Đảng (06/1929); 02 đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng (10/1929) và một số đồng chí Việt Nam hoạt động
ngoài nước.
- Hội nghị họp bí mật ở nhiều địa điểm khác nhau trên bán đảo Cửu Long, từ ngày 06/06 – 07/02/1930, đã thảo
luận quyết định thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và nhất trí thông qua 07 tài liệu, văn kiện, trong đó có 04
văn bản:
Chính cương vắn tắt của Đảng.
Sách lược vắn tắt của Đảng.
Chương trình tóm tắt của Đảng
Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hợp thành nội dung Cương lĩnh chính trị của Đảng. Tất cả các tài liệu, văn kiện nói trên đều do Nguyễn Ái
Quốc khởi thảo dựa trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối Đại hội VI (1928) của Quốc tế Cộng
sản; nghiên cứu các Cương lĩnh chính trị của những tổ chức cộng sản trong nước, tình hình cách mạng thế giới
và Đông Dương.
-Dù là vắn tắt, tóm tắt, song nội dung các tài liệu, văn kiện chủ yếu của Hội nghị được sắp xếp theo một logic
hợp lý của một Cương lĩnh chính trị của Đảng.
3. Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
- Nội dung cơ bản trong Cương lĩnh đã xác định rõ về đường lối, nhiệm vụ, lực lượng và mối quan hệ của cách
mạng Việt Nam trong bối cảnh sau khi thành lập Đảng. Cụ thể, về đường lối chiến lược là làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
- Cương lĩnh xác định ba nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam, bao gồm cả hai nội dung dân tộc và dân
chủ, chống đế quốc và chống phong kiến, song nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc, giành độc lập dân
tộc. Cụ thể:
+ Về chính trị, đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc
lập, dựng ra Chính phủ công-nông-binh và tổ chức quân đội công nông.
+ Về kinh tế, tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho Chính phủ mới; tịch thu ruộng đất của
bọn đế quốc làm của công và chia cho dân cày nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho
dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm tám giờ. Về văn hóa, dân chính được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền,
phổ thông giáo dục theo hướng công nông hóa.
- Cương lĩnh xác định lực lượng cách mạng là tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, nông dân và phải dựa
vào hạng dân cày nghèo; lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông…
đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách
mạng thì phải lợi dụng, ít nhất cũng làm cho họ đứng trung lập, bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải
đánh đổ. Giai cấp lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân, thông qua Đảng Cộng sản. Đảng là đội tiên phong
của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận của giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo
được dân chúng.
Về mối quan hệ quốc tế, Luận cương xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới;
phải liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới, nhất là với quần chúng vô sản
Pháp.
4. Ý nghĩa Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh đúng đắn và sáng tạo theo con đường cách mạng Hồ
Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử, nhuần
nhuyễn quan điểm giai cấp và thấm nhuần tinh thần dân tộc.
- Tiến hành cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất để giành chính quyền về tay chân dân đi tới xã
hội cộng sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng cốt lõi của Cương lĩnh này.
- Nội dung Cương lĩnh vẫn còn một vài vấn đề về sau không hoàn toàn phù hợp với thực tế Việt Nam hoặc có
một số từ ngữ có thể dẫn tới sự giải thích khác nhau, song với sự bổ sung của Luận cương Chính trị được thông
qua tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành trung ương Đảng, Cương lĩnh chính trị của Đảng đã được hoàn
thiện hơn.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Trong bản Cương lĩnh cách mạng tư sản dân quyền năm 1930, Đảng đã
nêu rõ nhiệm vụ chống đế quốc và chống kiến, thực hiện dân tộc lập, người cày ruộng. Cương lĩnh ấy rất phù
hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ra là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực
lượng cách mạng to lớn xung quanh giai cấp mình, còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản
hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta – Đảng của giai cấp công nhân không ngừng củng cố và tăng
cường.
5. Hạn chế của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Bản luận cương đã khẳng định lại nhiều vấn đề mà cương lĩnh đã nêu ra: đường lối cách mạng, lực lượng cách
mạng, đoàn kết quốc tế, vai trò lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, cương lĩnh chính trị đầu tiên còn một số hạn chế
như sau:
- Luận cương đã không vạch ra được đâu là mâu thuẫn chủ yếu của xã hội thuộc địa coi trọng vấn đề chống
phong kiến không phù hợp với cách mạng Việt Nam.
Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong đấu tranh gi-nh chính quyền cách mạng (1930 -
1945)
Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đây là kết quả của quá trình vận động cách mạng
trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại; là sự kiện có ý nghĩa
quyết định đối với toàn bộ tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã
đánh dấu một bước ngoặt lịch sử trong cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống ách đô hộ của thực dân Pháp. Từ
đây, cách mạng Việt Nam đã có đội tiên phong, trực tiếp nắm chắc ngọn cờ lãnh đạo để dẫn dắt nhân dân ta tiến
tới cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Đảng lãnh đạo cao trào cách mạng 1930-1931
Vừa mới ra đời, Đảng đã phát động ngay cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô viết Nghệ -Tĩnh.
Cao trào đã thu hút đông đảo quần chúng công nông cả nước đấu tranh chống ách thống trị của bọn đế quốc,
phong kiến. Thành quả lớn nhất của cao trào cách mạng 1930-1931, mà cuộc khủng bố trắng tàn khốc của đế
quốc và phong kiến đã không thể nào xóa nổi là, nó khẳng định trong thực tế quyền lãnh đạo duy nhất thuộc về
Đảng ta; nó đem lại cho quần chúng niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Trong khi khẳng định đường lối cách
mạng đúng đắn của Đảng ta, khả năng cách mạng to lớn của công nông, nó cũng chứng tỏ tính chất phiêu lưu,
cải lương của giai cấp phong kiến và tư sản mại bản. Đó là thắng lợi đầu tiên có ý nghĩa quyết định đối với sự
phát triển về sau của cách mạng Việt Nam. Cao trào cách mạng 1930-1931 là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của
cách mạng Việt Nam để tiến tới giành chính quyền trên cả nước.
Đảng lãnh đạo cao trào dân chủ Đông Dương 1936-1939
Những năm 1936-1939, một thời kỳ đấu tranh hợp pháp và nửa hợp pháp kết hợp chặt chẽ với hoạt động
bí mật, bất hợp pháp diễn ra ở nước ta. Khi Mặt trận Nhân dân lên cầm quyền ở Pháp, Đảng coi đây là một cơ
hội tốt để đưa cách mạng tiến bước. Đảng đề ra mục tiêu cho thời kỳ này là “chống phản động thuộc địa, chống
phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do dân chủ, cơm áo và hòa bình”. Cao trào cách mạng 1936-1939 dưới sự
lãnh đạo của Đảng là thời kỳ vận động quần chúng sôi nổi với nhiều hình thức tổ chức và hoạt động linh hoạt,
phong phú, kể cả việc lợi dụng các “Viện dân biểu”, các “Hội đồng quản hạt” do thực dân Pháp lập ra. Đảng đã
động viên, giáo dục cho hàng triệu quần chúng trong các cuộc đấu tranh chính trị rộng khắp. Sự lãnh đạo của
Đảng thời kỳ này đánh dấu bước trưởng thành, thể hiện năng lực lãnh đạo của Đảng ta, chuẩn bị điều kiện để
đưa quần chúng vào những trận chiến đấu quyết liệt trong những năm 1940-1945.
Đảng lãnh đạo cao trào giải phóng dân tộc 1939-1945
Ngay khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (tháng 9-1939), Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 6
(tháng 11-1939) để điều chỉnh chiến lược cách mạng với nội dung: Đặt nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai,
giành độc lập dân tộc lên hàng đầu. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông
Dương, nhằm thu hút tất cả các dân tộc, giai cấp, đảng phái, tôn giáo và các cá nhân yêu nước để đánh đổ đế
quốc và tay sai, giành độc lập hoàn toàn cho các dân tộc ở Đông Dương. Tháng 11-1940, Hội nghị Trung ương
Đảng lần thứ 7 họp ở Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), khẳng định chủ trương của Hội nghị Trung ương Đảng
lần thứ 6 là đúng. Tháng 5-1941, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 họp tại Pắc Bó (Cao Bằng), do lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì. Hội nghị này đã cụ thể hóa và hoàn thiện thêm một bước đường lối giải
phóng dân tộc của cách mạng Việt Nam. Hội nghị chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ mỗi
nước Đông Dương và chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất ở mỗi nước. Tại Việt Nam, Hội nghị
quyết định thành lập tổ chức Việt Nam Độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh, gồm các đoàn thể cứu
quốc trên cả nước. Hội nghị nhấn mạnh công tác chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm và dự kiến
một số chủ trương, chính sách khi Tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập tại tỉnh Cao Bằng. Cùng
với đó, Mặt trận Việt Minh, lực lượng vũ trang cách mạng và cả căn cứ địa cách mạng, đều phát triển mạnh mẽ,
không chỉ ở khu Việt Bắc. Trên khắp cả nước, đâu đâu cũng diễn ra các phong trào đấu tranh giành độc lập cho
dân tộc. Qua các cuộc vận động cách mạng đó, Đảng ta đã có nhiều kinh nghiệm, hình thành các chủ trương,
quyết sách, đồng thời đẩy mạnh xây dựng một cách toàn diện các lực lượng cách mạng, gấp rút chuẩn bị cho
cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi.
Đảng phát động cao trào chống Nhật, cứu nước, dự kiến thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền
Từ đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ 2 bước vào giai đoạn kết thúc. Tại khu vực Đông Dương,
do lo sợ quân đồng minh sẽ đổ bộ lên Đông Dương, Nhật tiến hành đảo chính lật đổ Pháp để độc chiếm Đông
Dương (vào đêm 09-3-1945). Ngay lúc đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp đánh giá tình hình và ra
chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Bản chỉ thị vạch rõ: Cuộc đảo chính Nhật - Pháp làm
cho các điều kiện khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi. Kẻ thù chính, cụ thể trước mắt của nhân dân Đông Dương
lúc này là phát xít Nhật; phải nhanh chóng phát động cao trào chống Nhật, cứu nước, đồng thời thực hiện khởi
nghĩa từng phần, giành chính quyền từng bộ phận, chuẩn bị mọi điều kiện để tiến tới tổng khởi nghĩa.
Trước tình hình phát xít Nhật thẳng tay vơ vét, bóc lột, gây ra một nạn đói khủng khiếp và làm chết gần
hai triệu người, Đảng kịp thời đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc của Nhật để cứu đói”. Khẩu hiệu đó đã lôi cuốn
hàng triệu quần chúng, nhất là nông dân, đứng lên chống Nhật, giành chính quyền về tay nhân dân. Từ giữa
tháng 3-1945, cách mạng Việt Nam đã nhanh chóng trở thành cao trào. Đến giữa tháng 8-1945, lực lượng cách
mạng, bao gồm cả lực lượng chính trị và vũ trang, đã phát triển rộng rãi khắp nông thôn và đô thị.
Đảng lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám
Ngày 13-8-1945, Chính phủ Nhật đã đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh vô điều kiện. Quân Nhật
ở Đông Dương lâm vào tình thế bị tê liệt. Chính phủ tay sai Trần Trọng Kim hoang mang cực độ. Trước tình
hình đó, Đại hội quốc dân đã họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) từ ngày 13 đến ngày 15-8-1945 dưới sự chủ trì của
Hồ Chí Minh, thống nhất với chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương là nhanh chóng phát động toàn dân
kịp thời đứng lên tổng khởi nghĩa, quyết tâm giành chính quyền từ tay phát xít Nhật. Đại hội đã cử ra Ủy ban
dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh làm chủ tịch để lãnh đạo tổng khởi nghĩa.
Mệnh lệnh khởi nghĩa của Uỷ ban dân tộc giải phóng và lời kêu gọi cả nước đứng lên tổng khởi nghĩa
giành chính quyền của Hồ Chủ tịch được các địa phương nhiệt liệt hưởng ứng. Từ ngày 14 đến 28-8-1945, cuộc
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền đã thắng lợi hoàn toàn trên cả nước. Chính quyền từ trung ương đến các địa
phương đã thuộc về nhân dân Việt Nam. Ngày 02-9-1945, tại Quảng Trường Ba Đình, Hồ Chủ tịch đã đọc Bản
Tuyên ngôn độc lập, long trọng tuyên bố với nhân dân trong cả nước và các quốc gia trên thế giới: Nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà đã ra đời, có chủ quyền độc lập như mọi quốc gia khác trên toàn thế giới.
Một số kinh nghiệm
Quá trình Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền cách mạng thời kỳ 1930 - 1945 đã để lại nhiều bài
học kinh nghiệm quý giá, có giá trị to lớn cho hôm nay và mai sau.
Phải xuất phát từ thực tiễn, trên cơ sở thực tiễn Việt Nam đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn trong việc
giương cao ngọn cờ dân tộc, giải quyết đúng đắn nhiệm vụ dân tộc và dân chủ
Nếu như ở Hội nghị thành lập Đảng, dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, Đảng đã giương cao ngọn cờ
dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu nhằm đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp và tay sai
phản động, giành độc lập dân tộc; chủ trương tập hợp, đoàn kết tất cả các giai cấp, dân tộc trong mặt trận dân
tộc thống nhất, chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ nước Việt Nam, thì từ Hội nghị Trung
ương tháng 10-1930 trở đi Đảng lại chủ trương giải quyết song song, đồng thời vấn đề độc lập dân tộc và cách
mạng ruộng đất, giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam trong cả ba nước Đông Dương, xem nhẹ việc tập hợp,
đoàn kết các giai cấp, tầng lớp ngoài công nông vào mặt trận chống đế quốc… Đây là một sách lược sai lầm và
nó đã gây những hậu quả không tốt đối với cách mạng Việt Nam giai đoạn này
Sự khác nhau trong quan điểm, chủ trương của Đảng xung quanh việc nhận thức và giải quyết vấn đề dân
tộc và giai cấp bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là do sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản và
trình độ nhận thức, cả về lý luận lẫn thực tiễn của một số đồng chí lãnh đạo của Đảng ở giai đoạn này còn hạn
chế. Trải qua quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, bằng thực tiễn hoạt động phong phú, bằng sự gắn bó mật
thiết với nhân dân, kể từ sau Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản năm 1935, Đảng đã nhận thức ngày càng đúng
đắn việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất cũng như vấn đề dân tộc ở
Việt Nam trong quan hệ giữa ba nước Đông Dương. Theo đó, vấn đề độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất
không thể được giải quyết song song, đồng thời mà phải xem vấn đề nào quan trọng hơn để tập trung giải quyết.
Đây là những nhận thức mới hết sức quan trọng, mở đầu cho quá trình thay đổi chiến lược của Đảng ở giai đoạn
sau.
Bài học về tập hợp, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống
nhất
Một điểm rất đặc sắc của quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng
giải phóng dân tộc thời kỳ 1930-1945 là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng ta đã sáng tạo một hình
thức tổ chức độc đáo phù hợp với điều kiện lịch sử của Việt Nam, đó là lập mặt trận dân tộc thống nhất để hiện
thực hóa tư tưởng của V.Lênin vĩ đại: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng- Cách mạng giải phóng dân tộc
là sự nghiệp của toàn dân Việt Nam được Đảng tuyên truyền giác ngộ và được tập hợp tổ chức trong mặt trận
dân tộc thống nhất nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Chín tháng sau ngày thành lập Đảng, ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương đã ban hành chỉ thị về
vấn đề thành lập Hội Phản đế đồng minh. Trên cơ sở phân tích sâu sắc tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh vì
độc lập tự do của dân tộc, bản chỉ thị đã nhận định: “Cuộc cách mệnh tư sản dân quyền ở Đông Dương mà
không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành
công (rộng là toàn dân cùng đứng trong một mặt trận chống đế quốc và tụi phong kiến tay sai phản động, hèn
hạ; kín là đặt để công nông trong bức tranh dân tộc phản đế bao la)
Đến hội nghị trung ương 8 (5/1941) từ xác định đúng mâu thuẫn cơ bản chủ yếu, đến chỉ rõ kẻ thù chủ yếu
là đế quốc, Hội nghị đã xác định rõ tính chất của cuộc cách mạng là cách mạng giải phóng dân tộc, lực lượng
tiến hành cuộc cách mạng này là toàn dân Việt Nam bao gồm mọi tầng lớp, mọi tổ chức chính trị, mọi giai cấp,
mọi tôn giáo, dân tộc, mọi lứa tuổi được tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất phản đế với tên gọi Mặt trận
Việt Nam Độc lập đồng minh. Đảng Cộng sản Đông Dương là thành viên của Việt Minh và là hạt nhân chính trị
lãnh đạo Việt Minh
Bài học phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, dựa vào sức mình là chính; tôn trọng quyền dân tộc tự
quyết, bình đẳng, giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc ở Đông Dương
Khác với chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương tại Hội nghị thành
lập Đảng, từ Hội nghị Trung ương tháng 10-1930 đến tháng 3-1935, Đảng chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc
trong cả ba nước Đông Dương. Chủ trương này được thể hiện ở các điểm sau:
- Bỏ tên Đảng Cộng sản Việt Nam và đổi tên là Đảng Cộng sản Đông Dương;
- Chủ trương sau khi đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp và tay sai phản động sẽ thành lập chính phủ
công nông của các dân tộc Đông Dương;
- Chủ trương thành lập Mặt trận phản đế, các hội, đoàn thể trong toàn Đông Dương.
Vì chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong cả ba nước Đông Dương, nên mọi chỉ đạo, nghị quyết,
chương trình hành động, khẩu hiệu đấu tranh của Đảng có phạm vi toàn Đông Dương. Đảng có nhiệm vụ khôi
phục và tổ chức lại tổ chức đảng, xứ ủy cả ở Lào và Cao Miên; thành lập các tổ chức, đoàn thể chung cho các
dân tộc Đông Dương; chủ trương đánh đổ đế quốc Pháp, bọn phong kiến, giành độc lập hoàn toàn cho cả ba
nước Việt Nam, Lào, Campuchia, thành lập Chính phủ chung của nhân dân Đông Dương.
Khi chiến tranh thế giới thứ hai xảy ra, đặc biệt là khi Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách
mạng Việt Nam và chủ trì Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương tháng 5-1941, Đảng đã quyết định
thay đổi chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong
khuôn khổ nước Việt Nam. Tại Hội nghị, Trung ương Đảng đã quyết định giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn
khổ nước Việt Nam, thực hiện quyền dân tộc tự quyết đối với hai nước Lào và Campuchia. Hội nghị quyết định
thành lập ở mỗi nước một Mặt trận riêng. Ở Việt Nam sẽ thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Mặt
trận Việt Minh). Mặt trận Việt Minh có trách nhiệm giúp đỡ thành lập Ai Lao độc lập đồng minh và Cao Miên
độc lập đồng minh, tiến tới thành lập Đông Dương độc lập đồng minh - hình thức mặt trận chung cho nhân dân
ba nước Đông Dương. Chủ trương đúng đắn đó đã phát huy được tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của cách
mạng mỗi nước Đông Dương; đập tan âm mưu chia rẽ, phá hoại của thực dân Pháp và tay sai phản động; tăng
cường tình đoàn kết và liên minh chiến đấu giữa ba nước Đông Dương, tạo cơ sở, tiền đề cho thắng lợi của
Cách mạng Tháng tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào năm 1945
Quá trình Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền trong thời kỳ 1930 - 1945 đã phản ánh sự trưởng
thành, bản lĩnh của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc tiếp thu và vận dụng lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Bài học đó vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp đổi mới và
hội nhập quốc tế hiện nay. Trong giai đoạn hiện nay, để đưa đất nước đi lên, sánh vai với các cường quốc năm
châu, giữ vững được độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, Việt Nam cần phát huy những bài học
của lịch sử, trong đó bài học lớn nhất là xuất phát từ thực tiễn, trên cơ sở thực tiễn Việt Nam để đề ra chủ
trương, đường lối./.
CÁCH MẠNG THÁNG 8/1945
1. Nguyên nhân thắng lợi
* Nguyên nhân chủ quan:
- Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam.
- Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Quá trình chuẩn bị lâu dài, chu đáo, rút kinh nghiệm qua đấu tranh.
- Trong những ngày khởi nghĩa toàn đảng toàn dân quyết tâm cao. Các cấp chi bộ Đảng chỉ đạo linh hoạt, sáng
tạo, chớp đúng thời cơ phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền.
* Nguyên nhân khách quan: chiến thắng của quân Đồng minh trong cuộc chiến tranh chống phát xít tạo cơ hội
thuận lợi cho nhân dân Việt Nam đứng lên Tổng khởi nghĩa.
2. Ý nghĩa lịch sử
a) Đối với trong nước:
- Mở ra bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc, phá tan xiềng xích nô lệ của Pháp hơn 80 năm và Nhật gần 5 năm,
chấm dứt chế độ phong kiến, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
- Mở đầu kỉ nguyên mới của dân tộc: kỉ nguyên độc lập, tự do, kỉ nguyên nhân dân nắm chính quyền, làm chủ
đất nước.
- Đảng Cộng sản Đông Dương từ chỗ phải hoạt động bí mật, bất hợp pháp, trở thành một Đảng cầm quyền và
hoạt động công khai. Nhân dân Việt Nam từ địa vị nô lệ, bước lên địa vị người làm chủ đất nước.
b) Đối với thế giới:
- Góp phần vào thắng lợi của cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít; chọc thủng hệ thống thuộc địa của chủ
nghĩa đế quốc.
- Cổ vũ các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh tự giải phóng; có ảnh hưởng trực tiếp đến cách mạng Lào và
và Campuchia.
3. Bài học kinh nghiệm
- Đảng phải có đường lối đúng đắn, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam; nắm bắt tình hình thế giới và trong nước để đề ra chủ trương, biện pháp cách mạng phù hợp.
- Đảng tập hợp, tổ chức các lực lượng yêu nước rộng rãi trong mặt trận dân tộc thống nhất - Mặt trận Việt Minh,
trên cơ sở khối liên minh công - nông vững chắc; phân hóa và cô lập cao độ kẻ thù, tiến tới đánh bại chúng.
- Trong chỉ đạo khởi nghĩa, Đảng linh hoạt kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, tiến hành khởi
nghĩa từng phần, chớp nhoáng thời cơ phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước.
4. Mở rộng: Bài học kinh nghiệm rút ra từ thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 có thể vận dụng trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam hiện nay.
- Một trong những bài học kinh nghiệm rút ra từ cách mạng tháng Tám năm 1945 có thể vận dụng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại:
- Sức mạnh thời đại:
+ Thời cơ “ngàn năm có một”: Nhật Bản đầu hàng đồng minh.
+ Sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới.
- Sức mạnh dân tộc:
+ Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh.
+ Sự chuẩn bị của Đảng và Nhân dân về lực lượng cách mạng và qua các cuộc tập dượt.
+ Tinh thần đoàn kết và yêu nước của nhân dân Việt Nam.
=> Hiện nay, trong thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, bài học này cần được áp dụng triệt để: vừa
tranh thủ sự mở rộng của thị trường thế giới, vốn đầu tư của nước ngoài,... vừa phát huy sức mạnh đoàn kết toàn
dân xây dựng đất nước.
BÀI HỌC KINH NGHIỆM QUF GIÁ CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
(BNP) - Cách đây 75 năm, ngày 19/8/1945 đã đi vào lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam như một mốc son
chói lọi - Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước dân chủ công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành
lập, mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Đến năm 1945, phong trào cách mạng dâng cao. Ngày 9/3/1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng
Pháp. Ngay trong đêm đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng quyết định phát động một cao
trào cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, thay đổi các hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu
tranh cho thích hợp. Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng các
cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.
Đầu tháng 5/1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước
và chuẩn bị Đại hội quốc dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng
loạt vùng dậy tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc
tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), trước cuộc mít tinh của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch
Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân
và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Từ đó,
ngày 2/9 là Ngày Quốc khánh của nước ta.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi to lớn đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh
đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa ra đời - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở
Việt Nam; kết thúc hơn hơn 80 năm nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam từ
thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một
nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam trở
thành một Đảng cầm quyền. Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới
- kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 để lại nhiều bài học quý báu, nổi bật là:
Bài học thứ nhất là, có một Đảng tiên phong thật sự cách mạng, tiếp thu Chủ nghĩa Mác - Lênin, được tư tưởng
Hồ Chí Minh soi sáng đã nắm vững hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn lịch sử, đề ra đường lối cách mạng
đúng đắn, có phương pháp và hình thức đấu tranh phù hợp; biết nắm bắt thời cơ, xây dựng lực lượng và tổ chức,
sử dụng lực lượng; phát huy được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng đứng lên
giành và giữ chính quyền.
Bài học thứ hai là, vấn đề giành và giữ chính quyền. Đảng ta đã biết chăm lo xây dựng lực lượng cách mạng,
làm cho lực lượng cách mạng đủ mạnh, thu hút được đông đảo quần chúng tham gia, từ đó làm thay đổi so sánh
lực lượng giữa ta và địch, tạo ra thời cơ cách mạng để đưa cuộc cách mạng đến thành công. Để giữ vững chính
quyền, Đảng và Nhà nước ta đã dựa chắc vào nhân dân, tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần để đấu tranh
thắng lợi với thù trong giặc ngoài. Đảng ta biết kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và sử dụng bạo lực cách
mạng thích hợp và đúng lúc để đập tan bộ máy Nhà nước cũ, lập ra Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân.
Bài học thứ ba là, vấn đề nắm bắt được thời cơ, đề ra được những quyết định chính xác và kịp thời. Nghệ thuật
chỉ đạo tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định tổng khởi
nghĩa đúng lúc thể hiện cụ thể trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng tháng 3/1945 “Nhật - Pháp bắn
nhau và hành động của chúng ta” và bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi đêm
13/8/1945. Cũng nhờ chọn đúng thời cơ mà sức mạnh của nhân dân ta trong Cách mạng Tháng Tám được nhân
lên gấp bội, đã tiến hành tổng khởi nghĩa thành công trong phạm vi cả nước trong thời gian ngắn.
Bài học thứ tư là, xây dựng và củng cố lực lượng cách mạng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc
kết hợp với sức mạnh của thời đại. Từ khi mới thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm nhận thức đúng và
đầy đủ về sức mạnh to lớn của đông đảo quần chúng nhân dân, sớm đề ra đường lối chiến lược giương cao hai
ngọn cờ độc lập dân tộc và dân chủ, đáp ứng đúng nguyện vọng của đại đa số nhân dân là độc lập, tự do, người
cày có ruộng. Chính vì thế, Đảng ta đã tập hợp và phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trên
nền tảng liên minh công nhân - nông dân - trí thức, khai thác và phát huy triệt để động lực tinh thần, nêu cao “ý
chí Việt Nam”, tinh thần dũng cảm, sáng tạo, sẵn sàng xông lên cứu nước cứu nhà, tạo thành nguồn động lực to
lớn để đưa Cách mạng Tháng Tám đến thắng lợi hoàn toàn.
Kỷ niệm 75 năm Ngày Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2020) và Quốc khánh nước Cô
ng hòa xã hô
i
chủ nghĩa V
t Nam (02/9/1945 - 02/9/2020) trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang thi đua lâ
p
thành tích sôi nổi chào mừng Đại hô
i Đảng bô
các cấp hướng tới Đại hô
i lần thứ XIII của Đảng, chúng ta càng
hiểu rõ giá trị lịch sử, thực tiễn sâu sắc mà cách mạng Tháng Tám đã mang lại; đề cao lòng tự hào dân tộc, nhận
thức đầy đủ trách nhiệm của thế hệ hôm nay trong việc vận dụng và phát triển những bài học kinh nghiệm quý
giá, những tư tưởng mang tầm thời đại của Cách mạng Tháng Tám vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
vào công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
| 1/19

Preview text:

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI NHƯ THẾ NÀO?
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930 là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô cùng
quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam.
Bối cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước tư bản đế quốc vừa
tăng cường bóc lột nhân dân lao động trong nước vừa xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự
thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa
các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra
mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa Mác - Lênin từ lý luận đã trở thành hiện
thực, mở ra một thời đại mới - thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc. Cách mạng
Tháng Mười Nga đã nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức.
Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) vào tháng 3/1919 đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bối cảnh trong nước
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược và từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam, biến
một quốc gia phong kiến thành thuộc địa nửa phong kiến.
Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính
quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ
một chế độ cai trị riêng. Thực dân Pháp câu kết với giai cấp địa chủ để bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam.
Về kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài
nguyên; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.
Về văn hóa, thực dân Pháp thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự ti, khuyến khích các hoạt
động mê tín dị đoan. Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít
và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách ngu dân để dễ bề cai trị.
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam đã diễn
ra quá trình phân hóa sâu sắc. Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông dân.
Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hóa. Một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, căm
ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.
Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột
nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn khổ của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc
và phong kiến tay sai, tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, đa số xuất thân
từ giai cấp nông dân, có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc
lột. Giai cấp tư sản Việt Nam bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh chèn ép, do đó thế lực kinh tế và
địa vị chính trị nhỏ bé và yếu ớt, có tinh thần dân tộc và yêu nước ở mức độ nhất định. Tầng lớp tiểu tư sản Việt
Nam bao gồm học sinh, trí thức, những người làm nghề tự do… đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành
người vô sản, có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân, có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào.
Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở những mức
độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa
nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ
yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân
Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến đang đặt ra hai yêu cầu: Một
là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; Hai là, xóa bỏ chế
độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó, chống đế
quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
Trước những yêu cầu đó, các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi
nổi nhưng đều không mang lại kết quả. Phong trào Cần Vương - phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong
kiến, do giai cấp phong kiến lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng
(năm 1896). Sang đầu thế kỷ XX, khuynh hướng này không còn là khuynh hướng tiêu biểu nữa. Phong trào
nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào
năm 1913. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh
lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại.
Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất của
dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực
lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng
sâu sắc về đường lối cứu nước.
NAQ th-nh lâ 0p ĐCS VN
Từ năm 1921-1930, Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp, nghiên cứu bổ sung,
hoàn thiện tư tưởng cứu nước, vừa tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam. Người tập trung chuẩn bị về tổ chức và cán bộ, lập ra Hội Việt Nam cách mạng Thanh
niên (1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc), đồng thời gửi cán bộ đi học tại
Trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và Trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc). Nhờ hoạt động không
mệt mỏi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà đến cuối năm 1929, đầu năm
1930, những điều kiện cho sự ra đời của một Đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi.
Thế nên, từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam đã họp ở bán đảo Cửu Long, thuộc Hồng Kông (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái
Quốc thay mặt cho Quốc tế Cộng sản. Trong Hội nghị thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 5 điểm
lớn cần thảo luận và thống nhất, trước hết là tự phê bình và phê bình, "Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành
thật hợp tác để thống nhất các nhóm Cộng sản Đông Dương".Đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng,
ngày 17/6/1929, Kỳ Bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đã thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng
tại Hà Nội. Tháng 11/1929, các đồng chí Tổng bộ và Kỳ Bộ Nam Kỳ của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên
cũng quyết định thành lập An Nam Cộng sản Đảng. Ngày 1/1/1930, những đại biểu ưu tú của Tân Việt cách
mạng Đảng (một tổ chức tiền thân của Đảng) đã họp và thành lập Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn ở Trung
Kỳ. Tuy nhiên, ở một nước có tới ba tổ chức Cộng sản nên không tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ
chức, không thể thống nhất về tư tưởng và hành động. Trách nhiệm lịch sử là phải thành lập một Đảng Cộng sản
duy nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào Cộng sản ở Việt Nam.
Hội nghị đã nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ
vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản
Việt Nam gửi đến công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức, bóc lột
nhân dịp thành lập Đảng. Trong đó, Chánh cương vắn tắt của Đảng và sách lược vắn tắt của Đảng phản ánh nội
dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý
nghĩa như Đại hội thành lập Đảng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã quyết nghị
lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày Kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời kỳ mới cho cách mạng Việt
Nam - thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời,
đã xác định được những nội dung cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những nhu
cầu bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức Cộng sản, các lực lượng
cách mạng và toàn thể dân tộc.
90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đoàn kết một lòng giành được nhiều thắng lợi trong
công cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ quốc gia và phát triển
kinh tế -xã hội nước nhà (ảnh tranh cổ động)
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan trọng của lịch sử cách mạng Việt
Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của
phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong
trào cách mạng trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn kết
nhất trí của những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là
thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam;
chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào
cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì
hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới.
NHỮNG SÁNG TẠO CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Cách đây tròn 90 năm, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng dẫn
tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930). Từ đây, cách mạng Việt Nam có một đảng cách mạng
chân chính dẫn đường cho toàn dân đứng lên đánh đổ ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến đem lại độc
lập cho dân tộc, ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Đảng đã lãnh đạo nhân dân làm nên những chiến công
oanh liệt của thế kỷ XX.
Ngày nay, những thành tựu to lớn qua hơn 30 năm đổi mới đã làm cho thế và lực của nước ta được nâng cao
trên trường quốc tế, như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: Chưa bao giờ chúng ta
có được cơ đồ như ngày hôm nay. Kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 -
03/02/2020), chúng ta cùng nhìn lại những đóng góp, sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và từng bước biến nước ta trở thành thuộc địa của chúng. Trước
cảnh nước mất nhà ta, nhân dân lầm than, khổ cực, nhiều phong trào yêu nước đã nổ ra nhưng đều thất bại vì
chưa có đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn. Ngày 05/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành đã quyết chí ra nước ngoài để tìm đường cứu nước. Trải qua hành trình khắp năm châu, bốn biển, năm
1917, Người trở lại Paris và tích cực hoạt động trong Đảng xã hội Pháp. Tháng 7/1920, Người đã bắt gặp “Sơ
thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I.Lênin và tìm ra con đường cứu
nước cho dân tộc Việt Nam, Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản”[1].
Nguyễn Ái Quốc tích cực chuẩn bị mọi mặt cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là quá trình vận
dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn xã hội Việt Nam và Người cũng có
những sáng tạo độc đáo phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Một l-, Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quy luật ra đời Đảng cộng sản của chủ nghĩa Mác - Lênin và chỉ ra quy
luật ra đời đặc thù của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước cho dân tộc, Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt động nhằm truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị mọi mặt cho việc thành lập Đảng. Người tham gia sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp, hoạt động tích cực trong Hội liên hiệp thuộc địa, xuất bản báo “Người cùng khổ” để
tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào các nước thuộc địa. Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đi Liên Xô dự Đại hội
V của Quốc tế Cộng sản và có nhiều hoạt động tích cực tại Quốc tế Cộng sản như: tham dự Đại hội Quốc tế
Nông dân, Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Công hội đỏ,… Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng cho 75 đồng chí. Những bài giảng
của Người được tập hợp thành cuốn sách “Đường cách mệnh” xuất bản năm 1927. Trong tác phẩm Người nêu
rõ: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức
dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới
thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”[2].
Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân, được tổ chức và hoạt động theo
những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, đó là: nguyên tắc tập trung dân chủ,
phải đoàn kết thống nhất, lấy tự phê bình và phê bình làm quy luật phát triển và phải có kỷ luật nghiêm minh...
Người khẳng định vấn đề có ý nghĩa quyết định trong xây dựng Đảng là: “Đảng muốn vững thì phải có chủ
nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng
như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”[3].
Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa
Mác - Lênin với phong trào công nhân. Vận dụng sáng tạo quy luật này ở một nước thuộc địa nửa phong kiến,
kinh tế nghèo nàn lạc hậu như Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đây chính là sáng tạo nổi bật nhất của Hồ Chí Minh trong quá trình vận động thành lập Đảng. Người trung
thành với nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về quy luật ra đời của Đảng, đồng thời có bổ sung, sáng tạo vào
quy luật ấy với điều kiện cụ thể của Việt Nam, đó là phong trào yêu nước. Hồ Chí Minh đã phân tích rất kỹ tính
chất xã hội, cơ cấu giai cấp của xã hội Việt Nam để chỉ ra quy luật này.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, số lượng ít, chủ yếu là
công nhân khai thác mỏ, đồn điền mà chưa phải là công nhân đại công nghiệp như ở phương Tây. Tuy vậy, giai
cấp công nhân Việt Nam cũng là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, có tinh thần cách mạng
triệt để nhất, có mối liên hệ mật thiết với nông dân, là lực lượng lãnh đạo cách mạng. Phong trào công nhân
diễn ra nhưng quy mô còn nhỏ, tổ chức chưa chặt chẽ. Bên cạnh đó, phong trào yêu nước Việt Nam diễn ra sôi
nổi, rộng khắp, thu hút được đông đảo các giai cấp, tầng lớp tham gia. Vì vậy, phong trào công nhân và phong
trào yêu nước cần phải hỗ trợ nhau để thu hút lực lượng đông đảo trong xã hội, nhất là nông dân.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa “chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất”, cần phải được truyền
bá, thẩm thấu vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước để tạo nên sự chuyển biến về chất, trở thành
hành động cách mạng của dân tộc Việt Nam. Chính sáng tạo của Hồ Chí Minh về quy luật ra đời đặc thù của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập hợp được lực lượng đông đảo trong nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân mà đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam làm nên những thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt Nam.
Bằng nhiều hình thức tuyên truyền, nhất là thông qua tổ chức và hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên, chủ nghĩa Mác - Lênin đã thẩm thấu vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Thời kỳ
1927 - 1929 là thời kỳ chuyển biến của cách mạng Việt Nam. Phong trào công nhân Việt Nam chuyển mạnh từ
tự phát đến tự giác, phong trào yêu nước phát triển với chất lượng mới. Qua đó, tạo nên làn sóng cách mạng dân
tộc, dân chủ mạnh mẽ, tạo điều kiện chín muồi cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với sự ra đời của
03 tổ chức cộng sản vào cuối năm 1929, đầu năm 1930 cho thấy việc thành lập Đảng đã được chuẩn bị chu đáo
về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Với nhãn quan chính trị nhạy bén, nhằm thống nhất thành một Đảng duy nhất
để lãnh đạo cách mạng, Nguyễn Ái Quốc với vai trò phái viên của Quốc tế cộng sản đã triệu tập Hội nghị hợp
nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930).
Hai l-, Hồ Chí Minh xác định: giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam.
Trong các văn kiện thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng (Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt) do Hồ Chí
Minh soạn thảo xác định: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”, “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc
lập”[4]. Đây là đường lối đúng đắn của cách mạng Việt Nam với hai giai đoạn: Giải phóng dân tộc đem lại độc
lập cho dân tộc được đặt lên hàng đầu, tiếp đó cách mạng phải tiến lên giai đoạn xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ
nghĩa để thực sự giải phóng giai cấp, giải phóng con người, đem lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, con
người được phát triển toàn diện. Đây là hai giai đoạn không có sự phân biệt về không gian và thời gian, nó gắn
liền với nhau, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, giải phóng dân tộc là tiền đề, là điều kiện để giải phóng giai
cấp, giải phóng con người và giải phóng giai cấp, giải phóng con người sẽ bảo đảm cho độc lập dân tộc được
vững chắc, “độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
Ba l-, sáng tạo của Hồ Chí Minh về việc xác định lực lượng tiến hành cách mạng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: Liên minh giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân là động lực của cách
mạng vô sản. Vận dụng sáng tạo quan điểm đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định:
Công nông là chủ cách mệnh, bên cạnh đó Người cũng chỉ ra: học trò, nhà buôn, điền chủ nhỏ là bầu bạn cách
mệnh của công nông. Trong “Sách lược vắn tắt”, Hồ Chí Minh xác định về từng lực lượng cách mạng: “Đảng là
đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp
mình lãnh đạo được dân chúng. Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân
cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến… Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu
tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú
nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm
cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ”[5].
Đây chính là chủ trương tập hợp tất cả các giai cấp, tầng lớp, lực lượng có tinh thần yêu nước, tinh thần cách
mạng đứng về phe công nông, tạo nên sức mạnh tổng hợp cho cách mạng, đồng thời phân hóa, cô lập kẻ thù, là
sáng tạo độc đáo của Hồ Chí Minh trong huy động sức mạnh toàn dân làm cách mạng.
Để thực hiện được việc tập hợp lực lượng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến tính tiên phong và vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tính tiên phong của Đảng, theo Người là thể hiện ở đường lối chính trị đúng đắn.
Người nêu rõ: “Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho
họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”[6]. Trong Lời kêu gọi nhân thành lập Đảng, Người cũng chỉ rõ: “Đảng
Cộng sản Việt Nam đã được thành lập. Đó là Đảng của giai cấp vô sản. Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo
cách mạng An Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột chúng ta”[7]. Các văn
kiện thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng, các bài viết cũng như thư gửi Trung ương Đảng và Quốc tế Cộng
sản trong những năm 30 thế kỷ XX, Hồ Chí Minh dùng rất nhiều từ như: “thu phục”, “lôi kéo”, “liên lạc”, “dìu
dắt”, v.v.. nhằm khẳng định tính tiên phong và vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc tổ chức, tập hợp, đoàn kết
dân tộc đấu tranh cho quyền lợi của dân tộc và của giai cấp.
Bốn l-, sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc đặt tên Đảng và chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn
khổ mỗi nước Đông Dương.
Trong khi Quốc tế Cộng sản có chỉ thị thành lập một Đảng Cộng sản chung cho ba dân tộc Đông Dương. Trong
thảo luận tại Hội nghị thành lập Đảng, Hồ Chí Minh giải thích: “Cái từ Đông Dương rất rộng và theo nguyên lý
của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề dân tộc là vấn đề rất nghiêm túc, người ta không thể bắt buộc các dân tộc
khác gia nhập Đảng, làm như thế là trái với nguyên lý của chủ nghĩa Lênin. Còn cái từ An Nam thì hẹp, mà
nước ta có ba miền: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ.
Do đó, từ Việt Nam hợp với cả ba miền và cũng không trái với nguyên lý của chủ nghĩa Lênin về vấn đề dân
tộc”, nên Hội nghị nhất trí với cách giải thích của Người và đặt tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ trương đó
của Người tuân thủ những nguyên lý xây dựng đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, có tính đến yếu tố
dân tộc, nhằm thức tỉnh ý thức dân tộc, khơi dậy sức mạnh của ba dân tộc Đông Dương, đồng thời tạo ra sự tin
cậy về chính trị để đoàn kết, giúp đỡ nhau một cách tự nguyện, bình đẳng và có hiệu quả.
Những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ở một nước thuộc địa đã được thực
tế cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới trong thế kỷ XX kiểm chứng là đúng đắn và khoa học. Đây là sự
cống hiến quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận Mác - Lênin. Trải qua gần 90 năm xây dựng, chiến
đấu và trưởng thành, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, với bản lĩnh của một đảng cách mạng chân chính,
luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam với sự sáng lập và rèn luyện của Hồ Chí Minh đã
lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành những thắng lợi vẻ vang, có ý nghĩa lịch sử to lớn. Ngày nay, những tư
tưởng của Người vẫn còn nguyên giá trị, soi sáng cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA SỰ RA ĐỜI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03/02/1930, là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô
cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển
của dân tộc ta. Đảng ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giải cấp, của
quá trình khảo nghiệm đường lối cứu nước đúng đắn, của sự kết hợp lý luận cách mạng khoa học với thực tiễn
phong trào cách mạng. Là kết quả của chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Việt Nam. Trải qua thực tiễn quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và luôn
đứng vững trên vũ đài chính trị, lãnh đạo toàn dân tộc Việt Nam đánh đổ hoàn toàn chế độ thực dân, phong kiến
và đế quốc, xây dựng một nước Việt Nam mới gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Vị thế, vai trò lãnh đạo
của Đảng ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế, được nhân dân suy tôn là đội tiên phong của giai cấp
công nhân, của nhân dân lao động và của toàn thể dân tộc Việt Nam
Bối cảnh sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam:
Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa. Đây là thời điểm nền kinh tế hàng hóa trong các nước tư bản phát triển mạnh mẽ, đặt ra yêu cầu bức thiết
về thị trường tiêu thụ hàng hóa và nguyên liệu để sản xuất. Đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn tới những cuộc
chiến tranh xâm lược các quốc gia phong kiến phương Đông, biến các quốc gia này thành thị trường tiêu thụ sản
phẩm hàng hóa, mua bán nguyên vật liệu, khai thác sức lao động và xuất khẩu tư bản của các nước đế quốc. Các
nước tư bản đế quốc vừa tăng cường bóc lột nhân dân lao động trong nước vừa xâm lược và áp bức nhân dân
các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên
cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Sự áp bức và thôn tính dân tộc của chủ nghĩa đế quốc càng tăng thì mâu thuẫn giữa dân tộc thuộc địa thực
dân càng gay gắt, sự phản ứng dân tộc của nhân dân các thuộc địa càng quyết liệt. Và chính bản thân chủ nghĩa
đế quốc xâm lược, thống trị các thuộc địa lại tạo cho các dân tộc bị chinh phục những phương tiện và phương
pháp để tự giải phóng. Sự thức tỉnh về ý thức dân tộc và phong trào đấu tranh dân tộc để tự giải phóng khỏi ách
thực dân, lập lại các quốc gia dân tộc độc lập trên thế giới chịu tác động sâu sắc của chính sách xâm lược, thống
trị của chủ nghĩa đế quốc thực dân.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã làm biến đổi sâu sắc tình hình thế giới. Cuộc
cách mạng đó đã chặt đứt khâu yếu nhất trong hệ thống đế quốc chủ nghĩa, mở ra thời đại mới trong lịch sử loài
người - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Giá trị của cuộc
cách mạng ấy đã lan toả và tác động một cách sâu sắc đến tiến trình lịch sử của nhân loại. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng Bôn sê vích Nga, đứng đầu là Lênin, cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ ảnh hưởng và tác động sâu
sắc đến cách mạng vô sản diễn ra ở các nước tư bản, mà còn lan toả sâu rộng đến các nước thuộc địa, cổ vũ
mạnh mẽ các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh tự giải phóng. Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước
châu Á đầu thế kỷ XX phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến phong trào yêu nước Việt Nam.
Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản vào tháng 3/1919 đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tình hình thế giới đầy biến động đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Việt Nam
Tại Việt Nam, năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược và từng bước thiết lập bộ máy thống
trị ở Việt Nam, biến một quốc gia phong kiến thành thuộc địa nửa phong kiến.
Về chính trị, Sau khi đánh chiếm Việt Nam, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực dân và tiến hành
những cuộc khai thác thuộc địa Việt Nam nói riêng cũng như Đông Dương nói chung một cách có hệ thống và
trên quy mô lớn, nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa.
Thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền
phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một
chế độ cai trị riêng. Thực dân Pháp câu kết với giai cấp địa chủ để bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam.
Về kinh tế, Từ năm 1897, thực dân Pháp tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất và sau
Chiến tranh thế giới I (1914-1918), chúng tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông Dương
với số vốn đầu tư trên quy mô lớn, tốc độ nhanh. Thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột, cướp đoạt ruộng
đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao
thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.
Về văn hoá, Thực dân Pháp thực hiện chính sách “ngu dân” về mặt giáo dục, đầu độc về mặt văn hóa là
một trong những biện pháp cai trị của bộ máy thống trị thực dân. Thực dân Pháp hạn chế đến mức tối đa việc
phát triển giáo dục, kìm hãm nhân dân Việt Nam trong vòng ngu dốt thực dân Pháp thi hành triệt để chính sách
văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự ti, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan. Mọi hoạt động yêu nước của nhân
dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế
giới vào Việt Nam và thi hành chính sách ngu dân để dễ bề cai trị.
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hoá, giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam đã
diễn ra quá trình phân hoá sâu sắc. Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông
dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hoá. Một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước,
căm ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.
Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức,
bóc lột nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn khổ của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù
đế quốc và phong kiến tay sai, tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, đa số xuất
thân từ giai cấp nông dân, có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột.
Giai cấp tư sản Việt Nam bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh chèn ép, do đó thế lực kinh tế và
địa vị chính trị nhỏ bé và yếu ớt, có tinh thần dân tộc và yêu nước ở mức độ nhất định. Tầng lớp tiểu tư sản Việt
Nam bao gồm học sinh, trí thức, những người làm nghề tự do… đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành
người vô sản, có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân, có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào.
Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở những
mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa
nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ
yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân
Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến đang đặt ra hai yêu cầu: Một
là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; Hai là, xoá bỏ chế
độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó, chống đế
quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân Pháp diễn
ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết quả. Phong trào Cần Vương - phong trào yêu nước theo ý
thức hệ phong kiến, do giai cấp phong kiến lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của
Phan Đình Phùng (năm 1896). Sang đầu thế kỷ XX, khuynh hướng này không còn là khuynh hướng tiêu biểu
nữa. Phong trào nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài mấy chục năm
cũng thất bại vào năm 1913. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại.
Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất
khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ
chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc
khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam:
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời
tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường
cứu nước theo phương hướng mới. Người đã đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã phát hiện
ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân
lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, Người trở lại nước Pháp, đến Paris và năm 1919 gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Tháng 6/1919,
thay mặt những người yêu nước Việt Nam, Người gửi bản yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Vécxây. Tháng 7/1920,
Nguyễn Ái Quốc được đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
V.I. Lênin. Những luận điểm cách mạng của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giải đáp những vấn đề cơ
bản và chỉ dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc mà sau gần mười năm tìm kiếm
(1911-1920) Nguyễn Ái Quốc mới bắt gặp. Người đến với chủ nghĩa Mác- Lênin ở phương diện rất thực tế rằng
chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới có thể chỉ ra cho Người và nhân dân Việt Nam cũng như nhân loại bị áp bức con đường để giải phóng.
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham
gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Đó là một sự kiện lịch sử
trọng đại, không những Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước đến với lý luận cách mạng của thời đại là chủ
nghĩa Mác-Lênin, mà còn đánh dấu bước chuyển quan trọng của con đường giải phóng dân tộc Việt Nam: muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người
nhấn mạnh: cách mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo; Đảng phải có hệ tư
tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là hệ tư tưởng Mác-Lênin.
Người đã viết nhiều bài báo, tham gia nhiều tham luận tại các đại hội, hội nghị quốc tế, viết tác phẩm
“Bản án chế độ thực dân Pháp” và tổ chức ra các tờ báo Thanh niên, Công nông, Lính cách mệnh, Tiền phong,
nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam. Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc
bị áp bức xuất bản tác phẩm “Đường cách mệnh”. Đó là sự chuẩn bị về đường lối chính trị tiến tới thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam. Người khẳng định, muốn thắng lợi thì cách mạng phải có một đảng lãnh đạo, Đảng
có vững, cách mạng mới thành công cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy.
Trong thời gian này, Người cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán bộ. Người lập ra Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên (năm 1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc) và gửi
cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc) nhằm
đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
Nhờ hoạt động không mệt mỏi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà
những điều kiện thành lập Đảng ngày càng chín muồi.
Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản đã nhận thức được sự cần
thiết và cấp bách phải thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản
ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung
Quốc từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930.
Hội nghị đã quyết định hợp nhất các tổ chức Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thảo luận và
thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của
Đảng Cộng sản. Những văn kiện đó do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua là
sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Hội nghị thông qua
lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến đồng bào,
đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng
Ý nghĩa lịch sử của sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam:
Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập đã khẳng định dứt khoát nội dung, phương hướng phát triển của xã
hội Việt Nam là gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, chấm dứt sự khủng hoảng bế tắc về đường lối
cứu nước của dân tộc ta trong hơn 9 thập kỉ. Sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với nội dung
và xu thế cách mạng của thời đại mới được mở ra từ Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại: “Đối với nước ta,
không còn con đường nào khác để có độc lập dân tộc thật sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh
rằng đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng ta”[1].
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt quyết định trong sự phát triển của dân tộc ta, tạo
những tiền đề và nhân tố hàng đầu quyết định đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
“Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ
rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”[2]
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đó là sự phản ánh quy luật ra đời và cội
nguồn sức mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào
đặc điểm của dân tộc Việt Nam và là công lao to lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong công
cuộc vận động thành lập một chính đảng vô sản ở Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến./.
NÔ0I DUNG VÀ F NGHGA CỦA CLCT ĐHU TIÊN CỦA ĐẢNG
1. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là gì?
Cương lĩnh chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam là văn bản trình bày tóm tắt mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ và
phương pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ chống giặc ngoại xâm.
Theo đó, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam được coi là văn bản có giá trị cao nhất
trong hệ thống các văn bản của Đảng Cộng sản Việt Nam, trên cả Điều lệ Đảng. Tính cho đến nay, Đảng Cộng
sản Việt Nam có tất cả 5 cương lĩnh.
2. Hoàn cảnh ra đời của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng được đề ra tại Hội nghị hợp nhất của tổ chức Cộng sản trong nước có ý
nghĩa như Đại hội để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đại biểu
Quốc tế Cộng sản triệu tập và chủ trì, cùng với sự tham dự chính thức của hai đại biểu Đông Dương Cộng sản
Đảng (06/1929); 02 đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng (10/1929) và một số đồng chí Việt Nam hoạt động ngoài nước.
- Hội nghị họp bí mật ở nhiều địa điểm khác nhau trên bán đảo Cửu Long, từ ngày 06/06 – 07/02/1930, đã thảo
luận quyết định thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và nhất trí thông qua 07 tài liệu, văn kiện, trong đó có 04 văn bản:
Chính cương vắn tắt của Đảng.
Sách lược vắn tắt của Đảng.
Chương trình tóm tắt của Đảng
Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hợp thành nội dung Cương lĩnh chính trị của Đảng. Tất cả các tài liệu, văn kiện nói trên đều do Nguyễn Ái
Quốc khởi thảo dựa trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối Đại hội VI (1928) của Quốc tế Cộng
sản; nghiên cứu các Cương lĩnh chính trị của những tổ chức cộng sản trong nước, tình hình cách mạng thế giới và Đông Dương.
-Dù là vắn tắt, tóm tắt, song nội dung các tài liệu, văn kiện chủ yếu của Hội nghị được sắp xếp theo một logic
hợp lý của một Cương lĩnh chính trị của Đảng.
3. Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
- Nội dung cơ bản trong Cương lĩnh đã xác định rõ về đường lối, nhiệm vụ, lực lượng và mối quan hệ của cách
mạng Việt Nam trong bối cảnh sau khi thành lập Đảng. Cụ thể, về đường lối chiến lược là làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
- Cương lĩnh xác định ba nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam, bao gồm cả hai nội dung dân tộc và dân
chủ, chống đế quốc và chống phong kiến, song nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc, giành độc lập dân tộc. Cụ thể:
+ Về chính trị, đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc
lập, dựng ra Chính phủ công-nông-binh và tổ chức quân đội công nông.
+ Về kinh tế, tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho Chính phủ mới; tịch thu ruộng đất của
bọn đế quốc làm của công và chia cho dân cày nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho
dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm tám giờ. Về văn hóa, dân chính được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền,
phổ thông giáo dục theo hướng công nông hóa.
- Cương lĩnh xác định lực lượng cách mạng là tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, nông dân và phải dựa
vào hạng dân cày nghèo; lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông…
đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách
mạng thì phải lợi dụng, ít nhất cũng làm cho họ đứng trung lập, bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải
đánh đổ. Giai cấp lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân, thông qua Đảng Cộng sản. Đảng là đội tiên phong
của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận của giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng.
Về mối quan hệ quốc tế, Luận cương xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới;
phải liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới, nhất là với quần chúng vô sản Pháp.
4. Ý nghĩa Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh đúng đắn và sáng tạo theo con đường cách mạng Hồ
Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử, nhuần
nhuyễn quan điểm giai cấp và thấm nhuần tinh thần dân tộc.
- Tiến hành cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất để giành chính quyền về tay chân dân đi tới xã
hội cộng sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng cốt lõi của Cương lĩnh này.
- Nội dung Cương lĩnh vẫn còn một vài vấn đề về sau không hoàn toàn phù hợp với thực tế Việt Nam hoặc có
một số từ ngữ có thể dẫn tới sự giải thích khác nhau, song với sự bổ sung của Luận cương Chính trị được thông
qua tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành trung ương Đảng, Cương lĩnh chính trị của Đảng đã được hoàn thiện hơn.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Trong bản Cương lĩnh cách mạng tư sản dân quyền năm 1930, Đảng đã
nêu rõ nhiệm vụ chống đế quốc và chống kiến, thực hiện dân tộc lập, người cày ruộng. Cương lĩnh ấy rất phù
hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ra là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực
lượng cách mạng to lớn xung quanh giai cấp mình, còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản
hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta – Đảng của giai cấp công nhân không ngừng củng cố và tăng cường.
5. Hạn chế của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Bản luận cương đã khẳng định lại nhiều vấn đề mà cương lĩnh đã nêu ra: đường lối cách mạng, lực lượng cách
mạng, đoàn kết quốc tế, vai trò lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, cương lĩnh chính trị đầu tiên còn một số hạn chế như sau:
- Luận cương đã không vạch ra được đâu là mâu thuẫn chủ yếu của xã hội thuộc địa coi trọng vấn đề chống
phong kiến không phù hợp với cách mạng Việt Nam.
Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong đấu tranh gi-nh chính quyền cách mạng (1930 - 1945)
Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đây là kết quả của quá trình vận động cách mạng
trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại; là sự kiện có ý nghĩa
quyết định đối với toàn bộ tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã
đánh dấu một bước ngoặt lịch sử trong cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống ách đô hộ của thực dân Pháp. Từ
đây, cách mạng Việt Nam đã có đội tiên phong, trực tiếp nắm chắc ngọn cờ lãnh đạo để dẫn dắt nhân dân ta tiến
tới cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Đảng lãnh đạo cao trào cách mạng 1930-1931
Vừa mới ra đời, Đảng đã phát động ngay cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô viết Nghệ -Tĩnh.
Cao trào đã thu hút đông đảo quần chúng công nông cả nước đấu tranh chống ách thống trị của bọn đế quốc,
phong kiến. Thành quả lớn nhất của cao trào cách mạng 1930-1931, mà cuộc khủng bố trắng tàn khốc của đế
quốc và phong kiến đã không thể nào xóa nổi là, nó khẳng định trong thực tế quyền lãnh đạo duy nhất thuộc về
Đảng ta; nó đem lại cho quần chúng niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Trong khi khẳng định đường lối cách
mạng đúng đắn của Đảng ta, khả năng cách mạng to lớn của công nông, nó cũng chứng tỏ tính chất phiêu lưu,
cải lương của giai cấp phong kiến và tư sản mại bản. Đó là thắng lợi đầu tiên có ý nghĩa quyết định đối với sự
phát triển về sau của cách mạng Việt Nam. Cao trào cách mạng 1930-1931 là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của
cách mạng Việt Nam để tiến tới giành chính quyền trên cả nước.
Đảng lãnh đạo cao trào dân chủ Đông Dương 1936-1939
Những năm 1936-1939, một thời kỳ đấu tranh hợp pháp và nửa hợp pháp kết hợp chặt chẽ với hoạt động
bí mật, bất hợp pháp diễn ra ở nước ta. Khi Mặt trận Nhân dân lên cầm quyền ở Pháp, Đảng coi đây là một cơ
hội tốt để đưa cách mạng tiến bước. Đảng đề ra mục tiêu cho thời kỳ này là “chống phản động thuộc địa, chống
phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do dân chủ, cơm áo và hòa bình”. Cao trào cách mạng 1936-1939 dưới sự
lãnh đạo của Đảng là thời kỳ vận động quần chúng sôi nổi với nhiều hình thức tổ chức và hoạt động linh hoạt,
phong phú, kể cả việc lợi dụng các “Viện dân biểu”, các “Hội đồng quản hạt” do thực dân Pháp lập ra. Đảng đã
động viên, giáo dục cho hàng triệu quần chúng trong các cuộc đấu tranh chính trị rộng khắp. Sự lãnh đạo của
Đảng thời kỳ này đánh dấu bước trưởng thành, thể hiện năng lực lãnh đạo của Đảng ta, chuẩn bị điều kiện để
đưa quần chúng vào những trận chiến đấu quyết liệt trong những năm 1940-1945.
Đảng lãnh đạo cao trào giải phóng dân tộc 1939-1945
Ngay khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (tháng 9-1939), Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 6
(tháng 11-1939) để điều chỉnh chiến lược cách mạng với nội dung: Đặt nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai,
giành độc lập dân tộc lên hàng đầu. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông
Dương, nhằm thu hút tất cả các dân tộc, giai cấp, đảng phái, tôn giáo và các cá nhân yêu nước để đánh đổ đế
quốc và tay sai, giành độc lập hoàn toàn cho các dân tộc ở Đông Dương. Tháng 11-1940, Hội nghị Trung ương
Đảng lần thứ 7 họp ở Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), khẳng định chủ trương của Hội nghị Trung ương Đảng
lần thứ 6 là đúng. Tháng 5-1941, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 họp tại Pắc Bó (Cao Bằng), do lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì. Hội nghị này đã cụ thể hóa và hoàn thiện thêm một bước đường lối giải
phóng dân tộc của cách mạng Việt Nam. Hội nghị chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ mỗi
nước Đông Dương và chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất ở mỗi nước. Tại Việt Nam, Hội nghị
quyết định thành lập tổ chức Việt Nam Độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh, gồm các đoàn thể cứu
quốc trên cả nước. Hội nghị nhấn mạnh công tác chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm và dự kiến
một số chủ trương, chính sách khi Tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập tại tỉnh Cao Bằng. Cùng
với đó, Mặt trận Việt Minh, lực lượng vũ trang cách mạng và cả căn cứ địa cách mạng, đều phát triển mạnh mẽ,
không chỉ ở khu Việt Bắc. Trên khắp cả nước, đâu đâu cũng diễn ra các phong trào đấu tranh giành độc lập cho
dân tộc. Qua các cuộc vận động cách mạng đó, Đảng ta đã có nhiều kinh nghiệm, hình thành các chủ trương,
quyết sách, đồng thời đẩy mạnh xây dựng một cách toàn diện các lực lượng cách mạng, gấp rút chuẩn bị cho
cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi.
Đảng phát động cao trào chống Nhật, cứu nước, dự kiến thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền
Từ đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ 2 bước vào giai đoạn kết thúc. Tại khu vực Đông Dương,
do lo sợ quân đồng minh sẽ đổ bộ lên Đông Dương, Nhật tiến hành đảo chính lật đổ Pháp để độc chiếm Đông
Dương (vào đêm 09-3-1945). Ngay lúc đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp đánh giá tình hình và ra
chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Bản chỉ thị vạch rõ: Cuộc đảo chính Nhật - Pháp làm
cho các điều kiện khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi. Kẻ thù chính, cụ thể trước mắt của nhân dân Đông Dương
lúc này là phát xít Nhật; phải nhanh chóng phát động cao trào chống Nhật, cứu nước, đồng thời thực hiện khởi
nghĩa từng phần, giành chính quyền từng bộ phận, chuẩn bị mọi điều kiện để tiến tới tổng khởi nghĩa.
Trước tình hình phát xít Nhật thẳng tay vơ vét, bóc lột, gây ra một nạn đói khủng khiếp và làm chết gần
hai triệu người, Đảng kịp thời đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc của Nhật để cứu đói”. Khẩu hiệu đó đã lôi cuốn
hàng triệu quần chúng, nhất là nông dân, đứng lên chống Nhật, giành chính quyền về tay nhân dân. Từ giữa
tháng 3-1945, cách mạng Việt Nam đã nhanh chóng trở thành cao trào. Đến giữa tháng 8-1945, lực lượng cách
mạng, bao gồm cả lực lượng chính trị và vũ trang, đã phát triển rộng rãi khắp nông thôn và đô thị.
Đảng lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám
Ngày 13-8-1945, Chính phủ Nhật đã đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh vô điều kiện. Quân Nhật
ở Đông Dương lâm vào tình thế bị tê liệt. Chính phủ tay sai Trần Trọng Kim hoang mang cực độ. Trước tình
hình đó, Đại hội quốc dân đã họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) từ ngày 13 đến ngày 15-8-1945 dưới sự chủ trì của
Hồ Chí Minh, thống nhất với chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương là nhanh chóng phát động toàn dân
kịp thời đứng lên tổng khởi nghĩa, quyết tâm giành chính quyền từ tay phát xít Nhật. Đại hội đã cử ra Ủy ban
dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh làm chủ tịch để lãnh đạo tổng khởi nghĩa.
Mệnh lệnh khởi nghĩa của Uỷ ban dân tộc giải phóng và lời kêu gọi cả nước đứng lên tổng khởi nghĩa
giành chính quyền của Hồ Chủ tịch được các địa phương nhiệt liệt hưởng ứng. Từ ngày 14 đến 28-8-1945, cuộc
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền đã thắng lợi hoàn toàn trên cả nước. Chính quyền từ trung ương đến các địa
phương đã thuộc về nhân dân Việt Nam. Ngày 02-9-1945, tại Quảng Trường Ba Đình, Hồ Chủ tịch đã đọc Bản
Tuyên ngôn độc lập, long trọng tuyên bố với nhân dân trong cả nước và các quốc gia trên thế giới: Nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà đã ra đời, có chủ quyền độc lập như mọi quốc gia khác trên toàn thế giới. Một số kinh nghiệm
Quá trình Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền cách mạng thời kỳ 1930 - 1945 đã để lại nhiều bài
học kinh nghiệm quý giá, có giá trị to lớn cho hôm nay và mai sau.
Phải xuất phát từ thực tiễn, trên cơ sở thực tiễn Việt Nam đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn trong việc
giương cao ngọn cờ dân tộc, giải quyết đúng đắn nhiệm vụ dân tộc và dân chủ
Nếu như ở Hội nghị thành lập Đảng, dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, Đảng đã giương cao ngọn cờ
dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu nhằm đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp và tay sai
phản động, giành độc lập dân tộc; chủ trương tập hợp, đoàn kết tất cả các giai cấp, dân tộc trong mặt trận dân
tộc thống nhất, chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ nước Việt Nam, thì từ Hội nghị Trung
ương tháng 10-1930 trở đi Đảng lại chủ trương giải quyết song song, đồng thời vấn đề độc lập dân tộc và cách
mạng ruộng đất, giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam trong cả ba nước Đông Dương, xem nhẹ việc tập hợp,
đoàn kết các giai cấp, tầng lớp ngoài công nông vào mặt trận chống đế quốc… Đây là một sách lược sai lầm và
nó đã gây những hậu quả không tốt đối với cách mạng Việt Nam giai đoạn này
Sự khác nhau trong quan điểm, chủ trương của Đảng xung quanh việc nhận thức và giải quyết vấn đề dân
tộc và giai cấp bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là do sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản và
trình độ nhận thức, cả về lý luận lẫn thực tiễn của một số đồng chí lãnh đạo của Đảng ở giai đoạn này còn hạn
chế. Trải qua quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, bằng thực tiễn hoạt động phong phú, bằng sự gắn bó mật
thiết với nhân dân, kể từ sau Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản năm 1935, Đảng đã nhận thức ngày càng đúng
đắn việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất cũng như vấn đề dân tộc ở
Việt Nam trong quan hệ giữa ba nước Đông Dương. Theo đó, vấn đề độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất
không thể được giải quyết song song, đồng thời mà phải xem vấn đề nào quan trọng hơn để tập trung giải quyết.
Đây là những nhận thức mới hết sức quan trọng, mở đầu cho quá trình thay đổi chiến lược của Đảng ở giai đoạn sau.
Bài học về tập hợp, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống nhất
Một điểm rất đặc sắc của quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng
giải phóng dân tộc thời kỳ 1930-1945 là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng ta đã sáng tạo một hình
thức tổ chức độc đáo phù hợp với điều kiện lịch sử của Việt Nam, đó là lập mặt trận dân tộc thống nhất để hiện
thực hóa tư tưởng của V.Lênin vĩ đại: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng- Cách mạng giải phóng dân tộc
là sự nghiệp của toàn dân Việt Nam được Đảng tuyên truyền giác ngộ và được tập hợp tổ chức trong mặt trận
dân tộc thống nhất nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Chín tháng sau ngày thành lập Đảng, ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương đã ban hành chỉ thị về
vấn đề thành lập Hội Phản đế đồng minh. Trên cơ sở phân tích sâu sắc tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh vì
độc lập tự do của dân tộc, bản chỉ thị đã nhận định: “Cuộc cách mệnh tư sản dân quyền ở Đông Dương mà
không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành
công (rộng là toàn dân cùng đứng trong một mặt trận chống đế quốc và tụi phong kiến tay sai phản động, hèn
hạ; kín là đặt để công nông trong bức tranh dân tộc phản đế bao la)
Đến hội nghị trung ương 8 (5/1941) từ xác định đúng mâu thuẫn cơ bản chủ yếu, đến chỉ rõ kẻ thù chủ yếu
là đế quốc, Hội nghị đã xác định rõ tính chất của cuộc cách mạng là cách mạng giải phóng dân tộc, lực lượng
tiến hành cuộc cách mạng này là toàn dân Việt Nam bao gồm mọi tầng lớp, mọi tổ chức chính trị, mọi giai cấp,
mọi tôn giáo, dân tộc, mọi lứa tuổi được tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất phản đế với tên gọi Mặt trận
Việt Nam Độc lập đồng minh. Đảng Cộng sản Đông Dương là thành viên của Việt Minh và là hạt nhân chính trị lãnh đạo Việt Minh
Bài học phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, dựa vào sức mình là chính; tôn trọng quyền dân tộc tự
quyết, bình đẳng, giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc ở Đông Dương
Khác với chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương tại Hội nghị thành
lập Đảng, từ Hội nghị Trung ương tháng 10-1930 đến tháng 3-1935, Đảng chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc
trong cả ba nước Đông Dương. Chủ trương này được thể hiện ở các điểm sau:
- Bỏ tên Đảng Cộng sản Việt Nam và đổi tên là Đảng Cộng sản Đông Dương;
- Chủ trương sau khi đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp và tay sai phản động sẽ thành lập chính phủ
công nông của các dân tộc Đông Dương;
- Chủ trương thành lập Mặt trận phản đế, các hội, đoàn thể trong toàn Đông Dương.
Vì chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong cả ba nước Đông Dương, nên mọi chỉ đạo, nghị quyết,
chương trình hành động, khẩu hiệu đấu tranh của Đảng có phạm vi toàn Đông Dương. Đảng có nhiệm vụ khôi
phục và tổ chức lại tổ chức đảng, xứ ủy cả ở Lào và Cao Miên; thành lập các tổ chức, đoàn thể chung cho các
dân tộc Đông Dương; chủ trương đánh đổ đế quốc Pháp, bọn phong kiến, giành độc lập hoàn toàn cho cả ba
nước Việt Nam, Lào, Campuchia, thành lập Chính phủ chung của nhân dân Đông Dương.
Khi chiến tranh thế giới thứ hai xảy ra, đặc biệt là khi Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách
mạng Việt Nam và chủ trì Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương tháng 5-1941, Đảng đã quyết định
thay đổi chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong
khuôn khổ nước Việt Nam. Tại Hội nghị, Trung ương Đảng đã quyết định giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn
khổ nước Việt Nam, thực hiện quyền dân tộc tự quyết đối với hai nước Lào và Campuchia. Hội nghị quyết định
thành lập ở mỗi nước một Mặt trận riêng. Ở Việt Nam sẽ thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Mặt
trận Việt Minh). Mặt trận Việt Minh có trách nhiệm giúp đỡ thành lập Ai Lao độc lập đồng minh và Cao Miên
độc lập đồng minh, tiến tới thành lập Đông Dương độc lập đồng minh - hình thức mặt trận chung cho nhân dân
ba nước Đông Dương. Chủ trương đúng đắn đó đã phát huy được tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của cách
mạng mỗi nước Đông Dương; đập tan âm mưu chia rẽ, phá hoại của thực dân Pháp và tay sai phản động; tăng
cường tình đoàn kết và liên minh chiến đấu giữa ba nước Đông Dương, tạo cơ sở, tiền đề cho thắng lợi của
Cách mạng Tháng tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào năm 1945
Quá trình Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền trong thời kỳ 1930 - 1945 đã phản ánh sự trưởng
thành, bản lĩnh của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc tiếp thu và vận dụng lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Bài học đó vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp đổi mới và
hội nhập quốc tế hiện nay. Trong giai đoạn hiện nay, để đưa đất nước đi lên, sánh vai với các cường quốc năm
châu, giữ vững được độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, Việt Nam cần phát huy những bài học
của lịch sử, trong đó bài học lớn nhất là xuất phát từ thực tiễn, trên cơ sở thực tiễn Việt Nam để đề ra chủ trương, đường lối./.
CÁCH MẠNG THÁNG 8/1945 1. Nguyên nhân thắng lợi * Nguyên nhân chủ quan:
- Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam.
- Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Quá trình chuẩn bị lâu dài, chu đáo, rút kinh nghiệm qua đấu tranh.
- Trong những ngày khởi nghĩa toàn đảng toàn dân quyết tâm cao. Các cấp chi bộ Đảng chỉ đạo linh hoạt, sáng
tạo, chớp đúng thời cơ phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền.
* Nguyên nhân khách quan: chiến thắng của quân Đồng minh trong cuộc chiến tranh chống phát xít tạo cơ hội
thuận lợi cho nhân dân Việt Nam đứng lên Tổng khởi nghĩa. 2. Ý nghĩa lịch sử a) Đối với trong nước:
- Mở ra bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc, phá tan xiềng xích nô lệ của Pháp hơn 80 năm và Nhật gần 5 năm,
chấm dứt chế độ phong kiến, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
- Mở đầu kỉ nguyên mới của dân tộc: kỉ nguyên độc lập, tự do, kỉ nguyên nhân dân nắm chính quyền, làm chủ đất nước.
- Đảng Cộng sản Đông Dương từ chỗ phải hoạt động bí mật, bất hợp pháp, trở thành một Đảng cầm quyền và
hoạt động công khai. Nhân dân Việt Nam từ địa vị nô lệ, bước lên địa vị người làm chủ đất nước. b) Đối với thế giới:
- Góp phần vào thắng lợi của cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít; chọc thủng hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc.
- Cổ vũ các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh tự giải phóng; có ảnh hưởng trực tiếp đến cách mạng Lào và và Campuchia. 3. Bài học kinh nghiệm
- Đảng phải có đường lối đúng đắn, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam; nắm bắt tình hình thế giới và trong nước để đề ra chủ trương, biện pháp cách mạng phù hợp.
- Đảng tập hợp, tổ chức các lực lượng yêu nước rộng rãi trong mặt trận dân tộc thống nhất - Mặt trận Việt Minh,
trên cơ sở khối liên minh công - nông vững chắc; phân hóa và cô lập cao độ kẻ thù, tiến tới đánh bại chúng.
- Trong chỉ đạo khởi nghĩa, Đảng linh hoạt kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, tiến hành khởi
nghĩa từng phần, chớp nhoáng thời cơ phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước.
4. Mở rộng: Bài học kinh nghiệm rút ra từ thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 có thể vận dụng trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam hiện nay.
- Một trong những bài học kinh nghiệm rút ra từ cách mạng tháng Tám năm 1945 có thể vận dụng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại: - Sức mạnh thời đại:
+ Thời cơ “ngàn năm có một”: Nhật Bản đầu hàng đồng minh.
+ Sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới. - Sức mạnh dân tộc:
+ Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh.
+ Sự chuẩn bị của Đảng và Nhân dân về lực lượng cách mạng và qua các cuộc tập dượt.
+ Tinh thần đoàn kết và yêu nước của nhân dân Việt Nam.
=> Hiện nay, trong thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, bài học này cần được áp dụng triệt để: vừa
tranh thủ sự mở rộng của thị trường thế giới, vốn đầu tư của nước ngoài,... vừa phát huy sức mạnh đoàn kết toàn
dân xây dựng đất nước.
BÀI HỌC KINH NGHIỆM QUF GIÁ CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
(BNP) - Cách đây 75 năm, ngày 19/8/1945 đã đi vào lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam như một mốc son
chói lọi - Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước dân chủ công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành
lập, mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Đến năm 1945, phong trào cách mạng dâng cao. Ngày 9/3/1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng
Pháp. Ngay trong đêm đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng quyết định phát động một cao
trào cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, thay đổi các hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu
tranh cho thích hợp. Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng các
cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.
Đầu tháng 5/1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước
và chuẩn bị Đại hội quốc dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng
loạt vùng dậy tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc
tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), trước cuộc mít tinh của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch
Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân
và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Từ đó,
ngày 2/9 là Ngày Quốc khánh của nước ta.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi to lớn đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh
đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa ra đời - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở
Việt Nam; kết thúc hơn hơn 80 năm nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam từ
thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một
nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam trở
thành một Đảng cầm quyền. Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới
- kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 để lại nhiều bài học quý báu, nổi bật là:
Bài học thứ nhất là, có một Đảng tiên phong thật sự cách mạng, tiếp thu Chủ nghĩa Mác - Lênin, được tư tưởng
Hồ Chí Minh soi sáng đã nắm vững hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn lịch sử, đề ra đường lối cách mạng
đúng đắn, có phương pháp và hình thức đấu tranh phù hợp; biết nắm bắt thời cơ, xây dựng lực lượng và tổ chức,
sử dụng lực lượng; phát huy được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng đứng lên
giành và giữ chính quyền.
Bài học thứ hai là, vấn đề giành và giữ chính quyền. Đảng ta đã biết chăm lo xây dựng lực lượng cách mạng,
làm cho lực lượng cách mạng đủ mạnh, thu hút được đông đảo quần chúng tham gia, từ đó làm thay đổi so sánh
lực lượng giữa ta và địch, tạo ra thời cơ cách mạng để đưa cuộc cách mạng đến thành công. Để giữ vững chính
quyền, Đảng và Nhà nước ta đã dựa chắc vào nhân dân, tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần để đấu tranh
thắng lợi với thù trong giặc ngoài. Đảng ta biết kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và sử dụng bạo lực cách
mạng thích hợp và đúng lúc để đập tan bộ máy Nhà nước cũ, lập ra Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Bài học thứ ba là, vấn đề nắm bắt được thời cơ, đề ra được những quyết định chính xác và kịp thời. Nghệ thuật
chỉ đạo tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định tổng khởi
nghĩa đúng lúc thể hiện cụ thể trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng tháng 3/1945 “Nhật - Pháp bắn
nhau và hành động của chúng ta” và bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi đêm
13/8/1945. Cũng nhờ chọn đúng thời cơ mà sức mạnh của nhân dân ta trong Cách mạng Tháng Tám được nhân
lên gấp bội, đã tiến hành tổng khởi nghĩa thành công trong phạm vi cả nước trong thời gian ngắn.
Bài học thứ tư là, xây dựng và củng cố lực lượng cách mạng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc
kết hợp với sức mạnh của thời đại. Từ khi mới thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm nhận thức đúng và
đầy đủ về sức mạnh to lớn của đông đảo quần chúng nhân dân, sớm đề ra đường lối chiến lược giương cao hai
ngọn cờ độc lập dân tộc và dân chủ, đáp ứng đúng nguyện vọng của đại đa số nhân dân là độc lập, tự do, người
cày có ruộng. Chính vì thế, Đảng ta đã tập hợp và phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trên
nền tảng liên minh công nhân - nông dân - trí thức, khai thác và phát huy triệt để động lực tinh thần, nêu cao “ý
chí Việt Nam”, tinh thần dũng cảm, sáng tạo, sẵn sàng xông lên cứu nước cứu nhà, tạo thành nguồn động lực to
lớn để đưa Cách mạng Tháng Tám đến thắng lợi hoàn toàn.
Kỷ niệm 75 năm Ngày Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2020) và Quốc khánh nước Cô ‘ng hòa xã hô ‘i
chủ nghĩa Viê ‘t Nam (02/9/1945 - 02/9/2020) trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang thi đua lâ ‘p
thành tích sôi nổi chào mừng Đại hô ‘i Đảng bô ‘ các cấp hướng tới Đại hô ‘i lần thứ XIII của Đảng, chúng ta càng
hiểu rõ giá trị lịch sử, thực tiễn sâu sắc mà cách mạng Tháng Tám đã mang lại; đề cao lòng tự hào dân tộc, nhận
thức đầy đủ trách nhiệm của thế hệ hôm nay trong việc vận dụng và phát triển những bài học kinh nghiệm quý
giá, những tư tưởng mang tầm thời đại của Cách mạng Tháng Tám vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
vào công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.