Nội dung Kiến trúc đình ở Nam Bộ | Cơ sở văn hóa Việt Nam | Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM

Vật liệu xây dựng: Phần lớn kiến trúc đình ở Nam Bộ được xây dựng bằng gỗ, với các cấu trúc chính là cột gỗ và mái ngói. Các vật liệu tự nhiên như gỗ, đá và ngói truyền thống thường được sử dụng để tạo ra các công trình kiến trúc này.

lOMoARcPSD| 40190299
Ni dung Kiến trúc đình Nam B
Cơ sở văn hóa Việt Nam (Đại hc Khoa hc Xã hội và Nhân văn, Đại hc Quc
gia Thành ph H Chí Minh)
\
lOMoARcPSD| 40190299
2. Đi từ các ngôi đình đến kiến trúc đình ở Nam Bộ
2. 1. Giai đoạn hình thành vùng văn hóa Nam Bộ
Giai đoạn trước năm 1698, cùng với sự phát triển của làng mới, việc xây dựng các
công trình công ích điều không thể thiếu, trong đó hệ thống văn hóa bao gồm
đình, chùa, miếu, những yếu tố bản của tâm linh làng truyền thống. Ngôi
đình đã xuất hiện từ rất sớm vùng Nam Bộ, bắt nguồn từ nhu cầu thực tế của cộng
đồng. Được xây dựng bởi lưu dân Việt, ngôi đình không chỉ đơn thuần nơi tôn vinh
các thần thánh mà còn trung tâm của tín ngưỡng, mang tính chất chính thống. Đáng
tiếc, sau nhiều thăng trầm lịch sử những biến cố chiến tranh, nhiều kiến trúc đình
trong giai đoạn đầu đã không thể trụ vững trước thời gian, chỉ duy nhất Đình Thông
Tây Hội tại TP. Hồ Chí Minh còn tồn tại. Tuy nhiên, sau nhiều lần tu sửa, vẻ đẹp
nguyên thủy của ngôi đình Thông Tây Hội đã mất đi, để lại chỉ những dấu vết của
thời gian và sự can thiệp của con người.
Đình Thông Tây Hội. Nguồn:
https://imgs.vietnamnet.vn/Images/2017/0 9/14/13/20170914131 146-6.jpg
Giai đoạn từ 1698 đến khởi nghĩa Tây Sơn 1776, trong suốt hơn ba phần thế kỷ,
dân chúng Nam Bvẫn phải đối mặt với những khó khăn cảnh cực. Lúc này, chỉ
tầng lớp quí tộc quan lại mới điều kiện để chiếm đoạt ruộng đất, thu thuế,
tham nhũng, tạo nên một tầng lớp giàu quyền lực. Các công trình kiến trúc,
thường được xây dựng bởi người thuộc tầng lớp này, thường được tạo ra với mục đích
tôn kính bảo vệ "công đức" "cẩu an" cho họ, trong khi dân chúng chỉ tham gia
dưới tư cách dân phu. Dù vậy, nhờ vào sự tài trợ của tầng lớp quí tộc này, nhiều công
lOMoARcPSD| 40190299
trình giá trị đã được xây dựng. Đồng thời, với tinh thần "uống nước nhớ nguồn",
các đình thần đã được thành lập để tôn vinh các vị tiền hiền đã có công mở đất ở vùng
phương Nam. những ngôi đình như Đình Lễ Thành Hầu - Nguyễn Hữu Cảnh (năm
1700 - tại Biên Hòa), Đình Lễ Thành Hầu (năm 1701 - tại An Giang), Đình Mạc
Thiên Tứ (cuối thế kỷ XVIII - tại Tiên), Đình Long Thanh (năm 1754 - tại Vĩnh
Long), Đình Tân Lân thờ Trần Thượng Xuyên (cuối thế kỷ XVIII - tại Biên Hòa).
Mặc kiến trúc của các ngôi đình y không còn nguyên vẹn như trước, hầu hết đã
được xây dựng lại vào cuối thế kỷ XIX hoặc đầu thế kỷ XX, nhưng vẫn giữ được nét
truyền thống từ các thế kỷ trước.
Đình Tân Lân - Đồng Nai. Nguồn:
https://kientrucsuvietnam.vn/wp-content/uploads/2016/03/dinh-tan-lan-01.jpg
2.2. Giai đoạn văn hóa Đại Nam (Tây Sơn & Nguyễn)
Vào triều đại Tây Sơn (1776-1802), kiến trúc đình không sự phát triển, thậm chí
các công trình kiến trúc từ các thời kỳ trước đã dần bị hư hại do tác động của thời gian
chiến tranh, đặc biệt do thiếu người chăm sóc. Nhiều công trình đã trở nên mai
một hầu hết mất đi sự nguyên vẹn của mình. Hiện nay, chỉ còn hai ngôi đình được
ghi nhận xuất hiện trong giai đoạn này, đó là: Đình Minh Hương Gia Thạnh (năm
1789 - tại TP.HCM) và Đình Hiển Trung (năm 1795 - tại TP.HCM). Tuy nhiên, kiến
trúc của các ngôi đình này cũng không còn giữ lại nguyên gốc thường mang ng
vẻ kiến trúc của thế kỷ XX, do đã trải qua nhiều lần tu sửa và cải tạo.
lOMoARcPSD| 40190299
Đình Minh Hương Gia Thạnh.. Nguồn: https://photo-cms-
baophapluat.epicdn.me/w1000/Uploaded/2024/edcqrujwq/
2021_06_22/anh-3-9345.jpg
Trong giai đoạn triều Nguyễn độc lập (1802 - 1858), nghệ thuật đã sa sút so với thời
kỳ trước, nhưng nghệ thuật kiến trúc lại chiều hướng phát triển mạnh mẽ. Nhiều
công trình kiến trúc lớn đã được xây dựng hoặc di dời, như Khu Hoàng thành Huế,
một số lăng tẩm của vua Nguyễn, các thành lũy theo kiểu Vauban. Cùng với đó,
kiến trúc của đình cũng đã phát triển mạnh mẽ, đặc biệt trong lĩnh vực kiến trúc
đình, sở vật chất quan trọng cho sự phát triển của tín ngưỡng thờ Thành Hoàng.
Trong khu vực Nam Bộ, nhiều công trình kiến trúc đình đã được để lại, như Đình
Bình Hòa (1818 - TP.HCM), đình Thắng Tam (1820 - ng Tàu), đình Mỹ Phước
(1832 - An Giang), nhiều công trình khác. Mặc đã trải qua nhiều lần trùng tu,
nhưng một số kiến trúc đình trong giai đoạn này vẫn giữ lại được dáng vẻ của kiến
trúc nguyên gốc từ khi mới hình thành.
2.3. Giai đoạn giao lưu văn hóa phương Tây
Trong giai đoạn đầu khi Pháp bắt đầu chiếm đóng Việt Nam vào nửa sau của thế kỷ
XIX, nhiều công trình kiến trúc đình của người Việt ở Nam Bộ đã bị tàn phá trong các
cuộc chiến tranh hoặc bị bỏ hoang, hoang tàn. Chỉ một số đình gốc Hoa đã được
sửa sang hoặc trùng tu, như Minh Hương Gia Thạnh (TP.HCM - sửa 1873), Nghĩa
Thuận (TP.HCM - sửa 1879)... và một số ít đình nổi tiếng đã được trùng tu như Thông
Tây Hội (TP.HCM - sửa 1896), Bình Hòa (TP.HCM - sửa 1877), Mỹ Phước (An
lOMoARcPSD| 40190299
Giang - sửa 1889), Đức Nghĩa (Bình Thuận - sửa 1864). Trong thời kỳ này, chcó vài
ngôi đình mới được xây dựng nĐình Phong Phú (cuối thế kỷ XIX - TP.HCM),
đình Chí Hoa (cuối thế kỷ XIX - TP.HCM), đình Hiệp Ninh (cuối thế kỷ XIX - Tây
Ninh), đình Vĩnh Phong (cuối thế kỷ XIX - Long An). Tuy nhiên, kiến trúc của các
đình được sửa chữa hoặc xây dựng mới trong thời kỳ này đã bị ảnh hưởng bởi các mô-
típ nghệ thuật và kiểu thức phương Tây.
Đình Hiệp Ninh - Tây Ninh. Nguồn: blogspot.com
lOMoARcPSD| 40190299
Đình Phong Phú. Nguồn: danviet.vn
Vào đầu thế kỷ XX, kiến trúc đình đã được khôi phục, vừa để phục vụ việc thờ tự
Thành Hoàng theo truyền thống, vừa để đáp ứng nhu cầu làm trụ sở của các ban hội tề
làng, theo chính sách "dùng người Việt trị người Việt" của thời Pháp thuộc. Trong
thời kỳ này, nhiều đình mới được xây dựng như: Đình Phước Hòa (cuối thế kỷ XIX -
Bà Rịa), đình Mỹ Lộc (cuối thế kỷ XIX - Long An), đình Tân Hưng (1907 - Mau),
đình Lương Khế (1911 - Kon Tum)... Cũng có nhiều công trình đình đã được trùng tu,
bao gồm Đình Long Thạnh (Vĩnh Long - sửa 1913), đình Minh Hương Gia Thạnh
(TP.HCM - sửa 1901), đình Mỹ Phước (An Giang - sửa 1903), đình Nghĩa Thuận
(TP.HCM - sửa 1906), đình Bình Thủy (Cần Thơ - sửa 1909)... Nhiều công trình trong
số này đã được xây dựng bằng gạch nung xi măng, phản ánh sự tiến bộ trong kỹ
thuật xây dựng của thời đại.
Từ năm 1920 trở đi, cùng với sự phát triển của bản dân tộc tại ng Nam Bộ, kiến
trúc đình mới được xây dựng trong giai đoạn này đã trải qua sự cách tân với kết cấu
mỹ thuật hiện đại theo xu hướng đương thời. Phong cách kiến trúc trở nên phóng
khoáng hơn, đặc biệt ctrọng vào hình thức mặt đứng. thể kể đến như: Đình Lạc
Giao (năm 1928 - tại Buôn Thuột), đình PLâm (đầu thế kỷ XX - TP.HCM),
đình Bình Chánh (đầu thế kỷ XX - TP.HCM).
Trong giai đoạn Việt Nam bị chia cắt hai miền, miền Nam trở thành trận chiến của
văn minh phương Tây đang thống trị, và vị thế của các ngôi đình gần như hoàn toàn
lOMoARcPSD| 40190299
mất đi. Các hoạt động tại đình, nếu còn, thường giữ theo những quy định truyền
thống, chủ yếu các lễ hội hàng năm như lễ Kỳ Yên hoặc giỗ Thành Hoàng. Kiến
trúc của các ngôi đình đã bị phá bỏ rất nhiều, chỉ còn vài ngôi đình được giữ lại với
giá trị lịch sử nổi tiếng. Không nhiều công trình mới được xây dựng, chỉ i
công trình đình được sửa chữa hoặc tái xây như: Đình Minh Hương Gia Thạnh
(TP.HCM - sửa 1962), đình Bình Hòa (TP.HCM - sửa 1972), đình Thắng Tam (Vũng
Tàu - xây lại 1965), đình Mỹ Phước (An Giang - sửa 1960), đình Phong Phú
(TP.HCM - xây lại 1969), đình Lạc Giao (Buôn Thuột - sửa 1975), đình Trần
Hưng Đạo (TP.HCM - sửa 1958)... Trong các lần sửa chữa này, kiến trúc kết hợp giữa
phong cách Đông và phương Tây trở nên phổ biến.
Sau khi đất nước thống nhất, quản các công trình văn hóa lịch sử vẫn còn thiếu sót
nghiêm trọng, kết hợp với những hiểu biết sai lầm về giá trị của các công trình kiến
trúc và văn hóa từ một số lãnh đạo địa phương thiếu hiểu biết. Do đó, nhiều công trình
kiến trúc đình, chùa đã bị phá hủy hoặc sử dụng cho mục đích khác, làm mất đi mục
đích sử dụng ban đầu và làm sai lệch giá trị văn hóa của chúng. Ví dụ, Đình Tân Lân
Biên Hòa, được xây dựng vào cuối thế kỷ XVIII với kiến trúc còn nguyên vẹn, đã bị
sử dụng một phần m trường mẫu giáo (cho đến năm 1999). Nhà Minh Phụng
TP.HCM, được xây dựng vào giữa thế kỷ XIX, bị sử dụng một phần làm rạp hát, sau
đó làm kho bột mì. Đình Vĩnh Bình ng Tây, Tiền Giang, xây dựng vào giữa
thế kỷ XIX với kiến trúc còn nguyên vẹn, đã bị phá hủy hoàn toàn để xây dựng khách
sạn. Điều này làm mất đi một phần quan trọng của di sản văn hóa và lịch sử của địa
phương. Do đó, thể khẳng định rằng kiến trúc đình trong giai đoạn này chỉ còn
những chứng tích văn hóa - lịch sử, không được xây mới cũng như sửa chữa, thậm chí
bị phá hủy, gây ra sự mai một hầu hết.
Sau thời kỳ đổi mới, hoạt động sinh hoạt lễ hội đình kiến trúc đình đã được phục
hồi. Một số ít ngôi đình đã được sửa chữa lớn nhằm đáp ứng nhu cầu hướng về n
hóa nguồn cội của nhân dân trong nước và Việt kiều trong thời đại mới. Tuy nhiên, đa
số chỉ dừng lại mức độ hình thức không đi sâu vào cải thiện chất lượng. Một số
phần kiến trúc nguyên gốc được giữ lại một số đình nổi tiếng, nhưng hầu hết sau
những lần sửa chữa, kiến trúc đình thường được thay đổi theo kỹ thuật xây dựng hiện
đại, sử dụng bê tông khá phổ biến.
4. Khẳng định vai trò, giá trị của ngôi đình trong đời sống
4.1. Ngôi đình là chỗ dựa tinh thần cho nhân dân
Đình đóng vai trò rất quan trọng đối với cộng đồng dân cư, là nơi mà họ gửi gắm niềm
tin mong ước về mọi điều trong cuộc sống, đặc biệt về mặt tôn giáo. Đình
miền Nam Bộ thường dành sự tôn kính đặc biệt cho các thần thành hoàng bổn cảnh,
những vị được coi là bảo hộ cho làng và được thờ phụng cùng các tiền hiền, hậu hiền -
những người ng trong việc xây dựng phát triển cộng đồng. Ngoài ra, các thần
thánh ở đình cũng rất gần gũi với người dân, từ thần tài, Ngũ hành nương nương, Cửu
lOMoARcPSD| 40190299
thiên huyền nữ đến Quan Công, cùng với thành hoàng bổn cảnh. Mỗi vị thần đều đại
diện cho các khía cạnh khác nhau trong cuộc sống và đảm bảo sự an lành may mắn
cho dân làng qua mọi khó khăn, đồng thời mang lại sự hòa thuận thành công trong
công việc cuộc sống hàng ngày. Mọi người đến đình để đặt niềm tin cầu khẩn
những điều tốt lành từ các vị thần, mong muốn được bình an trong tinh thần trong
cuộc sống.
4.2. Ngôi đình là trung tâm sinh hoạt văn hóa cộng đồng
Ngôi đình không chỉ biểu hiện của sự gắn tình cảm còn biểu tượng của sự
đoàn kết sự đồng ng của cộng đồng, nơi tập trung mọi sinh hoạt văn hóa trong
làng. Đây nơi mà c dân làng tụ họp để bàn bạc về công việc chung, cũng như
trung tâm của các sinh hoạt văn hóa, tổ chức lễ hội hát xướng. Hàng năm, các lễ
hội dân gian diễn ra trong ngôi đình với sự sôi động hoành tráng, trong đó lễ hội
Kỳ Yên là một dụ điển hình. Lễ hội Kỳ Yên được coi lễ hội chung của cả làng,
thu hút sự tham gia của mọi người dân trong làng, bất kể họ đang đâu. Sự hối hả
náo nhiệt của lễ hội làng luôn điểm nhấn với nhiều tiết mục biểu diễn nghệ thuật
truyền thống như diễn ớng dân gian, hát bội, hay hát chầu... Trong những buổi biểu
diễn văn nghệ, toàn bộ cộng đồng dân làng tụ tập tại ngôi đình, tạo nên một không
gian sôi động hòa mình vào không khí vui ơi hân hoan. Mọi người cùng nhau
tham gia vào múa hát thực hiện các nghi lễ truyền thống, tạo nên những khoảnh
khắc đáng nhớ và đậm chất văn hóa.
Ngoài việc nơi diễn ra các hoạt động văn nghệ, ngôi đình còn đóng vai trò quan
trọng nơi họp mặt của cộng đồng. Tại đây, mọi người hội thảo luận đưa ra
quyết định về những vấn đề quan trọng như việc tu sửa đình, tổ chức ngày hội, tang lễ,
hợp thân, cả việc tổ chức các lớp học trao đổi kinh nghiệm trong lĩnh vực sản
xuất. Tất cả những hoạt động này không chỉ là dịp để cùng nhau vui vẻ mà còn là biểu
hiện rõ nét của sự đoàn kết và sâu sắc trong cộng đồng làng.
4.3. Ngôi đình là trung tâm lưu giữ các giá trị lịch sử, văn hóa
Ngôi đình biểu tượng của nghệ thuật kiến trúc điêu khắc đặc trưng của cộng
đồng người Việt Nam Bộ. Từ cổng đình đến kiến trúc chính điện, mỗi chi tiết công
trình đều phản ánh sự tinh tế sáng tạo từ bàn tay điêu luyện của các nghệ nhân.
Ngôi đình không chỉ là nơi thờ tự còn bảo tàng của những giá trị văn hóa đặc
trưng của dân tộc.
lOMoARcPSD| 40190299
Nghệ thuật điêu khắc trong đình Nam Bộ thường rất cầu kỳ và được trang trí bằng sơn
vàng lộng lẫy. Các nghệ nhân thường sử dụng tay điêu luyện để tạo ra những tác
phẩm điêu khắc phong phú, tái hiện cuộc sống, lao động, và cảnh quan thiên nhiên của
đất nước. Phù điêu thường được sử dụng để trang trí các thành phần kiến trúc như cửa
võng, cột đình, hoành phi câu đối, và các khung tam giác. Chủ đề phổ biến của các tác
phẩm điêu khắc trong đình về linh thú động vật, thể hiện sự sâu sắc phong
phú của tín ngưỡng văn hóa dân gian. Rồng thường hình tượng trung tâm, được sử
dụng để trang trí nhiều vị trí khác nhau trong đình. Ngoài ra, các cây cỏ như sen
cũng chiếm vị tquan trọng trong nghệ thuật điêu khắc trang trí của đình, thường
được kết hợp với các típ như tùng, cúc, trúc, mai để tạo ra những tác phẩm tuyệt
vời.
Ngoài nghệ thuật điêu khắc, diễn xướng là một phần không thể thiếu trong các ngày lễ
hội miền Nam. Hát bội một loại hình diễn xướng phổ biến, thường được tổ chức
ngay trong đình và mang tính cảnh sát, linh thiêng. Hát bội không chỉ là hình thức giải
trí mà còn là cách thể hiện lòng thành kính và tôn trọng đối
với thần linh. Tất cả những điều này thhiện sự phong phú đa dạng của văn hóa
dân gian miền Nam, cần được bảo tồn và phát triển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. NGUYN TH MINH NGC. Ngôi đình trong đời sống văn hóa của người vit tây
nam b https://vhnt.org.vn/ngoi-dinh-trong-doi-song-van-hoa-cua-nguoi-viet-tay-
nam-bo/
2. TS.KST. Phạm Anh Dũng (2013), Kiến trúc Đình Chùa Nam Bộ. Nxb Xây Dng
CÂU HI
1. Trong giai đoạn nào, kiến trúc đình ở Nam B đã phát triển mnh m
nhất? a) Giai đoạn trước năm 1698
b) Giai đoạn t 1698 đến khởi nghĩa Tây Sơn (1776)
c) Giai đoạn văn hóa Đại Nam (Tây Sơn & Nguyễn)
d) Giai đoạn giao lưu văn hóa phương Tây
2. Nhng hot động nào thường được t chc tại ngôi đình trong cộng đồng dân
cư? a) Hội tho trin khai chính sách mi
b) L hội hàng năm như lễ K Yên
c) Hi ngh thường k ca chính quyền địa
phương d) Các cuộc biu tình và protest
lOMoARcPSD| 40190299
3. Vì sao ngôi đình được coi là trung tâm lưu giữ các giá tr lch sử, văn
hóa? a) Do ngôi đình là nơi tập trung các quan chức và nhà lãnh đạo
b) kiến trúc của ngôi đình thường đưc xây dng bằng đá q
vàng c) ngôi đình nơi th phng các v thn tin hin công
đất nước d) Vì ngôi đình thường t chc các cuc trin lãm ngh thut
| 1/10

Preview text:

lOMoAR cPSD| 40190299
Nội dung Kiến trúc đình ở Nam Bộ
Cơ sở văn hóa Việt Nam (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc
gia Thành phố Hồ Chí Minh) \ lOMoAR cPSD| 40190299
2. Đi từ các ngôi đình đến kiến trúc đình ở Nam Bộ
2. 1. Giai đoạn hình thành vùng văn hóa Nam Bộ
Giai đoạn trước năm 1698, cùng với sự phát triển của làng mới, việc xây dựng các
công trình công ích là điều không thể thiếu, và trong đó có hệ thống văn hóa bao gồm
đình, chùa, miếu, và võ là những yếu tố cơ bản của tâm linh làng truyền thống. Ngôi
đình đã xuất hiện từ rất sớm ở vùng Nam Bộ, bắt nguồn từ nhu cầu thực tế của cộng
đồng. Được xây dựng bởi lưu dân Việt, ngôi đình không chỉ đơn thuần là nơi tôn vinh
các thần thánh mà còn là trung tâm của tín ngưỡng, mang tính chất chính thống. Đáng
tiếc, sau nhiều thăng trầm lịch sử và những biến cố chiến tranh, nhiều kiến trúc đình
trong giai đoạn đầu đã không thể trụ vững trước thời gian, chỉ duy nhất Đình Thông
Tây Hội tại TP. Hồ Chí Minh còn tồn tại. Tuy nhiên, sau nhiều lần tu sửa, vẻ đẹp
nguyên thủy của ngôi đình Thông Tây Hội đã mất đi, để lại chỉ là những dấu vết của
thời gian và sự can thiệp của con người.
Đình Thông Tây Hội. Nguồn:
https://imgs.vietnamnet.vn/Images/2017/09/14/13/20170914131146-6.jpg
Giai đoạn từ 1698 đến khởi nghĩa Tây Sơn 1776, trong suốt hơn ba phần tư thế kỷ,
dân chúng ở Nam Bộ vẫn phải đối mặt với những khó khăn và cảnh cực. Lúc này, chỉ
có tầng lớp quí tộc và quan lại mới có điều kiện để chiếm đoạt ruộng đất, thu thuế, và
tham nhũng, tạo nên một tầng lớp giàu có và có quyền lực. Các công trình kiến trúc,
thường được xây dựng bởi người thuộc tầng lớp này, thường được tạo ra với mục đích
tôn kính và bảo vệ "công đức" và "cẩu an" cho họ, trong khi dân chúng chỉ tham gia
dưới tư cách dân phu. Dù vậy, nhờ vào sự tài trợ của tầng lớp quí tộc này, nhiều công lOMoAR cPSD| 40190299
trình có giá trị đã được xây dựng. Đồng thời, với tinh thần "uống nước nhớ nguồn",
các đình thần đã được thành lập để tôn vinh các vị tiền hiền đã có công mở đất ở vùng
phương Nam. Có những ngôi đình như Đình Lễ Thành Hầu - Nguyễn Hữu Cảnh (năm
1700 - tại Biên Hòa), Đình Lễ Thành Hầu (năm 1701 - tại An Giang), Đình Mạc
Thiên Tứ (cuối thế kỷ XVIII - tại Hà Tiên), Đình Long Thanh (năm 1754 - tại Vĩnh
Long), và Đình Tân Lân thờ Trần Thượng Xuyên (cuối thế kỷ XVIII - tại Biên Hòa).
Mặc dù kiến trúc của các ngôi đình này không còn nguyên vẹn như trước, hầu hết đã
được xây dựng lại vào cuối thế kỷ XIX hoặc đầu thế kỷ XX, nhưng vẫn giữ được nét
truyền thống từ các thế kỷ trước.
Đình Tân Lân - Đồng Nai. Nguồn:
https://kientrucsuvietnam.vn/wp-content/uploads/2016/03/dinh-tan-lan-01.jpg
2.2. Giai đoạn văn hóa Đại Nam (Tây Sơn & Nguyễn)
Vào triều đại Tây Sơn (1776-1802), kiến trúc đình không có sự phát triển, thậm chí là
các công trình kiến trúc từ các thời kỳ trước đã dần bị hư hại do tác động của thời gian
và chiến tranh, đặc biệt là do thiếu người chăm sóc. Nhiều công trình đã trở nên mai
một hầu hết và mất đi sự nguyên vẹn của mình. Hiện nay, chỉ còn hai ngôi đình được
ghi nhận xuất hiện trong giai đoạn này, đó là: Đình Minh Hương Gia Thạnh (năm
1789 - tại TP.HCM) và Đình Hiển Trung (năm 1795 - tại TP.HCM). Tuy nhiên, kiến
trúc của các ngôi đình này cũng không còn giữ lại nguyên gốc mà thường mang dáng
vẻ kiến trúc của thế kỷ XX, do đã trải qua nhiều lần tu sửa và cải tạo. lOMoAR cPSD| 40190299
Đình Minh Hương Gia Thạnh.. Nguồn: https://photo-cms-
baophapluat.epicdn.me/w1000/Uploaded/2024/edcqrujwq/ 2021_06_22/anh-3-9345.jpg
Trong giai đoạn triều Nguyễn độc lập (1802 - 1858), nghệ thuật đã sa sút so với thời
kỳ trước, nhưng nghệ thuật kiến trúc lại có chiều hướng phát triển mạnh mẽ. Nhiều
công trình kiến trúc lớn đã được xây dựng hoặc di dời, như Khu Hoàng thành ở Huế,
một số lăng tẩm của vua Nguyễn, và các thành lũy theo kiểu Vauban. Cùng với đó,
kiến trúc của đình cũng đã phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là trong lĩnh vực kiến trúc
đình, là cơ sở vật chất quan trọng cho sự phát triển của tín ngưỡng thờ Thành Hoàng.
Trong khu vực Nam Bộ, nhiều công trình kiến trúc đình đã được để lại, như Đình
Bình Hòa (1818 - TP.HCM), đình Thắng Tam (1820 - Vũng Tàu), đình Mỹ Phước
(1832 - An Giang), và nhiều công trình khác. Mặc dù đã trải qua nhiều lần trùng tu,
nhưng một số kiến trúc đình trong giai đoạn này vẫn giữ lại được dáng vẻ của kiến
trúc nguyên gốc từ khi mới hình thành.
2.3. Giai đoạn giao lưu văn hóa phương Tây
Trong giai đoạn đầu khi Pháp bắt đầu chiếm đóng Việt Nam vào nửa sau của thế kỷ
XIX, nhiều công trình kiến trúc đình của người Việt ở Nam Bộ đã bị tàn phá trong các
cuộc chiến tranh hoặc bị bỏ hoang, hoang tàn. Chỉ có một số đình gốc Hoa đã được
sửa sang hoặc trùng tu, như Minh Hương Gia Thạnh (TP.HCM - sửa 1873), Nghĩa
Thuận (TP.HCM - sửa 1879)... và một số ít đình nổi tiếng đã được trùng tu như Thông
Tây Hội (TP.HCM - sửa 1896), Bình Hòa (TP.HCM - sửa 1877), Mỹ Phước (An lOMoAR cPSD| 40190299
Giang - sửa 1889), Đức Nghĩa (Bình Thuận - sửa 1864). Trong thời kỳ này, chỉ có vài
ngôi đình mới được xây dựng như Đình Phong Phú (cuối thế kỷ XIX - TP.HCM),
đình Chí Hoa (cuối thế kỷ XIX - TP.HCM), đình Hiệp Ninh (cuối thế kỷ XIX - Tây
Ninh), đình Vĩnh Phong (cuối thế kỷ XIX - Long An). Tuy nhiên, kiến trúc của các
đình được sửa chữa hoặc xây dựng mới trong thời kỳ này đã bị ảnh hưởng bởi các mô-
típ nghệ thuật và kiểu thức phương Tây.
Đình Hiệp Ninh - Tây Ninh. Nguồn: blogspot.com lOMoAR cPSD| 40190299
Đình Phong Phú. Nguồn: danviet.vn
Vào đầu thế kỷ XX, kiến trúc đình đã được khôi phục, vừa để phục vụ việc thờ tự
Thành Hoàng theo truyền thống, vừa để đáp ứng nhu cầu làm trụ sở của các ban hội tề
làng, theo chính sách "dùng người Việt trị người Việt" của thời Pháp thuộc. Trong
thời kỳ này, nhiều đình mới được xây dựng như: Đình Phước Hòa (cuối thế kỷ XIX -
Bà Rịa), đình Mỹ Lộc (cuối thế kỷ XIX - Long An), đình Tân Hưng (1907 - Cà Mau),
đình Lương Khế (1911 - Kon Tum)... Cũng có nhiều công trình đình đã được trùng tu,
bao gồm Đình Long Thạnh (Vĩnh Long - sửa 1913), đình Minh Hương Gia Thạnh
(TP.HCM - sửa 1901), đình Mỹ Phước (An Giang - sửa 1903), đình Nghĩa Thuận
(TP.HCM - sửa 1906), đình Bình Thủy (Cần Thơ - sửa 1909)... Nhiều công trình trong
số này đã được xây dựng bằng gạch nung và xi măng, phản ánh sự tiến bộ trong kỹ
thuật xây dựng của thời đại.
Từ năm 1920 trở đi, cùng với sự phát triển của tư bản dân tộc tại vùng Nam Bộ, kiến
trúc đình mới được xây dựng trong giai đoạn này đã trải qua sự cách tân với kết cấu
và mỹ thuật hiện đại theo xu hướng đương thời. Phong cách kiến trúc trở nên phóng
khoáng hơn, đặc biệt chú trọng vào hình thức mặt đứng. Có thể kể đến như: Đình Lạc
Giao (năm 1928 - tại Buôn Mê Thuột), đình Phú Lâm (đầu thế kỷ XX - TP.HCM), và
đình Bình Chánh (đầu thế kỷ XX - TP.HCM).
Trong giai đoạn Việt Nam bị chia cắt hai miền, miền Nam trở thành trận chiến của
văn minh phương Tây đang thống trị, và vị thế của các ngôi đình gần như hoàn toàn lOMoAR cPSD| 40190299
mất đi. Các hoạt động tại đình, nếu còn, thường giữ theo những quy định truyền
thống, chủ yếu là các lễ hội hàng năm như lễ Kỳ Yên hoặc giỗ Thành Hoàng. Kiến
trúc của các ngôi đình đã bị phá bỏ rất nhiều, chỉ còn vài ngôi đình được giữ lại với
giá trị lịch sử và nổi tiếng. Không có nhiều công trình mới được xây dựng, chỉ có vài
công trình đình được sửa chữa hoặc tái xây như: Đình Minh Hương Gia Thạnh
(TP.HCM - sửa 1962), đình Bình Hòa (TP.HCM - sửa 1972), đình Thắng Tam (Vũng
Tàu - xây lại 1965), đình Mỹ Phước (An Giang - sửa 1960), đình Phong Phú
(TP.HCM - xây lại 1969), đình Lạc Giao (Buôn Mê Thuột - sửa 1975), đình Trần
Hưng Đạo (TP.HCM - sửa 1958)... Trong các lần sửa chữa này, kiến trúc kết hợp giữa
phong cách Đông và phương Tây trở nên phổ biến.
Sau khi đất nước thống nhất, quản lý các công trình văn hóa lịch sử vẫn còn thiếu sót
nghiêm trọng, kết hợp với những hiểu biết sai lầm về giá trị của các công trình kiến
trúc và văn hóa từ một số lãnh đạo địa phương thiếu hiểu biết. Do đó, nhiều công trình
kiến trúc đình, chùa đã bị phá hủy hoặc sử dụng cho mục đích khác, làm mất đi mục
đích sử dụng ban đầu và làm sai lệch giá trị văn hóa của chúng. Ví dụ, Đình Tân Lân
ở Biên Hòa, được xây dựng vào cuối thế kỷ XVIII với kiến trúc còn nguyên vẹn, đã bị
sử dụng một phần làm trường mẫu giáo (cho đến năm 1999). Nhà Minh Phụng ở
TP.HCM, được xây dựng vào giữa thế kỷ XIX, bị sử dụng một phần làm rạp hát, sau
đó làm kho bột mì. Đình Vĩnh Bình ở Gò Công Tây, Tiền Giang, xây dựng vào giữa
thế kỷ XIX với kiến trúc còn nguyên vẹn, đã bị phá hủy hoàn toàn để xây dựng khách
sạn. Điều này làm mất đi một phần quan trọng của di sản văn hóa và lịch sử của địa
phương. Do đó, có thể khẳng định rằng kiến trúc đình trong giai đoạn này chỉ còn là
những chứng tích văn hóa - lịch sử, không được xây mới cũng như sửa chữa, thậm chí
bị phá hủy, gây ra sự mai một hầu hết.
Sau thời kỳ đổi mới, hoạt động sinh hoạt lễ hội đình và kiến trúc đình đã được phục
hồi. Một số ít ngôi đình đã được sửa chữa lớn nhằm đáp ứng nhu cầu hướng về văn
hóa nguồn cội của nhân dân trong nước và Việt kiều trong thời đại mới. Tuy nhiên, đa
số chỉ dừng lại ở mức độ hình thức mà không đi sâu vào cải thiện chất lượng. Một số
phần kiến trúc nguyên gốc được giữ lại ở một số đình nổi tiếng, nhưng hầu hết sau
những lần sửa chữa, kiến trúc đình thường được thay đổi theo kỹ thuật xây dựng hiện
đại, sử dụng bê tông khá phổ biến.
4. Khẳng định vai trò, giá trị của ngôi đình trong đời sống
4.1. Ngôi đình là chỗ dựa tinh thần cho nhân dân
Đình đóng vai trò rất quan trọng đối với cộng đồng dân cư, là nơi mà họ gửi gắm niềm
tin và mong ước về mọi điều trong cuộc sống, đặc biệt là về mặt tôn giáo. Đình ở
miền Nam Bộ thường dành sự tôn kính đặc biệt cho các thần thành hoàng bổn cảnh,
những vị được coi là bảo hộ cho làng và được thờ phụng cùng các tiền hiền, hậu hiền -
những người có công trong việc xây dựng và phát triển cộng đồng. Ngoài ra, các thần
thánh ở đình cũng rất gần gũi với người dân, từ thần tài, Ngũ hành nương nương, Cửu lOMoAR cPSD| 40190299
thiên huyền nữ đến Quan Công, cùng với thành hoàng bổn cảnh. Mỗi vị thần đều đại
diện cho các khía cạnh khác nhau trong cuộc sống và đảm bảo sự an lành và may mắn
cho dân làng qua mọi khó khăn, đồng thời mang lại sự hòa thuận và thành công trong
công việc và cuộc sống hàng ngày. Mọi người đến đình để đặt niềm tin và cầu khẩn
những điều tốt lành từ các vị thần, mong muốn được bình an trong tinh thần và trong cuộc sống.
4.2. Ngôi đình là trung tâm sinh hoạt văn hóa cộng đồng
Ngôi đình không chỉ là biểu hiện của sự gắn bó tình cảm mà còn là biểu tượng của sự
đoàn kết và sự đồng lòng của cộng đồng, là nơi tập trung mọi sinh hoạt văn hóa trong
làng. Đây là nơi mà các dân làng tụ họp để bàn bạc về công việc chung, cũng như là
trung tâm của các sinh hoạt văn hóa, tổ chức lễ hội và hát xướng. Hàng năm, các lễ
hội dân gian diễn ra trong ngôi đình với sự sôi động và hoành tráng, trong đó lễ hội
Kỳ Yên là một ví dụ điển hình. Lễ hội Kỳ Yên được coi là lễ hội chung của cả làng,
thu hút sự tham gia của mọi người dân trong làng, bất kể họ đang ở đâu. Sự hối hả và
náo nhiệt của lễ hội làng luôn là điểm nhấn với nhiều tiết mục biểu diễn nghệ thuật
truyền thống như diễn xướng dân gian, hát bội, hay hát chầu... Trong những buổi biểu
diễn văn nghệ, toàn bộ cộng đồng dân làng tụ tập tại ngôi đình, tạo nên một không
gian sôi động và hòa mình vào không khí vui tươi và hân hoan. Mọi người cùng nhau
tham gia vào múa hát và thực hiện các nghi lễ truyền thống, tạo nên những khoảnh
khắc đáng nhớ và đậm chất văn hóa.
Ngoài việc là nơi diễn ra các hoạt động văn nghệ, ngôi đình còn đóng vai trò quan
trọng là nơi họp mặt của cộng đồng. Tại đây, mọi người có cơ hội thảo luận và đưa ra
quyết định về những vấn đề quan trọng như việc tu sửa đình, tổ chức ngày hội, tang lễ,
hợp thân, và cả việc tổ chức các lớp học và trao đổi kinh nghiệm trong lĩnh vực sản
xuất. Tất cả những hoạt động này không chỉ là dịp để cùng nhau vui vẻ mà còn là biểu
hiện rõ nét của sự đoàn kết và sâu sắc trong cộng đồng làng.
4.3. Ngôi đình là trung tâm lưu giữ các giá trị lịch sử, văn hóa
Ngôi đình là biểu tượng của nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc đặc trưng của cộng
đồng người Việt Nam Bộ. Từ cổng đình đến kiến trúc chính điện, mỗi chi tiết và công
trình đều phản ánh sự tinh tế và sáng tạo từ bàn tay điêu luyện của các nghệ nhân.
Ngôi đình không chỉ là nơi thờ tự mà còn là bảo tàng của những giá trị văn hóa đặc trưng của dân tộc. lOMoAR cPSD| 40190299
Nghệ thuật điêu khắc trong đình Nam Bộ thường rất cầu kỳ và được trang trí bằng sơn
vàng lộng lẫy. Các nghệ nhân thường sử dụng tay điêu luyện để tạo ra những tác
phẩm điêu khắc phong phú, tái hiện cuộc sống, lao động, và cảnh quan thiên nhiên của
đất nước. Phù điêu thường được sử dụng để trang trí các thành phần kiến trúc như cửa
võng, cột đình, hoành phi câu đối, và các khung tam giác. Chủ đề phổ biến của các tác
phẩm điêu khắc trong đình là về linh thú và động vật, thể hiện sự sâu sắc và phong
phú của tín ngưỡng văn hóa dân gian. Rồng thường là hình tượng trung tâm, được sử
dụng để trang trí ở nhiều vị trí khác nhau trong đình. Ngoài ra, các cây cỏ như sen
cũng chiếm vị trí quan trọng trong nghệ thuật điêu khắc trang trí của đình, thường
được kết hợp với các mô típ như tùng, cúc, trúc, mai để tạo ra những tác phẩm tuyệt vời.
Ngoài nghệ thuật điêu khắc, diễn xướng là một phần không thể thiếu trong các ngày lễ
hội ở miền Nam. Hát bội là một loại hình diễn xướng phổ biến, thường được tổ chức
ngay trong đình và mang tính cảnh sát, linh thiêng. Hát bội không chỉ là hình thức giải
trí mà còn là cách thể hiện lòng thành kính và tôn trọng đối
với thần linh. Tất cả những điều này thể hiện sự phong phú và đa dạng của văn hóa
dân gian miền Nam, cần được bảo tồn và phát triển. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. NGUYỄN THỊ MINH NGỌC. Ngôi đình trong đời sống văn hóa của người việt tây
nam bộ https://vhnt.org.vn/ngoi-dinh-trong-doi-song-van-hoa-cua-nguoi-viet-tay- nam-bo/
2. TS.KST. Phạm Anh Dũng (2013), Kiến trúc Đình Chùa Nam Bộ. Nxb Xây Dựng CÂU HỎI
1. Trong giai đoạn nào, kiến trúc đình ở Nam Bộ đã phát triển mạnh mẽ
nhất? a) Giai đoạn trước năm 1698
b) Giai đoạn từ 1698 đến khởi nghĩa Tây Sơn (1776)
c) Giai đoạn văn hóa Đại Nam (Tây Sơn & Nguyễn)
d) Giai đoạn giao lưu văn hóa phương Tây
2. Những hoạt động nào thường được tổ chức tại ngôi đình trong cộng đồng dân
cư? a) Hội thảo triển khai chính sách mới
b) Lễ hội hàng năm như lễ Kỳ Yên
c) Hội nghị thường kỳ của chính quyền địa
phương d) Các cuộc biểu tình và protest lOMoAR cPSD| 40190299
3. Vì sao ngôi đình được coi là trung tâm lưu giữ các giá trị lịch sử, văn
hóa? a) Do ngôi đình là nơi tập trung các quan chức và nhà lãnh đạo
b) Vì kiến trúc của ngôi đình thường được xây dựng bằng đá quý và
vàng c) Vì ngôi đình là nơi thờ phụng các vị thần và tiền hiền có công
đất nước d) Vì ngôi đình thường tổ chức các cuộc triển lãm nghệ thuật