Nội dung về Pháp luật phong kiến Tây Âu | Đại học Nội Vụ Hà Nội
v Các quy định liên quan đến luật dân sự:· Các quan hệ pháp lý về tài sản- Về quyền sở hữu ruộng đất:+ Từ thế kỷ 5 đến 6, do người Frăng vừa thoát thai khỏi chế độ công xã thị tộc nênở buổi ban đầu của chế độ phong kiến, quyền sở hữu ruộng đất ở công xã có 2 hình thức:Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem.
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45469857
2.2. Nội dung của pháp luật phong kiến Tây Âu:
v Các quy định liên quan đến luật dân sự:
· Các quan hệ pháp lý về tài sản
- Về quyền sở hữu ruộng đất:
+ Từ thế kỷ 5 đến 6, do người Frăng vừa thoát thai khỏi chế độ công xã thị tộc nên ở
buổi ban đầu của chế độ phong kiến, quyền sở hữu ruộng đất ở công xã có 2 hình thức:
· Thuộc quyền sở hữu chung của công xã đối với ruộng đất canh tác. Công xã tiến
hành việc phân chia ruộng canh tác cho các thành viên của mình. Đến thời hạn nhất
định nông dân phải trả lại cho công xã để phân chia lại.
· Thuộc quyền sở hữu tư nhân đối với nhà cửa, vườn tuợc xung quanh nhà. Theo bộ
luật Xa Lích, ruộng đất được chia cho các thành viên công xã và được cha truyền
con nối, tuy nhiên ruộng đất chỉ có thể chuyển cho con trai. Nếu người chết không
có con trai thì phải trả ruộng đất lại cho công xã.
+ Đến đời vua Sinpê Rich (561 – 584), Nhà Vua quy định nếu người chết không có
con trai, ruộng đất được quyền để lại cho con gái, không phải trả lại cho công xã nữa.
Đây là một bước quá độ để chuyển sang chế độ tư hữu về ruộng đất. lOMoAR cPSD| 45469857
+ Thế kỷ 6, 7 quyền sở hữu ruộng đất của công xã bị tan rã, đất đai thuộc quyền sở
hữu của người được phân phối (nông dân).
+ Trên danh nghĩa, toàn bộ lãnh thổ của vương quốc là tài sản của Nhà Vua, Nhà Vua
phân phong cho các thần thuộc của mình. Dần dần, các thần thuộc biến ruộng đất
được phân phong thành ruộng đất tư hữu. Từ thế kỷ 9, 10 trở về sau, ruộng đất này
trở thành lãnh địa và thuộc toàn quyền sở hữu của lãnh chúa phong kiến. Trên phần
ruộng đất được phân phong, các quan hệ pháp lý về ruộng đất do các lãnh chúa quy
định (quy định về hợp đồng mua bán, chuyển nhượng ruộng đất giữa các chủ đất,
việc lĩnh canh ruộng đất, các nghĩa vụ của nông nô đối với lãnh chúa, quy định về
thủ tục thừa kế ruộng đất… Những quy định này đều thể hiện nguyên tắc “Không
đất nào là không có chủ”). Dần dần những quy định này trở thành tập quán pháp.
- Đối với việc sở hữu các tài sản khác:
+ Bộ luật Xa Lích thừa nhận chế độ tư hữu về động sản. Vấn đề này được phản ánh
qua những điều khoản quy định các hình phạt đối với các tội trộm cắp hoặc gây thiệt
hại đến gia súc, hoa màu của người khác.
+ Đến thế kỷ 11, 12, trong các thành phố tự trị kinh tế công thương nghiệp phát triển,
các thành phố này bắt đầu viện dẫn pháp luật La Mã để giải quyết các vấn đề liên
quan đến lĩnh vực hợp đồng, trái vụ như các loại hợp đồng mua bán, tặng cho, đổi lOMoAR cPSD| 45469857
chác, thuê mướn, ủy thác… do đó, => pháp luật của các thành thị trong thời kỳ này rất phát triển.
· Luật lệ về hôn nhân gia đình:
- Bộ luật Xa Lích nghiêm cấm tục cướp vợ hoặc mua bán vợ. Bộ luật quy định trong
thủ tục kết hôn, người chồng phải tặng quà cưới cho vợ (thay cho tiền mua vợ). Sau
đó số tài sản này trở thành tài sản chung. lOMoAR cPSD| 45469857
- Theo phong tục, khi chồng chết để giữ lại toàn bộ số tài sản của dòng họ, người
phụ nữ goá phải kết hôn với anh hoặc em của chồng (chưa có vợ). Tuy nhiên, người
phụ nữ này được quyền lấy chồng khác với điều kiện: lOMoAR cPSD| 45469857
+ Phải được gia đình chồng cũ ưng thuận
+ Người chồng mới phải nộp cho gia đình chồng cũ một khoản tiền nhất định
- Về sau, luật hôn nhân gia đình chịu nhiều ảnh hưởng của thế lực nhà thờ và luật lệ
thiên chúa giáo. Luật lệ tôn giáo và luật pháp nhà nhà nước đều ngăn cấm việc ly hôn.
- Địa vị pháp lý của người phụ nữ có được cải thiện hơn so với trong thời chiếm hữu
nô lệ. Tuy nhiên, họ vẫn phải phụ thuộc vào người cha, người chồng và con trai;
ngoài xã hội phụ nữ có địa vị xã hội thấp kém hơn so với đàn ông cùng đẳng cấp.
Do bị ảnh hưởng của thế lực nhà thờ, giáo hội, càng ngày người phụ nữ càng bị mất
năng lực pháp lý về tài sản và bị áp dụng cực hình. Tuy nhiên ở một số địa phương
của nước Anh, người vợ được quyền quản lý tài sản của mình, ở miền Nam nước lOMoAR cPSD| 45469857
Pháp, người vợ được quyền lấy lại của hồi môn và được gia đình chồng cấp phần
đất riêng cho người phụ nữ goá chồng.
- Ở nông thôn, trai gái làng này bị cấm kết hôn với trai gái của làng khác, do đó
thường dẫn đến tình trạng loạn luân.
- Đối với nông nô, khi kết hôn phải có sự đồng ý của lãnh chúa. Nếu kết hôn với
nông nô của lãnh chúa khác thì phải nộp phạt tiền ngoại hôn. Con do hai nông nô
này sinh ra phải chia đều cho cả hai lãnh chúa. lOMoAR cPSD| 45469857
v Các quy định liên quan đến luật Hình sự:
· Tục trả nợ máu:
- Do bị ảnh hưởng của các phong tục tập quán trong thời kỳ công xã nguyên
thủy,trong giai đoạn đầu của chế độ phong kiến, tục trả nợ máu vẫn còn tồn tại khá đậm nét.
- Bộ luật Xa Lích quy định:
+ Nếu tội phạm không đủ tiền nộp phạt và cũng không có người nộp thay thì phải
mang mạng sống của mình ra chịu tội.
+ Đối tượng phải trả nợ máu là chính kẻ giết người hoặc con trai của người đó.
+ Người được trả thù chỉ có thể là cha, con trai, anh em trai của nạn nhân + Quy định
thời gian chờ trả thù nhằm làm giảm bớt tính hung hãn của gia đình người bị hại và
tạo điều kiện cho tội phạm có tiền nộp để chuộc tội (ví dụ ở Anh, thời gian chờ trả thủ là 12 tháng). lOMoAR cPSD| 45469857
· Nộp tiền chuộc tội -
Theo bộ luật Xa Lích, bất cứ tội phạm nào cũng được phép dùng tiền để chuộc
tội (trừ những tội phạm bị xem là trọng tội: tội phản quốc, tội chống lại giáo hội…)
- Ban đầu, mức tiền nộp phạt tùy thuộc vào sự thoả thuận của hai bên. Về sau, bộ
luật quy định mức phạt cụ thể (ví dụ: trộm chó: 15 xôlidút, trộm ngựa: 45 xôlidút,
xúc phạm người frăng tự do: 30 xôlidút, giết chết người frăng tự do: 200 xôlidút, giết
chết phụ nữ mang thai: 600 đến 700 xôlidút). ½ số tiền nộp phạt được chia cho gia
đình bị hại, ½ còn lại sung vào công quỹ. -
Luật cho phép họ hàng của tội phạm được nộp tiền thay và tội phạm sẽ trở
thành nô lệ cho người đã nộp phạt thay mình. Nhưng đến thế kỷ 6, luật cấm người
khác nộp phạt thay, tội phạm phải tự mình bỏ tiền ra để chuộc tội và mức tiền nộp
phạt tùy thuộc vào địa vị của người bị hại. Nếu tội phạm là kẻ giết người mà không
chịu nộp phạt hoặc không có tiền nộp phạt thì sẽ bị tử hình. lOMoAR cPSD| 45469857 -
Đối với những tội phản quốc, không trung thành với nhà vua hoặc lãnh chúa
phong kiến, chống lại nhà thờ và luật lệ tôn giáo, trộm cắp tài sản của nhà nước hay
của nhà thờ… đều bị coi là trọng tội. Tất cả những trọng tội đều không được dùng
tiền chuộc mà phải chịu án tử hình. Phương thức thực hiện án tử hình rất tàn bạo
như: chém đầu, treo cổ, hoả thiêu, làm cho tội phạm chết dần trong đau đớn… Tuy
nhiên luật lại không quy định như thế nào là phản quốc, như thế nào là không trung
thành với nhà vua… do đó, đối với những loại tội phạm này, quan toà thường xét xử tùy tiện, chủ quan. lOMoAR cPSD| 45469857 lOMoAR cPSD| 45469857
· Hình phạt: - Tính chất giai cấp trong pháp luật phong kiến thể hiện rõ trong việc
quy định hình phạt. Tùy theo thân phận và địa vị của người phạm tội và người bị hại, lOMoAR cPSD| 45469857
pháp luật quy định mức hình phạt khác nhau. Ví dụ: giết một người có địa vị cao thì
phải nộp phạt gấp 3 đến 4 lần mức bình thường, tiền phạt tội bắt trộm nô lệ bằng mức
tiền phạt tội bắt trộm con ngựa hay con bò, nếu người dân tự do và người nô lệ phạm
tội như nhua thì người dân tự do chuộc tội bằng tiền, còn người nô lệ thì thì bị thể xác.
v Pháp luật về tố tụng và tư pháp: · Toà án: -
Trong thời kỳ phong kiến, quyền tư pháp thuộc về cả nhà vua, giáo hội và
cáclãnh chúa phong kiến. Tuỳ từng thời kỳ khác nhau mà quyền tư pháp của các thế
lực có vai trò khác nhau.
+ Thế kỷ 6 đến thế kỷ 10, quyền tư pháp của các lãnh chúa lớn mạnh. Nhà vua chỉ
có quyền xét xử trên phần đất của vương triều.
+ Thế kỷ 11 đến 14, nhà vua tìm mọi cách hạn chế bớt quyền lực của các lãnh chúa
phong kiến, tăng cường quyền lực của mình. Do đó, phạm vi và thẩm quyền xét xử
của toà án nhà vua ngày càng được mở rộng. lOMoAR cPSD| 45469857
+ Thế kỷ 15, 16 quyền tư pháp của các lãnh chúa phong kiến bị suy yếu và dần dần
bị loại trừ. Quyền xét xử trong cả nước thuộc về toà án của nhà vua. + Giáo hội có
quyền lập ra những “toà án tôn giáo thiêng liêng” để xét xử những người bị coi là dị
giáo, chống lại giáo hội… -
Trong thời kỳ hưng thịnh của chế độ phong kiến, một nguyên tắc hoạt động
phổbiến của toà án là người xét xử phải có tài sản ít nhất bằng tài sản của của người bị xét xử.
· Tổ chức luật sư -
Tổ chức luật sư đã từng xuất hiện trong thời kỳ La Mã cổ đại, đến thời kỳ
phongkiến tổ chức này hoạt động như những ngành nghề trong xã hội và có vai trò
quan trọng trong đời sống chính trị – xã hội.
· Viện công tố -
Ban đầu, viện công tố do nghị viện thành lập và trực thuộc nghị viện. Ủy
viêncông tố phải là thành viên của Nghị Viện. Về sau, Viện Công tố tách khỏi Nghị
Viện thành một cơ quan độc lập. -
Viện Công tố có chức năng theo dõi ngân khố quốc gia và giám sát công việc tốtụng hình sự.