Ôn tập | Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học| Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM

Các ví dụ cụ thể về việc áp dụng CNSKH trong thực tiễn, bao gồm các nền kinh tế xã hội hiện đại. Đánh giá hiệu quả và những hạn chế của việc thực hiện CNSKH trong các quốc gia và khu vực cụ thể.

Thông tin:
28 trang 7 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Ôn tập | Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học| Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM

Các ví dụ cụ thể về việc áp dụng CNSKH trong thực tiễn, bao gồm các nền kinh tế xã hội hiện đại. Đánh giá hiệu quả và những hạn chế của việc thực hiện CNSKH trong các quốc gia và khu vực cụ thể.

77 39 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 15962736
Ôn tp
Ch Nghĩa Xã Hội Khoa Học (Đại hc Khoa hc Xã hội và Nhân văn, Đại hc Quc
gia Thành ph H Chí Minh)
lOMoARcPSD| 15962736
Nội dung 1: Quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về giai cấp
công nhân và sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân.
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội, hình
thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện
đại. Họ lao động bằng phương thức công nghiệp ngày càng hiện đại và gắn
liền với quá trình sản xuất vật chất hiện đại, là đại biểu cho phương thức sản
xuất mang tính xã hội hóa ngày càng cao. Họ là người làm thuê do không có
tư liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động để sống và bị giai cấp tư sản
bóc lột giá trị thặng dư, vì vậy lợi ích cơ bản của họ đối lập với lợi ích cơ
bản của giai cấp tư sản. Đó là giai cấp có sứ mệnh phủ định chế độ tư bản
chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản
trên toàn thế giới.
Lưu ý rằng ngày nay, trong chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân không
còn vô sản như trước nữa, họ đã có sở hữu tư liệu sản xuất nhỏ; có cổ phần,
cổ phiếu trong nhà máy, xí nghiệp tư bản chủ nghĩa, có phúc lợi xã hội.
Tuy nhiên sở hữu tư liệu sản xuất và cổ phần của công nhân chỉ chiếm một
tỉ lệ nhỏ. Phần lớn tư liệu sản xuất và cổ phần vẫn thuộc về các nhà tư bản.
Vì vậy, về cơ bản, giai cấp công nhân vẫn không có tư liệu sản xuất, vẫn
phải làm thuê cho nhà tư bản, và vẫn bị bóc lô.
Về đặc điểm của giai cấp công nhân theo chủ nghĩa Mác-Lênin là sản phẩm
của nền đại công nghiệp; lao động bằng phương thức công nghiệp mang tính
chất xã hội hóa cao; là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất hiện đại; có
tính tổ chức, kỷ luật cao trong lao động, tinh thần hợp tác và tâm lý lao động
công nghiệp; là giai cấp tiên tiến, có tinh thần cách mạng triệt để; là giai cấp
có bản chất quốc tế.
mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, sẽ xuất hiện một giai cấp đứng ở vị trí
trung tâm, là lực lượng xã hội chính đấu tranh xóa bỏ xã hội cũ lạc hậu,
xây dựng xã hội mới tiến bộ hơn. Vị trí, vai trò đó được gọi là Sứ mệnh
lịch sử của một giai cấp.
Nội dung sứ mệnh lịch sử là: Thông qua đội tiền phong Đảng Cộng sản,
giai cấp công nhân tổ chức lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng mình và
giải phóng toàn xã hội khỏi mọi áp bức, bất công, xóa bỏ các chế độ áp bức,
bóc lột, bất công, xóa bchủ nghĩa bản để xây dựng chủ nghĩa hội
chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới.
Để thực hiện sứ mệnh lịch sử trên, giai cấp công nhân cần phải trải qua hai
giai đoạn là giành chính quyền và xây dựng, bảo vệ chính quyền. Giai đoạn
1 là giai cấp công nhân đấu tranh giành chính quyền về tay mình. Lênin đã
từng nói: “Giành chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng”.
Phương thức giành chính quyền: Sử dụng bạo lực cách mạng là chính. Ngoài
ra, muốn giành chính quyền đòi hỏi phải có tình thế cách mạng và thời cơ
cách mạng. Tình thế cách mạng là khi giai cấp thống trị tỏ ra suy yếu, không
thể duy trì được nền thống trị của mình như cũ; sự bất bình và lòng phẫn nô
của các giai cấp bị trị công khai và gay gắt; giai cấp lãnh đạo cách mạng đủ
năng lực lãnh đạo, phát đông
được cuôc
đấu tranh cách mạng của quần
chúng nhân dân bị áp bức chống lại giai cấp thống trị. Thời cơ cách mạng là
thời điểm mà ở trong nước giai cấp thống trị tỏ ra hoang mang cao đôdo sự
lOMoARcPSD| 15962736
lớn mạnh của phong trào cách mạng; lực lượng lãnh đạo cách mạng đã sn
sàng cho cuôc
quyết chiến giành chính quyền. Ở bên ngoài, phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân quốc tế ủng hôcách mạng, tạo điều kiê cho
cách mạng bùng nổ và giành thắng lợi. Giai đoạn 2 là khi giai cấp vô sản và
người dân lao động sử dụng chính quyền của mình để cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới về mọi mặt (kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, v.v..)
nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Lực lượng của cách mạng xã hội chủ nghĩa là toàn thể quần chúng nhân dân
lao động (công nhân, nông dân, các lực lượng tiến bộ xã hội) đang mâu
thuẫn với giai cấp tư sản, đang có nhu cầu được giải phóng khỏi chế độ áp
bức, bóc lột...
Trong đó:
Giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo, là động lực chủ yếu trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Giai cấp nông dân là một động lực quan trọng trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa, nhất là ở những nước có lực lượng nông dân đông trong xã hội.
Ngoài ra, động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa còn là các giai cấp, tầng
lớp, lực lượng tiến bộ khác trong xã hội (trí thức, tư sản, tiểu tư sản tiến bộ,
v.v…).
Nội dung cụ thể sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân gồm có 3 nội
dung chính:
Nội dung kinh tế: giai cấp công nhân là lực lượng sản xuất cơ bản sản xuất
ra của cải cho xã hội xã hội chủ nghĩa.
Nội dung chính trị: Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công
nhân tiến hành đấu tranh giành chính quyền, xây dựng nhà nước mới của
nhân dân.
Nội dung văn hóa–xã hội: Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp
công nhân xây dựng nền văn hóa, con người mới với tư tưởng, đạo đức xã
hội chủ nghĩa.
Đăc
điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là:
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất phát từ những tiền đề kinh tế
- xã hội của sản xuất mang tính xã hội hóa.
Thực hiê sứ mệnh lịch sử là sự nghiêp
của bản thân giai cấp công nhân
cùng đông đảo nhân dân lao động do Đảng Cộng sản lãnh đạo và mang lại
lợi ích cho đa số.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không phải là thay thế chế độ sở
hữu tư nhân này bằng môchế độ sở hữu tư nhân khác mà là xóa bỏ triêđể
chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu (xóa bỏ triệt để
chế độ người bóc lột người). Giành quyền lực thống trị là tiền đề cải tạo xã
hội cũ, xây dựng xã hội mới nhằm giải phóng con người.
Về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện nay,
lOMoARcPSD| 15962736
giai cấp công nhân hiện nay có những điểm tương đồng so với giai cấp công
nhân thế kỷ XIX: Vẫn là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội hiện đại;
vẫn bị giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản bóc lột giá trị thặng dư; xung đột
lợi ích cơ bản giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân (giữa tư bản và lao
động) vẫn tồn tại; đi đầu đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên vẫn
có những biến đổi và khác biệt của giai cấp công nhân hiện đại: Xu hướng
trí tuệ hoá giai cấp công nhân (công nhân tri thức); tham gia vào sở hữu
(trung lưu hóa); biểu hiện mới về xã hội hoá lao động; ở một số nước xã hội
chủ nghĩa, giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp lãnh đạo thông qua đội
tiền phong là Đảng Cộng sản.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ngày nay so với thế kỉ XIX
có những sự khác biệt:
Nội dung kinh tế: Vẫn là lực lượng giữ vai trò sản xuất vật chất chủ yếu
cho xã hội, quyết định sự tồn tại của xã hội.
Nội dung chính trị:
các nước định hướng xã hội chủ nghĩa: là giai cấp lãnh đạo nhân dân xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
các nước tư bản chủ nghĩa: đi đầu trong các cuộc đấu tranh chống áp
bức, bất công, áp đặt của chủ nghĩa đế quốc; chống nghèo đói, ô nhiễm môi
trường
Nội dung văn hóa – xã hội: Lãnh đạo hoặc đi đầu trong xây dựng một
nền văn hóa tiến bộ vì công bằng, bình đẳng và quyền con người
Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay về lịch sử hình thành:
Được hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp; ra
đời trước giai cấp tư sản vào đầu thế kỷ XX; là lực lượng chính trị tiên
phong lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc; sớm giác ngôlý tưởng,
mục tiêu cách mạng; gắn bó mâthiết với các tầng lớp nhân dân trong xã hội;
đại bôphâ xuất thân từ nông dân và các tầng lớp lao đông; là sản phẩm và
là lực lượng đi đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; lao động
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đa dạng về trình
độ công nghệ, về thành phần kinh tế và về lợi ích; số lượng: khoảng 16 triệu
(6/2018); chiếm 21% tổng số lao động và 11% dân số.
Giai cấp công nhân Việt Nam có nhiều ưu thế về chính trị: Sớm tiếp thu
chủ nghĩa Mác- Lênin, có Đảng và có lãnh tụ sáng suốt; vững vàng về
chính trị, tư tưởng; được rèn luyện, có bản lĩnh chính trị; là nòng cốt, đi đầu
trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc và quá trình đổi mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; “Là giai cấp kiên quyết nhất, cách mạng nhất, đi
đầu trong đấu tranh cách mạng” - Hồ Chí Minh. Ngoài ra, giai cấp công
nhân còn có quan hệ mật thiết với dân tộc, nhất là giai cấp nông dân: Gắn
bó lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc; nhận rõ kẻ thù của giai cấp và dân tộc
là một; sớm trở thành giai cấp lãnh đạo dân tộc.
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay: là giai
cấp lãnh đạo thông qua đôịtiên phong Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diê
cho phát triển sản xuất tiên tiến; tiên phong trong sự nghiêp
xây dựng ch
lOMoARcPSD| 15962736
nghĩa xã hội; lực lượng đi đầu trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa); lực
lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đôịngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay và vấn đề đặt ra: Là lực
lượng sản xuất hàng đầu của Việt Nam song chưa chiếm đa số trong dân cư
và lao động; phân hoá khá sâu sắc (2 chiều) trong kinh tế thị trường, hội
nhập quốc tế; trình độ văn hóa, tay nghề, công nghệ... chưa đáp ứng yêu cầu
cao của công nghiệp hóa, hiện đại hóa; giác ngộ chính trị chưa đồng đều,
một bộ phận chưa ngang tầm với vị trí tiền phong; đào tạo và sử dụng công
nhân nhiều bất cập; việc làm và đời sống của công nhân còn khó khăn; nhiều
tổ chức chính trị - xã hội của công nhân còn non yếu; một bộ phận giới chủ
trong các doanh nghiệp FDI, tư nhân… thể hiện “mặt đối lập” với công
nhân; một bộ phận công nhân trong các thành phần kinh tế tư nhân, nước
ngoài đang bị bóc lột khá nặng nề, bộc lộ tâm lý làm thuê, nô lệ, sự cạnh
tranh, nỗi thất vọng, sự vùng dậy… lao động của họ có biểu hiện đang bị tha
hóa; nguy cơ “4 hóa” của một bộ phận công nhân (Công đoàn Trung Quốc)
sẽ là hiện thực: làm thuê hóa, bần cùng hóa, vô quyền hóa, phân tán hóa
Quan điểm về phương hướng và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt
Nam hiện nay: Kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo
cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; phát huy
sức mạnh của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; chiến lược xây dựng giai cấp công nhân
lớn mạnh phải gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế; đào tạo, bồi
dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, không ngừng trí thức hóa
giai cấp công nhân là một nhiệm vụ chiến lược; xây dựng giai cấp công
nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội
cũng như sự nỗ lực vươn lên của bản thân mỗi người công nhân.
Về giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, đầu tiên cần
phải nâng cao nhận thức trong Đảng, tổ chức công đoàn, bản thân giai cấp
công nhân và trong toàn xã hội về vai trò (sứ mệnh lịch sử) của giai cấp công
nhân; tăng cường “trí thức hóa” công nhân; xây dựng, củng cố các tổ chức
chính trị trong các doanh nghiệp, nhà máy, nhất là các doanh nghiệp ngoài
nhà nước; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; hoàn thiện luật đầu tư
(thu hút đầu tư nhưng phải bảo vệ lợi ích người lao động).
Nội dung 2: Quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về thời kỳ quá đ
lên Chủ nghĩa xã hội. Đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gôta” (1875), C.Mác đã cho
rằng: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời
kỳ cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy
không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô
sản”. Khẳng định quan điểm của C.Mác, V.I Lênin đã cho rằng: “Về lý luận,
không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản,
có một thời kỳ quá độ nhất định”. Sau này, từ thực tiễn nước Nga. V.I Lênin
cho rằng, đối với những nước chưa có chủ nghĩa tư bản phát triển
lOMoARcPSD| 15962736
cao “cần phải có thời kỳ quá độ lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội”.
Vậy nên, về mặt lý luận và thực tiễn, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa cộng sản, được hiểu theo hai nghĩa: thứ nhất, đối với các
nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển, giữa chủ nghĩa tư bản và ch
nghĩa cộng sản có một thời kỳ quá độ nhất định, là thời kỳ cải biến cách
mạng từ xã hội này sang xã hội kia, là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa cộng sản; thứ hai, đối với các nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản
phát triển, cần thiết phải có thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội - những cơn đau đẻ kéo dài.
Khẳng định tính tất yếu của thời kỳ quá độ, đồng thời các nhà sáng
lập chủ nghĩa xã hội khoa học cũng phân biệt có hai loại quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa cộng sản: 1) Quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa cộng sản đối với các nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển.
Cho đến nay thời kỳ quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa cộng sản từ chủ nghĩa tư
bản phát triển chưa từng diễn ra; 2) Quá độ gián tiếp từ chủ nghĩa tư bản
phát triển đối với các nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển. Trong
một thế kỷ qua, trên thế giới kể cả Liên Xô và các nước Đông u trước đây;
Trung Quốc, Việt Nam và một số nước xã hội chủ nghĩa khác ngày nay,
theo đúng lý luận Mác Lênin, đều đang trải qua thời kỳ quá độ gián tiếp với
những trình độ phát triển khác nhau.
Về xã hội của của thời kỳ quá độ, đó là xã hội đan xen của nhiều tàn
dư về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần của chủ nghĩa tư bản và
những yếu tố mới mang tính chất xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa xã hội mới
phát sinh chưa phải là chủ nghĩa xã hội đã phát triển trên cơ sở ca chính nó.
Đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ
cải tạo cách mạng sâu sắc, triệt để xã hội tư bản chủ nghĩa trên tất cả lĩnh
vực, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, xây dựng từng bước cơ sở vật chất -
kỹ thuật và đời sống tinh thần của chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ lâu dài,
gian khổ bắt đầu từ khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được
chính quyền đến khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Về phương diện kinh tế, tất yếu tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó
còn thành phần đối lập. Tương ứng với nước Nga, V.I Lênin cho rằng thời
kỳ quá độ tồn tại 5 thành phần kinh tế: Kinh tế gia trưởng; kinh tế hàng hóa
nhỏ, kinh tế tư bản; kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Về phương diện chính trị, là việc thiết lập, tăng cường chuyên chính vô sản
mà thực chất của nó là việc giai cấp công nhân nắm và sử dụng quyền lực
nhà nước trấn áp giai cấp tư sản, xây dựng một xã hội không giai cấp. Đây là
sự thống trị về thống trị của giai cấp công nhân với chức năng thực hiện dân
chủ đối với nhân dân, tổ chức xây dựng và bảo vệ chế độ mới, chuyên chính
với những phần tử thù địch, chống lại nhân dân.
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phương diện tư
tưởng - văn hóa, còn tồn tại nhiều tư tưởng khác nhau. Giai cấp công nhân
thông qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản từng bước xây dựng
văn hóa vô sản, nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị văn giá trị
lOMoARcPSD| 15962736
dân tộc là tinh hoa nhân loại, đảm bảo đáp ứng nhu cầu văn hóa - tinh
thần ngày càng tăng của nhân dân.
Về phương diện xã hội, do kết cấu của nền kinh tế nhiều thành phần quy
định nên trong thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp và sự khác
biệt giữa các giai cấp tầng lớp xã hội, các giai cấp, tầng lớp vừa hợp tác,
vừa đấu tranh với nhau. Bởi vậy, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội là thời kỳ đấu tranh giai cấp chống áp bức, bất công, xóa bỏ tệ
nạn xã hội và những tàn dư của xã hội cũ để lại, thiết lập công bằng xã hội
trên cơ sở thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động là chủ đạo.
Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện vừa thuận lợi vừa khó
khăn đan xen, và có những đặc trưng cơ bản: Việt Nam xuất phát từ một xã
hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp, trải qua
chiến tranh ác liệt kéo dài nhiều thập kỷ, tàn dư thực dân và phong kiến còn
nhiều; Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh
mẽ, cuốn hút tất cả các nước ở mức độ khác nhau, nền sản xuất vật chất và
đời sống xã hội đang trong quá trình quốc tế hóa sâu sắc, những xu thế đó
vừa tạo thời cơ phát triển nhanh cho các nước như Việt Nam, vừa đặt ra
những thách thức sâu sắc; Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh của nhân dân các nước
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù đang gặp
nhiều khó khăn, thách thức song theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài
người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh năm 1930 của Đảng đã chỉ rõ: Sau khi hoàn thành cách mạng
dân tộc, dân chủ nhân dân, sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là lựa chọn
dứt khoát và đúng đắn của Đảng, đáp ứng nguyện vọng thiết tha của dân
tộc, nhân dân, phản ánh xu thế phát triển của thời đại, phù hợp với quan
điểm khoa học, cách mạng và sáng tạo của chủ nghĩa Mác Lênin.
Hơn nữa, đặc điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam là bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa, như Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định:
Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu,
kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Đây tưởng mới, phản ánh nhận thức mới, duy mới của Đảng ta
về con đường đi lên chủ nghĩa hội bỏ qua bản chủ nghĩa. Tư tưởng
này cần được hiểu đầy đủ với những nội dung sau đây:
Thứ nhất, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con
đường cách mạng tất yếu khách quan, con đường xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thức hai, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tức là
bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng tư bản chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là trong thời kỳ quá độ còn nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, song sở hữu tư nhân tư bản chủ
lOMoARcPSD| 15962736
nghĩa và thành phần kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa không đóng vai trò
chủ đạo; thời kỳ quá độ còn nhiều hình thức phân phối, ngoài phân phối
theo lao động còn phân phối theo mức độ đóng góp và quỹ phúc lợi xã hội;
thời kỳ quá độ vẫn còn quan hệ bóc lột và bị bóc lột, song quan hệ bóc lột tư
bản chủ nghĩa không giữ vai trò thống trị.
Thứ ba, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đòi
hỏi phải tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới
chủ nghĩa tư bản.
Thứ tư, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là tạo ra
sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả lĩnh vực, là nghiệp rất khó khăn,
phức tạp, lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã
hội có tính chất quá độ đòi hỏi phải có quyết tâm, chính trị khát vọng lớn
của toàn Đảng, toàn dân.
Nội dung 3: Quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về đặc trưng của chủ
nghĩa xã hội. Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chủ nghĩa xã hội khoa học được hiểu theo nghĩa rộng là chủ nghĩa Mác
Lênin, luận giải từ các giác độ triết học, kinh tế học chính trị và chính trị -
xã hội về sự chuyển biến tất yếu của xã hội loài người từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa xã hội khoa
học góp phần quan trọng trong việc giáo dục niềm tin khoa học cho nhân
dân vào mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội.
Chủ nghĩa xã hội được tiếp cận trên một số cấp độ sau đây: 1) Là phong
trào thực tiễn, phong trào đấu tranh của nhân dân chống lại áp bức, bất
công, chống lại các giai cấp thống trị; 2) Là phong trào tư tưởng, lý luận
phản ánh lý tưởng giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức, bóc lột, bất
công; 3) Là một khoa học - Chủ nghĩa xã hội khoa học, khoa học về sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân; 4) Là một chế độ xã hội tốt đẹp, giai
đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Khi nghiên cứu về hình thái kinh tế - xã hội chủ nghĩa, các nhà sáng lập chủ
nghĩa xã hội khoa học rất quan tâm dự báo những đặc trưng của từng giai
đoạn đặc biệt là giai đoạn đầu ( giai đoạn thấp) của xã hội cộng sản nhằm
định hướng phát triển cho phong trào công nhân quốc tế. Căn cứ vào những
dự báo của C.Mác và Ph.Ăngghen và những quan điểm của V.I.Lênin về
chủ nghĩa xã hội nước Nga xô - viết, có thể khái quát những đặc điểm cơ
bản của chủ nghĩa xã hội như sau:
Chủ nghĩa xã hội giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội,
giải phóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện. Trong
tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, khi dự báo về xã hội tương lai, xã
hội cộng sản chủ nghĩa, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Thay cho xã
hội tư bản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện
một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện phát triển
tự do của tất cả mọi người”; khi đó “con người, cuối cùng làm chủ tồn tại
hội của chính mình, thì cũng do đó làm chủ tự nhiên, làm chủ cả bản thân mình
trở thành người tự do”. Đây là sự khác biệt về chất giữa hình thái
lOMoARcPSD| 15962736
kinh tế - hội cộng sản chủ nghĩa so với các hình thái kinh tế - hội ra
đời trước, thể hiện bản chất nhân văn, nhân đạo, sự nghiệp giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về tư hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
V.I.Lênin cho rằng; “từ chủ nghĩa tư bản, nhân loại chỉ có thể tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội, nghĩa là chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất và chế đ
phân phối lao động của mỗi người”. Đây là đặc trưng về phương diện kinh
tế của chủ nghĩa xã hội khoa học. Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là
giải phóng con người trên cơ sở điều kiện kinh tế - xã hội phát triển, mà xét
đến cùng là trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất hiện đại, quan hệ
sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, được tổ chức quản lý
có hiệu quả, năng suất lao động cao và phân phối chủ yếu theo lao động.
Chủ nghĩa xã hội là xã hội do nhân dân lao động làm chủ. Đây là đặc trưng
thể hiện thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã hội, xã hội vì con người và do
con người; nhân dân mà nòng cốt là nhân dân lao động là chủ thể của xã hội
thực hiện quyền làm chủ ngày càng rộng rãi và đầy đủ trong quá trình cải tạo
xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “...bước
thứ nhất trong cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp
thống trị là giành lấy dân chủ”. V.I.Lênin, từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Nga Xô viết đã coi chính quyền Xô viết là một kiểu Nhà nước
chuyên chính vô sản, một chế độ ưu việt gấp triệu lần so với chế độ dân chủ
tư sản: “Chế độ dân chủ vô sản so với bất kỳ chế độ dân chủ tư sản nào cũng
dân chủ hơn gấp triệu lần; chính quyền Xô viết so với nước cộng hòa dân
chủ nhất thì cũng gấp triệu lần”.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã khẳng định trong chủ nghĩa
xã hội phải thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản, nhà nước kiểu mới mang
bản chất giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của
nhân dân lao động. Theo V.I.Lênin, chuyên chính cách mạng của giai cấp vô
sản là một chính quyền do giai cấp vô sản giành được và duy trì bằng bạo
lực đối với giai cấp tư sản Chính quyền đó chính là nhà nước kiểu mới thực
hiện dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân và trấn áp bằng vũ lực bọn bóc
lột, bọn áp bức nhân dân, thực chất của sự biến đổi của chế độ dân chủ trong
thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. Theo V.I.Lênin,
Nhà nước xô - viết sẽ tập hợp, lôi cuốn đông đảo nhân dân tham gia quản lý
Nhà nước, quản lý xã hội, tổ chức đời sống xã hội vì con người và cho con
người.
Chủ nghĩa xã hội có nền văn hóa phát triển cao, kế thừa và phát huy những
giá trị của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn nhân loại. Tính ưu việt, sự ổn
định và phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa không chỉ thể hiện ở lĩnh vực
văn hóa - tinh thần của xã hội. V.I.Lênin khẳng định: “...nếu không hiểu rõ
rằng chỉ có sự hiểu biết chính xác về việc cải tạo nền văn hóa đó mới có thể
xây dựng được nền văn hóa vô sản thì chúng ta không thể giải quyết được
vấn đề. Đồng thời, V.I.Lênin cũng cho rằng: “Người ta chỉ có thể trở thành
người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả
những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”. Do vậy, quá trình xây dựng
nền văn hóa xã hội chủ nghĩa phải biết kế thừa những giá trị văn hóa dân tộc
lOMoARcPSD| 15962736
tinh hóa văn nhân loại, đồng thời, cần chống lại tưởng, văn hóa phi
sản, đồng thời, cần chống lại tưởng, văn hóa phi sản, trái với những
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc của loài người, trái với phương
hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội bảo đảm bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc và có quan
hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Theo quan điểm
của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học, vấn đề giai cấp có quan
hệ biện chứng, bởi vậy, giải quyết vấn đề dân tộc, giai cấp trong chủ nghĩa
xã hội có vị trí đặc biệt quan trọng và tuân thủ nguyên tắc; “xóa bỏ tình trạng
người bóc lột người thì trình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng bị
xóa bỏ”. Trong điều kiện cụ thể ở nước Nga. V.I.Lênin, trong Cương lĩnh về
vấn đề dân tộc trong chủ nghĩa xã hội đã chỉ ra những nội dung có tính
nguyên tắc để giải quyết vấn đề dân tộc: “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng;
các dân tộc được quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại.
Đó là Cương lĩnh dân tộc mà chủ nghĩa Mác. kinh nghiệm toàn thế giới và
kinh nghiệm của nước Nga dạy cho công nhân”.
Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam, tổng kết thực tiễn quá trình cách mạng Việt Nam, nhất là qua
hơn 30 năm đổi mới, nhận thức của Đảng và nhân dân ta về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ngày càng rõ. Đại hội IV (1976), nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội
và con đường phát triển của cách mạng nước ta mới ở mức độ định hướng.
Đến Đại hội VII, nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa đã sáng tỏ hơn, từng bước đạt tới trình đ
định hình, định lượng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (1991), đã xác định mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta
với sáu đặc trưng. Đến Đại hội XI, nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa
hội đã có bước phát triển mới. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã phát triển mô
hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam với tám đặc trưng, trong đó có đặc trưng về
mục tiêu, bản chất, nội dung của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng đó là: 1) Dân giàu, nước mạnh dân chủ, công bằng, văn minh; 2) Do
dân làm chủ; 3) Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; 4) Có nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; 5) Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển toàn diện; 6) Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; 7) Có Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân. do nhân dân, vì nhân dân do
Đảng Cộng sản lãnh đạo; 8) Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước
trên thế giới.
Nội dung 4: Quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về bản chất,
nguồn gốc, tính chất của tôn giáo, các nguyên tắc cơ bản xử lý mối quan
hệ giữa chủ nghĩa xã hội và tôn giáo. Đặc điểm, tình hình tôn giáo và
chính sách tôn giáo của Việt Nam hiện nay.
Bản chất của tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách
lOMoARcPSD| 15962736
hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan vào đầu óc con người. Khác với
tôn giáo, tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một
hiện tượng, một lực lượng siêu nhiên nào đó. Còn mê tín dị đoan là niềm
tin của con người vào các lực lượng siêu nhiên đến mức độ mê muội, hành
vi cực đoan, thái quá, ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội. Vì vậy, bên cạnh tôn
trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo thì phải chống mê tín dị đoan. Nói thêm về
tôn giáo, đó là một dạng tín ngưỡng được thể hiện dưới dạng: Có hệ thống
giáo lý làm cơ sở cho niềm tin, ý thức tôn giáo; có hệ thống nghi lễ; có giáo
luật; có tổ chức giáo hội.
Nói về nguồn gốc của tôn giáo, không phải tôn giáo tạo ra con người mà
chính con người tạo ra tôn giáo. Nguồn gốc của tôn giáo bắt nguồn từ nguồn
gốc kinh tế - hội, nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc tâm lý. Về nguồn
gốc kinh tế - hội, trong xã hội công xã nguyên thủy, do trình độ của lực
lượng sản xuất thấp kém con người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước các
sức mạnh tự phát của tự nhiên, do đó gán cho tự nhiên những sức mạnh to
lớn, thần thánh hóa những sức mạnh đó. Khi xã hội xuất hiện giai cấp, áp
bức giai cấp cũng là một nguyên nhân làm cho con người hướng niềm tin
vào thế giới siêu nhiên dưới hình thức tín ngưỡng, tôn giáo. Kinh tế – xã hô
luôn diễn ra sự tác động đến con người môcách may rủi, ngẫu nhiên, cũng
làm cho người nảy sinh tín ngưỡng, tôn giáo. Về nguồn gốc nhận thức, sự
thiếu hiểu biết, không giải thích được các hiện tượng tự nhiên, xã hội cũng
dẫn đến nảy sinh các quan điểm tôn giáo. Con người có khả năng khái quát
hóa hiện thực bằng các khái niệm, phạm trù trừu tượng đến mức xa rời hiện
thực, phản ánh sai lệch hiện thực. Đó cũng là cơ sở nhận thức để hình thành
các phạm trù, khái niệm, học thuyết tôn giáo. Ví dụ: Khái niê “Thiên
đường”, “địa ngục”, v.v… Còn về nguồn gốc tâm lý, “Sự sợ hãi sinh ra thần
linh”. Tâm lý kính trọng, biết ơn của con người cũng dẫn đến các hiện tượng
tín ngưỡng, tôn giáo. Tuy nhiên, lưu ý rằng viêc
tách thành các nguồn gốc
như trên chỉ có ý nghĩa tương đối. Các nguồn gốc trên không tách biê
cách rõ ràng, chúng tác đông
cách đan xen dẫn đến nảy sinh tín ngưỡng,
tôn giáo. Trong các yếu tố dẫn đến sự ra đời của tín ngưỡng, tôn giáo như
trên, yếu tố kinh tế – xã hôịlà yếu tố quyết định.
Về tính chất của tôn giáo, ta nói đến 3 tính chất sau: Tính lịch sử của tôn
giáo, tính quần chúng của tôn giáo và tính chính trị của tôn giáo. Về tính lịch
sử của tôn giáo, Tôn giáo chỉ xuất hiện khi loài người phát triển đến một
trình độ lịch sử nhất định. Tôn giáo không xuất hiện đồng thời với sự xuất
hiện của con người. Tôn giáo ra đời, tồn tại, biến đổi cùng với biến đổi của
thời đại, sao cho phù hợp với kết cấu chính trị - xã hội của thời đại. Tôn giáo
sẽ mất đi khi những nguồn gốc sản sinh ra tôn giáo bị loại bỏ. Tuy nhiên thì
đây sẽ là một quá trình lịch sử rất lâu dài. Về tính quần chúng của tôn giáo,
tín đồ tôn giáo luôn chiếm tỷ lệ khá đông trong dân số thế giới. Hầu như dân
tộc, quốc gia nào cũng có tôn giáo. Tôn giáo đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn
hóa tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân lao động. Về tính chính
trị của tôn giáo, trong xã hội chưa có giai cấp, tôn giáo chưa mang tính
chính trị. Trong xã hội có giai cấp, tôn giáo bị các giai cấp thống trị lợi dụng
để phục vụ lợi ích của mình. Nhiều tôn giáo ra đời là biểu hiện sự phản
kháng của giai cấp lao động chống lại sự áp bức giai cấp. Ngoài ra tôn giáo
còn thể hiện những tính chất như: Tính nhân văn và tính phản khoa học.
lOMoARcPSD| 15962736
Về nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tôn
giáo vẫn còn tồn tại. Điều đó là do, nguyên nhân cho sự ra đời và tồn tại của
tôn giáo vẫn chưa mất. Về nguyên nhân kinh tế, trong chủ nghĩa xã hội, và nhất
là trong thời kỳ quá độ còn nhiều thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường, do đó: Bóc lôvà sự bất bình đẳng về kinh tế vẫn tồn tại; những yếu tố
may rủi, ngẫu nhiên do sự tác động của thị trường vẫn tồn tại, v.v… Điều đó
cũng là một trong những nguyên nhân làm cho con người có tâm lý thụ động,
cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên.Về nguyên nhân chính trị - xã hội,
do đường lối của Đảng Cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa thực hiện quyền
tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân, vì tôn giáo có nhiều điểm còn phù hợp
với chủ nghĩa xã hội như giá trị đạo đức, giá trị văn hóa. Đấu tranh giai cấp,
đấu tranh chính trị vẫn còn diễn ra dưới nhiều hình thức phức tạp, các thế lực
thù địch vẫn lợi dụng tôn giáo vì mục đích chính trị. Chiến tranh, xung đột,
khủng bố, bạo loạn, bệnh tật… vẫn còn đe dọa con người, do đó những yếu tố
này là điều kiện thuận lợi cho tôn giáo tồn tại. Về nguyên nhân nhận thức, tâm
lý, trình độ dân trí vẫn chưa thật cao; nhiều hiện tượng tự nhiên, xã hội đến nay
khoa học vẫn chưa giải thích được. Những hiện tượng tự phát của tự nhiên, xã
hội có lúc tác động, chi phối đến cuộc sống ca con người một cách nghiêm
trọng. Và khi con người không có khả năng lý giải những điều đó, thì thường
có tâm lý là trông chờ, tin tưởng vào thần thánh, đứng siêu nhiên. Tôn giáo, tín
ngưỡng là thuộc về ý thức xã hội, và là một trong những hình thái ý thức xã hội
bảo thủ nhất. Ngay cả khi tồn tại xã hội có những biến đổi lớn lao về kinh tế,
chính trị, xã hội, v.v… thì tôn giáo, tín ngưỡng cũng chưa biến đổi ngay. Tôn
giáo tín ngưỡng đã in sâu vào đời sống tinh thần, ảnh hưởng khá đậm đến nếp
nghĩ, lối sống của một bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ đến mức trở thành
một kiểu sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu của cuộc sống. Về nguyên
nhân văn hóa, sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng tôn giáo có khả năng đáp ứng ở
một mức độ nào đó nhu cầu văn hóa tinh thần của một bộ phận nhân dân, có ý
nghĩa nhất định về giáo dục ý thức cộng đồng, đạo đức, phong cách, lối sống.
Điều đó cũng phù hợp với chủ nghĩa xã hội, vì vậy việc kế thừa, phát huy các
giá trị văn hóa của tôn giáo là cần thiết và hợp lý.
Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Với vị trí địa
lý nằm ở khu vực Đông Nam Á có ba mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận lợi
trong mối giao lưu với các nước trên thế giới và cũng là nơi rất dễ cho việc
thâm nhập các luồng văn hóa, các tôn giáo trên thế giới. Với sự đa dạng các
loại hình tín ngưỡng, tôn giáo, người ta thường ví Việt Nam như bảo tàng
tôn giáo của thế giới. Về khía cạnh văn hóa, sự đa dạng các loại hình tín
ngưỡng, tôn giáo đã góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam phong phú và
đặc sắc. Các tín ngưỡng, tôn giáo dù có nguồn gốc khác nhau, phương châm
hành đạo không giống nhau nhưng không vì thế mà có sự xung đột, phá hoại
lẫn nhau để phát triển riêng mình, ngược lại trong quan hệ, họ luôn có sự
gắn kết, giao lưu và tìm hiểu về nhau để cùng truyền đạt những tinh hoa của
từng tín ngưỡng, tôn giáo.
Dưới đây là 4 đặc điểm cơ bản của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam:
Một là, các tín ngưỡng, tôn giáo có sự dung hợp, đan xen và hòa đồng,
không kỳ thị, tranh chấp và xung đột. Các tín ngưỡng truyền thống phản ánh
lOMoARcPSD| 15962736
đời sống tâm linh phong phú, đa dạng, sự khoan dung, độ lượng, nhân ái
của người Việt Nam và tinh thần đoàn kết toàn dân tộc. Đây là những yếu tố
để người Việt Nam dễ hòa đồng với nhiều tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.
Trong nhiều cộng đồng dân cư có sự xen kẽ giữa người có tôn giáo và
người không có tôn giáo. Ở nhiều nơi, trong cùng một làng, xã, có nhóm tín
đồ của tôn giáo này sống đan xen với nhóm tín đồ của tôn giáo khác hoặc
với những người không theo tôn giáo, và họ sống hòa hợp với nhau trên nền
tảng làng, xóm, dòng họ.
Hai là, các tôn giáo ở Việt Nam chủ yếu thờ Thượng đế và linh nhân là
người nước ngoài. Các nghiên cứu về lịch sử tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt
Nam cho thấy, tư tưởng tôn giáo có từ người Việt cổ, thể hiện trực quan qua
các hình tượng chim Lạc và con Rồng. Hệ thống giáo lý của các tôn giáo nội
sinh (Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, ...) hầu
hết đều sao chép hoặc chịu ảnh hưởng từ các tôn giáo có trước.
Ba là, mỗi tín ngưỡng, tôn giáo mang những nét văn hóa riêng biệt nhưng
đều hướng đến Chân - Thiện - Mỹ, chịu ảnh hưởng của truyền thống dân
tộc, góp phần tạo nên những nét đẹp trong nền văn hóa đa dạng, phong phú
về bản sắc của dân tộc.
Thực tế, mỗi tôn giáo đều mang trong một hay nhiều tín ngưỡng; các
tín ngưỡng này đã sự giao thoa với văn hóa Việt Nam. Qua hàng trăm
năm tồn tại, phát triển, văn hóa tín ngưỡng ngoại nhập dần được Việt hóa
và trở thành một bộ phận của văn hóa Việt Nam (dù không thuần nhất).
Đặc điểm thứ 4, trong lịch sử cận, hiện đại của dân tộc, các thế lực thực dân,
đế quốc, phản động luôn tìm mọi cách lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo và các
vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo để xâm lược, đô hộ nước ta, hoặc
gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, phục vụ cho ý đồ
đen tối của chúng.
Về những quan điểm chỉ đạo giải quyết vấn đề tôn giáo trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội:
Một là, cần khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống
xã hội bằng cách cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới (chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản), xóa bỏ nguồn gốc xã hội nảy sinh niềm tin tôn giáo. Mặt tích
cực của tôn giáo: Chủ trương giải phóng con người, hướng đến một xã hội tốt
đẹp; khuyên răn con người sống tốt, có đạo đức, mưu cầu hạnh phúc cho con
người. Điều này làm cho chủ nghĩa xã hội và tôn giáo có điểm tương đồng. Tuy
nhiên tôn giáo có những hạn chế như: Giải thích nguyên nhân của sự khổ đau
là do sự chi phối của lực lượng siêu nhiên; chủ trương giải phóng con người
thế giới không phải là thế giới hiện thực, trần gian mà ở một thế giới khác, thế
giới bên kia sau khi chết, “thiên đường”; con đường, biện pháp giải phóng là
trông chờ vào một lực lượng siêu nhiên, đấng cứu thế. Vì vậy nó kìm hãm, hạn
chế khả năng vươn lên của con người, dẫn đến tư tưởng, tâm lý trông chờ, ỷ lại
một cách thụ động. Ở điểm này, giữa tôn giáo và chủ nghĩa xã hội có sự khác
biêvề thế giới quan, nhân sinh quan, và con đường mưu cầu hạnh phúc cho
nhân loại. Tuy có sự đối lập như vậy, nhưng những người cộng sản không thể
cấm đoán mà quan trọng là
lOMoARcPSD| 15962736
khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực đó phải gắn liền với việc xóa bỏ
nguồn gốc xã hội sinh ra nó bằng cách cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới tốt đẹp hơn – chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Hai là, một khi tín ngưỡng tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
quần chúng nhân dân, thì chính sách nhất quán của nhà nước xã hội chủ
nghĩa là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng
của công dân. Mọi người đều có quyền theo hoặc không theo, có quyền theo
tôn giáo này hoặc tôn giáo khác. Quyền đó được pháp luật thừa nhận và bảo
đảm thực hiện. Mọi công dân theo hoặc không đạo đều bình đẳng trước pháp
luật. Nghiêm cấm các hành vi xâm phạm tự do tín ngưỡng tôn giáo.
Ba là, thực hiện đoàn kết giữa những người theo với những người không
theo tôn giáo, đoàn kết các tôn giáo hợp pháp, chân chính, đoàn kết dân tộc
để cùng nhau xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Chống lại các hành vi
chia rẽ vì lý do tín ngưỡng tôn giáo.
Bốn là, Phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn
đề tôn giáo. Ở đây chính là phân biệt 2 loại mâu thuẫn trong đời sống tôn
giáo. Mặt chính trị phản ánh mâu thuẫn đối kháng về lợi ích giữa một bên là
Đảng Cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động (bao gồm
có đạo và ko có đạo); và bên kia là các thế lực phản động lợi dụng tôn giáo
để chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản,
Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân lao động. Giải quyết mâu thuẫn này
chỉ có thể là dùng biện pháp chuyên chính để giải quyết kịp thời và triệt để.
Mặt tư tưởng phản ánh mâu thuẫn không đối kháng, chỉ là sự khác biệt về
nhận thức, tư tưởng giữa những người theo hoặc ko theo tôn giáo, giữa
những người theo tôn giáo khác nhau. Giải quyết sự khác biệt này chỉ có thể
là một quá trình lâu dài cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn
xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Năm là, phải có quan điểm lịch sử khi giải quyết vấn đề tôn giáo. Ở những
thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò tác động của từng tôn giáo đối với đời sống
xã hội không giống nhau. Quan điểm, thái độ của giáo hội, giáo sĩ, giáo dân
về các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn có sự khác nhau. Vì vậy cần có
quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn
đề liên quan đến tôn giáo.
Nội dung 5: Quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về vấn đề dân tộc.
Đặc điểm quan hệ dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước
Việt Nam hiện nay.
Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc theo nghĩa hẹp, dân tộc
được hiểu là các tộc người trong một quốc gia nhiều dân tộc. Ví dụ: dân tộc
kinh, Tày, Nùng, v.v…
Đây là những cộng đồng người có chung một số đặc điểm: Có chung ngôn
ngữ (tiếng nói, chữ viết); chung lịch sử nguồn gốc; có chung nét văn hóa
đặc sắc của dân tộc mình; có ý thức tự giác tộc người, v.v…
Theo nghĩa rộng, dân tộc hiểu là toàn bộ dân cư của một nước (quốc gia
dân tộc). Ví dụ: dân tộc Việt Nam, dân tộc Lào, v.v…
lOMoARcPSD| 15962736
Đây là một cộng đồng người hình thành trong lịch sử có những điểm chung:
Chung một lãnh thổ quốc gia; có quốc ngữ - ngôn ngữ chung cho quốc gia
đó; chung một nền kinh tế - chính trị nhất định; có sự thống nhất về truyền
thống văn hóa, lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Để phân biệt dân tộc với sắc tộc, chủng tộc, thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, ta
cần phải hiểu từng khái niệm trên:
Sắc tộc, chủng tộc: Đề cập đến cộng đồng người dựa trên những đặc điểm tự
nhiên như màu da, cấu tạo tự nhiên của cơ thể. Người có sắc tộc, chủng tộc
này nhưng có thể là thành viên của nhiều dân tộc.
Thị tộc, bộ lạc: Là hình thức cộng đồng người có trước dân tộc, tồn tại trong
xã hội công xã nguyên thủy, dựa trên cơ sở có chung huyết thống.
Bộ tộc: Là hình thức cộng đồng người hình thành trên cơ sở liên kết nhiều
bộ lạc, tồn tại dưới chế độ chiếm hữu nô lệ và phong kiến.
Nói về sự hình thành của dân tộc, ở phương Tây, dân tộc hình thành trên cơ
sở một bộ tộc hoặc liên kết nhiều bộ tộc sống trên cùng một vùng lãnh thổ,
hình thành gắn với sự xác lập của phong trào sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự
hình thành và phát triển của phong trào sản xuất tư bản chủ nghĩa đòi hỏi
phải có sự thống nhất thị trường, thống nhất lãnh thổ, thống nhất về chính
phủ, về thuế quan, về tiền tệ, xóa bỏ sự cát cứ địa phương theo kiểu lãnh địa
phong kiến, hình thành nên một cộng đồng người thống nhất gọi là dân tộc.
Còn ở phương Đông, dân tộc hình thành sớm hơn, trước chủ nghĩa tư bản do
sự thúc đẩy của nhiều nhân tố như: Nhu cầu trị thủy, chống thiên tai, thú dữ;
nhu cầu chống địch họa…
Nghiên cứu sự vận động và quan hệ dân tộc dưới chủ nghĩa tư bản,
V.I.Lênin đã chỉ ra hai xu hướng vận động khách quan của các dân tộc:
Xu hướng thứ nhất: Ở các quốc gia gồm nhiều cộng đồng dân cư có nguồn
gốc tộc người khác nhau, do sự thức tỉnh, trưởng thành về ý thức dân tộc
nên các cộng đồng dân cư muốn tách ra để xác lập các cộng đồng dân tộc
độc lập. Xu hướng này nổi trội ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản.
Xu hướng thứ hai: Các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở
nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Xu hướng này nổi lên trong giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Hai xu hướng này là 2 xu hướng tiến bô.Tuy trong điều kiện của chủ nghĩa
đế quốc nó gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Bởi vì: Nguyện vọng của các dân
tộc được sống độc lập, tự do bị chính sách xâm lược của chủ nghĩa đế quốc
xóa bỏ; liên hiệp, xích lại với nhau giữa các dân tộc trên cơ sở tự nguyện,
bình đẳng bị chủ nghĩa đế quốc xóa bỏ, thay vào đó là quan hệ bất bình
đẳng, đó là dân tộc này tìm cách thống trị các dân tôc
khác.
Để hai xu hướng này vận động không gặp trở ngại, chỉ có thể: Xóa bỏ chủ
nghĩa Đế Quốc, thực hiện tốt các nguyên tắc tiến bộ như: Thực hiện quyền
bình đẳng dân tộc, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, liên hiệp công nhân các
dân tộc lại.
Về nội dung cơ bản của Cương lĩnh dân tộc của Đảng Cộng sản: Các dân tộc
lOMoARcPSD| 15962736
hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết; liên hiệp công nhân
tất cả các dân tộc lại.
Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng: Các dân tộc dù lớn hay nhỏ, không phân
biệt trình độ phát triển cao hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang
nhau; không có một dân tộc nào được giữ đặc quyền đặc lợi và có quyền đi
áp bức bóc lột các dân tộc khác. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng phải được
thể hiện trong luật pháp của mỗi nước và luật pháp quốc tế. Và phải được
thực hiện trong các lĩnh vực ca đời sống xã hội. Đối với một quốc gia nhiều
dân tộc, sự khắc phục trình độ phát triển chênh lêc về kinh tế, văn hóa do
lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản. Trên phạm vi thế giới, thực hiện quyền bình
đẳng giữa các quốc gia dân tộc đòi hỏi phải chống lại chủ nghĩa phân biệt
chủng tộc, chủ nghĩa sôvanh nước lớn, chống sự áp đặt của các tư bản phát
triển đối với các nước chậm phát triển về mọi mă. Thực hiện quyền bình
đẳng là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ
hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc.
Các dân tộc được quyền tự quyết: Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm ch
đối với vận mệnh dân tộc mình, tự quyết định chế độ chính trị - xã hội và
con đường phát triển của dân tộc mình. Quyền tự quyết còn bao gồm cả
quyền tự do tách ra thành lập một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của
các dân tộc và quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở
bình đẳng cùng có lợi.
Lưu ý rằng khi xem xét quyền dân tộc tự quyết của dân tộc cần đứng vững
trên lập trường của giai cấp công nhân. Ủng hộ các phong trào dân tộc tiến
bộ phù hợp với lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Chống lại các phong trào dân tôc
tự quyết giả hiệu vì lợi ích và mưu
đồ của một nhóm người nào đó.
Liên hiệp công nhân của tất cả các dân tộc phản ánh bản chất quốc tế của
phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng
dân tộc với giải phóng giai cấp. Nó đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ
sức mạnh để giành thắng lợi, đảm bảo cho các nội dung trên của cương
lĩnh dân tộc có thể thực hiện đầy đủ. Do đó nó là nội dung quan trọng nhất
của cương lĩnh dân tộc của Đảng Cộng sản.
Khẩu hiệu của C.Mác và Ph. Ăngghen nêu ra: “Vô sản toàn thế giới liên
hiệp lại” đã được V.I. Lênin phát triển thành: “Vô sản toàn thế giới và
các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”.
Việt Nam là quốc gia có nhiều dân tộc cùng chung sống, mỗi dân tộc có
bản sắc văn hóa riêng. 54 dân tộc trong đó dân tộc kinh chiếm 86% dân số,
53 dân tộc còn lại chiếm 14% dân số, phân bố rải rác trên địa bàn cả nước.
10 dân tộc có số dân từ dưới 1 triệu đến 100 ngàn người là: Tày, Nùng,
Thái, Mường, Khơme, Mông, Dao, Giarai, Bana, Êđê; 20 dân tộc có số dân
dưới 100 ngàn người, 16 dân tộc có số dân từ dưới 10 ngàn người đến 1
ngàn người; 6 dân tộc có số dân dưới 1 ngàn người (Cống, Sila, Pupéo,
Rơmăm, Ơ đu, Brâu).
Tuy có sự chênh lệch đáng kể về đời sống vật chất cũng như tinh thần,
nhưng các dân tộc vẫn coi nhau như anh em đùm bọc lẫn nhau, chung sức
lOMoARcPSD| 15962736
xây dựng bảo vệ tổ quốc. nước ta không tình trạng dân tộc đa số
cưỡng bức, đồng hoá, thôn tính các dân tộc ít người, do đó cũng không có
tình trạng dân tộc ít người chống lại dân tộc đa số.
Các dân tộc trên đất nước ta có truyền thống đoàn kết trong đấu tranh
dựng nước, giữ nước, xây dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất.
Hồ Chí Minh: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê
Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt
Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết nhau, sướng khổ
cùng nhau, no đói có nhau”.
Từ mấy nghìn năm nay, từ khi bắt đầu hình thành nhà nước các dân tộc
cùng chung sống trên dải đất Việt Nam có nhu cầu tự nhiên là phải liên kết
nhau lại để chống chọi với thiên tai, giặc giã, trở thành một cộng đồng bền
chặt-đại gia đình các dân tộc Việt Nam, cùng nhau dựng nước và giữ nước.
Đoàn kết là truyền thống từ ngàn xưa của dân tộc ta.
Từ cuộc đời tối tăm dưới ách áp bức của thực dân, ăn đói, mặc rách, mù
chữ..., đồng bào các dân tộc đã đứng lên đi theo ánh sáng cách mạng, kề
vai sát cánh, chia ngọt sẻ bùi cùng các dân tộc cùng nhau chiến đấu giành
độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Dân tộc Việt Nam cư trú phân tán, xen kẽ nhau. Ở một số vùng nhất định có
dân tộc cư trú tương đối tập trung. Song nhìn chung các dân tộc nước ta
sống xen kẽ nhau, không có lãnh thổ riêng biệt như một số nước trên thế
giới. Ðịa bàn cư trú của người Kinh chủ yếu ở đồng bằng, ven biển và trung
du; còn các dân tộc ít người cư trú chủ yếu ở các vùng miền núi và vùng cao,
một số dân tộc như Khơ me, Hoa, một số ít vùng Chăm sống ở đồng bằng.
Các dân tộc thiểu số có sự tập trung ở một số vùng, nhưng không cư trú
thành những khu vực riêng biệt mà xen kẽ với các dân tộc khác trong phạm
vi của tỉnh, huyện, xã và các bản mường. Bản Phiêng Luông có người Dao là
đông nhất với 32 hộ, người Tày 9 hộ, 17 hộ người Mông, 4 hộ người Sán Chí,
2 hộ người Nùng và 1 hộ người Kinh. Cách đây ba, bốn chục năm chỉ có những
ngôi nhà của người Êđê, Bana, Giarai, Xơđăng, Cơho, M'nông cư trú trên mảnh
đất Tây Nguyên. Ngày nay, cùng với sự di dân đã xuất hiện thêm những ngôi
nhà của dân tộc Kinh, Tày, Nùng, và một số dân tộc ít người ở đây. Tình trạng
cư trú phân tán, xen kẽ giữa các dân tộc ở nước ta, tạo điều kiện để tăng cường
hiểu biết nhau, hoà hợp và xích lại gần nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Giao
lưu văn hóa giữa các dân tộc trong cùng một địa phương giúp các dân tộc ngày
một hiểu nhau hơn. Ngày nay, tình trạng cư trú xen kẽ của các dân tộc chủ yếu
dẫn tới sự giao lưu kinh tế- văn hoá giữa các dân tộc cũng như sự hỗ trợ, giúp
đỡ lẫn nhau. Do sống gần nhau, việc kết hôn giữa thanh niên nam nữ thuộc các
dân tộc khác nhau ngày càng phổ biến, càng có thêm điều kiện đoàn kết và hoà
hợp giữa các dân tộc.
Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không
đều nhau.
Do điều kiện tự nhiên nên sự chênh lệch trình độ phát triển kinh tế, văn hoá
giữa các dân tộc, giữa các vùng dân cư thể hiện rõ rệt. Đầu tiên là kỹ thuật
canh tác: Bà con dân tộc miền núi thì kỹ thuật canh tác thô sơ, chủ yếu dựa
lOMoARcPSD| 15962736
vào sức người là chính, địa hình đồi núi khó áp dụng những tiến bộ khoa
học kỹ thuật. Cư dân ở khu vực đồng bằng đã vận dụng khoa học kỹ thuật
vào sản xuất tạo ra năng suất lao động cao. Trong khi đó ở khu vực thành thị
nhiều người có cuộc sống đầy đủ tiện nghi. Giữa nhiều vùng còn có sự
chênh lệch thể hiện ở: Đường giao thông, phương tiện, dịch vụ chăm sóc y
tế, giáo dục… Tuy nhiên Đảng ta đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế linh
hoạt, sáng tạo phù hợp với điều kiện thực tế của từng khu vực, tỉnh thành
trong cả nước.
Văn hoá Việt Nam là sự thống nhất trong đa dạng. Từ cơ tầng văn hoá
Đông Nam Á thời tối cổ, thời tiền sử trên dải đất Việt Nam hiện nay xuất
hiện ba nền văn hoá: Đông Sơn (ở châu thổ Bắc Bộ), Sa Huỳnh (Trung Bộ),
Đồng Nai (Nam Bộ) . Thời sơ sử và sang thiên niên kỷ đầu Công nguyên,
lịch sử đã đưa ba nền văn hoá này đến ba số phận khác nhau; ở châu thổ
Bắc Bộ bị sự thống trị của phong kiến Trung Quốc hơn 1000 năm, ở duyên
hải Trung Bộ là văn hóa Champa, ở Nam Bộ là văn hoá Óc Eo, để rồi hòa
trộn trong nền văn hoá Việt Nam, tạo ra sự đa dạng trong sự thống nhất.
Nền văn hóa Đông Sơn: Ra đời là kết quả của sự hội tụ của nhiều văn hoá
rực rỡ trước văn hoá Đông Sơn thuộc thời đại đồng thau, trong quá trình
chiếm lĩnh vùng đồng bằng các con sông lớn ở miền Bắc Việt Nam, chủ
yếu là lưu vực sông Hồng.
Nền văn hóa Sa Huỳnh: là một nền văn hóa được xác định ở vào khoảng
1000 năm TCN đến cuối thế kỷ thứ II. Nền văn hóa Sa Huỳnh là một
trong ba cái nôi cổ xưa về văn minh trên lãnh thổ Việt Nam, cùng với:
Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Óc Eo, tạo thành tam giác văn hóa Việt.
Văn hóa Đồng Nai: phát triển trong thiên niên kỷ I, II trước Công Nguyên đã
được nhìn nhận như bước mở đầu cho truyền thống văn hóa bản địa ở Nam
Bộ với bản sắc riêng và sức sống mãnh liệt.
Nhóm văn hoá ngôn ngữ Nam Á:
Nhóm ngôn ngữ Việt- Mường: Gồm các dân tộc Kinh, Mường, Thổ, Chứt.
Nhóm ngôn ngữ Môn- Khmer: Gồm các dân tộc Khơ Mú, Kháng, Mảng,
Xinh Mun, Bru Vân Kiều, Tà Ôi, Cơ Tu, Co, Hrê, Gie Triêng, Ba Na, Xơ
Đăng, Brâu, Rơ Măm, Mnông, Mạ, Cơ Ho, Xtiêng, Chơ Ro, Khơme, Ơ Đu.
Nhóm ngôn ngữ Tày- Thái: Gồm các dân tộc Tày, Thái, Nùng, Sán
Chay, Giấy, Lào, Lự, Bố Y.
Nhóm ngôn ngữ H'mông- Dao: Gồm các dân tộc H’mông, Dao, Pà Thẻn.
Nhóm ngôn ngữ Ka Đai: Cơ Lao, La Chí, Pu Péo, La Ha.
Nhóm văn hoá ngôn ngữ Nam Đảo:
Nhóm ngôn ngữ Malaio Polinexia: Gồm các dân tộc Chăm, Chu Ru,
Gia Rai, Ê Đê, Raglai.
Nhóm văn hoá ngôn ngữ Hán Tạng:
Nhóm ngôn ngữ Tạng Miến: Gồm các tộc Hà Nhì, La Hủ, Phù Lá, Lô Lô,
lOMoARcPSD| 15962736
Cống, Si La.
Nhóm ngôn ngữ Hán: Gồm các tộc Hoa, Ngái, Sán Dìu.
Bên cạnh sự đa dạng về ngôn ngữ, thì mỗi dân tộc lại có phong tục tập quán
mang những giá trị và sắc thái văn hoá riêng. Người Chăm ở duyên hải miền
Trung lại có những đền tháp, tác phẩm điêu khắc đá, những bia ký trên đá.
Người Khơme Nam Bộ: có một kho tàng văn học Phật giáo, nghệ thuật
điêu khắc và kiến trúc Phật giáo khá lớn, có những ngôi chùa là một trung
tâm văn hoá và nhiều lễ hội độc đáo. Người Tày- Thái: ở vùng núi cao phía
Bắc lại có những nếp nhà sàn, có một kho tàng văn học dân gian đa dạng…
Mặc dù có những sắc thái riêng nhưng các dân tộc ở Việt Nam lại có những
yếu tố rất chung về văn hoá. Đảng và nhà nước ta luôn luôn tôn trọng bản
sắc văn hóa riêng và tôn trọng tự do tín ngưỡng của mỗi dân tộc.
Trải qua lịch sử liên tục chống ngoại xâm, dân tộc ta đã trưởng thành rất
sớm và trở thành một quốc gia độc lập thống nhất yêu hoà bình. Nhìn lại con
đường lịch sử đã qua, trong bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc
ta đã phải bao lần chiến đấu chống ngoại xâm gần như thường xuyên và đã
chiến thắng một cách oanh liệt. Đó là một nét nổi bật của lịch sử và con
người Việt Nam, là thử thách gay go nhất nhưng cũng là niềm tự hào lớn
nhất của dân tộc ta.
Vị trí địa lý: Việt Nam là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, ven
biển Thái Bình Dương. Việt Nam có diện tích 330.991 km2. Với đường
biên giới trên đất liền dài 4.550 km, phía Bắc tiếp giáp với Trung Quốc,
phía Tây Bắc tiếp giáp với Lào và Tây Nam giáp Campuchia và Vịnh Thái
Lan; phía Đông và Nam giáp biển Đông. Với vị thế đặc biệt này, Việt Nam
trở thành mảnh đất màu mỡ khiến các thế lực xâm lăng muốn chiếm đoạt.
Nhưng với sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã
anh dũng, bền gan, vững chí đánh thắng kẻ thù xâm lược qua nhiều thế hệ.
Vào ngày 02 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt cho cả dân
tộc, trịnh trọng tuyên bố trước đồng bào và toàn thế giới: “…Nước Việt
Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do
độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,
tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Như vậy, dân
tộc Việt Nam đã trải qua thời gian dài dựng nước và giữ nước; trải qua nhiều
cuộc chiến đẫm máu để giành lấy độc lập dân tộc. Đó là bằng chứng về một
tinh thần yêu nước, sự đoàn kết dân tộc, sự quả cảm của những con người
anh hùng, cùng nhau hướng tới xây dựng một xã hội tốt đẹp, không còn
chiến tranh, một dân tộc hoà bình, thống nhất. Vào ngày 8 tháng 10 năm
2010, Thành ủy, HĐND, UBND Thành phố Hà Nội đã long trọng tổ chức
Lễ khánh thành Công viên Hòa Bình, tại Xuân Đỉnh, Từ Liêm, Hà Nội.
Công viên nhằm nhấn mạnh thông điệp “chúng tôi muốn thế giới này mãi
mãi hoà bình”.
Năm 2000, cùng với 4 thành phố khác trên thế giới, Hà Nội là Thành phố duy
nhất đại diện cho Châu Á nhận giải thưởng “Thành phố vì Hòa bình” của
UNESCO trao tặng. Năm 2001, Thành phố đã phê duyệt chủ trương xây dựng
một công viên mang biểu tượng ca Thành phố Thủ đô- Thành phố vì hòa
bình- Công viên Hòa Bình. Trong công viên, Tượng đài Hòa Bình là hạt
lOMoARcPSD| 15962736
nhân chính được đúc bằng đồng nặng khoảng 20 tấn, cao 7,2m đặt trên đài
đế cao 22,8m.
Các dân tộc thiểu số lại cư trú trên các địa bàn có vị trí chiến lược quan
trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và giao lưu quốc tế.
Theo số liệu tổng điều tra dân số, tính đến 0 giờ ngày 1/4/2009, dân số của
Việt Nam 85.789.573 người. Dân số Việt Nam gồm 54 dân tộc. Dân tộc
đông nhất là dân tộc Kinh (Việt), chiếm 86,2% dân số. Các dân tộc thiểu số
đông dân nhất: Tày, Thái, Mường, Khmer, Hoa, Nùng, Hmông, người Dao,
Giarai, Êđê, Chăm, Sán Dìu. Đa số các dân tộc này sống miền núi
vùng sâu vùng xa miền Bắc, Tây Nguyên Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Cuối cùng là các dân tộc Brâu, Ơ Đu và Rmăm chỉ có trên 300 người.
Dân tộc Tày: sống chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc như Cao Bằng,
Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang… Theo thống kê gần đây,
người Tày có khoảng 1 triệu 700 ngàn người. Đây là dân tộc có số dân đông
nhất sau người Kinh trong cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam.
Dân tộc Thái: (520.000), cư trú tập trung tại các tỉnh Lai Châu, Sơn La,
Hòa Bình, Nghệ An...
Dân tộc Mường: (914.600), sống chủ yếu tại tỉnh Hòa Bình, các huyện
miền núi tỉnh Thanh Hóa một số huyện miền núi của Nghệ An.
Người Hoa: (450.000), người gốc Trung Quốc định cư ở Việt Nam, sống tập
trung đông nhất (50%) tại vùng Chợ Lớn của Thành phố Hồ Chí Minh, 50%
còn lại sinh sống phân tác ở các tỉnh thành trên toàn quốc, phần nhiều tại các
tỉnh miền Tây Việt Nam.
Người Khmer: (447.000), thuộc nhóm ngôn ngữ Môn- Khmer, sống chủ
yếu tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
Dân tộc Nùng: (353.000), thuộc nhóm ngôn ngữ Tày- Thái, sống tập trung
ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Thái, Hà Bắc, Tuyên Quang.
H'Mông (479.000), hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc, tập trung chủ yếu ở
các tỉnh thuộc Đông và Tây Bắc Việt Nam như Hà Giang, Lào Cai, Lai
Châu, Sơn La...
Dao (237.000), cư trú chủ yếu dọc biên giới Việt- Trung, Việt- Lào và ở
một số tỉnh trung du và ven biển Bắc bộ Việt Nam.
Giarai (121.000), thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo, cư trú tập trung ở các
tỉnh Gia Lai, Kon Tum và phía Bắc tỉnh Đắc Lắc.
Êđê (97.000), thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo, cư trú tập trung ở Đắc Lắc,
phía Nam Gia Lai và phía Tây của hai tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên.
Những dân tộc còn lại có dân số dưới 90.000 người, một nửa trong số đó có
dân số dưới 10.000 người. Đa số các dân tộc này sống ở miền núi và vùng
sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Cuối
cùng là các dân tộc Brâu, ƠĐu và Rmăm chỉ có khoảng vài trăm người.
Như vậy, các dân tộc thiểu số tuy chỉ chiếm số lượng nhỏ trong dân số cả
lOMoARcPSD| 15962736
nước (13,8%) nhưng lại cư trú trên các địa bàn có vị trí chiến lược quan
trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và giao lưu quốc tế. Cùng
với quá trình dựng nước và giữ nước, nền văn hoá Việt Nam đã hình thành
và phát triển bền vững. Bằng lao động sáng tạo và ý chí đấu tranh bền bỉ,
kiên cường, nhân dân ta đã xây đắp lên một nền văn hoá kết tinh sức mạnh
và in đậm dấu ấn bản sắc của dân tộc, chứng minh sức sống mãnh liệt và sự
trường tồn của dân tộc Việt Nam. Từ các đặc điểm trên, càng thấy rõ được
đậm nét tinh thần ấy. Biết đoàn kết dân tộc, sẽ là sức mạnh mang lại những
thắng lợi to lớn hơn cho sự nghiệp xây dựng đất nước.
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta:
Trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam, quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về chính sách dân tộc là nhất quán, theo nguyên tắc: Các dân tộc
bình đẳng, đoàn kết, tương trợ nhau cùng phát triển. Đây vừa là nguyên
tắc, vừa là mục tiêu chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước ta.
Bình đẳng giữa các dân tộc là một nguyên tắc cơ bản có ý nghĩa quan trọng
hàng đầu của chính sách dân tộc về quyền của các dân tộc thiểu số. Các dân
tộc không phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ phát triển cao hay thấp đều
ngang nhau về quyền lợi và nghĩa vụ trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời
sống xã hội và được bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật. Quyền bình đẳng
giữa các dân tộc, trước hết là quyền bình đẳng về chính trị, chống mọi biểu
hiện chia rẽ kỳ thị dân tộc, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, tự ti dân tộc,
Quyền bình đẳng về kinh tế, đảm bảo sự bình đẳng trong quan hệ lợi ích
giữa các dân tộc. Nhà nước trách nhiệm giúp các dân tộc kinh tế
chậm phát triển để cùng đạt được trình độ phát triển chung với các dân tộc
khác trong cả nước. Bình đẳng về văn hoá, xã hội bảo đảm cho việc giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hoá của các dân tộc, làm phong phú và đa dạng nền
văn hoá Việt Nam thống nhất.
Do phần lớn các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay có trình độ phát triển
thấp, vì vậy bên cạnh việc bảo đảm quyền bình đẳng toàn diện về chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội cần phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để đồng bào các
dân tộc thiểu số có cơ hội phát triển bình đẳng với các dân tộc khác. Sự quan
tâm tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển, đó chính là biểu hiện quyền
bình đẳng giữa các dân tộc đặc trưng nhất ở Việt Nam.
Các dân tộc Việt Nam đã cùng chung sống lâu đời bên nhau, gắn bó máu
thịt với nhau, no đói có nhau, vinh nhục cùng nhau, đồng cam cộng khổ,
sống chết một lòng sát cánh cùng nhau dựng nước và giữ nước. Truyền
thống đoàn kết đó được gìn giữ và phát triển trong suốt tiến trình hàng ngàn
năm lịch sử, gắn kết các dân tộc chung sức xây dựng tổ quốc Việt Nam
thống nhất.
Kế thừa truyền thống đoàn kết quý báu của dân tộc, Đảng và Nhà nước ta đã
xác định đoàn kết dân tộc là một nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc
xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, các dân tộc đang phát huy truyền thống đoàn kết tốt đẹp, cùng nhau xây
dựng đất nước với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ
văn minh và tiến bộ. Tất cả các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều phải
có trách nhiệm chăm lo, vun đắp, củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết
lOMoARcPSD| 15962736
dân tộc theo lời dạy của Bác Hồ kính yêu:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”.
Do lịch sử để lại, hiện nay giữa các dân tộc ở nước ta vẫn còn đang tồn tại
tình trạng phát triển không đồng đều. Tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các
dân tộc để cùng phát triển là một tất yếu khách quan trong một quốc gia đa
dân tộc. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã coi tương trợ nhau cùng phát
triển là một nguyên tắc quan trọng của chính sách dân tộc trong thời kỳ
quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Các dân tộc có trình độ phát triển kinh tế – xã hội cao hơn phải có trách
nhiệm giúp đỡ các dân tộc có điều kiện phát triển khó khăn hơn. Tương trợ
lẫn nhau không phải chỉ là giúp đỡ một chiều, ngược lại chính sự phát
triển của dân tộc này là điều kiện để cho các dân tộc khác ngày càng phát
triển hơn.
Giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển thể hiện trên tất cả các lĩnh vực: chính trị,
kinh tế, văn hoá, hội. Tương trợ, giúp nhau để không ngừng nâng cao
đời sống vật chất tinh thần của đồng bào các dân tộc, nhằm thực hiện
đầy đủ quyền bình đẳng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.
Chính sách dân tộc của Đảng đã được thể chế bằng Hiến pháp, luật pháp
và bằng các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Hiến pháp nước
CHXHCN Việt Nam năm 1992 đã ghi: “Nhà nước CHXHCN Việt Nam,
Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt
Nam.
Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết tương trợ giữa các dân
tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
Các dân tộc quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc
phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống văn hoá tốt đẹp
của mình.
Nhà nước thực hiện chính sách phát triển mọi mặt, từng bước nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số” - Điều 5, Hiến
pháp nước CHXHCN Việt Nam, 1992.
Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Hiến pháp, các bộ luật, luật như Bộ Luật Dân
sự, Luật Hôn nhân gia đình, Luật Giáo dục, Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân,…
đều thể hiện rõ quyền bình đẳng của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Đồng thời với việc thể chế bằng Hiến pháp và pháp luật, chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước được cụ thể hoá trong chiến lược, kế hoạch phát triển
kinh tế – xã hội, trong các chương trình, dự án đầu tư phát triển cho vùng
dân tộc và miền núi, trong các chính sách, các quy định cụ thể ở tất cả các
lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội,… đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
Bước vào thời kỳ đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách dân tộc của Đảng đã được thể
hiện ở các Nghị quyết Đại hội Đảng. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã
lOMoARcPSD| 15962736
ch rõ: “Thực hin tt các chính sách dân tc bình đẳng, đoàn kết, tương
tr giúp đỡ nhau cùng phát trin, xây dng kết cu h tng kinh tế
hi, phát trin sn xuất hàng hoá, chăm lo đi sng vt cht và tinh thn,
xoá đói giảm nghèo, m mang dân trí, gi gìn làm giàu và phát huy bn
sắc văn hoá và truyn thng tt đp ca các dân tộc”.
Ngh quyết Hi ngh ln th by Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá IX
v công tác dân tc đã khẳng định chính sách dân tộc trong giai đoạn hin
nay là: “Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế xã hi các vùng dân tc và min
núi, trước hết, tp trung vào phát triển giao thông và cơ s h tầng, xóa đói,
gim nghèo; khai thác có hiu qu tiềm năng, thế mnh ca từng vùng, đi
đôi với bo v bn vng môi trường sinh thái; phát huy ni lc, tinh thn t
lc t cường của đng bào các dân tộc, đồng thời tăng cưng s quan tâm
h tr của Trung ương và s giúp đỡ của các địa phương trong cả ớc”.
Tiếp theo, Ngh quyết Đại hội Đảng ln th X đã khẳng định: “Vấn đề
dân tộc đoàn kết các dân tc v trí chiến lược lâu dài trong s
nghip cách mạng c ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ...”.
Xut phát t những quan điểm trên, nhim v phát trin kinh tế
hi vùng dân tc thiu s tp trung vào nhng ni dung ch yếu sau:
Xoá đói giảm nghèo, nâng cao mc sng của đồng bào dân tc thiu
s, trọng tâm là đồng bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa, trong
những năm trước mt tp trung tr giúp đồng bào nghèo, đồng bào
các dân tc thiu s đặc biệt khó khăn.
Phát trin sn xut hàng hoá phù hp vi đặc điểm, điều kin tng vùng
dân tc. Khuyến khích đồng bào các dân tc khai thác tiềm năng, thế
mnh ca địa phương làm giàu cho mình và đóng góp tích cc vào s
nghiệp đổi mới, đẩy mnh công nghip hoá, hin đi hoá bo v vng
chc T quc Vit Nam xã hi ch nghĩa.
Ưu tiên đặc bit phát trin giáo dục và đào tạo, coi trọng đào tạo
cán b và đội ngũ trí thức dân tc thiu s.
Kế tha và phát huy nhng giá tr văn hoá truyền thng ca các dân tc
thiu s góp phn xây dng nền văn hoá Việt Nam đa dạng, phong
phú, giàu bn sc dân tc.
Để đẩy mnh phát trin kinh tế xã hi vùng dân tc và min núi, nâng cao
dn mc sng ca đồng bào các dân tc, trong những năm đi mi va qua
và nhất là giai đoạn hin nay, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiu ch
trương chính sách ưu tiên đi với đồng bào dân tc thiu s một cách đng
b và toàn din, trên tt c các lĩnh vực đời sng xã hội. Đồng thời, đã triển
khai thc hin nhiu chương trình, d án đầu tư phát triển trên địa bàn min
núi, vùng đồng bào dân tộc như: Chương trình trng mi 5 triu ha rng,
Chương trình xoá đói giảm nghèo, Chương trình phát trin kinh tế xã hi
các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa (Chương trình 135),
TR NG TÂM ÔN THI MÔN CNXHKH
lOMoARcPSD| 15962736
Lớp Đại cương
I. NỘI DUNG ÔN TẬP
Câu 1: Quan điểm về đăc
điểm của giai cấp công nhân trong nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Liên hệ GCCN Việt Nam.
Ví dụ: Anh/ chị hãy trình sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân? Theo
anh/ chị, để thực hiện sứ mệnh lịch sử ấy, giai cấp công nhân cần phải làm
gì? Liên hệ với sứ mệnh lịch sử của GCCN trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước Việt Nam hiện nay.
LÝ LUẬN CHUNG (QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN)
C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng rất nhiều thuật ngữ khác nhau để
diễn đạt về khái niệm giai cấp công nhân như: ….
Theo quan điểm Chủ nghĩa Mác – Lênin, có thể hiểu, giai cấp
công nhân là ….. (định nghĩa)
+ Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
+ Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
phân tích
+ Điều kiện chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
(nhân tố đóng vai trò quyết định là ĐẢNG CỘNG SẢN) – phân tích
Bàn luận: Giai đoạn 1, giai đoạn 2.
Đặc điểm GCCN cuối thế kỷ XIX - ko cần phân tích Đặc
điểm GCCN Việt Nam hiện nay – ko cần phân tích
LIÊN HỆ THỰC TIỄN (VIỆT NAM)
* Quan điểm, chính sách của ĐCSVN về việc xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam hiện nay (Đại hội) – 2 Đại hội
+ Quan điểm của ĐCSVN về việc xây dựng giai cấp công nhân Việt
Nam hiện nay (Đại hội)
+ Chính sách của ĐCSVN về việc xây dựng giai cấp công nhân Việt
Nam hiện nay
LÝ LUẬN CHUNG
+ C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng rất nhiều thuật ngữ khác nhau để diễn
đạt về khái niệm giai cấp công nhân như: ….
Theo quan điểm Chủ nghĩa Mác – Lênin, có thể hiểu, giai cấp công nhân là
….. (định nghĩa)
lOMoARcPSD| 15962736
+ Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
+ Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
phân tích
+ Điều kiện chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
(nhân tố đóng vai trò quyết định là ĐẢNG CỘNG SẢN) – phân tích
+ Đặc điểm GCCN cuối thế kỷ XIX (theo quan điểm Chủ nghĩa Mác –
Lênin)
+ Đặc điểm GCCN thế kỷ XXI (hiện nay)
So sánh đặc điểm GCCN cuối thế kỷ XIX và đặc điểm GCCN thế kỷ XXI
(truyền thống, hiện đại) – GN và KN
+ Đặc điểm GCCN thế giới hiện nay
+ Đặc điểm GCCN Việt Nam hiện nay
So sánh đặc điểm GCCN thế giới hiện nay và GCCN Việt Nam hiện nay
GN và KN
LIÊN HỆ VIỆT NAM
+ Quan điểm, chính sách của ĐCSVN về việc xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam hiện nay (Đại hội) – 2 Đại hội
+ Quan điểm của ĐCSVN về việc xây dựng giai cấp công nhân Việt
Nam hiện nay (Đại hội)
+ Chính sách của ĐCSVN về việc xây dựng giai cấp công nhân Việt
Nam hiện nay
Câu 2: Quan điểm về Hình thái kinh tế - hội CSCN, nhất là thời kỳ quá
độ và đăc
trưng của chủ nghĩa xã hôị. Liên hệ với thời kỳ quá độ những
đặc trưng CNXH ở Việt Nam.
LÝ LUẬN CHUNG (Quan điểm về Hình thái kinh tế - xã hội CSCN, nhất
là thời kỳ quá độ và đăc
trưng của chủ nghĩa xã hôị.)
Hình thái kinh tế - xã hội là gì? (Triết học Mác - Lênin) Hình thái kinh tế -
xã hội gồm mấy hình thái? (5) Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ
nghĩa gồm những giai đoạn nào? (Giai đoạn thấp: Chủ nghĩa xã hội; Giai
đoạn cao: Chủ nghĩa cộng sản).
Quá độ là gì? Có mấy hình thức quá độ? (2 hình thức, đó là quá độ trực
tiếp …. và quá độ gián tiếp … )
Đặc trưng của Chủ nghĩa xã hội (6 cái - chọn 1 đặc trưng phân tích kỹ)
LIÊN HỆ VIỆT NAM (Liên hệ với thời kỳ quá độ và những đặc
trưng CNXH ở Việt Nam)
lOMoARcPSD| 15962736
Quá độ trực tiếp hay quá độ gián tiếp? sao? (Tính tất yếu của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Đặc điểm và thực chất của thời
kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam).
Từ lý luận trên, có thể thấy, việc Việt Nam thực hiện thời kỳ quá độ đi lên
Chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển Chủ nghĩa tư bản không trái
với quy luật phát triển của lịch sử - tự nhiên mà bước đi ấy được cho là phù
hợp với yếu tố thực tiễn của đất nước lúc bấy giờ.
Việt Nam đang trong giai đoạn quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, những đặc
trưng của Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là (8 cái chọn 1 đặc trưng phân
tích kỹ) … IX, XI
Kết bài: Trích dẫn 1 hoặc 2 câu văn kiện Đại hội (tham khảo giáo trình)
Đọc tạp chí chuyên ngành: Tạp chí Triết học, tạp chí Xây dựng Đảng, tạp
chí Khoa học chính trị,… số … (năm …)
Câu3: Quan điểm về dân chủ, nhà nước xã hội chủ nghĩa. Liên hệ Việt
Nam.
A) LÝ LUẬN CHUNG
- Khái niệm dân chủ (quan điểm của chủ Chủ nghĩa Mác - Lênin)
- Khái niệm dân chủ Xã hội chủ nghĩa
- Bản chất và chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa (Nhà nước là gì và
Nhà nước Xã hội chủ nghĩa là gì)
- Mối quan hệ giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Xã hội chủ nghĩa
B) LIÊN HỆ VIỆT NAM
- Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (nhớ câu trích dẫn trong sách
của Chủ tịch Hồ Chí Minh trang 88) – các hình thức dân chủ ở Việt Nam
hiện nay – có thể liên hệ tới việc bầu cử năm 1946, có thể bàn luận
nguyên tắc tập trung dân chủ của ĐCSVN.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ)
- Quan điểm, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước về
việc phát huy dân chủ và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay trích văn kiện Đại hội IX, XI) tách quan điểm riêng,
chính sách riêng.
Ví dụ: Anh chị hãy chứng minh, Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
LÝ LUẬN CHUNG (QUAN ĐIỂM CNM-L)
Khái niệm của Nhà nước, bản chất của Nhà nước, chức năng của Nhà nước
lOMoARcPSD| 15962736
Bản chất và chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa
Vai trò của việc xây dựng Nhà nước Xã hội chủ nghĩa: việc xây dựng Nhà
nước Xã hội chủ nghĩa đóng vai trò rất quan trọng, suy đến cùng việc xây
dựng Nhà nước Xã hội chủ nghĩa là để đảm bảo sự dân chủ thuộc về tay
nhân dân.
B) LIÊN HỆ VIỆT NAM
Phương châm hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ). Như
vậy, có thể thấy, mc đích thực hiện Nhà nước pháp quyền xã hội ch
nghĩa là để đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân, đúng như Chủ tịch H
Chí Minh đã từng viết: trang 88) – các hình thức dân chủ ở Việt Nam hiện
nay có thể liên hệ tới việc bầu cử năm 1946, có thể bàn luận nguyên tắc
tập trung dân chủ (lướt) của ĐCSVN.
Quan điểm, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước về việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay –
trích văn kiện Đại hội IX, XI) – tách quan điểm riêng, chính sách riêng.
Kết luận: Từ lý luận và thực tiễn trên, có thể thấy, Nhà nước pháp quyền Xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam đảm bảo quyền làm chủ của nhân, Nhà nước thực
sự thuộc về tay nhân dân và là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Câu 4: Quan điểm về nguồn gốc, bản chất, tính chất của tôn giáo và các
nguyên tắc ứng xử của đảng công
sản và nhà nước xã hôịchủ nghĩa đối với
vấn đề tôn giáo. Liên hệ Việt Nam. - Lưu ý: đọc kỹ đề
A) LÝ LUẬN CHUNG (1)
- Khái niệm tôn giáo (theo quan điểm Chủ nghĩa Mác - Lênin), tôn giáo
là ...
- Nguồn gốc ra đời tôn giáo – 4 nguồn gốc
- Bản chất tôn giáo (Tôn giáo là một hiện tượng xã hội – văn hóa do con
người sáng tạo ra)
- Tính chất tôn giáo – 5 tính chất
- Chức năng của tôn giáo
- Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo
- Nguyên tắc ứng xử của Đảng công
sản và Nhà nước xã hôịchủ nghĩa đối
với vấn đề tôn giáo
B) LIÊN HỆ VIỆT NAM (2)
- Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam
- Quan điểm, chính sách của Đảng công
sản Việt Nam đối với vấn đề
tôn giáo (tách bạch giữa quan điểm và chính sách)
lOMoARcPSD| 15962736
Câu 5: Cương lĩnh dân tôc
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Liên hệ Việt Nam.
A) LÝ LUẬN CHUNG – CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN
(1) - Khái niệm dân tộc
(- Đặc trưng cơ bản của một dân tộc)
(- Hai xu hướng khách quan giải quyết vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ
lên CNXH)
- Nội dung Cương lĩnh dân tộc của Chủ nghĩa Mác - Lênin
B) LIÊN HỆ VIỆT NAM (2)
- Đặc điểm dân tộc Việt Nam (sơ lược - chú ý những chữ in nghiêng - chép
ít thôi vì các e hay bị sa đà, dài dòng)
- Quan điểm, chính sách của ĐCSVN về vấn đề dân tộc (tách bạch giữa
quan điểm và chính sách), có thể phân tích 1 quan điểm mà e có thể diễn đạt
dài hơn nữa, có thể phân tích 1 chính sách mà em tâm đắc nhất.
| 1/28

Preview text:

lOMoAR cPSD| 15962736 Ôn tập
Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc
gia Thành phố Hồ Chí Minh) lOMoAR cPSD| 15962736
Nội dung 1: Quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về giai cấp
công nhân và sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân.

Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội, hình
thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện
đại. Họ lao động bằng phương thức công nghiệp ngày càng hiện đại và gắn
liền với quá trình sản xuất vật chất hiện đại, là đại biểu cho phương thức sản
xuất mang tính xã hội hóa ngày càng cao. Họ là người làm thuê do không có
tư liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động để sống và bị giai cấp tư sản
bóc lột giá trị thặng dư, vì vậy lợi ích cơ bản của họ đối lập với lợi ích cơ
bản của giai cấp tư sản. Đó là giai cấp có sứ mệnh phủ định chế độ tư bản
chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới.
Lưu ý rằng ngày nay, trong chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân không
còn vô sản như trước nữa, họ đã có sở hữu tư liệu sản xuất nhỏ; có cổ phần,
cổ phiếu trong nhà máy, xí nghiệp tư bản chủ nghĩa, có phúc lợi xã hội.
Tuy nhiên sở hữu tư liệu sản xuất và cổ phần của công nhân chỉ chiếm một
tỉ lệ nhỏ. Phần lớn tư liệu sản xuất và cổ phần vẫn thuộc về các nhà tư bản.
Vì vậy, về cơ bản, giai cấp công nhân vẫn không có tư liệu sản xuất, vẫn
phải làm thuê cho nhà tư bản, và vẫn bị bóc lôṭ.
Về đặc điểm của giai cấp công nhân theo chủ nghĩa Mác-Lênin là sản phẩm
của nền đại công nghiệp; lao động bằng phương thức công nghiệp mang tính
chất xã hội hóa cao; là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất hiện đại; có
tính tổ chức, kỷ luật cao trong lao động, tinh thần hợp tác và tâm lý lao động
công nghiệp; là giai cấp tiên tiến, có tinh thần cách mạng triệt để; là giai cấp có bản chất quốc tế.
Ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, sẽ xuất hiện một giai cấp đứng ở vị trí
trung tâm, là lực lượng xã hội chính đấu tranh xóa bỏ xã hội cũ lạc hậu,
xây dựng xã hội mới tiến bộ hơn. Vị trí, vai trò đó được gọi là Sứ mệnh
lịch sử của một giai cấp.
Nội dung sứ mệnh lịch sử là: Thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản,
giai cấp công nhân tổ chức lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng mình và
giải phóng toàn xã hội khỏi mọi áp bức, bất công, xóa bỏ các chế độ áp bức,
bóc lột, bất công, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới.
Để thực hiện sứ mệnh lịch sử trên, giai cấp công nhân cần phải trải qua hai
giai đoạn là giành chính quyền và xây dựng, bảo vệ chính quyền. Giai đoạn
1 là giai cấp công nhân đấu tranh giành chính quyền về tay mình. Lênin đã
từng nói: “Giành chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng”.
Phương thức giành chính quyền: Sử dụng bạo lực cách mạng là chính. Ngoài
ra, muốn giành chính quyền đòi hỏi phải có tình thế cách mạng và thời cơ
cách mạng. Tình thế cách mạng là khi giai cấp thống trị tỏ ra suy yếu, không
thể duy trì được nền thống trị của mình như cũ; sự bất bình và lòng phẫn nô ̣
của các giai cấp bị trị công khai và gay gắt; giai cấp lãnh đạo cách mạng đủ
năng lực lãnh đạo, phát đông ̣ được cuôc ̣ đấu tranh cách mạng của quần
chúng nhân dân bị áp bức chống lại giai cấp thống trị. Thời cơ cách mạng là
thời điểm mà ở trong nước giai cấp thống trị tỏ ra hoang mang cao đô ̣do sự lOMoAR cPSD| 15962736
lớn mạnh của phong trào cách mạng; lực lượng lãnh đạo cách mạng đã sẵn
sàng cho cuôc ̣ quyết chiến giành chính quyền. Ở bên ngoài, phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân quốc tế ủng hô ̣cách mạng, tạo điều kiêṇ cho
cách mạng bùng nổ và giành thắng lợi. Giai đoạn 2 là khi giai cấp vô sản và
người dân lao động sử dụng chính quyền của mình để cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới về mọi mặt (kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, v.v..)
nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Lực lượng của cách mạng xã hội chủ nghĩa là toàn thể quần chúng nhân dân
lao động (công nhân, nông dân, các lực lượng tiến bộ xã hội) đang mâu
thuẫn với giai cấp tư sản, đang có nhu cầu được giải phóng khỏi chế độ áp bức, bóc lột... Trong đó:
Giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo, là động lực chủ yếu trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Giai cấp nông dân là một động lực quan trọng trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa, nhất là ở những nước có lực lượng nông dân đông trong xã hội.
Ngoài ra, động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa còn là các giai cấp, tầng
lớp, lực lượng tiến bộ khác trong xã hội (trí thức, tư sản, tiểu tư sản tiến bộ, v.v…).
Nội dung cụ thể sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân gồm có 3 nội dung chính:
Nội dung kinh tế: giai cấp công nhân là lực lượng sản xuất cơ bản sản xuất
ra của cải cho xã hội xã hội chủ nghĩa.
Nội dung chính trị: Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công
nhân tiến hành đấu tranh giành chính quyền, xây dựng nhà nước mới của nhân dân.
Nội dung văn hóa–xã hội: Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp
công nhân xây dựng nền văn hóa, con người mới với tư tưởng, đạo đức xã hội chủ nghĩa.
Đăc ̣điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là:
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất phát từ những tiền đề kinh tế
- xã hội của sản xuất mang tính xã hội hóa.
Thực hiêṇ sứ mệnh lịch sử là sự nghiêp ̣ của bản thân giai cấp công nhân
cùng đông đảo nhân dân lao động do Đảng Cộng sản lãnh đạo và mang lại lợi ích cho đa số.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không phải là thay thế chế độ sở
hữu tư nhân này bằng môṭchế độ sở hữu tư nhân khác mà là xóa bỏ triêṭđể
chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu (xóa bỏ triệt để
chế độ người bóc lột người). Giành quyền lực thống trị là tiền đề cải tạo xã
hội cũ, xây dựng xã hội mới nhằm giải phóng con người.
Về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện nay, lOMoAR cPSD| 15962736
giai cấp công nhân hiện nay có những điểm tương đồng so với giai cấp công
nhân thế kỷ XIX: Vẫn là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội hiện đại;
vẫn bị giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản bóc lột giá trị thặng dư; xung đột
lợi ích cơ bản giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân (giữa tư bản và lao
động) vẫn tồn tại; đi đầu đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên vẫn
có những biến đổi và khác biệt của giai cấp công nhân hiện đại: Xu hướng
trí tuệ hoá giai cấp công nhân (công nhân tri thức); tham gia vào sở hữu
(trung lưu hóa); biểu hiện mới về xã hội hoá lao động; ở một số nước xã hội
chủ nghĩa, giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp lãnh đạo thông qua đội
tiền phong là Đảng Cộng sản.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ngày nay so với thế kỉ XIX
có những sự khác biệt:
Nội dung kinh tế: Vẫn là lực lượng giữ vai trò sản xuất vật chất chủ yếu
cho xã hội, quyết định sự tồn tại của xã hội. Nội dung chính trị:
Ở các nước định hướng xã hội chủ nghĩa: là giai cấp lãnh đạo nhân dân xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Ở các nước tư bản chủ nghĩa: đi đầu trong các cuộc đấu tranh chống áp
bức, bất công, áp đặt của chủ nghĩa đế quốc; chống nghèo đói, ô nhiễm môi trường
Nội dung văn hóa – xã hội: Lãnh đạo hoặc đi đầu trong xây dựng một
nền văn hóa tiến bộ vì công bằng, bình đẳng và quyền con người
Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay về lịch sử hình thành:
Được hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp; ra
đời trước giai cấp tư sản vào đầu thế kỷ XX; là lực lượng chính trị tiên
phong lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc; sớm giác ngô ̣lý tưởng,
mục tiêu cách mạng; gắn bó mâṭthiết với các tầng lớp nhân dân trong xã hội;
đại bô ̣phâṇ xuất thân từ nông dân và các tầng lớp lao đông;̣ là sản phẩm và
là lực lượng đi đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; lao động
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đa dạng về trình
độ công nghệ, về thành phần kinh tế và về lợi ích; số lượng: khoảng 16 triệu
(6/2018); chiếm 21% tổng số lao động và 11% dân số.
Giai cấp công nhân Việt Nam có nhiều ưu thế về chính trị: Sớm tiếp thu
chủ nghĩa Mác- Lênin, có Đảng và có lãnh tụ sáng suốt; vững vàng về
chính trị, tư tưởng; được rèn luyện, có bản lĩnh chính trị; là nòng cốt, đi đầu
trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc và quá trình đổi mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; “Là giai cấp kiên quyết nhất, cách mạng nhất, đi
đầu trong đấu tranh cách mạng” - Hồ Chí Minh. Ngoài ra, giai cấp công
nhân còn có quan hệ mật thiết với dân tộc, nhất là giai cấp nông dân: Gắn
bó lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc; nhận rõ kẻ thù của giai cấp và dân tộc
là một; sớm trở thành giai cấp lãnh đạo dân tộc.
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay: là giai
cấp lãnh đạo thông qua đôịtiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diêṇ
cho phát triển sản xuất tiên tiến; tiên phong trong sự nghiêp ̣ xây dựng chủ lOMoAR cPSD| 15962736
nghĩa xã hội; lực lượng đi đầu trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa); lực
lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đôịngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay và vấn đề đặt ra: Là lực
lượng sản xuất hàng đầu của Việt Nam song chưa chiếm đa số trong dân cư
và lao động; phân hoá khá sâu sắc (2 chiều) trong kinh tế thị trường, hội
nhập quốc tế; trình độ văn hóa, tay nghề, công nghệ... chưa đáp ứng yêu cầu
cao của công nghiệp hóa, hiện đại hóa; giác ngộ chính trị chưa đồng đều,
một bộ phận chưa ngang tầm với vị trí tiền phong; đào tạo và sử dụng công
nhân nhiều bất cập; việc làm và đời sống của công nhân còn khó khăn; nhiều
tổ chức chính trị - xã hội của công nhân còn non yếu; một bộ phận giới chủ
trong các doanh nghiệp FDI, tư nhân… thể hiện “mặt đối lập” với công
nhân; một bộ phận công nhân trong các thành phần kinh tế tư nhân, nước
ngoài đang bị bóc lột khá nặng nề, bộc lộ tâm lý làm thuê, nô lệ, sự cạnh
tranh, nỗi thất vọng, sự vùng dậy… lao động của họ có biểu hiện đang bị tha
hóa; nguy cơ “4 hóa” của một bộ phận công nhân (Công đoàn Trung Quốc)
sẽ là hiện thực: làm thuê hóa, bần cùng hóa, vô quyền hóa, phân tán hóa
Quan điểm về phương hướng và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt
Nam hiện nay: Kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo
cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; phát huy
sức mạnh của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; chiến lược xây dựng giai cấp công nhân
lớn mạnh phải gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế; đào tạo, bồi
dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, không ngừng trí thức hóa
giai cấp công nhân là một nhiệm vụ chiến lược; xây dựng giai cấp công
nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội
cũng như sự nỗ lực vươn lên của bản thân mỗi người công nhân.
Về giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, đầu tiên cần
phải nâng cao nhận thức trong Đảng, tổ chức công đoàn, bản thân giai cấp
công nhân và trong toàn xã hội về vai trò (sứ mệnh lịch sử) của giai cấp công
nhân; tăng cường “trí thức hóa” công nhân; xây dựng, củng cố các tổ chức
chính trị trong các doanh nghiệp, nhà máy, nhất là các doanh nghiệp ngoài
nhà nước; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; hoàn thiện luật đầu tư
(thu hút đầu tư nhưng phải bảo vệ lợi ích người lao động).
Nội dung 2: Quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về thời kỳ quá độ
lên Chủ nghĩa xã hội. Đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gôta” (1875), C.Mác đã cho
rằng: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời
kỳ cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy
không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô
sản”. Khẳng định quan điểm của C.Mác, V.I Lênin đã cho rằng: “Về lý luận,
không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản,
có một thời kỳ quá độ nhất định”. Sau này, từ thực tiễn nước Nga. V.I Lênin
cho rằng, đối với những nước chưa có chủ nghĩa tư bản phát triển lOMoAR cPSD| 15962736
cao “cần phải có thời kỳ quá độ lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”.
Vậy nên, về mặt lý luận và thực tiễn, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa cộng sản, được hiểu theo hai nghĩa: thứ nhất, đối với các
nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa cộng sản có một thời kỳ quá độ nhất định, là thời kỳ cải biến cách
mạng từ xã hội này sang xã hội kia, là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa cộng sản; thứ hai, đối với các nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản
phát triển, cần thiết phải có thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội - những cơn đau đẻ kéo dài.
Khẳng định tính tất yếu của thời kỳ quá độ, đồng thời các nhà sáng
lập chủ nghĩa xã hội khoa học cũng phân biệt có hai loại quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa cộng sản: 1) Quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa cộng sản đối với các nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển.
Cho đến nay thời kỳ quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa cộng sản từ chủ nghĩa tư
bản phát triển chưa từng diễn ra; 2) Quá độ gián tiếp từ chủ nghĩa tư bản
phát triển đối với các nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển. Trong
một thế kỷ qua, trên thế giới kể cả Liên Xô và các nước Đông u trước đây;
Trung Quốc, Việt Nam và một số nước xã hội chủ nghĩa khác ngày nay,
theo đúng lý luận Mác Lênin, đều đang trải qua thời kỳ quá độ gián tiếp với
những trình độ phát triển khác nhau.
Về xã hội của của thời kỳ quá độ, đó là xã hội đan xen của nhiều tàn
dư về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần của chủ nghĩa tư bản và
những yếu tố mới mang tính chất xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa xã hội mới
phát sinh chưa phải là chủ nghĩa xã hội đã phát triển trên cơ sở của chính nó.
Đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ
cải tạo cách mạng sâu sắc, triệt để xã hội tư bản chủ nghĩa trên tất cả lĩnh
vực, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, xây dựng từng bước cơ sở vật chất -
kỹ thuật và đời sống tinh thần của chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ lâu dài,
gian khổ bắt đầu từ khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được
chính quyền đến khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Về phương diện kinh tế, tất yếu tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó
còn có thành phần đối lập. Tương ứng với nước Nga, V.I Lênin cho rằng thời
kỳ quá độ tồn tại 5 thành phần kinh tế: Kinh tế gia trưởng; kinh tế hàng hóa
nhỏ, kinh tế tư bản; kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Về phương diện chính trị, là việc thiết lập, tăng cường chuyên chính vô sản
mà thực chất của nó là việc giai cấp công nhân nắm và sử dụng quyền lực
nhà nước trấn áp giai cấp tư sản, xây dựng một xã hội không giai cấp. Đây là
sự thống trị về thống trị của giai cấp công nhân với chức năng thực hiện dân
chủ đối với nhân dân, tổ chức xây dựng và bảo vệ chế độ mới, chuyên chính
với những phần tử thù địch, chống lại nhân dân.
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phương diện tư
tưởng - văn hóa, còn tồn tại nhiều tư tưởng khác nhau. Giai cấp công nhân
thông qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản từng bước xây dựng
văn hóa vô sản, nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị văn giá trị lOMoAR cPSD| 15962736
dân tộc là tinh hoa nhân loại, đảm bảo đáp ứng nhu cầu văn hóa - tinh
thần ngày càng tăng của nhân dân.
Về phương diện xã hội, do kết cấu của nền kinh tế nhiều thành phần quy
định nên trong thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp và sự khác
biệt giữa các giai cấp tầng lớp xã hội, các giai cấp, tầng lớp vừa hợp tác,
vừa đấu tranh với nhau. Bởi vậy, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội là thời kỳ đấu tranh giai cấp chống áp bức, bất công, xóa bỏ tệ
nạn xã hội và những tàn dư của xã hội cũ để lại, thiết lập công bằng xã hội
trên cơ sở thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động là chủ đạo.
Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện vừa thuận lợi vừa khó
khăn đan xen, và có những đặc trưng cơ bản: Việt Nam xuất phát từ một xã
hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp, trải qua
chiến tranh ác liệt kéo dài nhiều thập kỷ, tàn dư thực dân và phong kiến còn
nhiều; Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh
mẽ, cuốn hút tất cả các nước ở mức độ khác nhau, nền sản xuất vật chất và
đời sống xã hội đang trong quá trình quốc tế hóa sâu sắc, những xu thế đó
vừa tạo thời cơ phát triển nhanh cho các nước như Việt Nam, vừa đặt ra
những thách thức sâu sắc; Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù đang gặp
nhiều khó khăn, thách thức song theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài
người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh năm 1930 của Đảng đã chỉ rõ: Sau khi hoàn thành cách mạng
dân tộc, dân chủ nhân dân, sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là lựa chọn
dứt khoát và đúng đắn của Đảng, đáp ứng nguyện vọng thiết tha của dân
tộc, nhân dân, phản ánh xu thế phát triển của thời đại, phù hợp với quan
điểm khoa học, cách mạng và sáng tạo của chủ nghĩa Mác Lênin.
Hơn nữa, đặc điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam là bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa, như Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định:
Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu,
kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Đây là tư tưởng mới, phản ánh nhận thức mới, tư duy mới của Đảng ta
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa. Tư tưởng
này cần được hiểu đầy đủ với những nội dung sau đây:
Thứ nhất, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con
đường cách mạng tất yếu khách quan, con đường xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thức hai, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tức là
bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng tư bản chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là trong thời kỳ quá độ còn nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, song sở hữu tư nhân tư bản chủ lOMoAR cPSD| 15962736
nghĩa và thành phần kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa không đóng vai trò
chủ đạo; thời kỳ quá độ còn nhiều hình thức phân phối, ngoài phân phối
theo lao động còn phân phối theo mức độ đóng góp và quỹ phúc lợi xã hội;
thời kỳ quá độ vẫn còn quan hệ bóc lột và bị bóc lột, song quan hệ bóc lột tư
bản chủ nghĩa không giữ vai trò thống trị.
Thứ ba, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đòi
hỏi phải tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư bản.
Thứ tư, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là tạo ra
sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả lĩnh vực, là nghiệp rất khó khăn,
phức tạp, lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã
hội có tính chất quá độ đòi hỏi phải có quyết tâm, chính trị khát vọng lớn
của toàn Đảng, toàn dân.
Nội dung 3: Quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về đặc trưng của chủ
nghĩa xã hội. Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chủ nghĩa xã hội khoa học được hiểu theo nghĩa rộng là chủ nghĩa Mác
Lênin, luận giải từ các giác độ triết học, kinh tế học chính trị và chính trị -
xã hội về sự chuyển biến tất yếu của xã hội loài người từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa xã hội khoa
học góp phần quan trọng trong việc giáo dục niềm tin khoa học cho nhân
dân vào mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội được tiếp cận trên một số cấp độ sau đây: 1) Là phong
trào thực tiễn, phong trào đấu tranh của nhân dân chống lại áp bức, bất
công, chống lại các giai cấp thống trị; 2) Là phong trào tư tưởng, lý luận
phản ánh lý tưởng giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức, bóc lột, bất
công; 3) Là một khoa học - Chủ nghĩa xã hội khoa học, khoa học về sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân; 4) Là một chế độ xã hội tốt đẹp, giai
đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Khi nghiên cứu về hình thái kinh tế - xã hội chủ nghĩa, các nhà sáng lập chủ
nghĩa xã hội khoa học rất quan tâm dự báo những đặc trưng của từng giai
đoạn đặc biệt là giai đoạn đầu ( giai đoạn thấp) của xã hội cộng sản nhằm
định hướng phát triển cho phong trào công nhân quốc tế. Căn cứ vào những
dự báo của C.Mác và Ph.Ăngghen và những quan điểm của V.I.Lênin về
chủ nghĩa xã hội nước Nga xô - viết, có thể khái quát những đặc điểm cơ
bản của chủ nghĩa xã hội như sau:
Chủ nghĩa xã hội giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội,
giải phóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện. Trong
tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, khi dự báo về xã hội tương lai, xã
hội cộng sản chủ nghĩa, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Thay cho xã
hội tư bản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện
một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện phát triển
tự do của tất cả mọi người”; khi đó “con người, cuối cùng làm chủ tồn tại xã
hội của chính mình, thì cũng do đó làm chủ tự nhiên, làm chủ cả bản thân mình
trở thành người tự do”. Đây là sự khác biệt về chất giữa hình thái lOMoAR cPSD| 15962736
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa so với các hình thái kinh tế - xã hội ra
đời trước, thể hiện ở bản chất nhân văn, nhân đạo, vì sự nghiệp giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về tư hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
V.I.Lênin cho rằng; “từ chủ nghĩa tư bản, nhân loại chỉ có thể tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội, nghĩa là chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất và chế độ
phân phối lao động của mỗi người”. Đây là đặc trưng về phương diện kinh
tế của chủ nghĩa xã hội khoa học. Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là
giải phóng con người trên cơ sở điều kiện kinh tế - xã hội phát triển, mà xét
đến cùng là trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất hiện đại, quan hệ
sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, được tổ chức quản lý
có hiệu quả, năng suất lao động cao và phân phối chủ yếu theo lao động.
Chủ nghĩa xã hội là xã hội do nhân dân lao động làm chủ. Đây là đặc trưng
thể hiện thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã hội, xã hội vì con người và do
con người; nhân dân mà nòng cốt là nhân dân lao động là chủ thể của xã hội
thực hiện quyền làm chủ ngày càng rộng rãi và đầy đủ trong quá trình cải tạo
xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “...bước
thứ nhất trong cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp
thống trị là giành lấy dân chủ”. V.I.Lênin, từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Nga Xô viết đã coi chính quyền Xô viết là một kiểu Nhà nước
chuyên chính vô sản, một chế độ ưu việt gấp triệu lần so với chế độ dân chủ
tư sản: “Chế độ dân chủ vô sản so với bất kỳ chế độ dân chủ tư sản nào cũng
dân chủ hơn gấp triệu lần; chính quyền Xô viết so với nước cộng hòa dân
chủ nhất thì cũng gấp triệu lần”.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã khẳng định trong chủ nghĩa
xã hội phải thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản, nhà nước kiểu mới mang
bản chất giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của
nhân dân lao động. Theo V.I.Lênin, chuyên chính cách mạng của giai cấp vô
sản là một chính quyền do giai cấp vô sản giành được và duy trì bằng bạo
lực đối với giai cấp tư sản Chính quyền đó chính là nhà nước kiểu mới thực
hiện dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân và trấn áp bằng vũ lực bọn bóc
lột, bọn áp bức nhân dân, thực chất của sự biến đổi của chế độ dân chủ trong
thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. Theo V.I.Lênin,
Nhà nước xô - viết sẽ tập hợp, lôi cuốn đông đảo nhân dân tham gia quản lý
Nhà nước, quản lý xã hội, tổ chức đời sống xã hội vì con người và cho con người.
Chủ nghĩa xã hội có nền văn hóa phát triển cao, kế thừa và phát huy những
giá trị của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn nhân loại. Tính ưu việt, sự ổn
định và phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa không chỉ thể hiện ở lĩnh vực
văn hóa - tinh thần của xã hội. V.I.Lênin khẳng định: “...nếu không hiểu rõ
rằng chỉ có sự hiểu biết chính xác về việc cải tạo nền văn hóa đó mới có thể
xây dựng được nền văn hóa vô sản thì chúng ta không thể giải quyết được
vấn đề. Đồng thời, V.I.Lênin cũng cho rằng: “Người ta chỉ có thể trở thành
người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả
những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”. Do vậy, quá trình xây dựng
nền văn hóa xã hội chủ nghĩa phải biết kế thừa những giá trị văn hóa dân tộc lOMoAR cPSD| 15962736
và tinh hóa văn nhân loại, đồng thời, cần chống lại tư tưởng, văn hóa phi vô
sản, đồng thời, cần chống lại tư tưởng, văn hóa phi vô sản, trái với những
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và của loài người, trái với phương
hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội bảo đảm bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc và có quan
hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Theo quan điểm
của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học, vấn đề giai cấp có quan
hệ biện chứng, bởi vậy, giải quyết vấn đề dân tộc, giai cấp trong chủ nghĩa
xã hội có vị trí đặc biệt quan trọng và tuân thủ nguyên tắc; “xóa bỏ tình trạng
người bóc lột người thì trình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng bị
xóa bỏ”. Trong điều kiện cụ thể ở nước Nga. V.I.Lênin, trong Cương lĩnh về
vấn đề dân tộc trong chủ nghĩa xã hội đã chỉ ra những nội dung có tính
nguyên tắc để giải quyết vấn đề dân tộc: “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng;
các dân tộc được quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại.
Đó là Cương lĩnh dân tộc mà chủ nghĩa Mác. kinh nghiệm toàn thế giới và
kinh nghiệm của nước Nga dạy cho công nhân”.
Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam, tổng kết thực tiễn quá trình cách mạng Việt Nam, nhất là qua
hơn 30 năm đổi mới, nhận thức của Đảng và nhân dân ta về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ngày càng rõ. Đại hội IV (1976), nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội
và con đường phát triển của cách mạng nước ta mới ở mức độ định hướng.
Đến Đại hội VII, nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa đã sáng tỏ hơn, từng bước đạt tới trình độ
định hình, định lượng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (1991), đã xác định mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta
với sáu đặc trưng. Đến Đại hội XI, nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã
hội đã có bước phát triển mới. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã phát triển mô
hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam với tám đặc trưng, trong đó có đặc trưng về
mục tiêu, bản chất, nội dung của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng đó là: 1) Dân giàu, nước mạnh dân chủ, công bằng, văn minh; 2) Do
dân làm chủ; 3) Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; 4) Có nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; 5) Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển toàn diện; 6) Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; 7) Có Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân. do nhân dân, vì nhân dân do
Đảng Cộng sản lãnh đạo; 8) Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Nội dung 4: Quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về bản chất,
nguồn gốc, tính chất của tôn giáo, các nguyên tắc cơ bản xử lý mối quan
hệ giữa chủ nghĩa xã hội và tôn giáo. Đặc điểm, tình hình tôn giáo và
chính sách tôn giáo của Việt Nam hiện nay.
Bản chất của tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách lOMoAR cPSD| 15962736
hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan vào đầu óc con người. Khác với
tôn giáo, tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một
hiện tượng, một lực lượng siêu nhiên nào đó. Còn mê tín dị đoan là niềm
tin của con người vào các lực lượng siêu nhiên đến mức độ mê muội, hành
vi cực đoan, thái quá, ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội. Vì vậy, bên cạnh tôn
trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo thì phải chống mê tín dị đoan. Nói thêm về
tôn giáo, đó là một dạng tín ngưỡng được thể hiện dưới dạng: Có hệ thống
giáo lý làm cơ sở cho niềm tin, ý thức tôn giáo; có hệ thống nghi lễ; có giáo
luật; có tổ chức giáo hội.
Nói về nguồn gốc của tôn giáo, không phải tôn giáo tạo ra con người mà
chính con người tạo ra tôn giáo. Nguồn gốc của tôn giáo bắt nguồn từ nguồn
gốc kinh tế - xã hội, nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc tâm lý. Về nguồn
gốc kinh tế - xã hội, trong xã hội công xã nguyên thủy, do trình độ của lực
lượng sản xuất thấp kém con người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước các
sức mạnh tự phát của tự nhiên, do đó gán cho tự nhiên những sức mạnh to
lớn, thần thánh hóa những sức mạnh đó. Khi xã hội xuất hiện giai cấp, áp
bức giai cấp cũng là một nguyên nhân làm cho con người hướng niềm tin
vào thế giới siêu nhiên dưới hình thức tín ngưỡng, tôn giáo. Kinh tế – xã hôị
luôn diễn ra sự tác động đến con người môṭcách may rủi, ngẫu nhiên, cũng
làm cho người nảy sinh tín ngưỡng, tôn giáo. Về nguồn gốc nhận thức, sự
thiếu hiểu biết, không giải thích được các hiện tượng tự nhiên, xã hội cũng
dẫn đến nảy sinh các quan điểm tôn giáo. Con người có khả năng khái quát
hóa hiện thực bằng các khái niệm, phạm trù trừu tượng đến mức xa rời hiện
thực, phản ánh sai lệch hiện thực. Đó cũng là cơ sở nhận thức để hình thành
các phạm trù, khái niệm, học thuyết tôn giáo. Ví dụ: Khái niêṃ “Thiên
đường”, “địa ngục”, v.v… Còn về nguồn gốc tâm lý, “Sự sợ hãi sinh ra thần
linh”. Tâm lý kính trọng, biết ơn của con người cũng dẫn đến các hiện tượng
tín ngưỡng, tôn giáo. Tuy nhiên, lưu ý rằng viêc ̣ tách thành các nguồn gốc
như trên chỉ có ý nghĩa tương đối. Các nguồn gốc trên không tách biêṭmôṭ
cách rõ ràng, chúng tác đông ̣ môṭcách đan xen dẫn đến nảy sinh tín ngưỡng,
tôn giáo. Trong các yếu tố dẫn đến sự ra đời của tín ngưỡng, tôn giáo như
trên, yếu tố kinh tế – xã hôịlà yếu tố quyết định.
Về tính chất của tôn giáo, ta nói đến 3 tính chất sau: Tính lịch sử của tôn
giáo, tính quần chúng của tôn giáo và tính chính trị của tôn giáo. Về tính lịch
sử của tôn giáo, Tôn giáo chỉ xuất hiện khi loài người phát triển đến một
trình độ lịch sử nhất định. Tôn giáo không xuất hiện đồng thời với sự xuất
hiện của con người. Tôn giáo ra đời, tồn tại, biến đổi cùng với biến đổi của
thời đại, sao cho phù hợp với kết cấu chính trị - xã hội của thời đại. Tôn giáo
sẽ mất đi khi những nguồn gốc sản sinh ra tôn giáo bị loại bỏ. Tuy nhiên thì
đây sẽ là một quá trình lịch sử rất lâu dài. Về tính quần chúng của tôn giáo,
tín đồ tôn giáo luôn chiếm tỷ lệ khá đông trong dân số thế giới. Hầu như dân
tộc, quốc gia nào cũng có tôn giáo. Tôn giáo đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn
hóa tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân lao động. Về tính chính
trị của tôn giáo, trong xã hội chưa có giai cấp, tôn giáo chưa mang tính
chính trị. Trong xã hội có giai cấp, tôn giáo bị các giai cấp thống trị lợi dụng
để phục vụ lợi ích của mình. Nhiều tôn giáo ra đời là biểu hiện sự phản
kháng của giai cấp lao động chống lại sự áp bức giai cấp. Ngoài ra tôn giáo
còn thể hiện những tính chất như: Tính nhân văn và tính phản khoa học. lOMoAR cPSD| 15962736
Về nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tôn
giáo vẫn còn tồn tại. Điều đó là do, nguyên nhân cho sự ra đời và tồn tại của
tôn giáo vẫn chưa mất. Về nguyên nhân kinh tế, trong chủ nghĩa xã hội, và nhất
là trong thời kỳ quá độ còn nhiều thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường, do đó: Bóc lôṭvà sự bất bình đẳng về kinh tế vẫn tồn tại; những yếu tố
may rủi, ngẫu nhiên do sự tác động của thị trường vẫn tồn tại, v.v… Điều đó
cũng là một trong những nguyên nhân làm cho con người có tâm lý thụ động,
cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên.Về nguyên nhân chính trị - xã hội,
do đường lối của Đảng Cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa thực hiện quyền
tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân, vì tôn giáo có nhiều điểm còn phù hợp
với chủ nghĩa xã hội như giá trị đạo đức, giá trị văn hóa. Đấu tranh giai cấp,
đấu tranh chính trị vẫn còn diễn ra dưới nhiều hình thức phức tạp, các thế lực
thù địch vẫn lợi dụng tôn giáo vì mục đích chính trị. Chiến tranh, xung đột,
khủng bố, bạo loạn, bệnh tật… vẫn còn đe dọa con người, do đó những yếu tố
này là điều kiện thuận lợi cho tôn giáo tồn tại. Về nguyên nhân nhận thức, tâm
lý, trình độ dân trí vẫn chưa thật cao; nhiều hiện tượng tự nhiên, xã hội đến nay
khoa học vẫn chưa giải thích được. Những hiện tượng tự phát của tự nhiên, xã
hội có lúc tác động, chi phối đến cuộc sống của con người một cách nghiêm
trọng. Và khi con người không có khả năng lý giải những điều đó, thì thường
có tâm lý là trông chờ, tin tưởng vào thần thánh, đứng siêu nhiên. Tôn giáo, tín
ngưỡng là thuộc về ý thức xã hội, và là một trong những hình thái ý thức xã hội
bảo thủ nhất. Ngay cả khi tồn tại xã hội có những biến đổi lớn lao về kinh tế,
chính trị, xã hội, v.v… thì tôn giáo, tín ngưỡng cũng chưa biến đổi ngay. Tôn
giáo tín ngưỡng đã in sâu vào đời sống tinh thần, ảnh hưởng khá đậm đến nếp
nghĩ, lối sống của một bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ đến mức trở thành
một kiểu sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu của cuộc sống. Về nguyên
nhân văn hóa, sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng tôn giáo có khả năng đáp ứng ở
một mức độ nào đó nhu cầu văn hóa tinh thần của một bộ phận nhân dân, có ý
nghĩa nhất định về giáo dục ý thức cộng đồng, đạo đức, phong cách, lối sống.
Điều đó cũng phù hợp với chủ nghĩa xã hội, vì vậy việc kế thừa, phát huy các
giá trị văn hóa của tôn giáo là cần thiết và hợp lý.
Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Với vị trí địa
lý nằm ở khu vực Đông Nam Á có ba mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận lợi
trong mối giao lưu với các nước trên thế giới và cũng là nơi rất dễ cho việc
thâm nhập các luồng văn hóa, các tôn giáo trên thế giới. Với sự đa dạng các
loại hình tín ngưỡng, tôn giáo, người ta thường ví Việt Nam như bảo tàng
tôn giáo của thế giới. Về khía cạnh văn hóa, sự đa dạng các loại hình tín
ngưỡng, tôn giáo đã góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam phong phú và
đặc sắc. Các tín ngưỡng, tôn giáo dù có nguồn gốc khác nhau, phương châm
hành đạo không giống nhau nhưng không vì thế mà có sự xung đột, phá hoại
lẫn nhau để phát triển riêng mình, ngược lại trong quan hệ, họ luôn có sự
gắn kết, giao lưu và tìm hiểu về nhau để cùng truyền đạt những tinh hoa của
từng tín ngưỡng, tôn giáo.
Dưới đây là 4 đặc điểm cơ bản của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam:
Một là, các tín ngưỡng, tôn giáo có sự dung hợp, đan xen và hòa đồng,
không kỳ thị, tranh chấp và xung đột. Các tín ngưỡng truyền thống phản ánh lOMoAR cPSD| 15962736
đời sống tâm linh phong phú, đa dạng, sự khoan dung, độ lượng, nhân ái
của người Việt Nam và tinh thần đoàn kết toàn dân tộc. Đây là những yếu tố
để người Việt Nam dễ hòa đồng với nhiều tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.
Trong nhiều cộng đồng dân cư có sự xen kẽ giữa người có tôn giáo và
người không có tôn giáo. Ở nhiều nơi, trong cùng một làng, xã, có nhóm tín
đồ của tôn giáo này sống đan xen với nhóm tín đồ của tôn giáo khác hoặc
với những người không theo tôn giáo, và họ sống hòa hợp với nhau trên nền
tảng làng, xóm, dòng họ.
Hai là, các tôn giáo ở Việt Nam chủ yếu thờ Thượng đế và linh nhân là
người nước ngoài. Các nghiên cứu về lịch sử tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt
Nam cho thấy, tư tưởng tôn giáo có từ người Việt cổ, thể hiện trực quan qua
các hình tượng chim Lạc và con Rồng. Hệ thống giáo lý của các tôn giáo nội
sinh (Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, ...) hầu
hết đều sao chép hoặc chịu ảnh hưởng từ các tôn giáo có trước.
Ba là, mỗi tín ngưỡng, tôn giáo mang những nét văn hóa riêng biệt nhưng
đều hướng đến Chân - Thiện - Mỹ, chịu ảnh hưởng của truyền thống dân
tộc, góp phần tạo nên những nét đẹp trong nền văn hóa đa dạng, phong phú
về bản sắc của dân tộc.
Thực tế, mỗi tôn giáo đều mang trong nó một hay nhiều tín ngưỡng; các
tín ngưỡng này đã có sự giao thoa với văn hóa Việt Nam. Qua hàng trăm
năm tồn tại, phát triển, văn hóa tín ngưỡng ngoại nhập dần được Việt hóa
và trở thành một bộ phận của văn hóa Việt Nam (dù không thuần nhất).
Đặc điểm thứ 4, trong lịch sử cận, hiện đại của dân tộc, các thế lực thực dân,
đế quốc, phản động luôn tìm mọi cách lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo và các
vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo để xâm lược, đô hộ nước ta, hoặc
gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, phục vụ cho ý đồ đen tối của chúng.
Về những quan điểm chỉ đạo giải quyết vấn đề tôn giáo trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội:
Một là, cần khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống
xã hội bằng cách cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới (chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản), xóa bỏ nguồn gốc xã hội nảy sinh niềm tin tôn giáo. Mặt tích
cực của tôn giáo: Chủ trương giải phóng con người, hướng đến một xã hội tốt
đẹp; khuyên răn con người sống tốt, có đạo đức, mưu cầu hạnh phúc cho con
người. Điều này làm cho chủ nghĩa xã hội và tôn giáo có điểm tương đồng. Tuy
nhiên tôn giáo có những hạn chế như: Giải thích nguyên nhân của sự khổ đau
là do sự chi phối của lực lượng siêu nhiên; chủ trương giải phóng con người ở
thế giới không phải là thế giới hiện thực, trần gian mà ở một thế giới khác, thế
giới bên kia sau khi chết, “thiên đường”; con đường, biện pháp giải phóng là
trông chờ vào một lực lượng siêu nhiên, đấng cứu thế. Vì vậy nó kìm hãm, hạn
chế khả năng vươn lên của con người, dẫn đến tư tưởng, tâm lý trông chờ, ỷ lại
một cách thụ động. Ở điểm này, giữa tôn giáo và chủ nghĩa xã hội có sự khác
biêṭvề thế giới quan, nhân sinh quan, và con đường mưu cầu hạnh phúc cho
nhân loại. Tuy có sự đối lập như vậy, nhưng những người cộng sản không thể
cấm đoán mà quan trọng là lOMoAR cPSD| 15962736
khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực đó phải gắn liền với việc xóa bỏ
nguồn gốc xã hội sinh ra nó bằng cách cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới tốt đẹp hơn – chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Hai là, một khi tín ngưỡng tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
quần chúng nhân dân, thì chính sách nhất quán của nhà nước xã hội chủ
nghĩa là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng
của công dân. Mọi người đều có quyền theo hoặc không theo, có quyền theo
tôn giáo này hoặc tôn giáo khác. Quyền đó được pháp luật thừa nhận và bảo
đảm thực hiện. Mọi công dân theo hoặc không đạo đều bình đẳng trước pháp
luật. Nghiêm cấm các hành vi xâm phạm tự do tín ngưỡng tôn giáo.
Ba là, thực hiện đoàn kết giữa những người theo với những người không
theo tôn giáo, đoàn kết các tôn giáo hợp pháp, chân chính, đoàn kết dân tộc
để cùng nhau xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Chống lại các hành vi
chia rẽ vì lý do tín ngưỡng tôn giáo.
Bốn là, Phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn
đề tôn giáo. Ở đây chính là phân biệt 2 loại mâu thuẫn trong đời sống tôn
giáo. Mặt chính trị phản ánh mâu thuẫn đối kháng về lợi ích giữa một bên là
Đảng Cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động (bao gồm
có đạo và ko có đạo); và bên kia là các thế lực phản động lợi dụng tôn giáo
để chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản,
Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân lao động. Giải quyết mâu thuẫn này
chỉ có thể là dùng biện pháp chuyên chính để giải quyết kịp thời và triệt để.
Mặt tư tưởng phản ánh mâu thuẫn không đối kháng, chỉ là sự khác biệt về
nhận thức, tư tưởng giữa những người theo hoặc ko theo tôn giáo, giữa
những người theo tôn giáo khác nhau. Giải quyết sự khác biệt này chỉ có thể
là một quá trình lâu dài cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn –
xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Năm là, phải có quan điểm lịch sử khi giải quyết vấn đề tôn giáo. Ở những
thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò tác động của từng tôn giáo đối với đời sống
xã hội không giống nhau. Quan điểm, thái độ của giáo hội, giáo sĩ, giáo dân
về các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn có sự khác nhau. Vì vậy cần có
quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn
đề liên quan đến tôn giáo.
Nội dung 5: Quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về vấn đề dân tộc.
Đặc điểm quan hệ dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay.
Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc theo nghĩa hẹp, dân tộc
được hiểu là các tộc người trong một quốc gia nhiều dân tộc. Ví dụ: dân tộc kinh, Tày, Nùng, v.v…
Đây là những cộng đồng người có chung một số đặc điểm: Có chung ngôn
ngữ (tiếng nói, chữ viết); chung lịch sử nguồn gốc; có chung nét văn hóa
đặc sắc của dân tộc mình; có ý thức tự giác tộc người, v.v…
Theo nghĩa rộng, dân tộc hiểu là toàn bộ dân cư của một nước (quốc gia
dân tộc). Ví dụ: dân tộc Việt Nam, dân tộc Lào, v.v… lOMoAR cPSD| 15962736
Đây là một cộng đồng người hình thành trong lịch sử có những điểm chung:
Chung một lãnh thổ quốc gia; có quốc ngữ - ngôn ngữ chung cho quốc gia
đó; chung một nền kinh tế - chính trị nhất định; có sự thống nhất về truyền
thống văn hóa, lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Để phân biệt dân tộc với sắc tộc, chủng tộc, thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, ta
cần phải hiểu từng khái niệm trên:
Sắc tộc, chủng tộc: Đề cập đến cộng đồng người dựa trên những đặc điểm tự
nhiên như màu da, cấu tạo tự nhiên của cơ thể. Người có sắc tộc, chủng tộc
này nhưng có thể là thành viên của nhiều dân tộc.
Thị tộc, bộ lạc: Là hình thức cộng đồng người có trước dân tộc, tồn tại trong
xã hội công xã nguyên thủy, dựa trên cơ sở có chung huyết thống.
Bộ tộc: Là hình thức cộng đồng người hình thành trên cơ sở liên kết nhiều
bộ lạc, tồn tại dưới chế độ chiếm hữu nô lệ và phong kiến.
Nói về sự hình thành của dân tộc, ở phương Tây, dân tộc hình thành trên cơ
sở một bộ tộc hoặc liên kết nhiều bộ tộc sống trên cùng một vùng lãnh thổ,
hình thành gắn với sự xác lập của phong trào sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự
hình thành và phát triển của phong trào sản xuất tư bản chủ nghĩa đòi hỏi
phải có sự thống nhất thị trường, thống nhất lãnh thổ, thống nhất về chính
phủ, về thuế quan, về tiền tệ, xóa bỏ sự cát cứ địa phương theo kiểu lãnh địa
phong kiến, hình thành nên một cộng đồng người thống nhất gọi là dân tộc.
Còn ở phương Đông, dân tộc hình thành sớm hơn, trước chủ nghĩa tư bản do
sự thúc đẩy của nhiều nhân tố như: Nhu cầu trị thủy, chống thiên tai, thú dữ;
nhu cầu chống địch họa…
Nghiên cứu sự vận động và quan hệ dân tộc dưới chủ nghĩa tư bản,
V.I.Lênin đã chỉ ra hai xu hướng vận động khách quan của các dân tộc:
Xu hướng thứ nhất: Ở các quốc gia gồm nhiều cộng đồng dân cư có nguồn
gốc tộc người khác nhau, do sự thức tỉnh, trưởng thành về ý thức dân tộc
nên các cộng đồng dân cư muốn tách ra để xác lập các cộng đồng dân tộc
độc lập. Xu hướng này nổi trội ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản.
Xu hướng thứ hai: Các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở
nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Xu hướng này nổi lên trong giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Hai xu hướng này là 2 xu hướng tiến bô.̣Tuy trong điều kiện của chủ nghĩa
đế quốc nó gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Bởi vì: Nguyện vọng của các dân
tộc được sống độc lập, tự do bị chính sách xâm lược của chủ nghĩa đế quốc
xóa bỏ; liên hiệp, xích lại với nhau giữa các dân tộc trên cơ sở tự nguyện,
bình đẳng bị chủ nghĩa đế quốc xóa bỏ, thay vào đó là quan hệ bất bình
đẳng, đó là dân tộc này tìm cách thống trị các dân tôc ̣ khác.
Để hai xu hướng này vận động không gặp trở ngại, chỉ có thể: Xóa bỏ chủ
nghĩa Đế Quốc, thực hiện tốt các nguyên tắc tiến bộ như: Thực hiện quyền
bình đẳng dân tộc, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, liên hiệp công nhân các dân tộc lại.
Về nội dung cơ bản của Cương lĩnh dân tộc của Đảng Cộng sản: Các dân tộc lOMoAR cPSD| 15962736
hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết; liên hiệp công nhân
tất cả các dân tộc lại.
Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng: Các dân tộc dù lớn hay nhỏ, không phân
biệt trình độ phát triển cao hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang
nhau; không có một dân tộc nào được giữ đặc quyền đặc lợi và có quyền đi
áp bức bóc lột các dân tộc khác. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng phải được
thể hiện trong luật pháp của mỗi nước và luật pháp quốc tế. Và phải được
thực hiện trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đối với một quốc gia nhiều
dân tộc, sự khắc phục trình độ phát triển chênh lêcḥ về kinh tế, văn hóa do
lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản. Trên phạm vi thế giới, thực hiện quyền bình
đẳng giữa các quốc gia dân tộc đòi hỏi phải chống lại chủ nghĩa phân biệt
chủng tộc, chủ nghĩa sôvanh nước lớn, chống sự áp đặt của các tư bản phát
triển đối với các nước chậm phát triển về mọi măṭ. Thực hiện quyền bình
đẳng là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ
hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc.
Các dân tộc được quyền tự quyết: Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ
đối với vận mệnh dân tộc mình, tự quyết định chế độ chính trị - xã hội và
con đường phát triển của dân tộc mình. Quyền tự quyết còn bao gồm cả
quyền tự do tách ra thành lập một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của
các dân tộc và quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở
bình đẳng cùng có lợi.
Lưu ý rằng khi xem xét quyền dân tộc tự quyết của dân tộc cần đứng vững
trên lập trường của giai cấp công nhân. Ủng hộ các phong trào dân tộc tiến
bộ phù hợp với lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Chống lại các phong trào dân tôc ̣ tự quyết giả hiệu vì lợi ích và mưu
đồ của một nhóm người nào đó.
Liên hiệp công nhân của tất cả các dân tộc phản ánh bản chất quốc tế của
phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng
dân tộc với giải phóng giai cấp. Nó đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ
sức mạnh để giành thắng lợi, đảm bảo cho các nội dung trên của cương
lĩnh dân tộc có thể thực hiện đầy đủ. Do đó nó là nội dung quan trọng nhất
của cương lĩnh dân tộc của Đảng Cộng sản.
Khẩu hiệu của C.Mác và Ph. Ăngghen nêu ra: “Vô sản toàn thế giới liên
hiệp lại” đã được V.I. Lênin phát triển thành: “Vô sản toàn thế giới và
các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”.
Việt Nam là quốc gia có nhiều dân tộc cùng chung sống, mỗi dân tộc có
bản sắc văn hóa riêng. 54 dân tộc trong đó dân tộc kinh chiếm 86% dân số,
53 dân tộc còn lại chiếm 14% dân số, phân bố rải rác trên địa bàn cả nước.
10 dân tộc có số dân từ dưới 1 triệu đến 100 ngàn người là: Tày, Nùng,
Thái, Mường, Khơme, Mông, Dao, Giarai, Bana, Êđê; 20 dân tộc có số dân
dưới 100 ngàn người, 16 dân tộc có số dân từ dưới 10 ngàn người đến 1
ngàn người; 6 dân tộc có số dân dưới 1 ngàn người (Cống, Sila, Pupéo, Rơmăm, Ơ đu, Brâu).
Tuy có sự chênh lệch đáng kể về đời sống vật chất cũng như tinh thần,
nhưng các dân tộc vẫn coi nhau như anh em đùm bọc lẫn nhau, chung sức lOMoAR cPSD| 15962736
xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Ở nước ta không có tình trạng dân tộc đa số
cưỡng bức, đồng hoá, thôn tính các dân tộc ít người, do đó cũng không có
tình trạng dân tộc ít người chống lại dân tộc đa số.
Các dân tộc trên đất nước ta có truyền thống đoàn kết trong đấu tranh
dựng nước, giữ nước, xây dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất.
Hồ Chí Minh: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê
Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt
Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ
cùng nhau, no đói có nhau”.
Từ mấy nghìn năm nay, từ khi bắt đầu hình thành nhà nước các dân tộc
cùng chung sống trên dải đất Việt Nam có nhu cầu tự nhiên là phải liên kết
nhau lại để chống chọi với thiên tai, giặc giã, trở thành một cộng đồng bền
chặt-đại gia đình các dân tộc Việt Nam, cùng nhau dựng nước và giữ nước.
Đoàn kết là truyền thống từ ngàn xưa của dân tộc ta.
Từ cuộc đời tối tăm dưới ách áp bức của thực dân, ăn đói, mặc rách, mù
chữ..., đồng bào các dân tộc đã đứng lên đi theo ánh sáng cách mạng, kề
vai sát cánh, chia ngọt sẻ bùi cùng các dân tộc cùng nhau chiến đấu giành
độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Dân tộc Việt Nam cư trú phân tán, xen kẽ nhau. Ở một số vùng nhất định có
dân tộc cư trú tương đối tập trung. Song nhìn chung các dân tộc nước ta
sống xen kẽ nhau, không có lãnh thổ riêng biệt như một số nước trên thế
giới. Ðịa bàn cư trú của người Kinh chủ yếu ở đồng bằng, ven biển và trung
du; còn các dân tộc ít người cư trú chủ yếu ở các vùng miền núi và vùng cao,
một số dân tộc như Khơ me, Hoa, một số ít vùng Chăm sống ở đồng bằng.
Các dân tộc thiểu số có sự tập trung ở một số vùng, nhưng không cư trú
thành những khu vực riêng biệt mà xen kẽ với các dân tộc khác trong phạm
vi của tỉnh, huyện, xã và các bản mường. Bản Phiêng Luông có người Dao là
đông nhất với 32 hộ, người Tày 9 hộ, 17 hộ người Mông, 4 hộ người Sán Chí,
2 hộ người Nùng và 1 hộ người Kinh. Cách đây ba, bốn chục năm chỉ có những
ngôi nhà của người Êđê, Bana, Giarai, Xơđăng, Cơho, M'nông cư trú trên mảnh
đất Tây Nguyên. Ngày nay, cùng với sự di dân đã xuất hiện thêm những ngôi
nhà của dân tộc Kinh, Tày, Nùng, và một số dân tộc ít người ở đây. Tình trạng
cư trú phân tán, xen kẽ giữa các dân tộc ở nước ta, tạo điều kiện để tăng cường
hiểu biết nhau, hoà hợp và xích lại gần nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Giao
lưu văn hóa giữa các dân tộc trong cùng một địa phương giúp các dân tộc ngày
một hiểu nhau hơn. Ngày nay, tình trạng cư trú xen kẽ của các dân tộc chủ yếu
dẫn tới sự giao lưu kinh tế- văn hoá giữa các dân tộc cũng như sự hỗ trợ, giúp
đỡ lẫn nhau. Do sống gần nhau, việc kết hôn giữa thanh niên nam nữ thuộc các
dân tộc khác nhau ngày càng phổ biến, càng có thêm điều kiện đoàn kết và hoà hợp giữa các dân tộc.
Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều nhau.
Do điều kiện tự nhiên nên sự chênh lệch trình độ phát triển kinh tế, văn hoá
giữa các dân tộc, giữa các vùng dân cư thể hiện rõ rệt. Đầu tiên là kỹ thuật
canh tác: Bà con dân tộc miền núi thì kỹ thuật canh tác thô sơ, chủ yếu dựa lOMoAR cPSD| 15962736
vào sức người là chính, địa hình đồi núi khó áp dụng những tiến bộ khoa
học kỹ thuật. Cư dân ở khu vực đồng bằng đã vận dụng khoa học kỹ thuật
vào sản xuất tạo ra năng suất lao động cao. Trong khi đó ở khu vực thành thị
nhiều người có cuộc sống đầy đủ tiện nghi. Giữa nhiều vùng còn có sự
chênh lệch thể hiện ở: Đường giao thông, phương tiện, dịch vụ chăm sóc y
tế, giáo dục… Tuy nhiên Đảng ta đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế linh
hoạt, sáng tạo phù hợp với điều kiện thực tế của từng khu vực, tỉnh thành trong cả nước.
Văn hoá Việt Nam là sự thống nhất trong đa dạng. Từ cơ tầng văn hoá
Đông Nam Á thời tối cổ, thời tiền sử trên dải đất Việt Nam hiện nay xuất
hiện ba nền văn hoá: Đông Sơn (ở châu thổ Bắc Bộ), Sa Huỳnh (Trung Bộ),
Đồng Nai (Nam Bộ) . Thời sơ sử và sang thiên niên kỷ đầu Công nguyên,
lịch sử đã đưa ba nền văn hoá này đến ba số phận khác nhau; ở châu thổ
Bắc Bộ bị sự thống trị của phong kiến Trung Quốc hơn 1000 năm, ở duyên
hải Trung Bộ là văn hóa Champa, ở Nam Bộ là văn hoá Óc Eo, để rồi hòa
trộn trong nền văn hoá Việt Nam, tạo ra sự đa dạng trong sự thống nhất.
Nền văn hóa Đông Sơn: Ra đời là kết quả của sự hội tụ của nhiều văn hoá
rực rỡ trước văn hoá Đông Sơn thuộc thời đại đồng thau, trong quá trình
chiếm lĩnh vùng đồng bằng các con sông lớn ở miền Bắc Việt Nam, chủ
yếu là lưu vực sông Hồng.
Nền văn hóa Sa Huỳnh: là một nền văn hóa được xác định ở vào khoảng
1000 năm TCN đến cuối thế kỷ thứ II. Nền văn hóa Sa Huỳnh là một
trong ba cái nôi cổ xưa về văn minh trên lãnh thổ Việt Nam, cùng với:
Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Óc Eo, tạo thành tam giác văn hóa Việt.
Văn hóa Đồng Nai: phát triển trong thiên niên kỷ I, II trước Công Nguyên đã
được nhìn nhận như bước mở đầu cho truyền thống văn hóa bản địa ở Nam
Bộ với bản sắc riêng và sức sống mãnh liệt.
Nhóm văn hoá ngôn ngữ Nam Á:
Nhóm ngôn ngữ Việt- Mường: Gồm các dân tộc Kinh, Mường, Thổ, Chứt.
Nhóm ngôn ngữ Môn- Khmer: Gồm các dân tộc Khơ Mú, Kháng, Mảng,
Xinh Mun, Bru Vân Kiều, Tà Ôi, Cơ Tu, Co, Hrê, Gie Triêng, Ba Na, Xơ
Đăng, Brâu, Rơ Măm, Mnông, Mạ, Cơ Ho, Xtiêng, Chơ Ro, Khơme, Ơ Đu.
Nhóm ngôn ngữ Tày- Thái: Gồm các dân tộc Tày, Thái, Nùng, Sán
Chay, Giấy, Lào, Lự, Bố Y.
Nhóm ngôn ngữ H'mông- Dao: Gồm các dân tộc H’mông, Dao, Pà Thẻn.
Nhóm ngôn ngữ Ka Đai: Cơ Lao, La Chí, Pu Péo, La Ha.
Nhóm văn hoá ngôn ngữ Nam Đảo:
Nhóm ngôn ngữ Malaio Polinexia: Gồm các dân tộc Chăm, Chu Ru, Gia Rai, Ê Đê, Raglai.
Nhóm văn hoá ngôn ngữ Hán Tạng:
Nhóm ngôn ngữ Tạng Miến: Gồm các tộc Hà Nhì, La Hủ, Phù Lá, Lô Lô, lOMoAR cPSD| 15962736 Cống, Si La.
Nhóm ngôn ngữ Hán: Gồm các tộc Hoa, Ngái, Sán Dìu.
Bên cạnh sự đa dạng về ngôn ngữ, thì mỗi dân tộc lại có phong tục tập quán
mang những giá trị và sắc thái văn hoá riêng. Người Chăm ở duyên hải miền
Trung lại có những đền tháp, tác phẩm điêu khắc đá, những bia ký trên đá.
Người Khơme Nam Bộ: có một kho tàng văn học Phật giáo, nghệ thuật
điêu khắc và kiến trúc Phật giáo khá lớn, có những ngôi chùa là một trung
tâm văn hoá và nhiều lễ hội độc đáo. Người Tày- Thái: ở vùng núi cao phía
Bắc lại có những nếp nhà sàn, có một kho tàng văn học dân gian đa dạng…
Mặc dù có những sắc thái riêng nhưng các dân tộc ở Việt Nam lại có những
yếu tố rất chung về văn hoá. Đảng và nhà nước ta luôn luôn tôn trọng bản
sắc văn hóa riêng và tôn trọng tự do tín ngưỡng của mỗi dân tộc.
Trải qua lịch sử liên tục chống ngoại xâm, dân tộc ta đã trưởng thành rất
sớm và trở thành một quốc gia độc lập thống nhất yêu hoà bình. Nhìn lại con
đường lịch sử đã qua, trong bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc
ta đã phải bao lần chiến đấu chống ngoại xâm gần như thường xuyên và đã
chiến thắng một cách oanh liệt. Đó là một nét nổi bật của lịch sử và con
người Việt Nam, là thử thách gay go nhất nhưng cũng là niềm tự hào lớn nhất của dân tộc ta.
Vị trí địa lý: Việt Nam là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, ven
biển Thái Bình Dương. Việt Nam có diện tích 330.991 km2. Với đường
biên giới trên đất liền dài 4.550 km, phía Bắc tiếp giáp với Trung Quốc,
phía Tây Bắc tiếp giáp với Lào và Tây Nam giáp Campuchia và Vịnh Thái
Lan; phía Đông và Nam giáp biển Đông. Với vị thế đặc biệt này, Việt Nam
trở thành mảnh đất màu mỡ khiến các thế lực xâm lăng muốn chiếm đoạt.
Nhưng với sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã
anh dũng, bền gan, vững chí đánh thắng kẻ thù xâm lược qua nhiều thế hệ.
Vào ngày 02 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt cho cả dân
tộc, trịnh trọng tuyên bố trước đồng bào và toàn thế giới: “…Nước Việt
Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do
độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,
tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Như vậy, dân
tộc Việt Nam đã trải qua thời gian dài dựng nước và giữ nước; trải qua nhiều
cuộc chiến đẫm máu để giành lấy độc lập dân tộc. Đó là bằng chứng về một
tinh thần yêu nước, sự đoàn kết dân tộc, sự quả cảm của những con người
anh hùng, cùng nhau hướng tới xây dựng một xã hội tốt đẹp, không còn
chiến tranh, một dân tộc hoà bình, thống nhất. Vào ngày 8 tháng 10 năm
2010, Thành ủy, HĐND, UBND Thành phố Hà Nội đã long trọng tổ chức
Lễ khánh thành Công viên Hòa Bình, tại Xuân Đỉnh, Từ Liêm, Hà Nội.
Công viên nhằm nhấn mạnh thông điệp “chúng tôi muốn thế giới này mãi mãi hoà bình”.
Năm 2000, cùng với 4 thành phố khác trên thế giới, Hà Nội là Thành phố duy
nhất đại diện cho Châu Á nhận giải thưởng “Thành phố vì Hòa bình” của
UNESCO trao tặng. Năm 2001, Thành phố đã phê duyệt chủ trương xây dựng
một công viên mang biểu tượng của Thành phố Thủ đô- Thành phố vì hòa
bình- Công viên Hòa Bình. Trong công viên, Tượng đài Hòa Bình là hạt lOMoAR cPSD| 15962736
nhân chính được đúc bằng đồng nặng khoảng 20 tấn, cao 7,2m đặt trên đài đế cao 22,8m.
Các dân tộc thiểu số lại cư trú trên các địa bàn có vị trí chiến lược quan
trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và giao lưu quốc tế.
Theo số liệu tổng điều tra dân số, tính đến 0 giờ ngày 1/4/2009, dân số của
Việt Nam là 85.789.573 người. Dân số Việt Nam gồm 54 dân tộc. Dân tộc
đông nhất là dân tộc Kinh (Việt), chiếm 86,2% dân số. Các dân tộc thiểu số
đông dân nhất: Tày, Thái, Mường, Khmer, Hoa, Nùng, Hmông, người Dao,
Giarai, Êđê, Chăm, Sán Dìu. Đa số các dân tộc này sống ở miền núi và
vùng sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên và Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Cuối cùng là các dân tộc Brâu, Ơ Đu và Rmăm chỉ có trên 300 người.
Dân tộc Tày: sống chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc như Cao Bằng,
Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang… Theo thống kê gần đây,
người Tày có khoảng 1 triệu 700 ngàn người. Đây là dân tộc có số dân đông
nhất sau người Kinh trong cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam.
Dân tộc Thái: (520.000), cư trú tập trung tại các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, Nghệ An...
Dân tộc Mường: (914.600), sống chủ yếu tại tỉnh Hòa Bình, các huyện
miền núi tỉnh Thanh Hóa một số huyện miền núi của Nghệ An.
Người Hoa: (450.000), người gốc Trung Quốc định cư ở Việt Nam, sống tập
trung đông nhất (50%) tại vùng Chợ Lớn của Thành phố Hồ Chí Minh, 50%
còn lại sinh sống phân tác ở các tỉnh thành trên toàn quốc, phần nhiều tại các
tỉnh miền Tây Việt Nam.
Người Khmer: (447.000), thuộc nhóm ngôn ngữ Môn- Khmer, sống chủ
yếu tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
Dân tộc Nùng: (353.000), thuộc nhóm ngôn ngữ Tày- Thái, sống tập trung
ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Thái, Hà Bắc, Tuyên Quang.
H'Mông (479.000), hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc, tập trung chủ yếu ở
các tỉnh thuộc Đông và Tây Bắc Việt Nam như Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La...
Dao (237.000), cư trú chủ yếu dọc biên giới Việt- Trung, Việt- Lào và ở
một số tỉnh trung du và ven biển Bắc bộ Việt Nam.
Giarai (121.000), thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo, cư trú tập trung ở các
tỉnh Gia Lai, Kon Tum và phía Bắc tỉnh Đắc Lắc.
Êđê (97.000), thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo, cư trú tập trung ở Đắc Lắc,
phía Nam Gia Lai và phía Tây của hai tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên.
Những dân tộc còn lại có dân số dưới 90.000 người, một nửa trong số đó có
dân số dưới 10.000 người. Đa số các dân tộc này sống ở miền núi và vùng
sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Cuối
cùng là các dân tộc Brâu, ƠĐu và Rmăm chỉ có khoảng vài trăm người.
Như vậy, các dân tộc thiểu số tuy chỉ chiếm số lượng nhỏ trong dân số cả lOMoAR cPSD| 15962736
nước (13,8%) nhưng lại cư trú trên các địa bàn có vị trí chiến lược quan
trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và giao lưu quốc tế. Cùng
với quá trình dựng nước và giữ nước, nền văn hoá Việt Nam đã hình thành
và phát triển bền vững. Bằng lao động sáng tạo và ý chí đấu tranh bền bỉ,
kiên cường, nhân dân ta đã xây đắp lên một nền văn hoá kết tinh sức mạnh
và in đậm dấu ấn bản sắc của dân tộc, chứng minh sức sống mãnh liệt và sự
trường tồn của dân tộc Việt Nam. Từ các đặc điểm trên, càng thấy rõ được
đậm nét tinh thần ấy. Biết đoàn kết dân tộc, sẽ là sức mạnh mang lại những
thắng lợi to lớn hơn cho sự nghiệp xây dựng đất nước.
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta:
Trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam, quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về chính sách dân tộc là nhất quán, theo nguyên tắc: Các dân tộc
bình đẳng, đoàn kết, tương trợ nhau cùng phát triển. Đây vừa là nguyên
tắc, vừa là mục tiêu chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước ta.
Bình đẳng giữa các dân tộc là một nguyên tắc cơ bản có ý nghĩa quan trọng
hàng đầu của chính sách dân tộc về quyền của các dân tộc thiểu số. Các dân
tộc không phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ phát triển cao hay thấp đều
ngang nhau về quyền lợi và nghĩa vụ trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời
sống xã hội và được bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật. Quyền bình đẳng
giữa các dân tộc, trước hết là quyền bình đẳng về chính trị, chống mọi biểu
hiện chia rẽ kỳ thị dân tộc, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, tự ti dân tộc,
… Quyền bình đẳng về kinh tế, đảm bảo sự bình đẳng trong quan hệ lợi ích
giữa các dân tộc. Nhà nước có trách nhiệm giúp các dân tộc có kinh tế
chậm phát triển để cùng đạt được trình độ phát triển chung với các dân tộc
khác trong cả nước. Bình đẳng về văn hoá, xã hội bảo đảm cho việc giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hoá của các dân tộc, làm phong phú và đa dạng nền
văn hoá Việt Nam thống nhất.
Do phần lớn các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay có trình độ phát triển
thấp, vì vậy bên cạnh việc bảo đảm quyền bình đẳng toàn diện về chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội cần phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để đồng bào các
dân tộc thiểu số có cơ hội phát triển bình đẳng với các dân tộc khác. Sự quan
tâm tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển, đó chính là biểu hiện quyền
bình đẳng giữa các dân tộc đặc trưng nhất ở Việt Nam.
Các dân tộc Việt Nam đã cùng chung sống lâu đời bên nhau, gắn bó máu
thịt với nhau, no đói có nhau, vinh nhục cùng nhau, đồng cam cộng khổ,
sống chết một lòng sát cánh cùng nhau dựng nước và giữ nước. Truyền
thống đoàn kết đó được gìn giữ và phát triển trong suốt tiến trình hàng ngàn
năm lịch sử, gắn kết các dân tộc chung sức xây dựng tổ quốc Việt Nam thống nhất.
Kế thừa truyền thống đoàn kết quý báu của dân tộc, Đảng và Nhà nước ta đã
xác định đoàn kết dân tộc là một nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc
xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, các dân tộc đang phát huy truyền thống đoàn kết tốt đẹp, cùng nhau xây
dựng đất nước với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ
văn minh và tiến bộ. Tất cả các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều phải
có trách nhiệm chăm lo, vun đắp, củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết lOMoAR cPSD| 15962736
dân tộc theo lời dạy của Bác Hồ kính yêu:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”.
Do lịch sử để lại, hiện nay giữa các dân tộc ở nước ta vẫn còn đang tồn tại
tình trạng phát triển không đồng đều. Tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các
dân tộc để cùng phát triển là một tất yếu khách quan trong một quốc gia đa
dân tộc. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã coi tương trợ nhau cùng phát
triển là một nguyên tắc quan trọng của chính sách dân tộc trong thời kỳ
quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Các dân tộc có trình độ phát triển kinh tế – xã hội cao hơn phải có trách
nhiệm giúp đỡ các dân tộc có điều kiện phát triển khó khăn hơn. Tương trợ
lẫn nhau không phải chỉ là giúp đỡ một chiều, ngược lại chính sự phát
triển của dân tộc này là điều kiện để cho các dân tộc khác ngày càng phát triển hơn.
Giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển thể hiện trên tất cả các lĩnh vực: chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội. Tương trợ, giúp nhau để không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc, nhằm thực hiện
đầy đủ quyền bình đẳng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.
Chính sách dân tộc của Đảng đã được thể chế bằng Hiến pháp, luật pháp
và bằng các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Hiến pháp nước
CHXHCN Việt Nam năm 1992 đã ghi: “Nhà nước CHXHCN Việt Nam,
Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết tương trợ giữa các dân
tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc
và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình.
Nhà nước thực hiện chính sách phát triển mọi mặt, từng bước nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số” - Điều 5, Hiến
pháp nước CHXHCN Việt Nam, 1992.
Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Hiến pháp, các bộ luật, luật như Bộ Luật Dân
sự, Luật Hôn nhân gia đình, Luật Giáo dục, Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân,…
đều thể hiện rõ quyền bình đẳng của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Đồng thời với việc thể chế bằng Hiến pháp và pháp luật, chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước được cụ thể hoá trong chiến lược, kế hoạch phát triển
kinh tế – xã hội, trong các chương trình, dự án đầu tư phát triển cho vùng
dân tộc và miền núi, trong các chính sách, các quy định cụ thể ở tất cả các
lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội,… đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
Bước vào thời kỳ đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách dân tộc của Đảng đã được thể
hiện ở các Nghị quyết Đại hội Đảng. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã lOMoAR cPSD| 15962736
chỉ rõ: “Thực hiện tốt các chính sách dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương
trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã
hội, phát triển sản xuất hàng hoá, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần,
xoá đói giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn làm giàu và phát huy bản
sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá IX
về công tác dân tộc đã khẳng định chính sách dân tộc trong giai đoạn hiện
nay là: “Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế – xã hội các vùng dân tộc và miền
núi, trước hết, tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói,
giảm nghèo; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi
đôi với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự
lực tự cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm
hỗ trợ của Trung ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước”.
Tiếp theo, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X đã khẳng định: “Vấn đề
dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự
nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ...”.
Xuất phát từ những quan điểm trên, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã
hội vùng dân tộc thiểu số tập trung vào những nội dung chủ yếu sau:
Xoá đói giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào dân tộc thiểu
số, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, trong
những năm trước mắt tập trung trợ giúp đồng bào nghèo, đồng bào
các dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn.
Phát triển sản xuất hàng hoá phù hợp với đặc điểm, điều kiện từng vùng
dân tộc. Khuyến khích đồng bào các dân tộc khai thác tiềm năng, thế
mạnh của địa phương làm giàu cho mình và đóng góp tích cực vào sự
nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ưu tiên đặc biệt phát triển giáo dục và đào tạo, coi trọng đào tạo
cán bộ và đội ngũ trí thức dân tộc thiểu số.
Kế thừa và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc
thiểu số góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam đa dạng, phong
phú, giàu bản sắc dân tộc.
Để đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc và miền núi, nâng cao
dần mức sống của đồng bào các dân tộc, trong những năm đổi mới vừa qua
và nhất là giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ
trương chính sách ưu tiên đối với đồng bào dân tộc thiểu số một cách đồng
bộ và toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Đồng thời, đã triển
khai thực hiện nhiều chương trình, dự án đầu tư phát triển trên địa bàn miền
núi, vùng đồng bào dân tộc như: Chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng,
Chương trình xoá đói giảm nghèo, Chương trình phát triển kinh tế – xã hội
các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa (Chương trình 135), …
TR 伃⌀NG TÂM ÔN THI MÔN CNXHKH lOMoAR cPSD| 15962736 Lớp Đại cương I. NỘI DUNG ÔN TẬP
Câu 1: Quan điểm về đăc ̣điểm của giai cấp công nhân trong nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Liên hệ GCCN Việt Nam.
Ví dụ: Anh/ chị hãy trình sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân? Theo
anh/ chị, để thực hiện sứ mệnh lịch sử ấy, giai cấp công nhân cần phải làm
gì? Liên hệ với sứ mệnh lịch sử của GCCN trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước Việt Nam hiện nay.
LÝ LUẬN CHUNG (QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN)
C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng rất nhiều thuật ngữ khác nhau để
diễn đạt về khái niệm giai cấp công nhân như: ….
Theo quan điểm Chủ nghĩa Mác – Lênin, có thể hiểu, giai cấp
công nhân là ….. (định nghĩa)
+ Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
+ Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân – phân tích
+ Điều kiện chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
(nhân tố đóng vai trò quyết định là ĐẢNG CỘNG SẢN) – phân tích
Bàn luận: Giai đoạn 1, giai đoạn 2.
Đặc điểm GCCN cuối thế kỷ XIX - ko cần phân tích Đặc
điểm GCCN Việt Nam hiện nay – ko cần phân tích
LIÊN HỆ THỰC TIỄN (VIỆT NAM)
* Quan điểm, chính sách của ĐCSVN về việc xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam hiện nay (Đại hội) – 2 Đại hội
+ Quan điểm của ĐCSVN về việc xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay (Đại hội)
+ Chính sách của ĐCSVN về việc xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay LÝ LUẬN CHUNG
+ C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng rất nhiều thuật ngữ khác nhau để diễn
đạt về khái niệm giai cấp công nhân như: ….
Theo quan điểm Chủ nghĩa Mác – Lênin, có thể hiểu, giai cấp công nhân là ….. (định nghĩa) lOMoAR cPSD| 15962736
+ Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
+ Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân – phân tích
+ Điều kiện chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
(nhân tố đóng vai trò quyết định là ĐẢNG CỘNG SẢN) – phân tích
+ Đặc điểm GCCN cuối thế kỷ XIX (theo quan điểm Chủ nghĩa Mác – Lênin)
+ Đặc điểm GCCN thế kỷ XXI (hiện nay)
So sánh đặc điểm GCCN cuối thế kỷ XIX và đặc điểm GCCN thế kỷ XXI
(truyền thống, hiện đại) – GN và KN
+ Đặc điểm GCCN thế giới hiện nay
+ Đặc điểm GCCN Việt Nam hiện nay
So sánh đặc điểm GCCN thế giới hiện nay và GCCN Việt Nam hiện nay – GN và KN LIÊN HỆ VIỆT NAM
+ Quan điểm, chính sách của ĐCSVN về việc xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam hiện nay (Đại hội) – 2 Đại hội
+ Quan điểm của ĐCSVN về việc xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay (Đại hội)
+ Chính sách của ĐCSVN về việc xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
Câu 2: Quan điểm về Hình thái kinh tế - xã hội CSCN, nhất là thời kỳ quá
độ và đăc ̣trưng của chủ nghĩa xã hôị. Liên hệ với thời kỳ quá độ và những
đặc trưng CNXH ở Việt Nam.
LÝ LUẬN CHUNG (Quan điểm về Hình thái kinh tế - xã hội CSCN, nhất
là thời kỳ quá độ và đăc ̣trưng của chủ nghĩa xã hôị.)
Hình thái kinh tế - xã hội là gì? (Triết học Mác - Lênin) Hình thái kinh tế -
xã hội gồm mấy hình thái? (5) Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ
nghĩa gồm những giai đoạn nào? (Giai đoạn thấp: Chủ nghĩa xã hội; Giai
đoạn cao: Chủ nghĩa cộng sản).
Quá độ là gì? Có mấy hình thức quá độ? (2 hình thức, đó là quá độ trực
tiếp …. và quá độ gián tiếp … )
Đặc trưng của Chủ nghĩa xã hội (6 cái - chọn 1 đặc trưng phân tích kỹ)
LIÊN HỆ VIỆT NAM (Liên hệ với thời kỳ quá độ và những đặc trưng CNXH ở Việt Nam) lOMoAR cPSD| 15962736
Quá độ trực tiếp hay quá độ gián tiếp? Vì sao? (Tính tất yếu của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam – Đặc điểm và thực chất của thời
kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam).
Từ lý luận trên, có thể thấy, việc Việt Nam thực hiện thời kỳ quá độ đi lên
Chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển Chủ nghĩa tư bản không trái
với quy luật phát triển của lịch sử - tự nhiên mà bước đi ấy được cho là phù
hợp với yếu tố thực tiễn của đất nước lúc bấy giờ.
Việt Nam đang trong giai đoạn quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, những đặc
trưng của Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là (8 cái chọn 1 đặc trưng phân tích kỹ) … IX, XI
Kết bài: Trích dẫn 1 hoặc 2 câu văn kiện Đại hội (tham khảo giáo trình)
Đọc tạp chí chuyên ngành: Tạp chí Triết học, tạp chí Xây dựng Đảng, tạp
chí Khoa học chính trị,… số … (năm …)
Câu3: Quan điểm về dân chủ, nhà nước xã hội chủ nghĩa. Liên hệ Việt Nam. A) LÝ LUẬN CHUNG
- Khái niệm dân chủ (quan điểm của chủ Chủ nghĩa Mác - Lênin)
- Khái niệm dân chủ Xã hội chủ nghĩa
- Bản chất và chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa (Nhà nước là gì và
Nhà nước Xã hội chủ nghĩa là gì)
- Mối quan hệ giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Xã hội chủ nghĩa B) LIÊN HỆ VIỆT NAM -
Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (nhớ câu trích dẫn trong sách
của Chủ tịch Hồ Chí Minh trang 88) – các hình thức dân chủ ở Việt Nam
hiện nay – có thể liên hệ tới việc bầu cử năm 1946, có thể bàn luận
nguyên tắc tập trung dân chủ của ĐCSVN. -
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ) -
Quan điểm, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước về
việc phát huy dân chủ và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay – trích văn kiện Đại hội IX, XI) – tách quan điểm riêng, chính sách riêng.
Ví dụ: Anh chị hãy chứng minh, Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
LÝ LUẬN CHUNG (QUAN ĐIỂM CNM-L)
Khái niệm của Nhà nước, bản chất của Nhà nước, chức năng của Nhà nước lOMoAR cPSD| 15962736
Bản chất và chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa
Vai trò của việc xây dựng Nhà nước Xã hội chủ nghĩa: việc xây dựng Nhà
nước Xã hội chủ nghĩa đóng vai trò rất quan trọng, suy đến cùng việc xây
dựng Nhà nước Xã hội chủ nghĩa là để đảm bảo sự dân chủ thuộc về tay nhân dân. B) LIÊN HỆ VIỆT NAM
Phương châm hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ). Như
vậy, có thể thấy, mục đích thực hiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa là để đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân, đúng như Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã từng viết: trang 88) – các hình thức dân chủ ở Việt Nam hiện
nay – có thể liên hệ tới việc bầu cử năm 1946, có thể bàn luận nguyên tắc
tập trung dân chủ (lướt) của ĐCSVN.
Quan điểm, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước về việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay –
trích văn kiện Đại hội IX, XI) – tách quan điểm riêng, chính sách riêng.
Kết luận: Từ lý luận và thực tiễn trên, có thể thấy, Nhà nước pháp quyền Xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam đảm bảo quyền làm chủ của nhân, Nhà nước thực
sự thuộc về tay nhân dân và là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Câu 4: Quan điểm về nguồn gốc, bản chất, tính chất của tôn giáo và các
nguyên tắc ứng xử của đảng công ̣ sản và nhà nước xã hôịchủ nghĩa đối với
vấn đề tôn giáo. Liên hệ Việt Nam. - Lưu ý: đọc kỹ đề A) LÝ LUẬN CHUNG (1)
- Khái niệm tôn giáo (theo quan điểm Chủ nghĩa Mác - Lênin), tôn giáo là ...
- Nguồn gốc ra đời tôn giáo – 4 nguồn gốc
- Bản chất tôn giáo (Tôn giáo là một hiện tượng xã hội – văn hóa do con người sáng tạo ra)
- Tính chất tôn giáo – 5 tính chất
- Chức năng của tôn giáo
- Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo
- Nguyên tắc ứng xử của Đảng công ̣ sản và Nhà nước xã hôịchủ nghĩa đối với vấn đề tôn giáo B) LIÊN HỆ VIỆT NAM (2)
- Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam
- Quan điểm, chính sách của Đảng công ̣ sản Việt Nam đối với vấn đề
tôn giáo (tách bạch giữa quan điểm và chính sách) lOMoAR cPSD| 15962736
Câu 5: Cương lĩnh dân tôc ̣ của chủ nghĩa Mác - Lênin. Liên hệ Việt Nam.
A) LÝ LUẬN CHUNG – CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN (1) - Khái niệm dân tộc
(- Đặc trưng cơ bản của một dân tộc)
(- Hai xu hướng khách quan giải quyết vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ lên CNXH)
- Nội dung Cương lĩnh dân tộc của Chủ nghĩa Mác - Lênin B) LIÊN HỆ VIỆT NAM (2)
- Đặc điểm dân tộc Việt Nam (sơ lược - chú ý những chữ in nghiêng - chép
ít thôi vì các e hay bị sa đà, dài dòng)
- Quan điểm, chính sách của ĐCSVN về vấn đề dân tộc (tách bạch giữa
quan điểm và chính sách), có thể phân tích 1 quan điểm mà e có thể diễn đạt
dài hơn nữa, có thể phân tích 1 chính sách mà em tâm đắc nhất.