


























Preview text:
    lOMoAR cPSD| 15962736                                         Ôn tập         
Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc 
gia Thành phố Hồ Chí Minh)                                                                                                        lOMoAR cPSD| 15962736            
Nội dung 1: Quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về giai cấp 
công nhân và sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân.   
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội, hình 
thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện 
đại. Họ lao động bằng phương thức công nghiệp ngày càng hiện đại và gắn 
liền với quá trình sản xuất vật chất hiện đại, là đại biểu cho phương thức sản 
xuất mang tính xã hội hóa ngày càng cao. Họ là người làm thuê do không có 
tư liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động để sống và bị giai cấp tư sản 
bóc lột giá trị thặng dư, vì vậy lợi ích cơ bản của họ đối lập với lợi ích cơ 
bản của giai cấp tư sản. Đó là giai cấp có sứ mệnh phủ định chế độ tư bản 
chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản  trên toàn thế giới.   
Lưu ý rằng ngày nay, trong chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân không 
còn vô sản như trước nữa, họ đã có sở hữu tư liệu sản xuất nhỏ; có cổ phần, 
cổ phiếu trong nhà máy, xí nghiệp tư bản chủ nghĩa, có phúc lợi xã hội. 
Tuy nhiên sở hữu tư liệu sản xuất và cổ phần của công nhân chỉ chiếm một 
tỉ lệ nhỏ. Phần lớn tư liệu sản xuất và cổ phần vẫn thuộc về các nhà tư bản. 
Vì vậy, về cơ bản, giai cấp công nhân vẫn không có tư liệu sản xuất, vẫn 
phải làm thuê cho nhà tư bản, và vẫn bị bóc lôṭ.   
Về đặc điểm của giai cấp công nhân theo chủ nghĩa Mác-Lênin là sản phẩm 
của nền đại công nghiệp; lao động bằng phương thức công nghiệp mang tính 
chất xã hội hóa cao; là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất hiện đại; có 
tính tổ chức, kỷ luật cao trong lao động, tinh thần hợp tác và tâm lý lao động 
công nghiệp; là giai cấp tiên tiến, có tinh thần cách mạng triệt để; là giai cấp  có bản chất quốc tế.   
Ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, sẽ xuất hiện một giai cấp đứng ở vị trí 
trung tâm, là lực lượng xã hội chính đấu tranh xóa bỏ xã hội cũ lạc hậu, 
xây dựng xã hội mới tiến bộ hơn. Vị trí, vai trò đó được gọi là Sứ mệnh 
lịch sử của một giai cấp.   
Nội dung sứ mệnh lịch sử là: Thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản, 
giai cấp công nhân tổ chức lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng mình và 
giải phóng toàn xã hội khỏi mọi áp bức, bất công, xóa bỏ các chế độ áp bức, 
bóc lột, bất công, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội và 
chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới.   
Để thực hiện sứ mệnh lịch sử trên, giai cấp công nhân cần phải trải qua hai 
giai đoạn là giành chính quyền và xây dựng, bảo vệ chính quyền. Giai đoạn 
1 là giai cấp công nhân đấu tranh giành chính quyền về tay mình. Lênin đã 
từng nói: “Giành chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng”. 
Phương thức giành chính quyền: Sử dụng bạo lực cách mạng là chính. Ngoài 
ra, muốn giành chính quyền đòi hỏi phải có tình thế cách mạng và thời cơ 
cách mạng. Tình thế cách mạng là khi giai cấp thống trị tỏ ra suy yếu, không 
thể duy trì được nền thống trị của mình như cũ; sự bất bình và lòng phẫn nô ̣ 
của các giai cấp bị trị công khai và gay gắt; giai cấp lãnh đạo cách mạng đủ 
năng lực lãnh đạo, phát đông ̣ được cuôc ̣ đấu tranh cách mạng của quần 
chúng nhân dân bị áp bức chống lại giai cấp thống trị. Thời cơ cách mạng là 
thời điểm mà ở trong nước giai cấp thống trị tỏ ra hoang mang cao đô ̣do sự                    lOMoAR cPSD| 15962736            
lớn mạnh của phong trào cách mạng; lực lượng lãnh đạo cách mạng đã sẵn 
sàng cho cuôc ̣ quyết chiến giành chính quyền. Ở bên ngoài, phong trào đấu 
tranh của giai cấp công nhân quốc tế ủng hô ̣cách mạng, tạo điều kiêṇ cho 
cách mạng bùng nổ và giành thắng lợi. Giai đoạn 2 là khi giai cấp vô sản và 
người dân lao động sử dụng chính quyền của mình để cải tạo xã hội cũ, xây 
dựng xã hội mới về mọi mặt (kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, v.v..) 
nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.   
Lực lượng của cách mạng xã hội chủ nghĩa là toàn thể quần chúng nhân dân 
lao động (công nhân, nông dân, các lực lượng tiến bộ xã hội) đang mâu 
thuẫn với giai cấp tư sản, đang có nhu cầu được giải phóng khỏi chế độ áp  bức, bóc lột...    Trong đó:   
Giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo, là động lực chủ yếu trong 
cách mạng xã hội chủ nghĩa.   
Giai cấp nông dân là một động lực quan trọng trong cách mạng xã hội chủ 
nghĩa, nhất là ở những nước có lực lượng nông dân đông trong xã hội.   
Ngoài ra, động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa còn là các giai cấp, tầng 
lớp, lực lượng tiến bộ khác trong xã hội (trí thức, tư sản, tiểu tư sản tiến bộ,  v.v…).   
Nội dung cụ thể sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân gồm có 3 nội  dung chính:   
Nội dung kinh tế: giai cấp công nhân là lực lượng sản xuất cơ bản sản xuất 
ra của cải cho xã hội xã hội chủ nghĩa.   
Nội dung chính trị: Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công 
nhân tiến hành đấu tranh giành chính quyền, xây dựng nhà nước mới của  nhân dân.   
Nội dung văn hóa–xã hội: Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp 
công nhân xây dựng nền văn hóa, con người mới với tư tưởng, đạo đức xã  hội chủ nghĩa.   
Đăc ̣điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là:   
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất phát từ những tiền đề kinh tế 
- xã hội của sản xuất mang tính xã hội hóa.   
Thực hiêṇ sứ mệnh lịch sử là sự nghiêp ̣ của bản thân giai cấp công nhân 
cùng đông đảo nhân dân lao động do Đảng Cộng sản lãnh đạo và mang lại  lợi ích cho đa số.   
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không phải là thay thế chế độ sở 
hữu tư nhân này bằng môṭchế độ sở hữu tư nhân khác mà là xóa bỏ triêṭđể 
chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu (xóa bỏ triệt để 
chế độ người bóc lột người). Giành quyền lực thống trị là tiền đề cải tạo xã 
hội cũ, xây dựng xã hội mới nhằm giải phóng con người.   
Về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện nay,                    lOMoAR cPSD| 15962736            
giai cấp công nhân hiện nay có những điểm tương đồng so với giai cấp công 
nhân thế kỷ XIX: Vẫn là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội hiện đại; 
vẫn bị giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản bóc lột giá trị thặng dư; xung đột 
lợi ích cơ bản giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân (giữa tư bản và lao 
động) vẫn tồn tại; đi đầu đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên vẫn 
có những biến đổi và khác biệt của giai cấp công nhân hiện đại: Xu hướng 
trí tuệ hoá giai cấp công nhân (công nhân tri thức); tham gia vào sở hữu 
(trung lưu hóa); biểu hiện mới về xã hội hoá lao động; ở một số nước xã hội 
chủ nghĩa, giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp lãnh đạo thông qua đội 
tiền phong là Đảng Cộng sản.   
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ngày nay so với thế kỉ XIX 
có những sự khác biệt:   
Nội dung kinh tế: Vẫn là lực lượng giữ vai trò sản xuất vật chất chủ yếu 
cho xã hội, quyết định sự tồn tại của xã hội.    Nội dung chính trị:   
Ở các nước định hướng xã hội chủ nghĩa: là giai cấp lãnh đạo nhân dân xây 
dựng chủ nghĩa xã hội.   
Ở các nước tư bản chủ nghĩa: đi đầu trong các cuộc đấu tranh chống áp 
bức, bất công, áp đặt của chủ nghĩa đế quốc; chống nghèo đói, ô nhiễm môi  trường   
Nội dung văn hóa – xã hội: Lãnh đạo hoặc đi đầu trong xây dựng một 
nền văn hóa tiến bộ vì công bằng, bình đẳng và quyền con người   
Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay về lịch sử hình thành: 
Được hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp; ra 
đời trước giai cấp tư sản vào đầu thế kỷ XX; là lực lượng chính trị tiên 
phong lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc; sớm giác ngô ̣lý tưởng, 
mục tiêu cách mạng; gắn bó mâṭthiết với các tầng lớp nhân dân trong xã hội; 
đại bô ̣phâṇ xuất thân từ nông dân và các tầng lớp lao đông;̣ là sản phẩm và 
là lực lượng đi đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; lao động 
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đa dạng về trình 
độ công nghệ, về thành phần kinh tế và về lợi ích; số lượng: khoảng 16 triệu 
(6/2018); chiếm 21% tổng số lao động và 11% dân số.   
Giai cấp công nhân Việt Nam có nhiều ưu thế về chính trị: Sớm tiếp thu 
chủ nghĩa Mác- Lênin, có Đảng và có lãnh tụ sáng suốt; vững vàng về 
chính trị, tư tưởng; được rèn luyện, có bản lĩnh chính trị; là nòng cốt, đi đầu 
trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc và quá trình đổi mới theo định 
hướng xã hội chủ nghĩa; “Là giai cấp kiên quyết nhất, cách mạng nhất, đi 
đầu trong đấu tranh cách mạng” - Hồ Chí Minh. Ngoài ra, giai cấp công 
nhân còn có quan hệ mật thiết với dân tộc, nhất là giai cấp nông dân: Gắn 
bó lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc; nhận rõ kẻ thù của giai cấp và dân tộc 
là một; sớm trở thành giai cấp lãnh đạo dân tộc.   
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay: là giai 
cấp lãnh đạo thông qua đôịtiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diêṇ 
cho phát triển sản xuất tiên tiến; tiên phong trong sự nghiêp ̣ xây dựng chủ                      lOMoAR cPSD| 15962736            
nghĩa xã hội; lực lượng đi đầu trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa); lực 
lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và 
đôịngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.   
Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay và vấn đề đặt ra: Là lực 
lượng sản xuất hàng đầu của Việt Nam song chưa chiếm đa số trong dân cư 
và lao động; phân hoá khá sâu sắc (2 chiều) trong kinh tế thị trường, hội 
nhập quốc tế; trình độ văn hóa, tay nghề, công nghệ... chưa đáp ứng yêu cầu 
cao của công nghiệp hóa, hiện đại hóa; giác ngộ chính trị chưa đồng đều, 
một bộ phận chưa ngang tầm với vị trí tiền phong; đào tạo và sử dụng công 
nhân nhiều bất cập; việc làm và đời sống của công nhân còn khó khăn; nhiều 
tổ chức chính trị - xã hội của công nhân còn non yếu; một bộ phận giới chủ 
trong các doanh nghiệp FDI, tư nhân… thể hiện “mặt đối lập” với công 
nhân; một bộ phận công nhân trong các thành phần kinh tế tư nhân, nước 
ngoài đang bị bóc lột khá nặng nề, bộc lộ tâm lý làm thuê, nô lệ, sự cạnh 
tranh, nỗi thất vọng, sự vùng dậy… lao động của họ có biểu hiện đang bị tha 
hóa; nguy cơ “4 hóa” của một bộ phận công nhân (Công đoàn Trung Quốc) 
sẽ là hiện thực: làm thuê hóa, bần cùng hóa, vô quyền hóa, phân tán hóa   
Quan điểm về phương hướng và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt 
Nam hiện nay: Kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo 
cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; phát huy 
sức mạnh của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ 
trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; chiến lược xây dựng giai cấp công nhân 
lớn mạnh phải gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế; đào tạo, bồi 
dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, không ngừng trí thức hóa 
giai cấp công nhân là một nhiệm vụ chiến lược; xây dựng giai cấp công 
nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội 
cũng như sự nỗ lực vươn lên của bản thân mỗi người công nhân.   
Về giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, đầu tiên cần 
phải nâng cao nhận thức trong Đảng, tổ chức công đoàn, bản thân giai cấp 
công nhân và trong toàn xã hội về vai trò (sứ mệnh lịch sử) của giai cấp công 
nhân; tăng cường “trí thức hóa” công nhân; xây dựng, củng cố các tổ chức 
chính trị trong các doanh nghiệp, nhà máy, nhất là các doanh nghiệp ngoài 
nhà nước; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; hoàn thiện luật đầu tư 
(thu hút đầu tư nhưng phải bảo vệ lợi ích người lao động).   
Nội dung 2: Quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về thời kỳ quá độ 
lên Chủ nghĩa xã hội. Đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên Chủ 
nghĩa xã hội ở Việt Nam.   
Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gôta” (1875), C.Mác đã cho 
rằng: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời 
kỳ cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy 
không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô 
sản”. Khẳng định quan điểm của C.Mác, V.I Lênin đã cho rằng: “Về lý luận, 
không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, 
có một thời kỳ quá độ nhất định”. Sau này, từ thực tiễn nước Nga. V.I Lênin 
cho rằng, đối với những nước chưa có chủ nghĩa tư bản phát triển                    lOMoAR cPSD| 15962736            
cao “cần phải có thời kỳ quá độ lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa  xã hội”.   
Vậy nên, về mặt lý luận và thực tiễn, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư 
bản lên chủ nghĩa cộng sản, được hiểu theo hai nghĩa: thứ nhất, đối với các 
nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ 
nghĩa cộng sản có một thời kỳ quá độ nhất định, là thời kỳ cải biến cách 
mạng từ xã hội này sang xã hội kia, là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên 
chủ nghĩa cộng sản; thứ hai, đối với các nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản 
phát triển, cần thiết phải có thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản 
lên chủ nghĩa xã hội - những cơn đau đẻ kéo dài.   
Khẳng định tính tất yếu của thời kỳ quá độ, đồng thời các nhà sáng 
lập chủ nghĩa xã hội khoa học cũng phân biệt có hai loại quá độ từ chủ nghĩa 
tư bản lên chủ nghĩa cộng sản: 1) Quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên 
chủ nghĩa cộng sản đối với các nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển. 
Cho đến nay thời kỳ quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa cộng sản từ chủ nghĩa tư 
bản phát triển chưa từng diễn ra; 2) Quá độ gián tiếp từ chủ nghĩa tư bản 
phát triển đối với các nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển. Trong 
một thế kỷ qua, trên thế giới kể cả Liên Xô và các nước Đông u trước đây; 
Trung Quốc, Việt Nam và một số nước xã hội chủ nghĩa khác ngày nay, 
theo đúng lý luận Mác Lênin, đều đang trải qua thời kỳ quá độ gián tiếp với 
những trình độ phát triển khác nhau.   
Về xã hội của của thời kỳ quá độ, đó là xã hội đan xen của nhiều tàn 
dư về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần của chủ nghĩa tư bản và 
những yếu tố mới mang tính chất xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa xã hội mới 
phát sinh chưa phải là chủ nghĩa xã hội đã phát triển trên cơ sở của chính nó.   
Đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ 
cải tạo cách mạng sâu sắc, triệt để xã hội tư bản chủ nghĩa trên tất cả lĩnh 
vực, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, xây dựng từng bước cơ sở vật chất - 
kỹ thuật và đời sống tinh thần của chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ lâu dài, 
gian khổ bắt đầu từ khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được 
chính quyền đến khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.   
Về phương diện kinh tế, tất yếu tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó 
còn có thành phần đối lập. Tương ứng với nước Nga, V.I Lênin cho rằng thời 
kỳ quá độ tồn tại 5 thành phần kinh tế: Kinh tế gia trưởng; kinh tế hàng hóa 
nhỏ, kinh tế tư bản; kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế xã hội chủ nghĩa.   
Về phương diện chính trị, là việc thiết lập, tăng cường chuyên chính vô sản 
mà thực chất của nó là việc giai cấp công nhân nắm và sử dụng quyền lực 
nhà nước trấn áp giai cấp tư sản, xây dựng một xã hội không giai cấp. Đây là 
sự thống trị về thống trị của giai cấp công nhân với chức năng thực hiện dân 
chủ đối với nhân dân, tổ chức xây dựng và bảo vệ chế độ mới, chuyên chính 
với những phần tử thù địch, chống lại nhân dân.   
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phương diện tư 
tưởng - văn hóa, còn tồn tại nhiều tư tưởng khác nhau. Giai cấp công nhân 
thông qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản từng bước xây dựng 
văn hóa vô sản, nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị văn giá trị                      lOMoAR cPSD| 15962736            
dân tộc là tinh hoa nhân loại, đảm bảo đáp ứng nhu cầu văn hóa - tinh 
thần ngày càng tăng của nhân dân.   
Về phương diện xã hội, do kết cấu của nền kinh tế nhiều thành phần quy 
định nên trong thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp và sự khác 
biệt giữa các giai cấp tầng lớp xã hội, các giai cấp, tầng lớp vừa hợp tác, 
vừa đấu tranh với nhau. Bởi vậy, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ 
nghĩa xã hội là thời kỳ đấu tranh giai cấp chống áp bức, bất công, xóa bỏ tệ 
nạn xã hội và những tàn dư của xã hội cũ để lại, thiết lập công bằng xã hội 
trên cơ sở thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động là chủ đạo.   
Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện vừa thuận lợi vừa khó 
khăn đan xen, và có những đặc trưng cơ bản: Việt Nam xuất phát từ một xã 
hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp, trải qua 
chiến tranh ác liệt kéo dài nhiều thập kỷ, tàn dư thực dân và phong kiến còn 
nhiều; Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh 
mẽ, cuốn hút tất cả các nước ở mức độ khác nhau, nền sản xuất vật chất và 
đời sống xã hội đang trong quá trình quốc tế hóa sâu sắc, những xu thế đó 
vừa tạo thời cơ phát triển nhanh cho các nước như Việt Nam, vừa đặt ra 
những thách thức sâu sắc; Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ 
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì 
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù đang gặp 
nhiều khó khăn, thách thức song theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài 
người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.   
Cương lĩnh năm 1930 của Đảng đã chỉ rõ: Sau khi hoàn thành cách mạng 
dân tộc, dân chủ nhân dân, sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là lựa chọn 
dứt khoát và đúng đắn của Đảng, đáp ứng nguyện vọng thiết tha của dân 
tộc, nhân dân, phản ánh xu thế phát triển của thời đại, phù hợp với quan 
điểm khoa học, cách mạng và sáng tạo của chủ nghĩa Mác Lênin.   
Hơn nữa, đặc điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam là bỏ qua chế độ 
tư bản chủ nghĩa, như Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: 
Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ 
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của 
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, 
kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ 
nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản 
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.   
Đây là tư tưởng mới, phản ánh nhận thức mới, tư duy mới của Đảng ta 
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa. Tư tưởng 
này cần được hiểu đầy đủ với những nội dung sau đây:   
Thứ nhất, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con 
đường cách mạng tất yếu khách quan, con đường xây dựng đất nước trong 
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.   
Thức hai, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tức là 
bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng 
tầng tư bản chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là trong thời kỳ quá độ còn nhiều 
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, song sở hữu tư nhân tư bản chủ                    lOMoAR cPSD| 15962736            
nghĩa và thành phần kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa không đóng vai trò 
chủ đạo; thời kỳ quá độ còn nhiều hình thức phân phối, ngoài phân phối 
theo lao động còn phân phối theo mức độ đóng góp và quỹ phúc lợi xã hội; 
thời kỳ quá độ vẫn còn quan hệ bóc lột và bị bóc lột, song quan hệ bóc lột tư 
bản chủ nghĩa không giữ vai trò thống trị.   
Thứ ba, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đòi 
hỏi phải tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới  chủ nghĩa tư bản.   
Thứ tư, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là tạo ra 
sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả lĩnh vực, là nghiệp rất khó khăn, 
phức tạp, lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã 
hội có tính chất quá độ đòi hỏi phải có quyết tâm, chính trị khát vọng lớn 
của toàn Đảng, toàn dân.   
Nội dung 3: Quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về đặc trưng của chủ 
nghĩa xã hội. Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.   
Chủ nghĩa xã hội khoa học được hiểu theo nghĩa rộng là chủ nghĩa Mác 
Lênin, luận giải từ các giác độ triết học, kinh tế học chính trị và chính trị - 
xã hội về sự chuyển biến tất yếu của xã hội loài người từ chủ nghĩa tư bản 
lên chủ nghĩa xã hội xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa xã hội khoa 
học góp phần quan trọng trong việc giáo dục niềm tin khoa học cho nhân 
dân vào mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa  xã hội.   
Chủ nghĩa xã hội được tiếp cận trên một số cấp độ sau đây: 1) Là phong 
trào thực tiễn, phong trào đấu tranh của nhân dân chống lại áp bức, bất 
công, chống lại các giai cấp thống trị; 2) Là phong trào tư tưởng, lý luận 
phản ánh lý tưởng giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức, bóc lột, bất 
công; 3) Là một khoa học - Chủ nghĩa xã hội khoa học, khoa học về sứ 
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân; 4) Là một chế độ xã hội tốt đẹp, giai 
đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.   
Khi nghiên cứu về hình thái kinh tế - xã hội chủ nghĩa, các nhà sáng lập chủ 
nghĩa xã hội khoa học rất quan tâm dự báo những đặc trưng của từng giai 
đoạn đặc biệt là giai đoạn đầu ( giai đoạn thấp) của xã hội cộng sản nhằm 
định hướng phát triển cho phong trào công nhân quốc tế. Căn cứ vào những 
dự báo của C.Mác và Ph.Ăngghen và những quan điểm của V.I.Lênin về 
chủ nghĩa xã hội nước Nga xô - viết, có thể khái quát những đặc điểm cơ 
bản của chủ nghĩa xã hội như sau:   
Chủ nghĩa xã hội giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, 
giải phóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện. Trong 
tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, khi dự báo về xã hội tương lai, xã 
hội cộng sản chủ nghĩa, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Thay cho xã 
hội tư bản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện 
một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện phát triển 
tự do của tất cả mọi người”; khi đó “con người, cuối cùng làm chủ tồn tại xã 
hội của chính mình, thì cũng do đó làm chủ tự nhiên, làm chủ cả bản thân mình 
trở thành người tự do”. Đây là sự khác biệt về chất giữa hình thái                      lOMoAR cPSD| 15962736            
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa so với các hình thái kinh tế - xã hội ra 
đời trước, thể hiện ở bản chất nhân văn, nhân đạo, vì sự nghiệp giải 
phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người.   
Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất 
hiện đại và chế độ công hữu về tư hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. 
V.I.Lênin cho rằng; “từ chủ nghĩa tư bản, nhân loại chỉ có thể tiến thẳng lên 
chủ nghĩa xã hội, nghĩa là chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất và chế độ 
phân phối lao động của mỗi người”. Đây là đặc trưng về phương diện kinh 
tế của chủ nghĩa xã hội khoa học. Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là 
giải phóng con người trên cơ sở điều kiện kinh tế - xã hội phát triển, mà xét 
đến cùng là trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất hiện đại, quan hệ 
sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, được tổ chức quản lý 
có hiệu quả, năng suất lao động cao và phân phối chủ yếu theo lao động.   
Chủ nghĩa xã hội là xã hội do nhân dân lao động làm chủ. Đây là đặc trưng 
thể hiện thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã hội, xã hội vì con người và do 
con người; nhân dân mà nòng cốt là nhân dân lao động là chủ thể của xã hội 
thực hiện quyền làm chủ ngày càng rộng rãi và đầy đủ trong quá trình cải tạo 
xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “...bước 
thứ nhất trong cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp 
thống trị là giành lấy dân chủ”. V.I.Lênin, từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa 
xã hội ở Nga Xô viết đã coi chính quyền Xô viết là một kiểu Nhà nước 
chuyên chính vô sản, một chế độ ưu việt gấp triệu lần so với chế độ dân chủ 
tư sản: “Chế độ dân chủ vô sản so với bất kỳ chế độ dân chủ tư sản nào cũng 
dân chủ hơn gấp triệu lần; chính quyền Xô viết so với nước cộng hòa dân 
chủ nhất thì cũng gấp triệu lần”.   
Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã khẳng định trong chủ nghĩa 
xã hội phải thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản, nhà nước kiểu mới mang 
bản chất giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của 
nhân dân lao động. Theo V.I.Lênin, chuyên chính cách mạng của giai cấp vô 
sản là một chính quyền do giai cấp vô sản giành được và duy trì bằng bạo 
lực đối với giai cấp tư sản Chính quyền đó chính là nhà nước kiểu mới thực 
hiện dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân và trấn áp bằng vũ lực bọn bóc 
lột, bọn áp bức nhân dân, thực chất của sự biến đổi của chế độ dân chủ trong 
thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. Theo V.I.Lênin, 
Nhà nước xô - viết sẽ tập hợp, lôi cuốn đông đảo nhân dân tham gia quản lý 
Nhà nước, quản lý xã hội, tổ chức đời sống xã hội vì con người và cho con  người.   
Chủ nghĩa xã hội có nền văn hóa phát triển cao, kế thừa và phát huy những 
giá trị của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn nhân loại. Tính ưu việt, sự ổn 
định và phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa không chỉ thể hiện ở lĩnh vực 
văn hóa - tinh thần của xã hội. V.I.Lênin khẳng định: “...nếu không hiểu rõ 
rằng chỉ có sự hiểu biết chính xác về việc cải tạo nền văn hóa đó mới có thể 
xây dựng được nền văn hóa vô sản thì chúng ta không thể giải quyết được 
vấn đề. Đồng thời, V.I.Lênin cũng cho rằng: “Người ta chỉ có thể trở thành 
người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả 
những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”. Do vậy, quá trình xây dựng 
nền văn hóa xã hội chủ nghĩa phải biết kế thừa những giá trị văn hóa dân tộc                    lOMoAR cPSD| 15962736            
và tinh hóa văn nhân loại, đồng thời, cần chống lại tư tưởng, văn hóa phi vô 
sản, đồng thời, cần chống lại tư tưởng, văn hóa phi vô sản, trái với những 
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và của loài người, trái với phương 
hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.   
Chủ nghĩa xã hội bảo đảm bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc và có quan 
hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Theo quan điểm 
của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học, vấn đề giai cấp có quan 
hệ biện chứng, bởi vậy, giải quyết vấn đề dân tộc, giai cấp trong chủ nghĩa 
xã hội có vị trí đặc biệt quan trọng và tuân thủ nguyên tắc; “xóa bỏ tình trạng 
người bóc lột người thì trình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng bị 
xóa bỏ”. Trong điều kiện cụ thể ở nước Nga. V.I.Lênin, trong Cương lĩnh về 
vấn đề dân tộc trong chủ nghĩa xã hội đã chỉ ra những nội dung có tính 
nguyên tắc để giải quyết vấn đề dân tộc: “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; 
các dân tộc được quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại. 
Đó là Cương lĩnh dân tộc mà chủ nghĩa Mác. kinh nghiệm toàn thế giới và 
kinh nghiệm của nước Nga dạy cho công nhân”.   
Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể 
của Việt Nam, tổng kết thực tiễn quá trình cách mạng Việt Nam, nhất là qua 
hơn 30 năm đổi mới, nhận thức của Đảng và nhân dân ta về chủ nghĩa xã hội 
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội 
ngày càng rõ. Đại hội IV (1976), nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội 
và con đường phát triển của cách mạng nước ta mới ở mức độ định hướng. 
Đến Đại hội VII, nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã 
hội và con đường đi lên chủ nghĩa đã sáng tỏ hơn, từng bước đạt tới trình độ 
định hình, định lượng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ 
lên chủ nghĩa xã hội (1991), đã xác định mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta 
với sáu đặc trưng. Đến Đại hội XI, nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã 
hội đã có bước phát triển mới. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ 
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã phát triển mô 
hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam với tám đặc trưng, trong đó có đặc trưng về 
mục tiêu, bản chất, nội dung của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây 
dựng đó là: 1) Dân giàu, nước mạnh dân chủ, công bằng, văn minh; 2) Do 
dân làm chủ; 3) Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất 
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; 4) Có nền văn hóa tiên tiến, 
đậm đà bản sắc dân tộc; 5) Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, 
có điều kiện phát triển toàn diện; 6) Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam 
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; 7) Có Nhà nước 
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân. do nhân dân, vì nhân dân do 
Đảng Cộng sản lãnh đạo; 8) Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước  trên thế giới.     
Nội dung 4: Quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về bản chất, 
nguồn gốc, tính chất của tôn giáo, các nguyên tắc cơ bản xử lý mối quan 
hệ giữa chủ nghĩa xã hội và tôn giáo. Đặc điểm, tình hình tôn giáo và 
chính sách tôn giáo của Việt Nam hiện nay.   
Bản chất của tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách                      lOMoAR cPSD| 15962736            
hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan vào đầu óc con người. Khác với 
tôn giáo, tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một 
hiện tượng, một lực lượng siêu nhiên nào đó. Còn mê tín dị đoan là niềm 
tin của con người vào các lực lượng siêu nhiên đến mức độ mê muội, hành 
vi cực đoan, thái quá, ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội. Vì vậy, bên cạnh tôn 
trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo thì phải chống mê tín dị đoan. Nói thêm về 
tôn giáo, đó là một dạng tín ngưỡng được thể hiện dưới dạng: Có hệ thống 
giáo lý làm cơ sở cho niềm tin, ý thức tôn giáo; có hệ thống nghi lễ; có giáo 
luật; có tổ chức giáo hội.   
Nói về nguồn gốc của tôn giáo, không phải tôn giáo tạo ra con người mà 
chính con người tạo ra tôn giáo. Nguồn gốc của tôn giáo bắt nguồn từ nguồn 
gốc kinh tế - xã hội, nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc tâm lý. Về nguồn 
gốc kinh tế - xã hội, trong xã hội công xã nguyên thủy, do trình độ của lực 
lượng sản xuất thấp kém con người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước các 
sức mạnh tự phát của tự nhiên, do đó gán cho tự nhiên những sức mạnh to 
lớn, thần thánh hóa những sức mạnh đó. Khi xã hội xuất hiện giai cấp, áp 
bức giai cấp cũng là một nguyên nhân làm cho con người hướng niềm tin 
vào thế giới siêu nhiên dưới hình thức tín ngưỡng, tôn giáo. Kinh tế – xã hôị 
luôn diễn ra sự tác động đến con người môṭcách may rủi, ngẫu nhiên, cũng 
làm cho người nảy sinh tín ngưỡng, tôn giáo. Về nguồn gốc nhận thức, sự 
thiếu hiểu biết, không giải thích được các hiện tượng tự nhiên, xã hội cũng 
dẫn đến nảy sinh các quan điểm tôn giáo. Con người có khả năng khái quát 
hóa hiện thực bằng các khái niệm, phạm trù trừu tượng đến mức xa rời hiện 
thực, phản ánh sai lệch hiện thực. Đó cũng là cơ sở nhận thức để hình thành 
các phạm trù, khái niệm, học thuyết tôn giáo. Ví dụ: Khái niêṃ “Thiên 
đường”, “địa ngục”, v.v… Còn về nguồn gốc tâm lý, “Sự sợ hãi sinh ra thần 
linh”. Tâm lý kính trọng, biết ơn của con người cũng dẫn đến các hiện tượng 
tín ngưỡng, tôn giáo. Tuy nhiên, lưu ý rằng viêc ̣ tách thành các nguồn gốc 
như trên chỉ có ý nghĩa tương đối. Các nguồn gốc trên không tách biêṭmôṭ 
cách rõ ràng, chúng tác đông ̣ môṭcách đan xen dẫn đến nảy sinh tín ngưỡng, 
tôn giáo. Trong các yếu tố dẫn đến sự ra đời của tín ngưỡng, tôn giáo như 
trên, yếu tố kinh tế – xã hôịlà yếu tố quyết định.   
Về tính chất của tôn giáo, ta nói đến 3 tính chất sau: Tính lịch sử của tôn 
giáo, tính quần chúng của tôn giáo và tính chính trị của tôn giáo. Về tính lịch 
sử của tôn giáo, Tôn giáo chỉ xuất hiện khi loài người phát triển đến một 
trình độ lịch sử nhất định. Tôn giáo không xuất hiện đồng thời với sự xuất 
hiện của con người. Tôn giáo ra đời, tồn tại, biến đổi cùng với biến đổi của 
thời đại, sao cho phù hợp với kết cấu chính trị - xã hội của thời đại. Tôn giáo 
sẽ mất đi khi những nguồn gốc sản sinh ra tôn giáo bị loại bỏ. Tuy nhiên thì 
đây sẽ là một quá trình lịch sử rất lâu dài. Về tính quần chúng của tôn giáo, 
tín đồ tôn giáo luôn chiếm tỷ lệ khá đông trong dân số thế giới. Hầu như dân 
tộc, quốc gia nào cũng có tôn giáo. Tôn giáo đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn 
hóa tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân lao động. Về tính chính 
trị của tôn giáo, trong xã hội chưa có giai cấp, tôn giáo chưa mang tính 
chính trị. Trong xã hội có giai cấp, tôn giáo bị các giai cấp thống trị lợi dụng 
để phục vụ lợi ích của mình. Nhiều tôn giáo ra đời là biểu hiện sự phản 
kháng của giai cấp lao động chống lại sự áp bức giai cấp. Ngoài ra tôn giáo 
còn thể hiện những tính chất như: Tính nhân văn và tính phản khoa học.                    lOMoAR cPSD| 15962736            
Về nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, 
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tôn 
giáo vẫn còn tồn tại. Điều đó là do, nguyên nhân cho sự ra đời và tồn tại của 
tôn giáo vẫn chưa mất. Về nguyên nhân kinh tế, trong chủ nghĩa xã hội, và nhất 
là trong thời kỳ quá độ còn nhiều thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị 
trường, do đó: Bóc lôṭvà sự bất bình đẳng về kinh tế vẫn tồn tại; những yếu tố 
may rủi, ngẫu nhiên do sự tác động của thị trường vẫn tồn tại, v.v… Điều đó 
cũng là một trong những nguyên nhân làm cho con người có tâm lý thụ động, 
cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên.Về nguyên nhân chính trị - xã hội, 
do đường lối của Đảng Cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa thực hiện quyền 
tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân, vì tôn giáo có nhiều điểm còn phù hợp 
với chủ nghĩa xã hội như giá trị đạo đức, giá trị văn hóa. Đấu tranh giai cấp, 
đấu tranh chính trị vẫn còn diễn ra dưới nhiều hình thức phức tạp, các thế lực 
thù địch vẫn lợi dụng tôn giáo vì mục đích chính trị. Chiến tranh, xung đột, 
khủng bố, bạo loạn, bệnh tật… vẫn còn đe dọa con người, do đó những yếu tố 
này là điều kiện thuận lợi cho tôn giáo tồn tại. Về nguyên nhân nhận thức, tâm 
lý, trình độ dân trí vẫn chưa thật cao; nhiều hiện tượng tự nhiên, xã hội đến nay 
khoa học vẫn chưa giải thích được. Những hiện tượng tự phát của tự nhiên, xã 
hội có lúc tác động, chi phối đến cuộc sống của con người một cách nghiêm 
trọng. Và khi con người không có khả năng lý giải những điều đó, thì thường 
có tâm lý là trông chờ, tin tưởng vào thần thánh, đứng siêu nhiên. Tôn giáo, tín 
ngưỡng là thuộc về ý thức xã hội, và là một trong những hình thái ý thức xã hội 
bảo thủ nhất. Ngay cả khi tồn tại xã hội có những biến đổi lớn lao về kinh tế, 
chính trị, xã hội, v.v… thì tôn giáo, tín ngưỡng cũng chưa biến đổi ngay. Tôn 
giáo tín ngưỡng đã in sâu vào đời sống tinh thần, ảnh hưởng khá đậm đến nếp 
nghĩ, lối sống của một bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ đến mức trở thành 
một kiểu sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu của cuộc sống. Về nguyên 
nhân văn hóa, sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng tôn giáo có khả năng đáp ứng ở 
một mức độ nào đó nhu cầu văn hóa tinh thần của một bộ phận nhân dân, có ý 
nghĩa nhất định về giáo dục ý thức cộng đồng, đạo đức, phong cách, lối sống. 
Điều đó cũng phù hợp với chủ nghĩa xã hội, vì vậy việc kế thừa, phát huy các 
giá trị văn hóa của tôn giáo là cần thiết và hợp lý.   
Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Với vị trí địa 
lý nằm ở khu vực Đông Nam Á có ba mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận lợi 
trong mối giao lưu với các nước trên thế giới và cũng là nơi rất dễ cho việc 
thâm nhập các luồng văn hóa, các tôn giáo trên thế giới. Với sự đa dạng các 
loại hình tín ngưỡng, tôn giáo, người ta thường ví Việt Nam như bảo tàng 
tôn giáo của thế giới. Về khía cạnh văn hóa, sự đa dạng các loại hình tín 
ngưỡng, tôn giáo đã góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam phong phú và 
đặc sắc. Các tín ngưỡng, tôn giáo dù có nguồn gốc khác nhau, phương châm 
hành đạo không giống nhau nhưng không vì thế mà có sự xung đột, phá hoại 
lẫn nhau để phát triển riêng mình, ngược lại trong quan hệ, họ luôn có sự 
gắn kết, giao lưu và tìm hiểu về nhau để cùng truyền đạt những tinh hoa của 
từng tín ngưỡng, tôn giáo.   
Dưới đây là 4 đặc điểm cơ bản của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam:   
Một là, các tín ngưỡng, tôn giáo có sự dung hợp, đan xen và hòa đồng, 
không kỳ thị, tranh chấp và xung đột. Các tín ngưỡng truyền thống phản ánh                    lOMoAR cPSD| 15962736            
đời sống tâm linh phong phú, đa dạng, sự khoan dung, độ lượng, nhân ái 
của người Việt Nam và tinh thần đoàn kết toàn dân tộc. Đây là những yếu tố 
để người Việt Nam dễ hòa đồng với nhiều tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.   
Trong nhiều cộng đồng dân cư có sự xen kẽ giữa người có tôn giáo và 
người không có tôn giáo. Ở nhiều nơi, trong cùng một làng, xã, có nhóm tín 
đồ của tôn giáo này sống đan xen với nhóm tín đồ của tôn giáo khác hoặc 
với những người không theo tôn giáo, và họ sống hòa hợp với nhau trên nền 
tảng làng, xóm, dòng họ.   
Hai là, các tôn giáo ở Việt Nam chủ yếu thờ Thượng đế và linh nhân là 
người nước ngoài. Các nghiên cứu về lịch sử tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt 
Nam cho thấy, tư tưởng tôn giáo có từ người Việt cổ, thể hiện trực quan qua 
các hình tượng chim Lạc và con Rồng. Hệ thống giáo lý của các tôn giáo nội 
sinh (Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, ...) hầu 
hết đều sao chép hoặc chịu ảnh hưởng từ các tôn giáo có trước.   
Ba là, mỗi tín ngưỡng, tôn giáo mang những nét văn hóa riêng biệt nhưng 
đều hướng đến Chân - Thiện - Mỹ, chịu ảnh hưởng của truyền thống dân 
tộc, góp phần tạo nên những nét đẹp trong nền văn hóa đa dạng, phong phú 
về bản sắc của dân tộc.   
Thực tế, mỗi tôn giáo đều mang trong nó một hay nhiều tín ngưỡng; các 
tín ngưỡng này đã có sự giao thoa với văn hóa Việt Nam. Qua hàng trăm 
năm tồn tại, phát triển, văn hóa tín ngưỡng ngoại nhập dần được Việt hóa 
và trở thành một bộ phận của văn hóa Việt Nam (dù không thuần nhất).   
Đặc điểm thứ 4, trong lịch sử cận, hiện đại của dân tộc, các thế lực thực dân, 
đế quốc, phản động luôn tìm mọi cách lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo và các 
vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo để xâm lược, đô hộ nước ta, hoặc 
gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, phục vụ cho ý đồ  đen tối của chúng.   
Về những quan điểm chỉ đạo giải quyết vấn đề tôn giáo trong quá trình xây 
dựng chủ nghĩa xã hội:   
Một là, cần khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống 
xã hội bằng cách cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới (chủ nghĩa xã hội, chủ 
nghĩa cộng sản), xóa bỏ nguồn gốc xã hội nảy sinh niềm tin tôn giáo. Mặt tích 
cực của tôn giáo: Chủ trương giải phóng con người, hướng đến một xã hội tốt 
đẹp; khuyên răn con người sống tốt, có đạo đức, mưu cầu hạnh phúc cho con 
người. Điều này làm cho chủ nghĩa xã hội và tôn giáo có điểm tương đồng. Tuy 
nhiên tôn giáo có những hạn chế như: Giải thích nguyên nhân của sự khổ đau 
là do sự chi phối của lực lượng siêu nhiên; chủ trương giải phóng con người ở 
thế giới không phải là thế giới hiện thực, trần gian mà ở một thế giới khác, thế 
giới bên kia sau khi chết, “thiên đường”; con đường, biện pháp giải phóng là 
trông chờ vào một lực lượng siêu nhiên, đấng cứu thế. Vì vậy nó kìm hãm, hạn 
chế khả năng vươn lên của con người, dẫn đến tư tưởng, tâm lý trông chờ, ỷ lại 
một cách thụ động. Ở điểm này, giữa tôn giáo và chủ nghĩa xã hội có sự khác 
biêṭvề thế giới quan, nhân sinh quan, và con đường mưu cầu hạnh phúc cho 
nhân loại. Tuy có sự đối lập như vậy, nhưng những người cộng sản không thể 
cấm đoán mà quan trọng là                    lOMoAR cPSD| 15962736            
khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực đó phải gắn liền với việc xóa bỏ 
nguồn gốc xã hội sinh ra nó bằng cách cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội 
mới tốt đẹp hơn – chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.   
Hai là, một khi tín ngưỡng tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận 
quần chúng nhân dân, thì chính sách nhất quán của nhà nước xã hội chủ 
nghĩa là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng 
của công dân. Mọi người đều có quyền theo hoặc không theo, có quyền theo 
tôn giáo này hoặc tôn giáo khác. Quyền đó được pháp luật thừa nhận và bảo 
đảm thực hiện. Mọi công dân theo hoặc không đạo đều bình đẳng trước pháp 
luật. Nghiêm cấm các hành vi xâm phạm tự do tín ngưỡng tôn giáo.   
Ba là, thực hiện đoàn kết giữa những người theo với những người không 
theo tôn giáo, đoàn kết các tôn giáo hợp pháp, chân chính, đoàn kết dân tộc 
để cùng nhau xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Chống lại các hành vi 
chia rẽ vì lý do tín ngưỡng tôn giáo.   
Bốn là, Phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn 
đề tôn giáo. Ở đây chính là phân biệt 2 loại mâu thuẫn trong đời sống tôn 
giáo. Mặt chính trị phản ánh mâu thuẫn đối kháng về lợi ích giữa một bên là 
Đảng Cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động (bao gồm 
có đạo và ko có đạo); và bên kia là các thế lực phản động lợi dụng tôn giáo 
để chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản, 
Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân lao động. Giải quyết mâu thuẫn này 
chỉ có thể là dùng biện pháp chuyên chính để giải quyết kịp thời và triệt để. 
Mặt tư tưởng phản ánh mâu thuẫn không đối kháng, chỉ là sự khác biệt về 
nhận thức, tư tưởng giữa những người theo hoặc ko theo tôn giáo, giữa 
những người theo tôn giáo khác nhau. Giải quyết sự khác biệt này chỉ có thể 
là một quá trình lâu dài cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn – 
xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.   
Năm là, phải có quan điểm lịch sử khi giải quyết vấn đề tôn giáo. Ở những 
thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò tác động của từng tôn giáo đối với đời sống 
xã hội không giống nhau. Quan điểm, thái độ của giáo hội, giáo sĩ, giáo dân 
về các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn có sự khác nhau. Vì vậy cần có 
quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn 
đề liên quan đến tôn giáo.   
Nội dung 5: Quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về vấn đề dân tộc. 
Đặc điểm quan hệ dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước  Việt Nam hiện nay.   
Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc theo nghĩa hẹp, dân tộc 
được hiểu là các tộc người trong một quốc gia nhiều dân tộc. Ví dụ: dân tộc  kinh, Tày, Nùng, v.v…   
Đây là những cộng đồng người có chung một số đặc điểm: Có chung ngôn 
ngữ (tiếng nói, chữ viết); chung lịch sử nguồn gốc; có chung nét văn hóa 
đặc sắc của dân tộc mình; có ý thức tự giác tộc người, v.v…   
Theo nghĩa rộng, dân tộc hiểu là toàn bộ dân cư của một nước (quốc gia 
dân tộc). Ví dụ: dân tộc Việt Nam, dân tộc Lào, v.v…                      lOMoAR cPSD| 15962736            
Đây là một cộng đồng người hình thành trong lịch sử có những điểm chung: 
Chung một lãnh thổ quốc gia; có quốc ngữ - ngôn ngữ chung cho quốc gia 
đó; chung một nền kinh tế - chính trị nhất định; có sự thống nhất về truyền 
thống văn hóa, lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước.   
Để phân biệt dân tộc với sắc tộc, chủng tộc, thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, ta 
cần phải hiểu từng khái niệm trên:   
Sắc tộc, chủng tộc: Đề cập đến cộng đồng người dựa trên những đặc điểm tự 
nhiên như màu da, cấu tạo tự nhiên của cơ thể. Người có sắc tộc, chủng tộc 
này nhưng có thể là thành viên của nhiều dân tộc.   
Thị tộc, bộ lạc: Là hình thức cộng đồng người có trước dân tộc, tồn tại trong 
xã hội công xã nguyên thủy, dựa trên cơ sở có chung huyết thống.   
Bộ tộc: Là hình thức cộng đồng người hình thành trên cơ sở liên kết nhiều 
bộ lạc, tồn tại dưới chế độ chiếm hữu nô lệ và phong kiến.   
Nói về sự hình thành của dân tộc, ở phương Tây, dân tộc hình thành trên cơ 
sở một bộ tộc hoặc liên kết nhiều bộ tộc sống trên cùng một vùng lãnh thổ, 
hình thành gắn với sự xác lập của phong trào sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự 
hình thành và phát triển của phong trào sản xuất tư bản chủ nghĩa đòi hỏi 
phải có sự thống nhất thị trường, thống nhất lãnh thổ, thống nhất về chính 
phủ, về thuế quan, về tiền tệ, xóa bỏ sự cát cứ địa phương theo kiểu lãnh địa 
phong kiến, hình thành nên một cộng đồng người thống nhất gọi là dân tộc. 
Còn ở phương Đông, dân tộc hình thành sớm hơn, trước chủ nghĩa tư bản do 
sự thúc đẩy của nhiều nhân tố như: Nhu cầu trị thủy, chống thiên tai, thú dữ; 
nhu cầu chống địch họa…   
Nghiên cứu sự vận động và quan hệ dân tộc dưới chủ nghĩa tư bản, 
V.I.Lênin đã chỉ ra hai xu hướng vận động khách quan của các dân tộc:   
Xu hướng thứ nhất: Ở các quốc gia gồm nhiều cộng đồng dân cư có nguồn 
gốc tộc người khác nhau, do sự thức tỉnh, trưởng thành về ý thức dân tộc 
nên các cộng đồng dân cư muốn tách ra để xác lập các cộng đồng dân tộc 
độc lập. Xu hướng này nổi trội ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản.   
Xu hướng thứ hai: Các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở 
nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Xu hướng này nổi lên trong giai 
đoạn đế quốc chủ nghĩa.   
Hai xu hướng này là 2 xu hướng tiến bô.̣Tuy trong điều kiện của chủ nghĩa 
đế quốc nó gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Bởi vì: Nguyện vọng của các dân 
tộc được sống độc lập, tự do bị chính sách xâm lược của chủ nghĩa đế quốc 
xóa bỏ; liên hiệp, xích lại với nhau giữa các dân tộc trên cơ sở tự nguyện, 
bình đẳng bị chủ nghĩa đế quốc xóa bỏ, thay vào đó là quan hệ bất bình 
đẳng, đó là dân tộc này tìm cách thống trị các dân tôc ̣ khác.   
Để hai xu hướng này vận động không gặp trở ngại, chỉ có thể: Xóa bỏ chủ 
nghĩa Đế Quốc, thực hiện tốt các nguyên tắc tiến bộ như: Thực hiện quyền 
bình đẳng dân tộc, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, liên hiệp công nhân các  dân tộc lại.   
Về nội dung cơ bản của Cương lĩnh dân tộc của Đảng Cộng sản: Các dân tộc                  lOMoAR cPSD| 15962736            
hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết; liên hiệp công nhân 
tất cả các dân tộc lại.   
Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng: Các dân tộc dù lớn hay nhỏ, không phân 
biệt trình độ phát triển cao hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang 
nhau; không có một dân tộc nào được giữ đặc quyền đặc lợi và có quyền đi 
áp bức bóc lột các dân tộc khác. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng phải được 
thể hiện trong luật pháp của mỗi nước và luật pháp quốc tế. Và phải được 
thực hiện trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đối với một quốc gia nhiều 
dân tộc, sự khắc phục trình độ phát triển chênh lêcḥ về kinh tế, văn hóa do 
lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản. Trên phạm vi thế giới, thực hiện quyền bình 
đẳng giữa các quốc gia dân tộc đòi hỏi phải chống lại chủ nghĩa phân biệt 
chủng tộc, chủ nghĩa sôvanh nước lớn, chống sự áp đặt của các tư bản phát 
triển đối với các nước chậm phát triển về mọi măṭ. Thực hiện quyền bình 
đẳng là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ 
hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc.   
Các dân tộc được quyền tự quyết: Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ 
đối với vận mệnh dân tộc mình, tự quyết định chế độ chính trị - xã hội và 
con đường phát triển của dân tộc mình. Quyền tự quyết còn bao gồm cả 
quyền tự do tách ra thành lập một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của 
các dân tộc và quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở 
bình đẳng cùng có lợi.   
Lưu ý rằng khi xem xét quyền dân tộc tự quyết của dân tộc cần đứng vững 
trên lập trường của giai cấp công nhân. Ủng hộ các phong trào dân tộc tiến 
bộ phù hợp với lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và nhân dân lao 
động. Chống lại các phong trào dân tôc ̣ tự quyết giả hiệu vì lợi ích và mưu 
đồ của một nhóm người nào đó.   
Liên hiệp công nhân của tất cả các dân tộc phản ánh bản chất quốc tế của 
phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng 
dân tộc với giải phóng giai cấp. Nó đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ 
sức mạnh để giành thắng lợi, đảm bảo cho các nội dung trên của cương 
lĩnh dân tộc có thể thực hiện đầy đủ. Do đó nó là nội dung quan trọng nhất 
của cương lĩnh dân tộc của Đảng Cộng sản.   
Khẩu hiệu của C.Mác và Ph. Ăngghen nêu ra: “Vô sản toàn thế giới liên 
hiệp lại” đã được V.I. Lênin phát triển thành: “Vô sản toàn thế giới và 
các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”.   
Việt Nam là quốc gia có nhiều dân tộc cùng chung sống, mỗi dân tộc có 
bản sắc văn hóa riêng. 54 dân tộc trong đó dân tộc kinh chiếm 86% dân số, 
53 dân tộc còn lại chiếm 14% dân số, phân bố rải rác trên địa bàn cả nước. 
10 dân tộc có số dân từ dưới 1 triệu đến 100 ngàn người là: Tày, Nùng, 
Thái, Mường, Khơme, Mông, Dao, Giarai, Bana, Êđê; 20 dân tộc có số dân 
dưới 100 ngàn người, 16 dân tộc có số dân từ dưới 10 ngàn người đến 1 
ngàn người; 6 dân tộc có số dân dưới 1 ngàn người (Cống, Sila, Pupéo,  Rơmăm, Ơ đu, Brâu).   
Tuy có sự chênh lệch đáng kể về đời sống vật chất cũng như tinh thần, 
nhưng các dân tộc vẫn coi nhau như anh em đùm bọc lẫn nhau, chung sức                      lOMoAR cPSD| 15962736            
xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Ở nước ta không có tình trạng dân tộc đa số 
cưỡng bức, đồng hoá, thôn tính các dân tộc ít người, do đó cũng không có 
tình trạng dân tộc ít người chống lại dân tộc đa số.   
Các dân tộc trên đất nước ta có truyền thống đoàn kết trong đấu tranh 
dựng nước, giữ nước, xây dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất.   
Hồ Chí Minh: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê 
Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt 
Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ 
cùng nhau, no đói có nhau”.   
Từ mấy nghìn năm nay, từ khi bắt đầu hình thành nhà nước các dân tộc 
cùng chung sống trên dải đất Việt Nam có nhu cầu tự nhiên là phải liên kết 
nhau lại để chống chọi với thiên tai, giặc giã, trở thành một cộng đồng bền 
chặt-đại gia đình các dân tộc Việt Nam, cùng nhau dựng nước và giữ nước. 
Đoàn kết là truyền thống từ ngàn xưa của dân tộc ta.   
Từ cuộc đời tối tăm dưới ách áp bức của thực dân, ăn đói, mặc rách, mù 
chữ..., đồng bào các dân tộc đã đứng lên đi theo ánh sáng cách mạng, kề 
vai sát cánh, chia ngọt sẻ bùi cùng các dân tộc cùng nhau chiến đấu giành 
độc lập, tự do cho Tổ quốc.   
Dân tộc Việt Nam cư trú phân tán, xen kẽ nhau. Ở một số vùng nhất định có 
dân tộc cư trú tương đối tập trung. Song nhìn chung các dân tộc nước ta 
sống xen kẽ nhau, không có lãnh thổ riêng biệt như một số nước trên thế 
giới. Ðịa bàn cư trú của người Kinh chủ yếu ở đồng bằng, ven biển và trung 
du; còn các dân tộc ít người cư trú chủ yếu ở các vùng miền núi và vùng cao, 
một số dân tộc như Khơ me, Hoa, một số ít vùng Chăm sống ở đồng bằng. 
Các dân tộc thiểu số có sự tập trung ở một số vùng, nhưng không cư trú 
thành những khu vực riêng biệt mà xen kẽ với các dân tộc khác trong phạm   
vi của tỉnh, huyện, xã và các bản mường. Bản Phiêng Luông có người Dao là 
đông nhất với 32 hộ, người Tày 9 hộ, 17 hộ người Mông, 4 hộ người Sán Chí, 
2 hộ người Nùng và 1 hộ người Kinh. Cách đây ba, bốn chục năm chỉ có những 
ngôi nhà của người Êđê, Bana, Giarai, Xơđăng, Cơho, M'nông cư trú trên mảnh 
đất Tây Nguyên. Ngày nay, cùng với sự di dân đã xuất hiện thêm những ngôi 
nhà của dân tộc Kinh, Tày, Nùng, và một số dân tộc ít người ở đây. Tình trạng 
cư trú phân tán, xen kẽ giữa các dân tộc ở nước ta, tạo điều kiện để tăng cường 
hiểu biết nhau, hoà hợp và xích lại gần nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Giao 
lưu văn hóa giữa các dân tộc trong cùng một địa phương giúp các dân tộc ngày 
một hiểu nhau hơn. Ngày nay, tình trạng cư trú xen kẽ của các dân tộc chủ yếu 
dẫn tới sự giao lưu kinh tế- văn hoá giữa các dân tộc cũng như sự hỗ trợ, giúp 
đỡ lẫn nhau. Do sống gần nhau, việc kết hôn giữa thanh niên nam nữ thuộc các 
dân tộc khác nhau ngày càng phổ biến, càng có thêm điều kiện đoàn kết và hoà  hợp giữa các dân tộc.   
Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không  đều nhau.   
Do điều kiện tự nhiên nên sự chênh lệch trình độ phát triển kinh tế, văn hoá 
giữa các dân tộc, giữa các vùng dân cư thể hiện rõ rệt. Đầu tiên là kỹ thuật 
canh tác: Bà con dân tộc miền núi thì kỹ thuật canh tác thô sơ, chủ yếu dựa                    lOMoAR cPSD| 15962736            
vào sức người là chính, địa hình đồi núi khó áp dụng những tiến bộ khoa 
học kỹ thuật. Cư dân ở khu vực đồng bằng đã vận dụng khoa học kỹ thuật 
vào sản xuất tạo ra năng suất lao động cao. Trong khi đó ở khu vực thành thị 
nhiều người có cuộc sống đầy đủ tiện nghi. Giữa nhiều vùng còn có sự 
chênh lệch thể hiện ở: Đường giao thông, phương tiện, dịch vụ chăm sóc y 
tế, giáo dục… Tuy nhiên Đảng ta đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế linh 
hoạt, sáng tạo phù hợp với điều kiện thực tế của từng khu vực, tỉnh thành  trong cả nước.   
Văn hoá Việt Nam là sự thống nhất trong đa dạng. Từ cơ tầng văn hoá 
Đông Nam Á thời tối cổ, thời tiền sử trên dải đất Việt Nam hiện nay xuất 
hiện ba nền văn hoá: Đông Sơn (ở châu thổ Bắc Bộ), Sa Huỳnh (Trung Bộ), 
Đồng Nai (Nam Bộ) . Thời sơ sử và sang thiên niên kỷ đầu Công nguyên, 
lịch sử đã đưa ba nền văn hoá này đến ba số phận khác nhau; ở châu thổ 
Bắc Bộ bị sự thống trị của phong kiến Trung Quốc hơn 1000 năm, ở duyên 
hải Trung Bộ là văn hóa Champa, ở Nam Bộ là văn hoá Óc Eo, để rồi hòa 
trộn trong nền văn hoá Việt Nam, tạo ra sự đa dạng trong sự thống nhất.   
Nền văn hóa Đông Sơn: Ra đời là kết quả của sự hội tụ của nhiều văn hoá 
rực rỡ trước văn hoá Đông Sơn thuộc thời đại đồng thau, trong quá trình 
chiếm lĩnh vùng đồng bằng các con sông lớn ở miền Bắc Việt Nam, chủ 
yếu là lưu vực sông Hồng.   
Nền văn hóa Sa Huỳnh: là một nền văn hóa được xác định ở vào khoảng 
1000 năm TCN đến cuối thế kỷ thứ II. Nền văn hóa Sa Huỳnh là một 
trong ba cái nôi cổ xưa về văn minh trên lãnh thổ Việt Nam, cùng với: 
Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Óc Eo, tạo thành tam giác văn hóa Việt.   
Văn hóa Đồng Nai: phát triển trong thiên niên kỷ I, II trước Công Nguyên đã 
được nhìn nhận như bước mở đầu cho truyền thống văn hóa bản địa ở Nam 
Bộ với bản sắc riêng và sức sống mãnh liệt.   
Nhóm văn hoá ngôn ngữ Nam Á:   
Nhóm ngôn ngữ Việt- Mường: Gồm các dân tộc Kinh, Mường, Thổ, Chứt.   
Nhóm ngôn ngữ Môn- Khmer: Gồm các dân tộc Khơ Mú, Kháng, Mảng, 
Xinh Mun, Bru Vân Kiều, Tà Ôi, Cơ Tu, Co, Hrê, Gie Triêng, Ba Na, Xơ 
Đăng, Brâu, Rơ Măm, Mnông, Mạ, Cơ Ho, Xtiêng, Chơ Ro, Khơme, Ơ Đu.   
Nhóm ngôn ngữ Tày- Thái: Gồm các dân tộc Tày, Thái, Nùng, Sán 
Chay, Giấy, Lào, Lự, Bố Y.   
Nhóm ngôn ngữ H'mông- Dao: Gồm các dân tộc H’mông, Dao, Pà Thẻn.   
Nhóm ngôn ngữ Ka Đai: Cơ Lao, La Chí, Pu Péo, La Ha.   
Nhóm văn hoá ngôn ngữ Nam Đảo:   
Nhóm ngôn ngữ Malaio Polinexia: Gồm các dân tộc Chăm, Chu Ru,  Gia Rai, Ê Đê, Raglai.   
Nhóm văn hoá ngôn ngữ Hán Tạng:   
Nhóm ngôn ngữ Tạng Miến: Gồm các tộc Hà Nhì, La Hủ, Phù Lá, Lô Lô,                      lOMoAR cPSD| 15962736             Cống, Si La.   
Nhóm ngôn ngữ Hán: Gồm các tộc Hoa, Ngái, Sán Dìu.   
Bên cạnh sự đa dạng về ngôn ngữ, thì mỗi dân tộc lại có phong tục tập quán 
mang những giá trị và sắc thái văn hoá riêng. Người Chăm ở duyên hải miền 
Trung lại có những đền tháp, tác phẩm điêu khắc đá, những bia ký trên đá.   
Người Khơme Nam Bộ: có một kho tàng văn học Phật giáo, nghệ thuật 
điêu khắc và kiến trúc Phật giáo khá lớn, có những ngôi chùa là một trung 
tâm văn hoá và nhiều lễ hội độc đáo. Người Tày- Thái: ở vùng núi cao phía 
Bắc lại có những nếp nhà sàn, có một kho tàng văn học dân gian đa dạng… 
Mặc dù có những sắc thái riêng nhưng các dân tộc ở Việt Nam lại có những 
yếu tố rất chung về văn hoá. Đảng và nhà nước ta luôn luôn tôn trọng bản 
sắc văn hóa riêng và tôn trọng tự do tín ngưỡng của mỗi dân tộc.   
Trải qua lịch sử liên tục chống ngoại xâm, dân tộc ta đã trưởng thành rất 
sớm và trở thành một quốc gia độc lập thống nhất yêu hoà bình. Nhìn lại con 
đường lịch sử đã qua, trong bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc 
ta đã phải bao lần chiến đấu chống ngoại xâm gần như thường xuyên và đã 
chiến thắng một cách oanh liệt. Đó là một nét nổi bật của lịch sử và con 
người Việt Nam, là thử thách gay go nhất nhưng cũng là niềm tự hào lớn  nhất của dân tộc ta.   
Vị trí địa lý: Việt Nam là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, ven 
biển Thái Bình Dương. Việt Nam có diện tích 330.991 km2. Với đường 
biên giới trên đất liền dài 4.550 km, phía Bắc tiếp giáp với Trung Quốc, 
phía Tây Bắc tiếp giáp với Lào và Tây Nam giáp Campuchia và Vịnh Thái 
Lan; phía Đông và Nam giáp biển Đông. Với vị thế đặc biệt này, Việt Nam 
trở thành mảnh đất màu mỡ khiến các thế lực xâm lăng muốn chiếm đoạt.   
Nhưng với sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã 
anh dũng, bền gan, vững chí đánh thắng kẻ thù xâm lược qua nhiều thế hệ. 
Vào ngày 02 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt cho cả dân 
tộc, trịnh trọng tuyên bố trước đồng bào và toàn thế giới: “…Nước Việt 
Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do 
độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, 
tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Như vậy, dân 
tộc Việt Nam đã trải qua thời gian dài dựng nước và giữ nước; trải qua nhiều 
cuộc chiến đẫm máu để giành lấy độc lập dân tộc. Đó là bằng chứng về một 
tinh thần yêu nước, sự đoàn kết dân tộc, sự quả cảm của những con người 
anh hùng, cùng nhau hướng tới xây dựng một xã hội tốt đẹp, không còn 
chiến tranh, một dân tộc hoà bình, thống nhất. Vào ngày 8 tháng 10 năm 
2010, Thành ủy, HĐND, UBND Thành phố Hà Nội đã long trọng tổ chức 
Lễ khánh thành Công viên Hòa Bình, tại Xuân Đỉnh, Từ Liêm, Hà Nội. 
Công viên nhằm nhấn mạnh thông điệp “chúng tôi muốn thế giới này mãi  mãi hoà bình”.   
Năm 2000, cùng với 4 thành phố khác trên thế giới, Hà Nội là Thành phố duy 
nhất đại diện cho Châu Á nhận giải thưởng “Thành phố vì Hòa bình” của 
UNESCO trao tặng. Năm 2001, Thành phố đã phê duyệt chủ trương xây dựng 
một công viên mang biểu tượng của Thành phố Thủ đô- Thành phố vì hòa 
bình- Công viên Hòa Bình. Trong công viên, Tượng đài Hòa Bình là hạt                  lOMoAR cPSD| 15962736            
nhân chính được đúc bằng đồng nặng khoảng 20 tấn, cao 7,2m đặt trên đài  đế cao 22,8m.   
Các dân tộc thiểu số lại cư trú trên các địa bàn có vị trí chiến lược quan 
trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và giao lưu quốc tế.   
Theo số liệu tổng điều tra dân số, tính đến 0 giờ ngày 1/4/2009, dân số của 
Việt Nam là 85.789.573 người. Dân số Việt Nam gồm 54 dân tộc. Dân tộc 
đông nhất là dân tộc Kinh (Việt), chiếm 86,2% dân số. Các dân tộc thiểu số 
đông dân nhất: Tày, Thái, Mường, Khmer, Hoa, Nùng, Hmông, người Dao, 
Giarai, Êđê, Chăm, Sán Dìu. Đa số các dân tộc này sống ở miền núi và 
vùng sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên và Đồng Bằng Sông Cửu Long. 
Cuối cùng là các dân tộc Brâu, Ơ Đu và Rmăm chỉ có trên 300 người.   
Dân tộc Tày: sống chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc như Cao Bằng, 
Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang… Theo thống kê gần đây, 
người Tày có khoảng 1 triệu 700 ngàn người. Đây là dân tộc có số dân đông 
nhất sau người Kinh trong cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam.   
Dân tộc Thái: (520.000), cư trú tập trung tại các tỉnh Lai Châu, Sơn La,  Hòa Bình, Nghệ An...   
Dân tộc Mường: (914.600), sống chủ yếu tại tỉnh Hòa Bình, các huyện 
miền núi tỉnh Thanh Hóa một số huyện miền núi của Nghệ An.   
Người Hoa: (450.000), người gốc Trung Quốc định cư ở Việt Nam, sống tập 
trung đông nhất (50%) tại vùng Chợ Lớn của Thành phố Hồ Chí Minh, 50% 
còn lại sinh sống phân tác ở các tỉnh thành trên toàn quốc, phần nhiều tại các 
tỉnh miền Tây Việt Nam.   
Người Khmer: (447.000), thuộc nhóm ngôn ngữ Môn- Khmer, sống chủ 
yếu tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.   
Dân tộc Nùng: (353.000), thuộc nhóm ngôn ngữ Tày- Thái, sống tập trung 
ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Thái, Hà Bắc, Tuyên Quang.   
H'Mông (479.000), hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc, tập trung chủ yếu ở 
các tỉnh thuộc Đông và Tây Bắc Việt Nam như Hà Giang, Lào Cai, Lai  Châu, Sơn La...   
Dao (237.000), cư trú chủ yếu dọc biên giới Việt- Trung, Việt- Lào và ở 
một số tỉnh trung du và ven biển Bắc bộ Việt Nam.   
Giarai (121.000), thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo, cư trú tập trung ở các 
tỉnh Gia Lai, Kon Tum và phía Bắc tỉnh Đắc Lắc.   
Êđê (97.000), thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo, cư trú tập trung ở Đắc Lắc, 
phía Nam Gia Lai và phía Tây của hai tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên.   
Những dân tộc còn lại có dân số dưới 90.000 người, một nửa trong số đó có 
dân số dưới 10.000 người. Đa số các dân tộc này sống ở miền núi và vùng 
sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Cuối 
cùng là các dân tộc Brâu, ƠĐu và Rmăm chỉ có khoảng vài trăm người.   
Như vậy, các dân tộc thiểu số tuy chỉ chiếm số lượng nhỏ trong dân số cả                      lOMoAR cPSD| 15962736            
nước (13,8%) nhưng lại cư trú trên các địa bàn có vị trí chiến lược quan 
trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và giao lưu quốc tế. Cùng 
với quá trình dựng nước và giữ nước, nền văn hoá Việt Nam đã hình thành 
và phát triển bền vững. Bằng lao động sáng tạo và ý chí đấu tranh bền bỉ, 
kiên cường, nhân dân ta đã xây đắp lên một nền văn hoá kết tinh sức mạnh 
và in đậm dấu ấn bản sắc của dân tộc, chứng minh sức sống mãnh liệt và sự 
trường tồn của dân tộc Việt Nam. Từ các đặc điểm trên, càng thấy rõ được 
đậm nét tinh thần ấy. Biết đoàn kết dân tộc, sẽ là sức mạnh mang lại những 
thắng lợi to lớn hơn cho sự nghiệp xây dựng đất nước.   
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta:   
Trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam, quan điểm của Đảng và Nhà 
nước ta về chính sách dân tộc là nhất quán, theo nguyên tắc: Các dân tộc 
bình đẳng, đoàn kết, tương trợ nhau cùng phát triển. Đây vừa là nguyên 
tắc, vừa là mục tiêu chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước ta.   
Bình đẳng giữa các dân tộc là một nguyên tắc cơ bản có ý nghĩa quan trọng 
hàng đầu của chính sách dân tộc về quyền của các dân tộc thiểu số. Các dân 
tộc không phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ phát triển cao hay thấp đều 
ngang nhau về quyền lợi và nghĩa vụ trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời 
sống xã hội và được bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật. Quyền bình đẳng 
giữa các dân tộc, trước hết là quyền bình đẳng về chính trị, chống mọi biểu 
hiện chia rẽ kỳ thị dân tộc, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, tự ti dân tộc,   
… Quyền bình đẳng về kinh tế, đảm bảo sự bình đẳng trong quan hệ lợi ích 
giữa các dân tộc. Nhà nước có trách nhiệm giúp các dân tộc có kinh tế 
chậm phát triển để cùng đạt được trình độ phát triển chung với các dân tộc 
khác trong cả nước. Bình đẳng về văn hoá, xã hội bảo đảm cho việc giữ gìn 
và phát huy bản sắc văn hoá của các dân tộc, làm phong phú và đa dạng nền 
văn hoá Việt Nam thống nhất.   
Do phần lớn các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay có trình độ phát triển 
thấp, vì vậy bên cạnh việc bảo đảm quyền bình đẳng toàn diện về chính trị, 
kinh tế, văn hoá, xã hội cần phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để đồng bào các 
dân tộc thiểu số có cơ hội phát triển bình đẳng với các dân tộc khác. Sự quan 
tâm tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển, đó chính là biểu hiện quyền 
bình đẳng giữa các dân tộc đặc trưng nhất ở Việt Nam.   
Các dân tộc Việt Nam đã cùng chung sống lâu đời bên nhau, gắn bó máu 
thịt với nhau, no đói có nhau, vinh nhục cùng nhau, đồng cam cộng khổ, 
sống chết một lòng sát cánh cùng nhau dựng nước và giữ nước. Truyền 
thống đoàn kết đó được gìn giữ và phát triển trong suốt tiến trình hàng ngàn 
năm lịch sử, gắn kết các dân tộc chung sức xây dựng tổ quốc Việt Nam  thống nhất.   
Kế thừa truyền thống đoàn kết quý báu của dân tộc, Đảng và Nhà nước ta đã 
xác định đoàn kết dân tộc là một nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc 
xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của 
Đảng, các dân tộc đang phát huy truyền thống đoàn kết tốt đẹp, cùng nhau xây 
dựng đất nước với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ 
văn minh và tiến bộ. Tất cả các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều phải 
có trách nhiệm chăm lo, vun đắp, củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết                  lOMoAR cPSD| 15962736            
dân tộc theo lời dạy của Bác Hồ kính yêu:   
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết   
Thành công, thành công, đại thành công”.   
Do lịch sử để lại, hiện nay giữa các dân tộc ở nước ta vẫn còn đang tồn tại 
tình trạng phát triển không đồng đều. Tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các 
dân tộc để cùng phát triển là một tất yếu khách quan trong một quốc gia đa 
dân tộc. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã coi tương trợ nhau cùng phát 
triển là một nguyên tắc quan trọng của chính sách dân tộc trong thời kỳ 
quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.   
Các dân tộc có trình độ phát triển kinh tế – xã hội cao hơn phải có trách 
nhiệm giúp đỡ các dân tộc có điều kiện phát triển khó khăn hơn. Tương trợ 
lẫn nhau không phải chỉ là giúp đỡ một chiều, ngược lại chính sự phát 
triển của dân tộc này là điều kiện để cho các dân tộc khác ngày càng phát  triển hơn.   
Giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển thể hiện trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, 
kinh tế, văn hoá, xã hội. Tương trợ, giúp nhau để không ngừng nâng cao 
đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc, nhằm thực hiện 
đầy đủ quyền bình đẳng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.   
Chính sách dân tộc của Đảng đã được thể chế bằng Hiến pháp, luật pháp 
và bằng các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Hiến pháp nước 
CHXHCN Việt Nam năm 1992 đã ghi: “Nhà nước CHXHCN Việt Nam, 
Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt  Nam.   
Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết tương trợ giữa các dân 
tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.   
Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc 
và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp  của mình.   
Nhà nước thực hiện chính sách phát triển mọi mặt, từng bước nâng cao đời 
sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số” - Điều 5, Hiến 
pháp nước CHXHCN Việt Nam, 1992.   
Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Hiến pháp, các bộ luật, luật như Bộ Luật Dân 
sự, Luật Hôn nhân gia đình, Luật Giáo dục, Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân,… 
đều thể hiện rõ quyền bình đẳng của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.   
Đồng thời với việc thể chế bằng Hiến pháp và pháp luật, chính sách dân tộc 
của Đảng và Nhà nước được cụ thể hoá trong chiến lược, kế hoạch phát triển 
kinh tế – xã hội, trong các chương trình, dự án đầu tư phát triển cho vùng 
dân tộc và miền núi, trong các chính sách, các quy định cụ thể ở tất cả các 
lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội,… đối với đồng bào dân tộc thiểu số.   
Bước vào thời kỳ đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần 
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách dân tộc của Đảng đã được thể 
hiện ở các Nghị quyết Đại hội Đảng. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã                      lOMoAR cPSD| 15962736            
chỉ rõ: “Thực hiện tốt các chính sách dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương 
trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã 
hội, phát triển sản xuất hàng hoá, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, 
xoá đói giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn làm giàu và phát huy bản 
sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc”.   
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá IX 
về công tác dân tộc đã khẳng định chính sách dân tộc trong giai đoạn hiện 
nay là: “Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế – xã hội các vùng dân tộc và miền 
núi, trước hết, tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói, 
giảm nghèo; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi 
đôi với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự 
lực tự cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm 
hỗ trợ của Trung ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước”.   
Tiếp theo, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X đã khẳng định: “Vấn đề 
dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự 
nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam 
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ...”.   
Xuất phát từ những quan điểm trên, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã 
hội vùng dân tộc thiểu số tập trung vào những nội dung chủ yếu sau:   
Xoá đói giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào dân tộc thiểu 
số, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, trong 
những năm trước mắt tập trung trợ giúp đồng bào nghèo, đồng bào 
các dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn.   
Phát triển sản xuất hàng hoá phù hợp với đặc điểm, điều kiện từng vùng 
dân tộc. Khuyến khích đồng bào các dân tộc khai thác tiềm năng, thế 
mạnh của địa phương làm giàu cho mình và đóng góp tích cực vào sự 
nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá bảo vệ vững 
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.   
Ưu tiên đặc biệt phát triển giáo dục và đào tạo, coi trọng đào tạo 
cán bộ và đội ngũ trí thức dân tộc thiểu số.   
Kế thừa và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc 
thiểu số góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam đa dạng, phong 
phú, giàu bản sắc dân tộc.   
Để đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc và miền núi, nâng cao 
dần mức sống của đồng bào các dân tộc, trong những năm đổi mới vừa qua 
và nhất là giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ 
trương chính sách ưu tiên đối với đồng bào dân tộc thiểu số một cách đồng 
bộ và toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Đồng thời, đã triển 
khai thực hiện nhiều chương trình, dự án đầu tư phát triển trên địa bàn miền 
núi, vùng đồng bào dân tộc như: Chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng, 
Chương trình xoá đói giảm nghèo, Chương trình phát triển kinh tế – xã hội 
các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa (Chương trình 135),  …   
TR 伃⌀NG TÂM ÔN THI MÔN CNXHKH                    lOMoAR cPSD| 15962736             Lớp Đại cương      I. NỘI DUNG ÔN TẬP     
Câu 1: Quan điểm về đăc ̣điểm của giai cấp công nhân trong nền sản xuất tư 
bản chủ nghĩa. Liên hệ GCCN Việt Nam.   
Ví dụ: Anh/ chị hãy trình sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân? Theo 
anh/ chị, để thực hiện sứ mệnh lịch sử ấy, giai cấp công nhân cần phải làm 
gì? Liên hệ với sứ mệnh lịch sử của GCCN trong thời kỳ công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa đất nước Việt Nam hiện nay.   
LÝ LUẬN CHUNG (QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN)   
C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng rất nhiều thuật ngữ khác nhau để 
diễn đạt về khái niệm giai cấp công nhân như: ….   
Theo quan điểm Chủ nghĩa Mác – Lênin, có thể hiểu, giai cấp 
công nhân là ….. (định nghĩa)   
+ Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân   
+ Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân  – phân tích   
+ Điều kiện chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân 
(nhân tố đóng vai trò quyết định là ĐẢNG CỘNG SẢN) – phân tích   
Bàn luận: Giai đoạn 1, giai đoạn 2.   
Đặc điểm GCCN cuối thế kỷ XIX - ko cần phân tích Đặc 
điểm GCCN Việt Nam hiện nay – ko cần phân tích 
LIÊN HỆ THỰC TIỄN (VIỆT NAM)   
* Quan điểm, chính sách của ĐCSVN về việc xây dựng giai cấp công nhân 
Việt Nam hiện nay (Đại hội) – 2 Đại hội   
+ Quan điểm của ĐCSVN về việc xây dựng giai cấp công nhân Việt  Nam hiện nay (Đại hội)   
+ Chính sách của ĐCSVN về việc xây dựng giai cấp công nhân Việt  Nam hiện nay      LÝ LUẬN CHUNG   
+ C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng rất nhiều thuật ngữ khác nhau để diễn 
đạt về khái niệm giai cấp công nhân như: ….   
Theo quan điểm Chủ nghĩa Mác – Lênin, có thể hiểu, giai cấp công nhân là  ….. (định nghĩa)                      lOMoAR cPSD| 15962736            
+ Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân   
+ Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân  – phân tích   
+ Điều kiện chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân 
(nhân tố đóng vai trò quyết định là ĐẢNG CỘNG SẢN) – phân tích   
+ Đặc điểm GCCN cuối thế kỷ XIX (theo quan điểm Chủ nghĩa Mác –  Lênin)   
+ Đặc điểm GCCN thế kỷ XXI (hiện nay)   
So sánh đặc điểm GCCN cuối thế kỷ XIX và đặc điểm GCCN thế kỷ XXI 
(truyền thống, hiện đại) – GN và KN   
+ Đặc điểm GCCN thế giới hiện nay   
+ Đặc điểm GCCN Việt Nam hiện nay   
So sánh đặc điểm GCCN thế giới hiện nay và GCCN Việt Nam hiện nay  – GN và KN      LIÊN HỆ VIỆT NAM   
+ Quan điểm, chính sách của ĐCSVN về việc xây dựng giai cấp công nhân 
Việt Nam hiện nay (Đại hội) – 2 Đại hội   
+ Quan điểm của ĐCSVN về việc xây dựng giai cấp công nhân Việt  Nam hiện nay (Đại hội)   
+ Chính sách của ĐCSVN về việc xây dựng giai cấp công nhân Việt  Nam hiện nay     
Câu 2: Quan điểm về Hình thái kinh tế - xã hội CSCN, nhất là thời kỳ quá 
độ và đăc ̣trưng của chủ nghĩa xã hôị. Liên hệ với thời kỳ quá độ và những 
đặc trưng CNXH ở Việt Nam.   
LÝ LUẬN CHUNG (Quan điểm về Hình thái kinh tế - xã hội CSCN, nhất 
là thời kỳ quá độ và đăc ̣trưng của chủ nghĩa xã hôị.)   
Hình thái kinh tế - xã hội là gì? (Triết học Mác - Lênin) Hình thái kinh tế - 
xã hội gồm mấy hình thái? (5) Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ 
nghĩa gồm những giai đoạn nào? (Giai đoạn thấp: Chủ nghĩa xã hội; Giai 
đoạn cao: Chủ nghĩa cộng sản).   
Quá độ là gì? Có mấy hình thức quá độ? (2 hình thức, đó là quá độ trực 
tiếp …. và quá độ gián tiếp … )   
Đặc trưng của Chủ nghĩa xã hội (6 cái - chọn 1 đặc trưng phân tích kỹ)   
LIÊN HỆ VIỆT NAM (Liên hệ với thời kỳ quá độ và những đặc  trưng CNXH ở Việt Nam)                    lOMoAR cPSD| 15962736            
Quá độ trực tiếp hay quá độ gián tiếp? Vì sao? (Tính tất yếu của thời kỳ 
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam – Đặc điểm và thực chất của thời 
kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam).   
Từ lý luận trên, có thể thấy, việc Việt Nam thực hiện thời kỳ quá độ đi lên 
Chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển Chủ nghĩa tư bản không trái 
với quy luật phát triển của lịch sử - tự nhiên mà bước đi ấy được cho là phù 
hợp với yếu tố thực tiễn của đất nước lúc bấy giờ.   
Việt Nam đang trong giai đoạn quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, những đặc 
trưng của Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là (8 cái chọn 1 đặc trưng phân  tích kỹ) … IX, XI   
Kết bài: Trích dẫn 1 hoặc 2 câu văn kiện Đại hội (tham khảo giáo trình)   
Đọc tạp chí chuyên ngành: Tạp chí Triết học, tạp chí Xây dựng Đảng, tạp 
chí Khoa học chính trị,… số … (năm …)         
Câu3: Quan điểm về dân chủ, nhà nước xã hội chủ nghĩa. Liên hệ Việt  Nam.    A) LÝ LUẬN CHUNG   
- Khái niệm dân chủ (quan điểm của chủ Chủ nghĩa Mác - Lênin)   
- Khái niệm dân chủ Xã hội chủ nghĩa   
- Bản chất và chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa (Nhà nước là gì và 
Nhà nước Xã hội chủ nghĩa là gì)   
- Mối quan hệ giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Xã hội chủ nghĩa    B) LIÊN HỆ VIỆT NAM    - 
Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (nhớ câu trích dẫn trong sách 
của Chủ tịch Hồ Chí Minh trang 88) – các hình thức dân chủ ở Việt Nam 
hiện nay – có thể liên hệ tới việc bầu cử năm 1946, có thể bàn luận 
nguyên tắc tập trung dân chủ của ĐCSVN.    - 
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (Đảng lãnh 
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ)    - 
Quan điểm, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước về 
việc phát huy dân chủ và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở 
Việt Nam hiện nay – trích văn kiện Đại hội IX, XI) – tách quan điểm riêng,  chính sách riêng.   
Ví dụ: Anh chị hãy chứng minh, Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa 
ở Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.   
LÝ LUẬN CHUNG (QUAN ĐIỂM CNM-L)   
Khái niệm của Nhà nước, bản chất của Nhà nước, chức năng của Nhà nước                    lOMoAR cPSD| 15962736            
Bản chất và chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa   
Vai trò của việc xây dựng Nhà nước Xã hội chủ nghĩa: việc xây dựng Nhà 
nước Xã hội chủ nghĩa đóng vai trò rất quan trọng, suy đến cùng việc xây 
dựng Nhà nước Xã hội chủ nghĩa là để đảm bảo sự dân chủ thuộc về tay  nhân dân.    B) LIÊN HỆ VIỆT NAM   
Phương châm hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở 
Việt Nam là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ). Như 
vậy, có thể thấy, mục đích thực hiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ 
nghĩa là để đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân, đúng như Chủ tịch Hồ 
Chí Minh đã từng viết: trang 88) – các hình thức dân chủ ở Việt Nam hiện 
nay – có thể liên hệ tới việc bầu cử năm 1946, có thể bàn luận nguyên tắc 
tập trung dân chủ (lướt) của ĐCSVN.   
Quan điểm, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước về việc 
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay – 
trích văn kiện Đại hội IX, XI) – tách quan điểm riêng, chính sách riêng.   
Kết luận: Từ lý luận và thực tiễn trên, có thể thấy, Nhà nước pháp quyền Xã 
hội chủ nghĩa ở Việt Nam đảm bảo quyền làm chủ của nhân, Nhà nước thực 
sự thuộc về tay nhân dân và là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.     
Câu 4: Quan điểm về nguồn gốc, bản chất, tính chất của tôn giáo và các 
nguyên tắc ứng xử của đảng công ̣ sản và nhà nước xã hôịchủ nghĩa đối với 
vấn đề tôn giáo. Liên hệ Việt Nam. - Lưu ý: đọc kỹ đề    A) LÝ LUẬN CHUNG (1)   
- Khái niệm tôn giáo (theo quan điểm Chủ nghĩa Mác - Lênin), tôn giáo  là ...   
- Nguồn gốc ra đời tôn giáo – 4 nguồn gốc   
- Bản chất tôn giáo (Tôn giáo là một hiện tượng xã hội – văn hóa do con  người sáng tạo ra)   
- Tính chất tôn giáo – 5 tính chất   
- Chức năng của tôn giáo   
- Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo   
- Nguyên tắc ứng xử của Đảng công ̣ sản và Nhà nước xã hôịchủ nghĩa đối  với vấn đề tôn giáo    B) LIÊN HỆ VIỆT NAM (2)   
- Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam   
- Quan điểm, chính sách của Đảng công ̣ sản Việt Nam đối với vấn đề 
tôn giáo (tách bạch giữa quan điểm và chính sách)                    lOMoAR cPSD| 15962736                
Câu 5: Cương lĩnh dân tôc ̣ của chủ nghĩa Mác - Lênin. Liên hệ Việt Nam.   
A) LÝ LUẬN CHUNG – CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN  (1) - Khái niệm dân tộc   
(- Đặc trưng cơ bản của một dân tộc)   
(- Hai xu hướng khách quan giải quyết vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ  lên CNXH)   
- Nội dung Cương lĩnh dân tộc của Chủ nghĩa Mác - Lênin  B) LIÊN HỆ VIỆT NAM (2)   
- Đặc điểm dân tộc Việt Nam (sơ lược - chú ý những chữ in nghiêng - chép 
ít thôi vì các e hay bị sa đà, dài dòng)   
- Quan điểm, chính sách của ĐCSVN về vấn đề dân tộc (tách bạch giữa 
quan điểm và chính sách), có thể phân tích 1 quan điểm mà e có thể diễn đạt 
dài hơn nữa, có thể phân tích 1 chính sách mà em tâm đắc nhất.                                                                                                
